BÀI TẬP NM
MÔN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỀ BÀI SỐ 4 : Vận dụng thuyết “Giao lưu tiếp biến văn hóa” để chỉ ra
kết quả của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao u với bên ngoài.
LỚP : N02 TL2
NHÓM 02
NỘI 2021
CÁC THÀNH VIÊN NHÓM
STT
Họ và tên
số sinh viên
1
n Anh
451112
2
Đàm n Thiện
451123
3
Nguyễn Phương Thảo
451130
4
Đặng Ngọc Thịnh
451140
5
Mạc Như Quỳnh
451244
6
Nguyễn ng
451245
7
Vương Đức Khảm
451302
8
Bùi Quỳnh Trang
451306
9
Thanh Tâm
451314
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
1. thuyết giao lưu - tiếp biến văn hoá .......................................................... 2
2. Kết quca giao lưu n hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu văn hóa
với bên ngoài ..................................................................................................... 4
2.1. Giao u n hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ ............................................ 4
2.2. Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quc .................................. 5
2.3 Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Phương y ................................... 9
3. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa. ........................................................................................... 12
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 13
MỞ ĐẦU
Việt Nam ta một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành
phát triển của dân tộc. Cộng đồng văn hoá của n tộc Việt khá rộng lớn được
hình thành o khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước ng nguyên và phát
triển rực rỡ cho đến ngày hôm nay, nền văn hóa nước ta phong phú đa dạng trên
tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc anh em những
phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, những l hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt
cộng đồng, những niềm tin bền vng trong tín ngưỡng, skhoan dung trong tư
tưởng giáo khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ ẩn dtrong giao tiếp truyền
đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hin đại của văn học, nghệ thuật.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, giao lưu - tiếp biến n hóa đã
đang đặt nền văn hóa Việt Nam trước những thi cơ thách thức mới. Cũng như
nhiu quốc gia khác, vấn đề đặt ra vi Việt Nam làm thế nào để hi nhập, phát
triển nhưng không bị hòa tan bản sắc văn hóa dân tộc. Để giải quyết làm sáng t
vấn đề trên, nhóm chúng em xin chọn đề số 4: "Vận dụng thuyết "Giao u
tiếp biến văn hóa" để chra kết quả của văn a Việt Nam trong quá trình
giao lưu với văn hóa bên ngoài”.
1
NỘI DUNG
1. thuyết giao lưu - tiếp biến văn hoá
Giao lưu n a bao hàm trong đó sự chung sống của ít nhất hai nn văn hóa
(của hai cộng đồng, hai dân tộc, hai đất nước) giao lưu hình thức quan hệ trao
đổi văn hóa cùng lợi, giúp đáp ứng một số nhu cầu không thể tự thỏa n của
mi n, giúp ng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền n hóa để từ đó làm nẩy
sinh nhiều nhu cu mới thúc đẩy mỗi nền văn hóa phát triển. Do đó giao lưu văn
hóa là dạng cộng sinh giữa các nền n hóa.
Tiếp biến văn hóa hiện tượng tiếp nhận chọn lựa một số yếu tố văn hóa ngoại
lai và biến đổi chúng cho phù hợp vi điều kiện sử dụng bản địa, tức phù hợp vi
văn hóa bản địa, sau mt thời gian sdụng biến đổi tiếp thì chúng trở thành
những yếu tố văn hóa bản đa ngoại sinh.
Giao lưu tiếp biến văn hóa là sự tương hỗ ln nhau giữa hai nền n hóa. Sự
tương hnày khi diễn ra không n xứng, kết quả sẽ một nn văn hóa b
hút vào trong một nền văn hóa khác, hoặc bị thay đổi bởi một nền văn hóa khác;
hay cả hai nền n hóa cùng thay đổi. n cạnh đó, nó còn phương pháp định v
văn hoá dựa tn thuyết các trung tâm sự lan toả văn hoá, Thuyết này cho
rằng, sự phân bổ của văn hoá mang tính không đồng đều; văn hoá tập trung mt
số khu vực sau đó lan toả ra các khu vực kế cận. Càng xa trung tâm, ảnh ng của
văn hgốc càng giảm - cho tới khi mất hẳn (lan toả tiên phát). chế này tạo ra
các vùng giao thoa văn hoá - nơi chịu nh hưởng của nhiều trung m văn hoá
cả những "vùng tối" khi sức lan toả không với tới…Đến lượt mình, các vùng giao
thoa văn hoá cũng khả năng "phát sáng" tạo n sự lan toả thứ phát, hình thành
các trung tâm n hmới và tiếp tục ảnh hưởng đến các khu vực kế cận.
Thuyết lan toả n hoá giúp giải vì sao trong cùng mt khu vực đa lại sự
tương đồng vvăn hoá, và vì sao những khu vực giáp ranh giữa các nn n hoá
ln thường tồn tại các nền văn hoá hn dung. sở khoa học của thuyết y
những luận điểm dưới đây:
Văn hoá là cái đặc trưng chỉ có ở con người xã hội. Chính sự hợp quần thành xã
hội của các cá thể người - mới là nền tảng đích thực của văn hóa. Không có hoạt
động, không giao lưu tcũng không bản cht hội của con người, do đó
2
cũng không thể n hóa. Chỉ trong giao lưu (diễn ra trong ni bộ cộng đồng,
hoặc giữa các cộng đồng với nhau) văn hóa mi thể tồn tại. Nvậy, giao u
và tiếp xúc văn hoá là sự vận động thường xuyên của văn hoá.
