



















Preview text:
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐỀ BÀI SỐ 04 NHÓM 4 LỚP: Hà Nội, 2025
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ
KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM Ngày: 14/05/2025 Nhóm: 04 Lớp:
Tổng số sinh viên của nhóm: (Có mặt: 03; Vắng mặt: 0)
Nội dung: Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia làm bài tập nhóm.
Môn học: Đại cương văn hóa Việt Nam
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc
thực hiện bài tập nhóm. Kết quả như sau: Đánh giá của SV STT MSSV Họ và tên SV Ký tên A B C 1 473778 Nguyễn Thảo Nguyên x 2 483324 Lê Thúy Ngân x 3 481247 Trần Công Minh x
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2025 Trưởng nhóm Nguyễn Thảo Nguyên MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
NỘI DUNG ............................................................................................................. 2
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI TRỘI TRONG TÍNH
CÁCH NGƯỜI VIỆT NAM .................................. Error! Bookmark not defined. 1.
Error! Bookmark not defined.
1. Cơ sở hình thành .................................................. Error! Bookmark not defined.
a. Nghề nông trồng lúa nước .................................... Error! Bookmark not defined.
b. Nguyên tắc tổ chức nông thôn, cộng đồng ............ Error! Bookmark not defined.
2. Đặc điểm của tính cộng đồng ............................................................................. 5
a. Tinh thần đoàn kết, tương trợ ............................... Error! Bookmark not defined.
b. Tính tập thể, hòa đồng .......................................................................................... 6
c. Thói dựa dẫm, ỷ lại và thói cào bằng, đố kị .......................................................... 6
II. TÍNH TỰ TRỊ ................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Cơ sở hình thành ................................................ Error! Bookmark not defined.
a. Điều kiện địa lý - tự nhiên........................................................................... 7
b. Hương ước và lệ làng.................................................................................. 8
2. Biểu hiện ............................................................................................................. 8
a. Nông thôn ............................................................................................................ 8
b. Ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu nước .............................................................. 8
c. Buôn bán ............................................................................................................. 9
III. TÍNH DÂN CHỦ ............................................................................................. 9
1. Cơ sở hình thành ................................................................................................ 9
2. Biểu hiện của tính dân chủ .............................................................................. 10
IV. TÍNH LINH HOẠT ......................................... Error! Bookmark not defined.
1. Cơ sở hình thành .............................................................................................. 11
a. Nhân chủng học ................................................................................................. 11
b. Môi trường tự nhiên nơi người Việt Nam ........................................................... 11
c. Cơ cấu kinh tế .................................................................................................... 11
d. Nhân thức xã hội ................................................................................................ 12
e. Lịch sử đầy biến động ........................................................................................ 12
2. Đặc điểm của tính linh hoạt ............................................................................. 12
B. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍNH CÁCH VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ .................................................................... 13 1.
Ưu điểm ........................................................................................................ 13
a. Tính cộng đồng .................................................................................................. 13
b. Tính tự trị ......................................................................................................... 13
c. Tính dân chủ ........................................................ Error! Bookmark not defined.
d. Tính linh hoạt ...................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Nhược điểm ...................................................................................................... 15
a. Tính tự trị .......................................................................................................... 15
b. Tính cộng đồng .................................................................................................. 16
c. Tính dân chủ ...................................................................................................... 16
d. Tính linh hoạt .................................................................................................... 17
3. Ảnh hưởng đến quá trình hội nhập ................................................................. 17
4. Khuyến nghị ............................................................................................ 18
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 21 MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy lịch sử lâu đời của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hoá đã
được hình thành và định hình qua hàng nghìn năm. Từ những trang sử vàng son đến
những biến động của thời đại, người Việt Nam đã xây dựng nên một tính cách dân
tộc độc đáo, với những đặc điểm nổi trội và phẩm chất tốt đẹp. Việc nghiên cứu cơ
sở hình thành và đặc điểm tính cách của người Việt Nam không chỉ giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về bản sắc văn hoá dân tộc, mà còn cung cấp những kiến thức quý giá
để phát huy và phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 1 NỘI DUNG
A. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TRONG
TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT NAM I. TÍNH CỘNG ĐỒNG 1. Cơ sở hình thành
Trong suốt chiều dài lịch sử, đi qua những giai đoạn thăng trầm của văn hoá - xã
hội, có một bản sắc quý giá mà người Việt chưa bao giờ đánh mất, đó là sự đoàn
kết, cảm thông, đùm bọc và thấu hiểu trong hệ thống đất nước, làng xã, gia đình.
Điều này dìu dắt dân tộc ta đi qua những thách thức của thế sự như thiên tai, địch
hoạ, kẻ thù,... Dưới góc nhìn nhân văn - văn hoá học, có thể nói người Việt Nam đã
hình thành trong tính cách tính cộng đồng1. Đi sâu vào lịch sử phát triển của đất
nước, tính cộng đồng được hình thành thông qua hai cơ sở chính: Nghề trồng lúa
nước và nguyên tắc tổ chức nông thôn, cộng đồng2.
a. Nghề nông trồng lúa nước
"Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa."
Nghề trồng lúa nước là cái nôi kinh tế, văn hoá lâu đời của người Việt Nam. Trên
mảnh đất màu mỡ, khí hậu nhiệt đới ẩm - gió mùa như được cân đo đong đếm khéo
léo bởi thiên nhiên, tạo nên điều kiện vô cùng phù hợp để cây lúa sinh trưởng.
Chính đặc thù của nghề này đã giúp hun đúc tính cộng đồng của người Việt với một số lí do chính sau đây:
Một là, tính phụ thuộc lẫn nhau trong sản xuất. Để trồng lúa cần hệ thống thuỷ lợi
chung, bao gồm kênh, mương, đê điều,... dẫn nước vào ruộng, yêu cầu phối hợp
nhiều cá nhân để cùng đào mương, đắp đê, be bờ,... tạo nên lối sống hợp tác, tương trợ.
Hai là, thời vụ đồng bộ. Lúa phải gieo, cấy, thu hoạch đúng mùa vụ, nên các hộ
trong làng thường làm cùng thời điểm. Việc "người người cấy, nhà nhà cấy" tạo nên
nhịp sống tập thể, gắn kết mọi người lại với nhau.
1 https://ct.qdnd.vn/van-hoa-xa-hoi/tinh-cong-dong-cua-nguoi-viet-526617
2 https://nhandan.vn/tinh-than-cong-dong-coi-nguon-suc-manh-viet-nam-post580570.html 2
Ba là, đặc điểm cư trú quần cư – làng xã khép kín. Người Việt sinh sống trong
làng xóm ổn định, làm ruộng quanh làng, ít di chuyển. Sự gần gũi không gian sống
và làm việc khiến các quan hệ làng – họ – xóm phát triển mạnh, tạo nên lối sống coi
trọng tình nghĩa, đoàn kết nội bộ.