Đề cập đến văn hoá cũng nghĩa đề cập đến tất ccác khâu của giao lưu: từ
chủ thể ca giao lưu (cá nhân, cộng đồng) cho đến hoạt động giao lưu và sản phẩm
của hoạt động giao lưu ấy. Do đó, khi tiến hành định vị một nền văn hoá, nhất thiết
phải xét trong quan hệ dẫn đến các trung m văn h kế cận hoặc các trung m
văn hoá đã từng mi liên hệ với nền văn h ấy trong lịch sử, tức phi xét đến
quá trình giao u - tiếp biến dẫn đến sự hình thành phát triển của nền văn h
ấy. Sự thật là: xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hóa còn tồn tại cho
đến giờ, t đều hin thân như kết quả của quá trình giao u - tiếp biến. Giao lưu -
tiếp biến là phương thức tồn tại của mọi nền văn hóa trên nh tinh này.
Giao lưu - tiếp biến văn hoá (acculturation) được hiu hiện tượng xảy ra khi
những nhóm người văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến
đổi mô thức văn hcủa các bên. Trong giao lưu thể xảy ra hiện tượng những
yếu tố ca của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia (tiếp thu thụ động);
hoặc nn văn hoá này vay mưn yếu tố ca nền văn hoá kia (tiếp thu chủ động); rồi
trên cơ sở những yếu tnội sinh ngoại sinh y mà điều chỉnh, cải biên cho p
hợp, gây ra sự giao thoa văn hoá.
Giao lưu - tiếp biến văn hóa còn là một phương pháp được văn hóa học sdụng
khá thường xuyên khi phân xuất kết cấu của một nn văn hóa cụ thể. Với phương
pháp này, nội dung của một nn n hóa cthể được phân thành yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Tuy nhiên việc phân biệt như vậy chỉ mang tính tương đối.
2. Kết quả của giao lưu n hóa Việt Nam trong quá trình giao u n hóa
với bên ngoài.
2.1. Giao lưu n hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ
2.1.1. Quá trình giao u na
Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và thế
gii. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhiều bình diện
có ảnh ng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức. Giao lưu và
tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các thương gia, các
3
nhà Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền bá, văn hóa, tôn
giáo.
Giao lưu với văn hóa Ấn Độ những thời kỳ lịch skhác nhau, không gian văn
hóa khác nhau tnội dung giao lưu cũng khác nhau. thiên niên kỷ đầu ng
nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay ba nền văn hóa: n hóa cùng châu
thổ Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
đến ba vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu nh ng của văn
hóa Ấn Độ khá toàn din. Trên nn tảng tầng văn hóa bản địa, các đạo la
môn đến từ Ấn Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia phỏng hình của Ấn
Độ tất cả c mt: tổ chức chính trị, thiết chế hội, đô thị, giao thông cùng với
việc truyền bá các thành tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v..
Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào q trình hình thành vương quốc
Chăm Pa một nền văn hóa Cm Pa phát trin rực rỡ. Người Chăm đã tiếpnhận
mô hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng phát
triển các thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ
để tạo dựng nên nền n hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn
Độ, Đông Nam Á văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hin trên các
lĩnh vực, đặc biệt là chữ viết, tôn giáo, kiến trúc nghệ thuật.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt vùng châu thBắc bộ
li din ra trong đặc đim hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc với văn hóa
Ấn Độ, n hóa của ngưi Việt đã định nh phát triển. Dưới thời Bắc thuộc,
người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp qua các tơng gia, các nhà sư
từ Ấn Độ sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những thế kỷ đầu Công nguyên,
người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất và phải
đối mt với văn hóa Hán. Bởi vậy, ảnh ng của văn hóa Ấn Độ chỉ diễn ra trong
tầng lớp n chúng nhưng lại sức phát triển lớn. Vùng châu th Bắc Bộ trở
thành địa n trung chuyển n hóa Ấn Độ, đặc biệt tôn giáo. Giao Châu trở
thành trung tâm Phật giáo ln ở Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhn Phật giáo một
cách dung dị bởi đạo Phật ở một số nội dung giáo lý phù hợp vi tín ngưỡng bản
địa Việt Nam.
* Nghiên cứu giao u tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và n hóa Ấn Đ
cần c ý những đặc điểm sau:
Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần cơ
bản hn dung n giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với tín
4
ngưỡng bản địa của n tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các
hin tượng tnhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn hóa
bản đa, người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật tạo nên một ng
Phật giáo n gian thờ TPháp hết sức đặc sắc..v.v.. Phật giáo Ấn Độ đến Giao
Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn một hiện tượng văn hóa.
Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Đnh hưởng đến Vit Nam ngay t
đầu ng nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, đạo, nghệ thuật .v.v..Cũng hình
thành Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ thuật giá trị: hệ thống chùa,
tháp .v.v..Tiếp nhn văn hóa Ấn Độ thời kBắc thuộc thể xem một đối
trọng vi ảnh hưởng của n hóa n, thhin tinh thần chống đồng hóa văn hoá
của người Việt.
2.1.2. Kết quả quá trình giao u văn hóa với Ấn Độ
2.1.2.1. Tôn giáo
Phật giáo: Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Viêt Nam ngay từ đầu
công nguyên mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông.
2.1.2.2. n hc
Từ đầu công nguyên, chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ các ớc Ấn Độ, Trung
Hoa, Ả Rập, Tây Âu….
Việt Nam, từ rất lâu đời các tác phm sử thi Ấn Độ đã trở thành món ăn tinh
thn hấp dẫn truyền từ đời này sang đời khác như sử thi nổi tiếng Ramayana.
2.1.2.3. Nghệ thuật kiến tc
Sự ảnh hưởng này được th hiện trong các công trình tính chấtn giáo như đền, tháp, điêu
khắc trên phù điêu. Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa, biến đổi cho phù hợp với nền văn hóa của
từng nước khác nhau và trở thành điểm nổi bật của chính nước đó như: Borobudur (Indonesia),
Angkor Wat (Campuchia) đặc biệt ở Việt Nam t thánh địa Mỹ Sơn. Ngoài ra kiến trúc Ấn
Độ cxưa còn được phát hiện qua các công trình đổ nát được xây dựng bằng nhiều loại vật liệu
khác nhau chủ yếu gạch và đá (các công trình của người Champa).