Bốn là, chia sẻ rủi ro và kinh nghiệm. Nghề nông phụ thuộc vào thiên nhiên, dễ
gặp hạn hán, lụt lội, sâu bệnh… Do đó, người nông dân buộc phải dựa vào nhau,
chia sẻ giống, công cụ, lao động và cả kinh nghiệm sản xuất, hình thành tinh thần
"tối lửa tắt đèn có nhau", “lá lành đùm lá rách”.
b. Nguyên tắc tổ chức nông thôn, cộng đồng
“Phép vua thua lệ làng” - một câu tục ngữ đã khắc hoạ rõ nét nếp sống đề cao tập
thể, làng xã Việt Nam, đã nói lên phần nào quan niệm về nguyên tắc tổ chức cộng
đồng của dân tộc. Tổ chức nông thôn, làng xã Việt Nam là đơn vị xã hội cơ bản,
hình thành từ rất sớm và gắn bó chặt chẽ với đời sống nông nghiệp lúa nước. Mỗi
làng thường có không gian cư trú ổn định, tổ chức quản lý tự trị với hệ thống hương
ước, lệ làng và các thiết chế tín ngưỡng như đình làng, miếu, chùa… phản ánh tính
cố kết cộng đồng cao. Làng xã không chỉ là nơi sinh sống mà còn là trung tâm văn
hoá – xã hội, nơi cá nhân gắn bó mật thiết với tập thể thông qua quan hệ huyết
thống, địa vực và lợi ích chung. Chính mô hình tổ chức này đã tạo nên một lối sống
đề cao sự gắn bó, tương trợ, và là nền tảng quan trọng hình thành nên tính cộng
đồng trong tính cách người Việt Nam với một số lí do.
Một là, môi trường sinh sống nông thôn, làng xã trở thành nền tảng cơ bản. Trong
suốt chiều dài lịch sử, phần lớn người Việt sinh sống ở nông thôn – nơi mà làng xã
trở thành đơn vị tổ chức xã hội cơ bản, có quy mô vừa phải, tính tự trị tương đối và
mối liên kết cộng đồng bền chặt. Làng xã không chỉ là nơi cư trú mà còn là không
gian văn hoá, kinh tế, tín ngưỡng và pháp lý đặc thù, với các thiết chế như đình
làng, hương ước, dòng họ và lễ hội truyền thống đóng vai trò điều tiết hành vi và
duy trì sự ổn định xã hội. Chính trong môi trường ấy, cá nhân khó có thể sống tách
rời khỏi cộng đồng; mọi sinh hoạt quan trọng trong đời sống như dựng vợ gả chồng,
xây nhà, cúng giỗ hay ma chay đều mang tính tập thể và gắn chặt với cộng đồng làng.
Hai là, tính chất “cộng sinh trong tổ chức làng xã. Tổ chức làng xã của người Việt
cổ mang tính chất “cộng sinh”, dựa trên sự kết hợp giữa cộng đồng huyết thống (họ
tộc) và cộng đồng địa vực (làng xóm), tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt
giữa họ hàng, làng xã và láng giềng. Những mối quan hệ này không chỉ gắn bó về
mặt cư trú mà còn được củng cố bằng nghĩa vụ, bổn phận và các chuẩn mực đạo lý
truyền thống. Chính cấu trúc tổ chức ấy đã hình thành nên sự gắn kết sâu sắc giữa
các thành viên trong cộng đồng, lấy tập thể làm nền tảng ứng xử, đề cao sự hòa
thuận, tương trợ và nỗ lực tránh mọi xung đột nội bộ để giữ gìn ổn định chung.
Ba là, tinh thần tự quản. Làng xã Việt Nam, mặc dù nằm dưới sự quản lý của nhà
nước phong kiến, nhưng thực tế lại được tổ chức theo lối tự trị cộng đồng, với các
hương ước và quy ước ngầm là công cụ chủ yếu điều chỉnh các hoạt động trong 3
làng. Những quy định này không chỉ chi phối hành vi cá nhân mà còn định hình
khuôn mẫu ứng xử cho mọi thành viên, khuyến khích sự hài hòa, tôn trọng và bảo
vệ danh dự tập thể. Chính nhờ vậy, người Việt đã hình thành thói quen sống vì cộng
đồng, luôn ý thức rằng mình là một phần của tập thể, và tự giác điều chỉnh hành vi
để không làm tổn hại đến thể diện chung của làng xã.
Bốn là, Truyền thống lễ nghi – tín ngưỡng gắn với cộng đồng. Các nghi lễ trong
làng xã Việt Nam, đặc biệt là các nghi lễ tôn thờ thần linh và tổ tiên như thờ Thành
hoàng, cúng tế hay lễ hội đình làng, đều có tính chất cộng đồng sâu sắc, yêu cầu sự
tham gia đông đảo của nhiều người trong làng. Chẳng hạn, trong những dịp lễ hội,
đặc biệt là các lễ rước kiệu, khênh kiệu, hoặc lễ cúng thần linh, việc tham gia của
cộng đồng là không thể thiếu. Một ví dụ điển hình là lễ rước kiệu trong các lễ hội
đình làng. Lễ này thường yêu cầu sự tham gia đông đảo của người dân trong làng, từ
việc khênh kiệu, vác đèn, đến việc tổ chức, chuẩn bị và bảo vệ kiệu trong suốt quá
trình diễu hành. Đây là những hoạt động không thể thực hiện nếu thiếu sự phối hợp
và đoàn kết của cả cộng đồng. Mỗi người dân trong làng đều có một vai trò cụ thể,
từ những người khênh kiệu cho đến người chuẩn bị hương đèn, người đi theo cúng
tế, hoặc những người chuẩn bị đồ ăn, nước uống phục vụ trong lễ hội. Mỗi vai trò
tuy nhỏ nhưng đều góp phần làm nên sự thành công của nghi lễ chung. Tham gia
vào các nghi thức này giúp củng cố lòng trung thành và trách nhiệm của mỗi cá
nhân đối với làng xóm, họ hàng, từ đó tạo dựng một mối quan hệ gắn bó, bền chặt trong cộng đồng.
2. Đặc điểm của tính cộng đồng
a. Tính đoàn kết, tương trợ
Người Việt rất coi trọng sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi tình huống, đặc
biệt là trong những lúc khó khăn. Tinh thần tương trợ trong cộng đồng được thể hiện
qua những hành động cụ thể như chia sẻ công sức, tài nguyên hay tình cảm với nhau.
Ví dụ như trong mùa gặt, khi mọi người cùng ra đồng, họ không chỉ làm việc cá
nhân mà còn giúp đỡ nhau trong các công đoạn như gặt, xếp lúa, hay thậm chí là chế
biến thực phẩm cho các gia đình. Tinh thần này còn thể hiện qua các hình thức như
"cộng đồng giúp đỡ khi có tang gia", nơi cả làng sẽ chung tay lo liệu từ việc chuẩn
bị ma chay đến việc phân chia công việc, giúp đỡ trong lúc gia đình có người mất.
Một ví dụ khác là cộng đồng làng thường tổ chức các lễ hội đình làng với sự tham
gia của mọi người từ các công đoạn nhỏ như chuẩn bị lễ vật, dựng rạp, đến các hoạt
động lớn như rước kiệu, tổ chức cúng tế, thể hiện sự hòa hợp và đoàn kết chung.
b. Tính tập thể, hoà đồng
Người Việt rất coi trọng tập thể, sự hòa đồng và làm việc cùng nhau để đạt được
mục tiêu chung. Cộng đồng không chỉ là nơi để mỗi cá nhân sinh sống mà là nơi để
mọi người cùng nhau tạo dựng cuộc sống và phát triển bền vững.
Trong công việc nông nghiệp, người Việt thường xuyên tổ chức các nhóm làm
việc tập thể, ví dụ như "cày cấy cộng đồng" hay "thu hoạch chung", nơi các hộ gia 4
đình cùng hợp tác trong các công việc lớn, chia sẻ gánh nặng công việc và đạt hiệu quả cao hơn.
Các lễ hội như Tết Nguyên Đán hay Tết Trung Thu không chỉ là dịp để các gia
đình đoàn tụ mà còn là cơ hội để cộng đồng xóm làng tổ chức các hoạt động vui
chơi, cúng tế, đón Tết. Tinh thần hoà đồng thể hiện rõ trong các cuộc vui này khi
mọi người cùng nhau tham gia các trò chơi, cùng chia sẻ những món ăn truyền
thống, và thể hiện sự gắn kết chặt chẽ trong mối quan hệ làng xóm.
c. Thói dựa dẫm, ỷ lại và thói cào bằng, đố kị
Mặc dù tính cộng đồng rất mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam, nhưng cũng có một
số mặt tiêu cực, chẳng hạn như thói dựa dẫm, ỷ lại vào cộng đồng và thói cào bằng,
đố kị với những người có thành tích nổi bật hoặc khác biệt trong xã hội.
Thói dựa dẫm, ỷ lại: Trong một số cộng đồng, đặc biệt là ở những vùng nông
thôn, có những cá nhân hoặc gia đình dựa vào sự hỗ trợ của tập thể mà không tự lực,
gây ra tình trạng phụ thuộc. Ví dụ, trong những lúc thiên tai, nhiều người có xu
hướng chờ đợi sự giúp đỡ từ chính quyền hoặc cộng đồng thay vì tìm cách tự giải
quyết vấn đề. Điều này có thể tạo ra một thói quen không tự lập, gây cản trở sự phát triển cá nhân.
Thói cào bằng, đố kị: Trong một số cộng đồng làng xã, khi một cá nhân hoặc gia
đình thành công hơn người khác (ví dụ như làm ăn phát đạt, có con cái thành đạt),
có thể sẽ bị một bộ phận trong cộng đồng đố kị, thậm chí là phê phán hoặc ghen tị.
Các câu chuyện về “người giàu mới lên” hay “người có quyền lực” bị cộng đồng
nghi ngờ, phê phán vì sự khác biệt hoặc sự nổi bật của họ trong xã hội là những ví
dụ điển hình về thói cào bằng. Điều này đôi khi dẫn đến sự phân biệt và chia rẽ
trong cộng đồng, thay vì sự tôn trọng và khích lệ cho thành công của người khác. II. TÍNH TỰ TRỊ
1. Cơ sở hình thành
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.”
Tính tự trị là một nét đặc trưng nổi bật trong tổ chức làng xã và tâm thức cộng
đồng của người Việt Nam, đặc biệt trong xã hội truyền thống. Trong suốt lịch sử,
người Việt chủ yếu sống tập trung thành các làng xã, là những đơn vị xã hội tự
quản, với hệ thống hương ước, lệ làng riêng để điều hành đời sống chung. Dù chịu
sự quản lý của nhà nước phong kiến trung ương, nhưng thực tế mỗi làng đều có già
làng, hội đồng kỳ mục, chức sắc, thay nhau điều hành các công việc nội bộ: từ đất
đai, lễ hội, an ninh đến xử lý tranh chấp. Điều này hình thành ở người Việt một thói
quen sống và hành xử dựa trên quy ước cộng đồng, chứ không phụ thuộc hoàn toàn
vào quyền lực bên ngoài. Tính tự trị của người Việt được hình thành chủ yếu từ hai
yếu tố sau đây: Điều kiện địa lý - tự nhiên và hương ước, lệ làng. 5
a. Điều kiện địa lý - tự nhiên
Điều kiện địa lý – tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tính tự
trị của người Việt Nam, đặc biệt trong cấu trúc làng xã truyền thống. Cụ thể:
Một là, môi trường sống phân tán, biệt lập. Việt Nam là một quốc gia có địa hình
chia cắt bởi sông ngòi, kênh rạch, đồi núi xen kẽ đồng bằng, đặc biệt là vùng châu
thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Người dân sống thành các làng, xóm nhỏ biệt
lập, bao quanh bởi ruộng đồng hoặc rừng núi. Mỗi làng như một thế giới thu nhỏ,
tách biệt tương đối với bên ngoài. Sự phân tán này khiến việc quản lý tập trung từ
trung ương trở nên khó khăn, từ đó hình thành cơ chế tự tổ chức, tự vận hành tại chỗ.
Hai là, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Trồng lúa nước –
nghề sản xuất chính – đòi hỏi cộng đồng phải phối hợp chặt chẽ trong việc dẫn thủy
nhập điền, đắp đê, chống lũ, chia nước tưới tiêu. Tuy nhiên, từng làng lại có hệ
thống thủy lợi riêng (ao làng, mương tưới nội bộ...), khiến người dân phải tự điều
hành và bảo vệ vùng sản xuất của mình. Việc sản xuất theo mùa vụ, chịu ảnh hưởng
thời tiết, càng khiến làng xã phải linh hoạt thích ứng, tự quyết các phương án canh
tác, không thể chờ mệnh lệnh từ cấp trên.
Ba là, khó khăn trong giao thông, liên lạc. Trong lịch sử, giao thông giữa các làng
xã rất khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ. Điều này hạn chế sự can thiệp của chính
quyền trung ương, buộc các làng phải tự xử lý tranh chấp, phân xử dân sự, duy trì an
ninh trật tự bằng chính lực lượng và quy ước của mình.
b. Hương ước và lệ làng
Hương ước là bộ luật lệ riêng của mỗi làng xã, đóng vai trò điều chỉnh toàn diện
đời sống của cộng đồng làng, từ cưới xin, ma chay, ăn mặc, giao tiếp đến nghĩa vụ
với gia đình, họ hàng và làng xóm. Nó quy định rõ ràng trách nhiệm và chế độ
thưởng phạt, buộc mọi cá nhân – không phân biệt già trẻ, nam nữ, địa vị – phải tuân
thủ, từ đó hình thành một cơ chế kiểm soát xã hội hiệu quả và tạo ra sự ràng buộc
chặt chẽ giữa cá nhân và cộng đồng. Hương ước không nhất thiết trái với luật nước,
mà còn cụ thể hóa các nghĩa vụ như sưu thuế, phu dịch hay các quy định về bầu cử
bộ máy cai quản, chia ruộng công... theo tinh thần và hoàn cảnh riêng của từng làng.