2.1.2.4. Lễ hội- Ẩm thc
Việt Nam người Chăm n tộc chịu ảnh hưởng nhiu nhất của nền văn hóa Ấn
vy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hin qua các lễ hội
đền tháp như:lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng m.
Ẩm thực truyền thống của Ấn Độ với món cà ri nổi tiếng đã phổ biến ở trên thế
gii trong đó Việt Nam. Khác vi ri kiu Ấn người Việt thường nấu nhiều
nước hơn và được dùng với nhiều hình thức đa dạng.
5
2.2. Giao lưu n hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc
2.2.1. Giao lưu n hóa
Sự giao lưu tiếp biến văn hóa giữa Việt Nam Trung Quốc sự giao lưu tiếp
biến rấti trong rất nhiều thời lịch sử của Việt Nam. Quá trình ấy diễn ra cả hai
trạng thái: giao lưu cưỡng bức và giao lưu không cưỡng bức.
2.2.1.1. Giao u cưỡng bức:
Việc này diễn ra vào những giai đoạn lịch smà người Việt bđô hộ, bị xâm lược
Thời kì thứ nht 1000 năm Bắc thuộc từ năm 179
TCN
đến năm 938 và thời kì th2
bị nhà Minh xâm lược từ năm 1407 đến năm 1427.
Lần thứ nhất, vi sự thất bại của An Dương Vương trước sxâm c của Triệu
Đà năm 179
TCN
đã mở đầu cho thời kì bắc thuộc Giao Châu. Người Hán tổ chức
được nền đô hộ, ngoài việc bóc lột nhân n ta về mọi phương diện, bộ máy cai tr
của ngưi Hán thực hiện chính sách đồng hóa nhằm tiêu diệt văn hóa cư n bản
địa, người n đã sử dụng văn hóa Hán như một ng cụ xâm lược quan trọng bắt
nhân n ta phải làm ruộng theo lối Hán, ăn mặc kiểu người Hán, nói tiếng Hán,
học chữ Hán, ứng xử theo phong tục Hán.
Lần thứ hai, Giao lưu văn hóa cưỡng bức xy ra từ 1407 đến 1427. Sau khi soán
ngôi nhà Trần, Hồ Q Ly lên ngôi, ly cPhù Trần diệt Hồ” nhà Minh mang
quân m lược nước vi những chính sách sai lm trong đường lối lãnh đạo nhà
Hồ mau chóng thất bại trước sự m lược của giắc Minh. Giặc Minh đã thtiêu
nền văn hóa Đại Việt bằng mọi cách: đập phá văn bia, đốt sạch những sách, i
liu, do người Việt viết hoặc thu nhặt về Trung Quốc, đưa vTrung Quốc những
th thủ công tài giỏi…Đây kẻ tm lược tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt,
bằng chứng Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho Trương Phụ rằng: "Một khi binh lính
vào nước Nam, trcác sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu
hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca dân
gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách câu "Thượng đại nhân, khưu ất " một
mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc
dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá
sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn.”
2.2.1.2. Giao lưu không cưỡng bức
Đây hình thức giao lưu - tiếp biến n hóa vẫn xuất hiện dưới hình thức tự
nguyện. Sự mô phng hình Trung Hoa được các triều đại của nhà c quân
chủ Đại Việt đẩy mnh. Về tổ chức hội, chính trị, nhà lấy chế Nho giáo
6
làm gốc vn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật giáo; nhưng đến nhà Trần, nhà
thì đã hn toàn chịu nh hưởng của Nho giáo, cụ thể Tống Nho. Ngày nay, q
trình giao lưu - tiếp biến văn hóa tự nguyn được thể hiện dưới việc các loại hình
văn hóa của Trung Quốc được xut bản rộng rãi, nhiều thể loại phim của Trung
Quốc cũng được dịch và chiếu ở các kênh truyền hình
2.2.2. Kết quả quá trình giao u n a
2.2.2.1. Tôn giáo
Phật giáo
Từ Trung Hoa, ba tông phái Phật giáo được truyn vào Việt Nam: Thiền tông,
Tịnh độ tông và Mật tông
Thiền tông: Do nhà Ấn Độ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhiharma) sáng lập ra Trung
Quốc thế kỷ VI, chủ trương tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra
chân lí. Thiền tông Việt Nam luôn đề cao cái m. Phật tại m, tâm niết n,
Phật. Tu theo Thiền ng cần nhiều ng phu khnăng trí tuệ nên phổ biến
gii thượng lưu.
Tịnh Độ tông: chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để giúp chúng sinh
thoát khổ. Đó việc hướng hđến mt cõi niết bàn- i Tịnh Độ và bản thân họ
cần thường xuyên đi chùa lPhật, thường xuyên tụng niệm danh hiu Phật A-di-
đà. Nhờ ch tu đơn giản như vy, Tịnh Đtông trở thành Phật giáo của giới bình
dân, phbiến khắp Việt Nam.
Mật tông: chủ trương sdụng phép tu huyền bí như dùng linh phù, mật chú, ấn
quyết…để thu hút tín đồ và nhanh chóng đạt đến cảnh gii giác ngộ và gii thoát.
Sau khi vào Việt Nam, Mật tông nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng n gian
với những truyền thống dùng pháp thuật, yểm bùa…
Đạo giáo
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam tthế kỷ II, gồm Đạo giáo pthủy và Đạo
giáo thn tiên.
Đạo giáo phù thủy: Người Việt Nam txưa đã rất sùng i ma thuật, phù phép, họ
tin rằng các bùa, những câu thần chú…thể chữa bệnh, trị ma, thể ng
sức mnh gươm cm không đứt…Bởi vy, Đạo giáo pthủy nhanh chóng thâm
nhập và hòa quyện dễ dàng vi tín ngưỡng ma thuật cổ truyn đến mức không n
ranh gii ràng. Bên cạnh việc thờ Ngọc Hoàng Đại Đế, Ti Thượng Lão
Quân... (những đối tượng thờ cúng của Đạo giáo Trung Hoa), Đạo giáo phù thủy
của Việt Nam n lập nên đối tượng thờ cúng riêng: Đức Thánh Trần (Trần ng
7
Đạo), Ca Liu (Liu Hạnh)... Đạo giáo phù thủy Việt Nam còn gắn liền với
đồng cốt (đồng bóng).
Đạo giáo thần tiên: họ tu luyện, luyện đan để trường sinh bất lão kinh doanh
bằng vàng cho người giàu vùng đất Giao Châu. Phổ biến trong giới Đạo giáo
thn tiên Việt Nam là nội tu. Người Việt thờ Chử Đồng T (người thời vua
Hùng, tương truyn đã từng lên núi tu luyện, được ban gậy thần sách ước, sau
thành tiên bay n trời) làm ông tổ của Đạo giáo Việt Nam, gọi Chử Đạo Tổ.
Giới phu Việt Nam a thường cùng nhau tổ chức phụ tiên (hay cầu tiên, cầu
cơ) để hỏi chuyện thời thế, đại sự cát hung... Một số đàn phụ tiên nổi danh một thời
là đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây).
2.2.2.2 Thế giới quan:
Không chỉ trong tín ngưỡng Phật giáo mà nền văn hóa của Trung Hoa như ngm
sâu vào nhận thức (thế gii quan) của người dân đất Việt qua: triết Âm-Dương,
thuyết Ngũ hành hệ thống Lịch Âm.
Nội dung cơ bản của triết Âm-Dương:
Thái cực: trạng thái âm dương chưa phân, trụn nằm trong tình
Trạng hỗn mang, không định hình, không giới hạn.
Lưỡng nghi: việc tự phân đôi của Thái cực thành Dương (ký hiu bằng một vạch
lin, tượng trời, tượng số lẻ) và Âm (ký hiệu bằng một vạch đứt, tượng đất, tượng
số chn).
Tứ tượng: khi đã tồn tại Âm, Dương - chúng gặp gỡ nhau gặp gỡ chính bản thân
mình để tạo thành bốn tổ hợp: Dương - Dương (Thái Dương); Âm -Dương (Thiếu
Dương); Dương Âm (Thiếu Âm); Âm - Âm (Thái Âm).
Bát quái (tám quẻ): tứ tượng lại phối hợp vi nhau để tạo thành tám tổ hợp gọi là
bát quái.
Bát quái (những quẻ bản) li tiếp tục kết hợp với nhau để tạo thành 64 quẻ -
biu trưng cho những trạng thái thường gặp ở gii tự nhiên ở con người.
Các quy luật bản: Âm Dương đối lập, Âm Dương gốc của nhau
(trong dương âm trong âm dương); Âm tiêu Dương trưởng ngược lại; Âm
Dương chuyển hóa (biến dịch); Âm Dương giao hòa (cân bằng động).
Nội dung cơ bản của thuyết Ngũ hành:
Thuyết gồm 5 yếu tố: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ.
chế sinh: Thủy sinh Mộc (VD: nước giúp cây ơi tốt); Mộc sinh Hỏa (VD: gỗ
làm nhiên liệu cho lửa cháy); Hỏa sinh Thổ (VD: lửa đốt tro bụi m đất màu mỡ);
8
Thổ sinh Kim (VD: trong lòng đất sinh ra kim loại); Kim sinh Thủy (VD: kim loại
nóng chảy trở vchất lỏng).
chế khắc: Thủy khắc Hỏa (VD nước dập lửa); Hỏa khắc Kim (VD: lửa làm
chảy kim loại); Kim khắc Mộc (VD: dao chặt y); Mộc khắc Thổ (VD: y hút
chất ở đất); Thổ khắc Thủy (VD: đất lấp nước).
Nội dung bản của Lịch Âm Dương hệ Can Chi:
Dựa trên thuyết Âm Dương: lấy Thái Âm chủ tháng (nguyệt lệnh), lấy Thái Dương
chủ ngày giờ (nhật chủ). Dựa trên thuyết ngũ nh, lấy độ dài của một chu kì
biến đổi ngũ hành m m (ttiết lập xuân - khí mộc được tính là đầu mt Năm,
cho đến tiết đông c- kthủy là hết mt m). Âm dương ngũ hành hóa từng
năm theo hcan chi tạo thành chu kì 60 năm (lục thập hoa giáp).
Hệ can (thiên can - gốc khí dương) của năm bao gồm 10 đơn vị: Giáp
(dương mộc), ất (âm mộc), bính (dương hỏa), đinh m hỏa), mậu (dương thổ), k
(âm thổ), canh (dương kim),n (âm kim), nhâm (dương thủy), quý (âm thủy).
Hệ chi (địa chi - gốc là kâm) gồm 12 đơn vị dựa trên c con giáp: Tý (dương
thủy), sửu m thổ), dần (dương mộc), mão m mộc), thìn (dương thổ), tỵ m
hỏa), ngọ (dương hỏa), mùi (âm thổ), thân (dương kim), dậu m kim), tuất (dương
thổ), hi (âm thủy). Kết hợp thiên can vi địa chi tạo thành một chuỗi các m vi
chu 60 năm quay vòng lại mt ln (lục thập hoa giáp). Với quy tắc Âm Dương
giao hòa, mỗi một m đều là kết quả ca sự kết hợp giữa thiên (can) địa (chi)
để tạo ra nhân - hay n gọi hành của năm; dm 1963 hàng can là Quý,
hàng chi là o, và nhân của năm là Kim (Kim bạc kim).
Đây cũng chính bản chất của thuyết tam tài: Thiên - địa - nhân (thiên
địa hợp thành nhân) nó được áp dụng như một hệ tọa độ để xác định sự sinh
thành, phát triển cũng như diệt vong của mọi sự kin din ra trong thế gii.
2.2.2.3. Về kiến trúc, thủ công nghiệp, canh tác nông nghiệp…:
Kiến trúc: Ngoài ra, cả hai đều sgiao lưu n hóa kiến trúc liên tục suốt hơn
mt ngàn năm lịch sử.