Tuy nằm dưới quyền nhà nước phong kiến, nhưng làng xã vẫn có quyền tự trị tương
đối, thể hiện qua việc hương ước được soạn thảo, sửa đổi và áp dụng độc lập theo
nhu cầu riêng. Các làng có lịch sử lâu đời và trình độ phát triển cao thường có
hương ước rất phức tạp và chi tiết, như Mộ Trạch (Hải Dương), Quỳnh Đôi – Nho
Lâm (Nghệ An), Đông Ngạc (Từ Liêm), Kim Đôi (Bắc Ninh)… Sự tồn tại và phát
triển mạnh mẽ của hương ước từ thế kỷ XV đến XIX, đặc biệt phổ biến ở Bắc Bộ và
Trung Bộ (như Nam Định có 675 hương ước, Hải Dương 882, Thái Nguyên 138…),
cho thấy tính tự trị không những không giảm mà còn ngày càng củng cố theo thời
gian. Trong khi đó, làng xã ở Nam Bộ hầu như không có hương ước. Trải qua các
biến động lịch sử, hương ước vẫn được các làng điều chỉnh, bổ sung để thích nghi,
phản ánh rõ đặc điểm tổ chức xã hội làng Việt: vừa mang tính cộng đồng sâu sắc,
vừa đề cao sự tự trị và phân lập. 6
2. Biểu hiện của tính tự trị
a. Trong tổ chức nông thôn
Làng xã là đơn vị tổ chức xã hội cơ bản của người Việt, có tính tự trị rất cao. Mỗi
làng có hương ước riêng, tự đặt ra các quy định về đời sống sinh hoạt, sản xuất, tín
ngưỡng, cưới xin, ma chay... và thực hiện quản lý nội bộ thông qua hội đồng kỳ
mục, chức sắc địa phương. Nhà nước phong kiến tuy đặt quan lại cai quản, nhưng
thực chất phải “chấp nhận” nguyên tắc “phép vua thua lệ làng”. Làng tự quyết các
việc nội bộ như phân xử tranh chấp, tổ chức lễ hội, điều phối thủy lợi, bảo vệ mùa
màng, xây dựng đền chùa – điều này cho thấy mô hình tự quản của làng là một hình
thức tự trị cộng đồng rõ rệt.
b. Trong ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu nước
Tính tự trị còn ăn sâu vào tâm thức người Việt qua tinh thần độc lập dân tộc. Suốt
hàng nghìn năm bị đô hộ, người Việt vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và
phong tục riêng biệt. Họ không bị đồng hóa bởi các thế lực ngoại bang, nhờ vào ý
chí kiên cường và khả năng tự tổ chức kháng cự mạnh mẽ từ làng xã, dòng họ. Các
cuộc khởi nghĩa lớn thường nổ ra từ nông thôn – nơi dân chúng tự liên kết, tự tổ
chức lực lượng, không chờ đợi sự chỉ huy từ trung ương. Từ Hai Bà Trưng, Lý Bí
đến Lê Lợi, Quang Trung… đều cho thấy một truyền thống yêu nước gắn liền với
tinh thần tự lực, tự chủ, không khuất phục trước cường quyền.
c. Trong hoạt động buôn bán
Người Việt từ lâu đã có truyền thống buôn bán nhỏ lẻ, tự do và linh hoạt, thường
không phụ thuộc vào các tổ chức thương hội hay nhà nước. Các chợ quê, chợ phiên,
chợ nổi… đều hình thành theo nhu cầu tự phát, tự quản lý bằng quy ước riêng, có tổ
chức nhưng không cứng nhắc. Tiểu thương Việt Nam thường thích buôn bán tự lập,
từ việc sản xuất hàng hóa, tìm nguồn cung ứng đến phân phối, tất cả đều do cá nhân
hoặc hộ gia đình tự lo liệu. Đây là biểu hiện rõ của tinh thần tự chủ, không ưa bị lệ
thuộc vào hệ thống quản lý chặt chẽ hay sự can thiệp từ bên ngoài. III. TÍNH DÂN CHỦ 1. Cơ sở hình thành
Các sử liệu hiện có không cho phép tìm hiểu chi tiết về thiết chế xã hội Việt Nam
trước thời Bắc thuộc, nhưng một số truyền thuyết lịch sử cũng ít nhiều phản ảnh một
phong khí dân chủ trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hóa, xã hội của người Việt đương thời.
Chẳng hạn truyền thuyết về Lang Liêu cho thấy người Việt không có chế độ tông
thân pháp với quy định chặt chẽ về dòng đích dòng thứ như Trung Quốc; truyền
thuyết về Mai An Tiêm cho thấy tình hình hoạt động thương nghiệp - ngoại thương
của người Việt; truyền thuyết về Chử Đồng Từ và công chúa Tiên Dung cho thấy
quyền tự do của phụ nữ trong hôn nhân... Nhưng bị trấn áp dưới thời Bắc thuộc 7
cũng như bị hạn chế từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, các quyền lợi bình đẳng và tự do
nguyên sơ này đã phát triển trong một hình thức tàn khuyết với nền dân chủ công xã
gồm "lệ làng" và quyền "tự trị" của các xã thôn đối với Nhà nước mà đặc biệt là trên
địa bàn miền Bắc. Đối với văn hóá các nước phương Tây, các gia đình sống gần
nhau cũng có quan hệ với nhau, nhưng họ sống theo kiểu trang trại, quan hệ lỏng
lẻo, phần nhiều mang tính chất xã giao. K. Marx đã từng nhận xét một cách dí dỏm
rắng nông thôn phương Tây là "cái bao tải khoai tây" (mà trong đó mỗi gia đình là một củ khoai tây!). Ở Việt Nam thì khác:
Thứ nhất, để đối phó với môi trường tự nhiên, đáp ứng nhu cầu cần đồng người
của nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ, người dân Việt Nam truyền thống không
chi cần đẻ nhiều mà còn làm đổi công cho nhau. Phương thức sản xuất nông nghiệp
trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối
sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hóa làng.
Thứ hai, để đối phó với môi trường xã hội (nạn trộm cướp...), cả làng phải hợp
sức mới có hiệu quả. Chính vì vậy mà người Việt Nam liên kết với nhau chặt chẽ tới
mức bán anh em xa, mua láng giềng gần. Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc
Một giọt máu đào hơn ao nhà nước lã: Người Việt Nam không thể thiếu được anh
em họ hàng, nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được bà con hàng xóm.
Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú dựa trên quan hệ hàng ngang, theo
không gian. Nó là nguồn gốc của tính dân chủ, bởi lẽ muốn giúp đỡ nhau, muốn có
quan hệ lâu dài thì phải tôn trọng, bình đăng với nhau. Đó là hình thức dân chủ sơ
khai dân chủ làng mạc; trong lịch sử, nền dân chủ nông nghiệp này có trước nền dân
chủ tư sản của phương Tây.