Quá trình giao thoa văn hóa đã để lại dấu ấn nét dòng kiến trúc chính thống,
chẳng hạn như một số nét tương đồng giữa ccung Bắc Kinh Tcấm thành
của Kinh thành Huế hoặc s giống nhau giữa n Miếu Nội và n Miếu
Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông.
Tuy nhiên, nh hưởng của suốt hơn một ngàn năm giao lưu văn hóa y đã không
th xâm nhập vào cộng đồng làng Việt Nam nên đã không nh hưởng nhiều
9
đến dòng kiến trúc dân gian. Vào cuối đời Minh, đầu đời nhà Thanh đã một sự
dịch lớn của mt bộ phận người Hoa sang Việt Nam trong qtrình dịch
đó thì cộng đồng ngưi Hoa đã đem theo văn hóa cũng như kiến trúc của họ
sang cũng tạo nên một kiểu kiến trúc lai tạp khá độc đáo. Ngoài ra t cả Vit
Nam Trung Quốc đều nm trong vòng ảnh hưởng của văn hóa phương Đông
nên việc stương đồng giữa hai nền kiến trúc cViệt Nam, Trung Hoa là điều
tất nhiên. Tuy nhiên, sự tương đồng này không những đã không phủ nhận tính chất
độc lập bản sắc riêng của nền n hóa Việt Nam mà ti lại, nó n chứng minh
cho khả năng hấp thụ, khả năng tự cường tuyệt vời của nền văn hóa Việt Nam.
Thủ công nghiệp, canh tác nông nghiệp: Nền văn hóa Vit Nam không co lại để
tự vệ một cách bảo thủ lập. không từ chối những đóng góp của những
yếu tố bên ngi còn tỏ ra khả năng thu nạp mạng những cái hay cái đẹp của
nền văn hóa ngoại. Ngưi Việt chấp nhận kỹ thuật rèn, đúc sắt, gang, kinh nghim
chất đá làm đê ngăn sóng biển, kỹ thuật dùng phân n gian vùng châu thổ Bắc
Bộ gọi là phân bắc”
2.2.2.4 Ngôn ngữ:
Từ trong các m làng cổ, người Việt thi Bắc thuộc vn bảo tồn phát huy cái
vốn liếng văn hóa bản địa.
Tiếng nói thành tựu n hóa một thành phần của văn hóa. Tiếng Việt thuộc
nhóm ngôn ngữ cổ được xác lập từ xưa miền Đông Nam Á điu đó chứng tỏ i
gốc tích lâu đời, bản địa của dân tộc ta trên mảnh đất này. Khi bị người Hán thống
trị tiếng Hán chữ Hán du nhập ạt vào nước ta song không thể tiêu diệt được
tiếng Việt bởi chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân n lao động
trong các xóm người Việt cổ vn sống theo cách sống riêng ca mình cho nên họ
duy trì tiếng nói của tổ tiên. Dưới ách thống trị lâu năm của ngưi ngi trong cuộc
sống đã nảy sinh ra những biến đổi về vật chất tinh thần, đã nảy sinh ra nhiều
nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi phát trin. Trải qua nhiều
thế kỉ, tiếng Việt phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó, đã hấp
thu nhiều yếu tố Hán ngữ. Tiếng Việt nhiu từ gốc Hán tuy nhiên nhân dân ta đã
hấp thụ nh hưởng Hán ngữ một cách độc đáo, sáng tạo đã Việt hóa những tngữ
ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mới mà sau này ta gi là từ Hán
Việt.
10
Người Việt sử dụng chữ n m văn tchính thức trong giao dch. Trên cở s
chũ Hán, từ cuối thời Bắc thuộc ngưi Việt đã tạo ra chữ m dùng trong sáng
tác văn chương.
2.2.2.5 Về nhân chủng:
Người Việt hiện đại kết quả của sự hòa huyết của những tộc người Bách Vit
với người Hán.
2.3. Giao lưu n hóa giữa việt nam và Phương Tây.
2.3.1. Quá trình giao u văn hoá diễn ra:
2.3.1.1. Giai đoạn đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX (năm 1858)
Cho đến thế kỷ XIX hầu như tn thế giới không có vùng đất nào vắng chân người
phương Tây. Li dụng tình hình chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng
hoảng trầm trọng thực dân Pháp đã cho các giáo sĩ gim người buôn sang Việt
Nam truyền đạo mục đích chính thăm tình hình nước ta lúc bấy
gi. Trước tình hình đó, vua quan nhà Nguyễn đã thi hành chính sách cấm đạo,
không những thế còn ra lnh sát đạo. Chính do đó mà thực dân Pháp đã mang
quân sang xâm lược nước ta. Trong bối cảnh đó phải tiếp nhận văn hoá phương
Tây để hiện đại hoá nền văn hoá truyền thống.
2.3.1.2. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX (kết thúc giai đoạn
này được đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954):
Khi thực n pháp đánh chiếm cửa Cn giờ thiết lập nn cai tr lên dân tộc Việt
Nam. Đây thời kỳ biến động ln về tưởng chính trị, đồng thời văn hoá Việt
Nam cũng sự thay đổi n bản. Nhìn phương diện tính chất giao u văn hoá
thi kỳ này có hai dạng: Thnht giao u một cách cưỡng bức, áp đặt. Thứ hai
là tiếp nhận một ch tự nguyện. Về phía thực dân Pháp, đội quân đi xâm lược
đô hộ rất ý thức dùng văn hoá như mt công ccai tr nên bị người n Việt
phản ứng một cách quyết liệt. Tuy nhiên với người Việt Nam, vn mệnh dân tộc
thiêng liêng nhất, bằng thái độ cởi mhọ đã tiếp nhận những giá trị, những thành
tố văn hoá mới, min sao chúng có tác dụng hữu ích trong công cuộc ngoại xâm,
giành lại độc lập n tộc.
2.3.1.3. Giai đoạn từ 1954 đến nay:
miền Bắc din ra trong sự tự nhiên tự giác. Điểm xuất phát của vấn đề quan
đim của Đảng Cộng Sản Việt Nam vvăn hoá. Việc trao đổi văn hoá với nước
ngoài được chú ý ngay tsau hoà bình lập lại tất cả các bộ môn n hoá : sân
khấu, âm nhạc, ca a, giao hưởng, điện ảnh, t viện, bảo ng, văn hoá quần
11
chúng, ba lê,… Giai đoạn này giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và các nước hội
chủ nghĩa như Liên Xô các nước Đông Âu (trước đây) cũng như Trung Quốc đã
được đẩy mnh.
Trong đó Miền Nam, từ m 1954 đến năm 1975, giao lưu giữa văn hoá Việt
Nam và văn hoá Mỹ không phi là giao u tự nhiên mà là sự giao lưu cưỡng bức.
Từ sau m 1975 hai miền thng nhất, việc giao lưu văn hoá giữa nước ta và thế
gii càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Và cuối cùng không thể không thừa nhận sự tiến
bộ về khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học công nghệ thông tin hiện đại đã khiến
cho việc giao lưu văn hoá ở thời hiện đại diễn ra mạnh mhơn nhiều so với trước
đây.
2.3.2. Kết qu của quá trình giao u văn hoá:
2.3.2.1. Chữ viết:
Chữ quốc ngữ: Dùng m ngôn ngữ chính thức thay thế cho chữ m. Mục đích
dùng chữ quốc ngữ để dễ bề cai trị nhân dân ta. Pháp đưa ra c nghị định, thống
đốc Nam Kỳ đưa ra quyết định c công văn, nghị định được ghi bằng chữ quốc
ng.
2.3.2.2. Giáo dục và thi cử:
Nền giáo dục mi: Pháp lập c trường học mới tại Việt Nam, đào tạo theo chương
trình của Pháp, dùng chữ quốc ngữ trong giảng dạy. Đào tạo đội ngũ thông ngôn
viên, các viên chức phục vụ cho chính quyền Pháp. Giao lưu với phương Tây, mở
rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn so với thế hcũ.
2.3.2.3. Tôn giáo
Chính sách cấm đạo ngày càng gay gắt, ban hành các chỉ dụ để quy định biện pháp
đối xử vi giáo dân,. Đó biện pháp sai lầm không phân biệt được các giáo n
lương thiện và những giáo dân nhẹ dạ cả tin.
Sau hơn bốn thế ktruyền giáo, tới nay Kito giáo đã chỗ đng vững chắc
Việt Nam vi khoảng n 5 triệu tín đồ công giáo gần nửa triệu tín đồ Tin
Lành.
2.3.2.4. n học - ngh thuật:
Văn học Việt Nam biến đổi từ văn học trung đại sang nền văn học hin đại:
Tiêu biểu tiểu thuyết. Nội dung nói về tiếng lòng u kín, nỗi oan thân trách
phận, ước mơ hão huyền. Các tác phẩm tiêu biểu: n hồng quần, cay đắng mùi
đời. Các tác giả nổi tiếng như: Xuân Diệu, Nhất Linh, Tản Đà. Bên cạnh đó xuất
12
hin các nhà văn như Nam Cao, Trng Phụng viết về hin thực đời sống. Nội
dung là tình cảnh ca người nông dân trong xã hội đương thời.
Nghệ thuật nước ta cũng nhiều nét phát triển độc đáo:
Các máy hát, radio được nhập vào Việt Nam phục vụ cho công chức. Sau đó các
tim ng đĩa nhạc, phòng trà được mlên nhiều tạo điều kiện cho việc phát triển
âm nhạc ở khắp đất nước.
Nhạc nhẹ, nhạc trtình được du nhập vào Việt Nam và truyền bá âm nhạc vào các
trường học hay qua các hoạt động hướng đạo. Người Việt Nam dần dần làm quen
với âm nhạc Phương y. Một phong trào cải cách âm nhạc diễn ra với sự ra đời
của Tân nhạc. n nhạc sử dụng c dụng c mới như đàn ghi ta, piano các
xướng âm mi tạo ra những sản phẩm mang đậm phong cách nhạc Âu.
2.3.2.5. Kiến trúc:
Xuất hiện các kiến trúc của thời hiện đại như nhà tầng, các khu đô thị vừa nhỏ
với nổi bật các kiến trúc còn lưu lại cho tới thời nay như cầu Long Biên, Nthờ
Ln Hà Nội...
2.3.2.6. Văn hoá trang phục
Trong thế kỷ hai ơi, sau tác động của sự kiện Chiến tranh thế gii ln thứ hai,
sự ni lên của các nhà thiết kế thời trang và phong trào nữ quyền, trang phục ca
người phụ nữ đã có thay đổi rất lớn, ngược li vi quần áo nam đã trở thành một
hình thức cđịnh, bao gồm chủ yếu âu phục, vạt cùng áo sơ mi phối hợp với
quần dài.
2.3.2.7. Văn hoá ẩm thực:
Từ khi người phương Tây (mà đi tiên phong các giáo thương nhân) có mặt
nước ta tbột mì nh và các loại nh m từ bột cũng đã được chở
tới. Từ nửa sau thế kXIX, tn hoá m thực của Việt Nam bắt đầu một q
trình chuyển hoá khá mnh mẽ. m hiện tượng mới đã xuất hiện và ngày càng
trở n phbiến: như bột , các sản phẩm chế biến từ bột cùng với khoai tây,
rượu bia Phương y dần len lỏi vào thị trường Việt Nam đã được mt bộ
phận hội tiếp nhn. T đây, khái niệm lương thực phn phong phú hơn trước.