2. Biểu hiện của tính dân chủ
Đời sống của dân làng thời ấy chủ yếu tự cấp, tự túc, khép kín, rất ít khi tiếp xúc
với bên ngoài. Cũng có những làng kết chạ, kết nghĩa với nhau để giao lưu văn hóa
cũng như tăng cường sức mạnh cộng đồng. "Chiêng (trống) làng nào làng ấy đánh,
thánh làng nào làng ấy thờ", và "Phép Vua thua lệ làng" thể hiện tính chất bảo thủ
của mỗi làng. Tuy vậy tính dân chủ của người làng khá cao, nên có ý kiến cho rằng
làng xã cổ truyền của người Việt "Như một nước cộng hòa thu nhỏ".
Đối với Việt Nam làng luôn gắn liền với dân chủ. Dù biểu hiện dưới nhiều
phương diện khác nhau, làng xã Việt Nam luôn là biêu hiện và cũng là bảo đảm của
dân chủ, là sự khác biệt với phương thức tổ chức quyền lực mang nặng tính trung
ương tập quyền chuyên chế kiểu phương Đông.
Ruộng đất của làng được phân chia cho các gia đình thành viên sử dụng theo
những tục lệ mang tính chất bình đắng, dân chủ của cộng đồng làng và có thể là
phân chia một lần rồi có kết hợp điều chỉnh khi cần thiết.
Dù rằng, tự quản, tự trị không phải hoàn toàn đồng nghĩa với dân chủ, nhưng tính
chất tự quản, tự trị của làng xã Việt Nam trong truyền thống là nhân tố có tác động 8
nhiều đến dân chủ. Làng có đất đai riêng - tài sản, tư liệu liệu quan trọng nhất trong
xã hội phong kiến, đã giúp cho làng có thể độc lập, tự chủ hơn so với triều đình
phong kiến. Do có ruộng đất, làng xã có thể tự lo liệu, sản xuất làm ăn, tự bàn bạc,
hỗ trợ nhau trong việc tạo lập ra của cải vật chất nuôi sống chính mình và gia đình
đồng thời góp phần vào giải quyết những nhu cầu chung của làng như tôn tạo đường
xá, cầu cống, đền thờ, miếu mạo, thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng bằng chính tài
sản do làng tạo dựng nên. Việc có ruộng đất canh tác đã làm cho sự độc lập, tự chủ
của làng cao hơn, qua đó có tính tự quyết cao hơn. Ngoài ra, ở mỗi thời kỳ khác
nhau, sự tổ chức, quản lý của làng xã cũng không giống nhau. Nhưng tựu chung lại,
quản lý ở làng xã mang tính chất tự quản, tự trị. Người đứng đầu làng xã thường
không phải là quan chức nhà nước mà là người của địa phương, thậm chí còn do dân địa phương bầu lên.
Bên cạnh chức xã trưởng, ở làng xã còn có các cơ quan mang tính chất đại diện,
đại biểu hoặc các thiết chế sinh hoạt quản lý cộng đồng như Hội đồng kỳ dịch, Hội
đồng kỳ mục, cuộc họp toàn dân làng...
Làng Việt cũng không phải là nơi có mô hình sản xuất kiểu công xã nông thôn.
Làng Việt rất chặt chẽ, nhưng đa nguyên. Làng Việt có khi chi bao gồm vài họ
lớn, nhưng Làng Việt không bài trừ thủ tiêu các họ khác. Làng Việt là nơi dân cư
ngụ hoàn toàn có thể gia nhập vào và sôngs bình đẳng ở đó miễn là tuân theo các
quy tắc và chuẩn mực của Làng.Mỗi gia đình, mỗi hộ là một chủ thể kinh tế độc lập của làng.
Ngoài đất của làng, mỗi nhà đều có cho mình phần đất đề "cắm dùi" để sản xuất,
tăng gia. Cũng vì thế mà các thành viên của làng độc lập và dễ dàng tiếp nhận những thành viên mới.
Mối quan hệ làng xóm cũng như quan hệ họ hàng phần nào lý giải tính bình đắng,
tính tương hỗ, ngang bằng nhau trong quan hệ của người Việt. Làng không phải là
không có thứ bậc, nhưng sự phổ biến ở những quan hệ tình nghĩa, tương hỗ ấy làm
nên tính dân chủ cao hơn, tính con người cao hơn so với những nơi mà ở đó tính thứ
bậc trong quan hệ họ hàng, gia đình, quyền lực luôn ngự trị. IV. TÍNH LINH HOẠT 1. Cơ sở hình thành a. Nhân chủng học3
Theo Toan Ánh dẫn lại từ các nghiên cứu về nhân chủng học ở Việt Nam, cho
biết "khoảng trước Tây Lịch 4000 năm người Anh - đô - nê - diêng bị người A ri
ăng đánh đuổi từ Ấn độ đã chạy thành 3 hướng : 1) bán đảo Đông Dương, 2) lên
Tây Tạng và 3) sang lưu vực sông Dương Từ. Nhóm đến bán Đảo Đông Dương về
sau lai giống với người Mê - la - nê từ các Đảo Tây nam Thái Bình Dương lên mà thành tạp chủng
3 Toan Ánh (2002) Văn hóa Việt Nam những nét đại cương, NXB Văn học, tr.55 9
Mê la nê - Anh - đô - nê - diêng". Nhóm lên Tây Tạng lai với dân bản địa mà
thành nhóm Nam Á, nhóm sang lưu vực sông Dương tử làm thành tổ tiên Bách Việt.
Về sau cả nhóm Nam á + Bách Việt đều bị Hán hóa, một số đã di trú xuống phía
Nam lại hợp huyết với nhóm bản địa ở trung châu sông Hồng + tạp chủng Mê la nê - Anh - đô - nê
- diêng từ hải đảo đến mà tạo thành dòng giống Việt Nam.Sơ đồ chủng tộc này
cho thấy người Việt Nam là một dân tộc không thuần nhất mà là một tạp chủng do
sự hỗn huyết của nhiều yếu tố" Mê la nê + Anh đô nê diêng + Nam Á + Bách Việt +
Hán + Mông Cổ. Hỗn huyết nhiều huyết tộc = hợp chủng tộc nên từ đó quy định căn
tính người Việt Nam: cởi mở, dễ tiếp nhận, hòa hợp với mọi nguồn văn minh của
mọi giống người từ các nơi kéo đến.