3. Vấn đề giữ gìn phát huy bản sắc n hoá n tộc Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa.
Thời kì giao lưu hội nhập và phát trin giữa các nền văn hóa đã đang phát triển
không ngừng trong thời gian gn đây, Việt Nam cũng nhân hội ấy đã được
trải nghim, học hỏi tích lũy thêm nguồn kiến thức phong pcủa mình, đồng
13
thi lan tỏa được những nét đẹp văn hóa của dân tộc đến vi khắp năm cu diễn.
Tuy nhiên do tình hình dịch bệnh đang diễn ra vô cùng phức tập trên toàn thế gii
vn đề nhức nhối của toàn cầu các hoạt động mở cửa giao thương, kết nối,
hội nhập giao u văn hóa…đã phải tạm thời dừng hoạt động. Thế nhưng việc
giữ gìn phát triển bản sắc văn hóa Vit Nam dù trong bối cảnh nào cũng luôn
phải được cân nhắc, chú trọng, quan m đúng mức độ luôn có những cách thức
để bồi dưỡng, trau dồi, phát triển bản sắc n hóa Việt Nam những biện pháp
ứng phó kịp thời khi bản sắc văn hóa của dân tộc dấu hiệu bị mai một, lợi dụng
và xâm phm tới.
Thứ nhất, cần phải nhận thức được bản chất về bản sắc văn hóa Việt Nam. Ta
cần hiểu rằng “Bản sắc văn hóa Việt Nam” tổng thể các đặc trưng của văn hóa
Việt Nam được hình thành, tồn tại phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của
dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu ợng
tiềm ẩn. Đó những nét n hóa riêng biệt đặc trưng mang đậm phong cách dân
tộc Việt Nam, chính bản sắc văn hóa đã góp phần tạo nên cái gọi bản lĩnh văn
hóa và bản lĩnh dân tộc.
Thứ hai, cùng với những kiến thức tiếp thu được tiếp tục trau dồi ta sẽ nhận
thức hiểu được những vấn đề xoay quanh bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam,
từ đó đưa ra được những đánh giá về tầm quan trọng, giá tr của chúng. Trong
"bầu trời u ám" kinh tế thế giới năm 2020, Việt Nam nổi lên như một đim sáng
đáng ghi nhn và thào, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn
mnh: Chưa bao gii Việt Nam được vị thế đồ vững chắc như hiện nay"
khi liên tục đạt những thành tích tốt về kinh tế (kinh tế tăng trưởng dương trong
điu kiện dịch bệnh), ng tác phòng chống dịch (đứng thứ hai toàn thế giới về các
bin pháp hiu quả) và cả môi trường quốc tế (Việt Nam quốc gia Đông Nam
Á duy nhất đạt được 5 mục tiêu nh động của Liên Hiệp Quốc (LHQ). Tất cả
những thành tích đó đạt được cũng chính nhờ một phần do đặc trưng của bản sắc
dân tộc Việt Nam ta, làm nên n tộc ta, một n tộc đoàn kết, kiên cường bất
khuất, tài giỏi đầy cẩn trọng, m nên con người Việt Nam ta, yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, niềm tin vững chắc vào đội ngũ lãnh đạo, tự ý thức thực hiện
tốt công việc của mình.
Thứ ba, khi nhận thức được những giá tr tốt đẹp của bản sắc văn hóa n tộc Việt
Nam, ta cần những biện pháp thiết thực để nâng cao để bồi ỡng niềm tự hào
14
cho mỗi người về bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với lứa tuổi còn nhỏ, các em thiếu
niên việc m hiểu học thuật là khá kkhan và khó nhớ, do vy mà cn phải đến
các hoạt động tuyên truyền giáo dục từ nhà trường, cho tới địa phương và gia đình.
Nhà trường tổ chức các buổi sinh hoạt giao lưu văn hóa qua các tiu phẩm hài
kịch, cuộc thi vẽ tranh hay ca hát âm nhạc, tổ chức hàng năm các buổi tham quan
bảo tàng lịch sử để tiếp cận dần dần với bản sắc văn hóa n tộc. địa phương thì
dán các poster banner quảng o về các chủ đề văn hóa vào các dịp cụ thể để
không chỉ trẻ nhỏ mà mọi đối tượng đều ththeo i nắm bắt thông tin được.
Ngoài ra, việc tổ chức hàng tháng các buổi sinh hoạt cộng đồng sẽ giúp mi người
trau dồi thêm kiến thức về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Với gia đình, bố mẹ
thể giới thiệu cho con em bằng tranh ảnh, hay những u chuyn. Các lứa tuổi
ln hơn nữa ttiếp cận được vi các kiến thức học thuật và tham gia các cuộc thi
tìm hiểu, nghiên cứu khoa học để làm sâu rộng nhận thức, vốn hiểu biết của mình
hơn. Nhà nước liên kết với các phương tiện truyền thông để đẩy mạnh công tác
quảng bá bản sắc văn hóa Việt Nam.
Thứ tư, với tình hình toàn cầu như hiện tại, khó khăn nhưng ng hội
để Việt Nam vươn mình, mrộng khai phá về chính đất nước mình, đồng
thời cũng cần chủ động mcửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế
giới. Càng m rộng giao lưu văn hóa, đất nước càng nhiều hội tiếp thu một
cách chọn lọc nhng tinh hoa của nn văn hóa, văn minh nhân loại để m giàu
kho tàng văn hóa dân tộc.
Thứ năm, cần biết rằng bản sắc n hóa dân tộc cũng sẽ bị thay đổi bởi bối cảnh
với nhiu yếu tố tác động, thế nên những yếu tố văn hóa tiến bộ được dung nạp
những yếu tố văn hóa lạc hu, lỗi thời sẽ bị loại bỏ, ta khi tiếp thu tinh hoa
những nước bạn cũng cần chừng mực, không tràn lan, hòa nhập nhưng không
hòa tan phợp với đặc đim vốn ca bản sắc văn hóa Việt Nam. n cạnh
đó cũng cần chuẩn bị những phương án cần thiết để ngăn chặn tình trạng mai một
văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc bị lợi dụng, xâm phạm m biến tướng
bởi một số đối tượng xấu.