b. Môi trường tự nhiên nơi người Việt Nam
Khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa không thuần nhất nên thời tiết thường xuyên là
nóng và ẩm; có một mùa đông lạnh và ẩm. Sự không thuần nhất của khí hậu dẫn đến
các vùng miền có nhiều đặc điểm khí hậu khác nhau, một số thời điểm trong năm
khí hậu rất bất lợi cho con người và gia súc. Ngoài tính đa dạng, khí hậu Việt Nam
còn rất thất thường, biến động mạnh, không theo quy luật vì thế lao động, sản xuất
gặp nhiều khó khăn và gần như không tránh được hậu quả của thiên tai. Môi trường
sống thất thường và luôn diễn biến bất thường đã khiến chủ thể của vùng đất này
luôn sống trong nỗi lo sợ thường trực về thiên tai. c. Cơ cấu kinh tế
Môi trường sống khắc nghiệt đã quy định một nền kinh tế nông nghiệp nhỏ lẻ
manh mún và cố nhiên là phân tán. Lúa chỉ có thể trồng theo mùa vụ và phụ thuộc
rất nhiều vào thiên nhiên. Khi phân tán thì không thế cho phép con người ta có thể
đầu tư toàn bộ trí tuệ, nhân tài, vật lực vào một hạng mục/ lĩnh vực nhất định nào đó
vì thế khó đạt tới sự tinh vi, kỹ xảo cao, tóm lại là sự thành công lớn mang tính đột
phá trên một lĩnh vực. Mô hình sản xuất các làng Việt là thế này: cấy lúa + trồng
màu + chăn nuôi; hoặc cấy lúa + trồng màu + chăn nuôi + buôn bán nhỏ; hoặc cấy
lúa + tiểu thủ công nghiệp + buôn bán nhỏ; thủ công + buôn bán + làm thuê..., do
đó, việc linh hoạt và thích nghi với mọi công việc đã trở thành thói quen.
d. Nhân thức xã hội
Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố xung quanh đã khiến con
người phải chú trọng vào mối quan hệ giữa chúng, từ đó sinh ra lối tư duy biện
chứng với sản phẩm là lối sống quân bình luôn hướng tới sự hài hòa4. Người Việt
trọng tình hơn lý, ưa sự ổn định và tế nhị kín đáo, trong đối ngoại cũng có xu hướng
mềm dẻo hiếu hòa để giữ gìn các mối quan hệ.
e. Lịch sử đầy biến động
4 Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tr.299, NXB Hà Nội 10
Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh trong suốt lịch sử dựng và giữ nước,
trong đó phần lớn là phải đối đầu với các đế quốc, cường quốc lớn hơn. Ta không có
đủ nhân lực, vật lực để đối đầu trực diện, do đó lối đánh du kích thường được sử
dụng hơn cả5. Đó là một cuộc chiến tranh bất ngờ mà đối phương không thể lường
trước được, lúc địch mạnh thì ta lại "vườn không nhà trống", lúc khác lại chủ động tấn công.
Ta đã lợi dụng rất nhiều địa hình rừng núi và sông nước để tiến hành phục kích,
không hề coi trọng thành lũy như Trung Quốc hay các nước phương Tây, do đó
chiến thuật của ta luôn bất ngờ và khó phòng bị.
2. Đặc điểm của tính linh hoạt
Sự linh hoạt được thể hiện trong khả năng đưa ra lựa chọn và thực thi lựa chọn đó
một cách phù hợp với môi trường xung quanh. Người Việt có khả năng thích ứng
cao với mọi tình huống, giống như có câu nói "Ở bầu thì tròn ở ống thì dài". Tuy
nhiên, tính linh hoạt không chỉ hiểu đơn giản là thích ứng, mà còn là giữ gìn bản chất.
Giống như nước thay đổi hình dạng nhưng về bản chất vẫn là nước, con người
Việt Nam thích nghi và học hỏi nhanh các tình huống mới nhưng chưa bao giờ mất đi bản chất.
Đặc biệt, tính linh hoạt tồn tại trên nền ổn định6. Giống như ta tự gọi mình là đất
nước, "đất" là sự ổn định, từ đó hình thành "nước" là sự linh hoạt. Con người Việt
Nam ứng xử linh hoạt với nhau theo mức độ tình cảm dựa trên cơ sở tồn tại của một
cộng đồng ồn định, chiến tranh du kích tiến hành dựa trên cơ sở chiến tranh nhân dân
Tính linh hoạt kết hợp với lối tư duy tổng hợp tạo nên tinh thần dung hợp - tồng
hợp nhiều yếu tố khác nhau lại và biến đổi linh hoạt để tạo nên cái mới. Dung hợp là
một dạng tiếp biến văn hóa đặc biệt. Tính dung hợp này khiến mọi tôn giáo du nhập
vào Việt Nam đều được tiếp nhận và phát triển, không có tình trạng xung đột như ở
một số nền văn hóa khác nhưng đồng thời cũng không có sự sùng đạo thái quá.
B. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍNH CÁCH VIỆT NAM
TRONG BỒI CẢNH HỘI NHẬP 1. Ưu điểm a. Tính cộng đồng
- Có tinh thần tập thể
Trong mỗi hành vi ứng xử, trong lối sống và nếp nghĩ, người Việt thường nghĩ đến
cộng đồng, đến tập thể, luôn để ý đến các mối liên hệ xung quanh, tránh những việc
5 Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tr.299, NXB Hà Nội
6 Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tr.316, NXB Hà Nội 11
làm phương hại đến tập thể. Vì vậy, họ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân. Hiện nay,
xây dựng tinh thần làm việc tập thể đang được các doanh nghiệp chú trọng, hướng
đến để trở thành văn hóa công sở. Điều này sẽ là một điểm cộng rất lớn khi làm việc
cho với những đồi tác nước ngoài.
- Bên cạnh đó, tinh thần tập thể cũng tạo ra ý thức trách nhiệm cao
Đây cũng là lý do người phương Đông nói chung, người Việt nói riêng thường đề
cao nghĩa vụ, trách nhiệm. Đây là một điểm cộng nữa khi hợp tác với nước ngoài.
- Giàu lòng nhân ái, đoàn kết, sẻ chia
Người Việt Nam thường gắn kết với cộng đồng vì thế họ sẽ không chấp nhận lối
sống hờ hững, vô trách nhiệm. Điều này hạn chế sự vô cảm, ích kỷ cá nhân ở người
Việt Nam. Mọi vấn đề này sinh đều được giải quyết bằng tình nghĩa họ hàng, bà
con, láng giềng một cách mềm dẻo, tạo nên nét văn hóa trọng tình. Giá trị văn hóá
truyền thống đầy nhân văn, đẹp đẽ giúp Việt Nam ghi điểm trong mắt bạn bè quốc tế.
- Sự đồng thuận, thống nhất cao trong cộng đồng
Sự thống nhất cao được tạo dựng qua tính cộng đồng giúp tập hợp, huy động tược
sức mạnh của số đông, tạo nên một tập thể đoàn kết, gắn bó để đạt được mục tiêu
chung và cao nhất. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc cũng được hình thành tì đây
giúp Việt Nam giữ vững những giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc trước các văn hoá ngoại sinh. b. Tính tự trị
Thực chất hiện nay ở Việt Nam không có xã hội tự trị - một xã hội đòi hỏi trình độ
dân trí tương đối cao của người dân. Ở Việt Nam đã từng có mô hình xã hội tự trị,
đó là làng. Hiện nay vẫn còn nhiều làng nhưng mô hình căn bản thì không còn giống như thời kì phong kiến. - Tinh thần tự lập
Tính tự lập sẽ giúp cá nhân có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đến thành
công, làm chủ cuộc sống của chính mình, làm chủ đất nước đặc biệt trong quá trình hội nhập.
Ví dụ khi tốt nghiệp đại học, đi làm ở công ty nước ngoài có thể thấy sự khác biệt rõ
ràng giữa người biết tự lập và không tự lập. Người tự lập sẽ có suy nghĩ riêng tự đưa
ra ý kiến của mình, khả năng quyết định, giải quyết vấn đề,... Bởi vì họ có khả năng
tư duy độc lập, trách nhiệm, kỹ năng đưa ra quyết định... nên họ thường được đánh
giá cao hơn, có thể hòa nhập tốt hơn trong môi trường quốc tế tốt hơn. - Truyền thống cần cù
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, sự cần củ, đi
với sáng tạo sẽ là động lực tiên quyêt nhắm tăng năng suất, năng lực cạnh tranh, 12
thúc đầy nền kinh tế đất nước phát triển, qua đó tự mỗi người đóng góp một phần
vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. c. Tính dân chủ
- Tôn trọng, bình đắng với nhau
Ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.
Mỗi người có cơ hội được hưởng có quyền lợi đáng có, tham gia vào các hoạt động xã hội.
Viì thế, mỗi người không chỉ làm giàu cho mình mà còn đóng góp giúp đất nước
phát triển, giàu đẹp hơn. d. Tính linh hoạt
- Thích nghi cao độ với mọi tình huống, mọi biến đổi:
Điều này là vô cùng quan trọng đặc biệt trong quá trình hội nhập quốc tế khi những
sự thay đồi xảy ra liên tục, và nếu không thể bắt kịp những xu thế mới của thời đại,
chúng ta dễ dàng bị tụt hậu và bỏ lại phía sau.
- Việc có thể thích nghi với lối suy nghĩ, tư duy mới giúp ta học được nghệ thuật
giao tiếp, cách ăn mặc của nước ngoài, tiếp nhận các giá trị văn hóa có nguồn gốc
ngoại sinh. Từ đó, ta hiểu được văn hóa, cách tư duy của các nước bạn cũng như
làm cho việc hội nhập quốc tế, hoạt động ngoại giao trở nên dễ dàng hơn.
(Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm,
phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, là đổi tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác- đối tượng, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn
khéo về sách lược, "đĩ bất biến, ứng vạn biến"... Cơ chế thực hiện đối ngoại là phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại
nhân dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước.)
- Các chính sách, đường lối ngoại giao của Việt Nam được đánh giá cao:
Tạp chí The Diplomat cho rằng Hà Nội đã sáng tạo một cách đáng ngạc nhiên trong
các hoạt động ngoại giao,. linh hoạt duy trì mối quan hệ cân bằng với các nước lớn,
không để bị mắc kẹt trong tình huống phải chọn bên.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế Việt Nam trong năm 2020 đã tiếp tục duy trì, đạt nhiều kết quả quan
trọng, góp phần nâng cao uy tín và vị thế đất nước trên trường quốc tế, thể hiện rõ
vai trò kết nối, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác và làm sâu sắc thêm lòng tin
giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực. 13
- Thuận lợi, thích hợp cho sự xâm nhập của kinh tế thị trường vốn có đặc điểm là năng động, nhanh nhạy:
Dù cùng gốc chung là cơ chế Xã hội chủ nghĩa nhưng Việt Nam tiếp nhận nền kinh
tế thị trường nhẹ nhàng hơn các nước khác (Liên Xô và các nước Đông Âu thì sụp
đổ chưa gượng dậy được, Trung Quốc mất hàng chục năm sau cái quằn quại đau
đớn của cách mạng văn hóa).
=> Nhờ 4 đặc điểm trên mà Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến như một đất
nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động, một thành viên tích cực trong các
hoạt động hợp tác quốc tế cho hòa bình và phồn vinh chung trên toàn cầu.
Hơn nữa, trong bối cảnh chuyển đổi mang tính bước ngoặt của Việt Nam, sự "va
đập" giữa cái mới và cái cũ tạo nên một lực hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Việt Nam.
Một nền văn hóa đang hướng đến việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống,
đồng thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai, như dân chủ, hiện đại,
nhân văn, khai phóng, khoan dung, rộng mở... Nhận diện được đặc tính cơ bản này
của văn hóa Việt Nam sẽ có ý nghĩa tích cực, để chuyển hóa thành "sức mạnh mềm"
của đất nước, tạo sức thuyết phục đối với bạn bè quốc tế. 2. Nhược điểm a. Tính tự trị
Trài qua bao nhiêu năm dựng nước và giữ nước, người Việt Nam vẫn giữ tính tự trị
như một truyền thống quý báu lâu đời. Nhưng mấy ai hiều rằng, tính tự trị đã khiến
cho người Việt Nam thu hẹp khả năng của bản thân, mắc căn bệnh làm ăn kiểu sản
xuất nhỏ7. Nồi bật nhất ở căn bệnh này có lẽ là tệ nạn sản xuất hàng giả, hàng lậu;
người Việt Nam có thể làm hàng giả của bất kì điều gì mà không cần xem xét xem
nó có hợp pháp, được cơ chế thị trường phương Tây chấp nhận hay không. Các
thương nhân thường sản xuất và buôn bán những sản phẩm có lợi cho họ trong một
thời gian ngắn, thay vì đầu tư sản xuất những mặt hàng chất lượng, có tương lai về lâu về dài.
Mà khách hàng Việt Nam cũng kì lạ, họ có thể mua hàng giả, hàng nhái thay vì
hàng thật vì họ nghĩ rằng, mua hàng thật tốn kém, mà cũng chẳng dùng được lâu.
Chính vì lẽ đó, mà các thương nhân lại càng được đà lấn tới, họ cứ tiếp tục sản xuất
hàng lậu, trái ngược với cung cách của cơ chế thị trường kinh tế phương Tây, nơi
mà thương nhân tìm cách kiếm lời từ việc cố gắng lấy lòng tin của khách hàng bằng
cách bán ra những sản phẩm chất lượng.
Bên cạnh đó, còn một sản phâm khác của truyền thông làng xã tự trị - "phép vua
thua lệ làng''8 dẫn đến tình trạng thiếu thông suốt giữa cấp trên với cấp dưới, VD: từ
trung ương xuống địa phương, từ thủ trưởng xuống nhân viên, hay thiếu liên kết
giữa các địa phương, các nhân viên với nhau.... Điều này cũng khiến cho việc chi đạo của
7 Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam (tr. 623), NXB TP. Hồ Chí Minh
8 Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam (tr. 624), NXB TP. Hồ Chí Minh 14
Nhà nước trở nên khó hơn, nhất là trong bối cảnh hiện đại hóá, toàn cầu hóá như ngày nay.
b. Tính cộng đồng
Nhắc đến tính cộng đồng, không người Việt Nam nào không nhắc tới tinh thần đoàn
kết dân tộc - một truyền thống đã có từ rất lâu đời. Thế nhưng, tính cộng đồng mang
quy mô cả nước có thể là một truyền vô cùng đáng quý - tinh thần yêu nước, nhưng
khi quy mô ấy bị thu hẹp lại thành từng nhóm nhỏ, nó lại gây ra một căn bệnh quái
ác, đó là bệnh gia đình chủ nghĩa, tật xuề xòa đại khái, thói ý lại vào người khác' 9
Muốn một tập thể vững mạnh, thì từng thành viên trong tập thế đó phải có ý thức tự
phát triển bản thân, chứ không thế có suy nghĩ rằng "Thôi, việc này để thằng kia
làm, nó lo hết rồi, mình chẳng phải lo gì cả",... Chính những cái suy nghĩ đó đã giết
chết ý chí vươn lên chính mình của một số người Việt Nam, đây là điều tối kỵ khi
mà người người, nhà nhà, nước nước phải luôn cố gắng hết sức mình để chạy theo
kịp các nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Hơn nữa, ở lâu trong cùng một tập thể, người Việt Nam không tránh khỏi thói cào
bằng, đố kị, không muốn cho người khác vượt trội hơn mình. Không những thế,
người Việt Nam còn có tác phong đùng đinh, kém hạch toán, không lo xa, bởi người
dân sống trong không gian làng xã khép kín, có một nhịp sống ổn định, không xô
bổ, vội vã. Mà ngày nay, khi công việc ngày càng nhiều, nhịp sống càng khân
trương thì tác phong đùng đinh sẽ không còn chỗ đứng nữa. c. Tính dân chủ
Lối tổ chức những làng xã khép kín, những phường hội tạo nên tính dân chủ. Bên
cạnh những ưu điểm, nó mang những thói xấu đi kèm như óc bè phái địa phương,
thói ích kỹ, lối sống dựa dẫm, thói đố kị cào bằng10. Những thói xấu này khiến cho
việc hội nhập quốc tế trở nên khó khăn hơn, bởi lẽ trong quá trình toàn cầu hóá, ý
kiến của mọi người luôn được ghi nhận và lắng nghe, nếu như vẫn mang những
nhược điểm này, người Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra ý kiến và tiếp
thu ý kiến của người khác. d. Tính linh hoạt
Người Việt Nam linh hoạt là thế, đối xử mềm mỏng là thế, nhưng trong một số tình
huỗng cụ thể, tính linh hoạt lại hóá thành căn bệnh mà gần như bất cứ người Việ nào
cũng mắc phải, đó là bệnh tuỳ tiện11. Người mắc bệnh này thường không có chin
kiến, "gió chiều nào theo chiều ấy", rất dễ thay đổi ý kiến của mình bởi ý kiến của
những người xung quanh. Hơn thế nữa, người Việt Nam còn có lối sống trọng tình
cảm nên chưa quen với pháp luật. Ví dụ điển hình là tình trạng lái xe sau khi uống
rượu bia gây ra rất nhiều những tai nạn thương tâm ở Việt Nam hiện nay. Con người
9 Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam (tr. 623), NXB TP. Hồ Chí Minh
10 Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở Văn hoá Việt Nam (tr. 315), NXB Hà Nội
11 Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam (tr. 622), NXB TP. Hồ Chí Minh 15
ta trọng tình, sĩ diện, không muốn làm phật ý đối phương nên ngại từ chối uống, và
kết quả là phải tự lái xe về trong khi người vẫn còn hơi men. Áy thế mà người thực
thi pháp luật - cảnh sát giao thông - quen ứng xử linh hoạt nên thực thi pháp luật đôi
khi vẫn còn thiếu nghiêm khắc và thiếu công bằng (ở một số nơi, người lái xe sau
khi uống rượu bia sẽ chỉ bị phạt tiền dù cho nồng độ cồn vượt quá nhiều so với mức
cho phép, còn ở nơi khác, người vi phạm lại bị thu xe, thậm chí bị tước bằng lái xe có thời hạn,...).
Trong khi đó, cơ chế kinh tế thị trường, nhất là của văn hoá phương Tây gốc du mục
- một nền tảng của văn minh đô thị và kinh tế thị trường, lại có một truyền thống
ứng xử vô cùng kiên định, quyết đoán, nguyên tắc12. Hiện nay, vẫn còn rất nhiều
tình trạng các công ty tự ý thay đổi hợp đồng mà không bàn bạc hay báo trước với
đối tác, khiến cho đối tác bị tổn thất và kinh tế cũng như là mất niềm tin đối
phương. Hơn thế nữa, Việt Nam vẫn chưa có nhiều quy chế hay quy định mang tính
ổn định. Chính những điều đó đã gây ra rất nhiều hậu quả vô cùng nghiêm trọng mà
đáng nói nhất trong số đó chính là khó thu hút được vốn đầu tư. Tổng giám đốc
công ty EPCO từng phát biểu trên báo như sau: "Trong những năm tháng qua,
không ít lần chúng tôi đang xuất hàng thì bị cấm xuất, đang nhập hàng thì bị cấm
nhập, hợp đồng thực hiện chưa xong thì bị tăng thuế. Các cơ quan Nhà nước cứ thế
thản nhiên thi hành, thản nhiên ra lệnh mà không nghĩ rằng làm như thế sẽ gây thiệt
hại rất lớn cho các nhà đầu tư.
Chính sách hay thay đổi là rủi ro lớn nhất mà các nhà đầu tư thường phải gánh chịu.
Nó làm cho các nhà đầu tư lo nơm nớp và không dám tung hết túi ra làm ăn vì họ
còn phải dự phòng những rủi ro bất ngờ." (Tuổi trẻ, ngày 19-2-95).
3. Ảnh hưởng đến quá trình hội nhập
- Tận dụng ưu điểm giúp hội nhập hiệu quả: Tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng
đồng giúp người Việt khi ra nước ngoài giữ vững bản sắc văn hóa, dễ hòa
nhập tập thể, tạo dựng cộng đồng kiều bào vững mạnh. Nhiều du học sinh, lao
động Việt tại nước ngoài tận dụng khả năng cần cù, ham học hỏi để học tập
và làm việc chăm chỉ, góp phần nâng cao hình ảnh người Việt. Khả năng ứng
xử khéo léo, linh hoạt giúp đàm phán quốc tế trở nên thuận lợi hơn. Lòng
nhân ái, rộng lượng tạo ấn tượng tích cực và góp phần tăng cường “sức mạnh
mềm” của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Nhược điểm gây khó khăn: Tư duy thụ động, ngại rủi ro làm giảm tính chủ
động trong nghiên cứu thị trường, đầu tư sáng tạo. Việc trọng tình dễ dẫn đến
thương mại phi chính thức (quan hệ xin – cho) hay kết nối gia đình hơn năng
lực, làm giảm hiệu quả cạnh tranh trong bối cảnh kinh doanh toàn cầu. Kỷ
luật lỏng lẻo, thái độ tùy tiện khiến môi trường làm việc thiếu chuyên nghiệp,
12 Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam (tr. 622), NXB TP. Hồ Chí Minh 16