15
KẾT LUẬN
Tóm lại, tn cầu hóa hiện nay đang dần trở thành xu thế lôi cuốn mọi quốc gia
dân tộc, vừa hi để c quốc gia tiếp thu văn minh nhân loại, vừa sự biến
đổi theo nhịp điu chung của thế giới nhưng cũng có thể vừa là nguy đối với
mt sn tộc tự đánh mất bản sắc của mình trong qtrình hội nhập. Cũng trong
dòng chảy y, Việt Nam không ngừng thay đổi, đó kết quả ca quá trình giao
lưu, hội nhập với các quốc gia khu vực cũng như trên thế gii. Nằm trong vùng
giao thoa giữa các trung m văn hóa lớn, bản sắc văn hóa Việt Nam ngày càng đa
dạng, phong phú trên mi phương din nhưng không đánh mất đi những giá trn
hóa thuần túy, đó kết quả của sgiao lưu, tiếp thu văn hóa chọn lọc. Cùng
với sphát triển hin đại của khoa học- kthuật, các quốc gia trên thế gii đã
thêm nhiu hi để tìm hiu vvăn hóa nước bạn, đây một trong nhng bước
tiến tích cực trong việc điểm thêm bản sắc văn hóa khu vực. Việt Nam hiện nay
đã đang hn thành tốt công cuộc giao u văn hóa nước nhà, trong thời gian tới
Việt Nam sẽ ngày ng nỗ lực, sẵn ng vượt lên xây dựng mt nn văn hóa hiện
đại, mang đậm bản sắc văn hóa n tộc với những giá trthuần túy vốn có với
những tiếp thu có chọn lọc để nâng tầm n hóa Việt trên trường quốc tế.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, luận án
1. Đại cương về văn hViệt Nam, Phạm Thái Việt (chủ biên) - Đảo Ngọc Tuấn
(2004), Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
2 sở văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm (2001), Nxb. Giáo dục, Nội.
3. sở văn hóa Việt Nam, Trần Quốc Vượng chủ bn (2003), Nxb. Giáo dục.
Nội.
4. Bn sắc văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc (2002), Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
5. Đào Duy Anh (2003), Việt Nam n hoả sử cương, Nxb. Văn hoá thông tin,
Nội.
Website:
6. https://dangcongsan.vn/the-gioi/the-gioi-noi-ve-viet-nam/viet-nam-la-nuoc-xu-
ly-dai-dich-covid-19-tot-thu-2-tren-the-gioi-573845.html
7. http://bacgiangtv.vn/tin-tuc/240/103572/viet-nam-lot-top-quoc-gia-nang-dong-
nhat-the-gioi-trong-nam-2020
8.http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/
ThongTinTongHop/vanhoa
9. https://123docz.net/document/5047985-giao-luu-van-hoa-viet-nam-va-phuong-
tay.htm

Preview text:

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỀ BÀI SỐ 4 : Vận dụng lý thuyết “Giao lưu – tiếp biến văn hóa” để chỉ ra
kết quả của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu với bên ngoài. LỚP : N02 – TL2 NHÓM 02 HÀ NỘI 2021
CÁC THÀNH VIÊN NHÓM STT Họ và tên Mã số sinh viên 1 Vũ Vân Anh 451112 2 Đàm Văn Thiện 451123 3 Nguyễn Phương Thảo 451130 4 Đặng Ngọc Thịnh 451140 5 Mạc Như Quỳnh 451244 6 Nguyễn Lê Hưng 451245 7 Vương Đức Khảm 451302 8 Bùi Quỳnh Trang 451306 9 Lê Thanh Tâm 451314 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
............................................................................................................... 1
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
1. Lý thuyết giao lưu - tiếp biến văn hoá .......................................................... 2
2. Kết quả của giao lưu văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu văn hóa
với bên ngoài ..................................................................................................... 4
2.1. Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ ............................................ 4
2.2. Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc .................................. 5
2.3 Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Phương Tây ................................... 9
3. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa. ........................................................................................... 12
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 13 MỞ ĐẦU
Việt Nam ta có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành
và phát triển của dân tộc. Cộng đồng văn hoá của dân tộc Việt khá rộng lớn được
hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát
triển rực rỡ cho đến ngày hôm nay, nền văn hóa nước ta phong phú và đa dạng trên
tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc anh em có những
phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt
cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư
tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền
đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, giao lưu - tiếp biến văn hóa đã và
đang đặt nền văn hóa Việt Nam trước những thời cơ và thách thức mới. Cũng như
nhiều quốc gia khác, vấn đề đặt ra với Việt Nam là làm thế nào để hội nhập, phát
triển nhưng không bị hòa tan bản sắc văn hóa dân tộc. Để giải quyết và làm sáng tỏ
vấn đề trên, nhóm chúng em xin chọn đề số 4: "Vận dụng lý thuyết "Giao lưu –
tiếp biến văn hóa" để chỉ ra kết quả của văn hóa Việt Nam trong quá trình
giao lưu với văn hóa bên ngoài”.
1 NỘI DUNG
1. Lý thuyết giao lưu - tiếp biến văn hoá
Giao lưu văn hóa
bao hàm trong đó sự chung sống của ít nhất hai nền văn hóa
(của hai cộng đồng, hai dân tộc, hai đất nước) và giao lưu là hình thức quan hệ trao
đổi văn hóa cùng có lợi, giúp đáp ứng một số nhu cầu không thể tự thỏa mãn của
mỗi bên, giúp tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền văn hóa để từ đó làm nẩy
sinh nhiều nhu cầu mới thúc đẩy mỗi nền văn hóa phát triển. Do đó giao lưu văn
hóa là dạng cộng sinh giữa các nền văn hóa.
Tiếp biến văn hóa là hiện tượng tiếp nhận có chọn lựa một số yếu tố văn hóa ngoại
lai và biến đổi chúng cho phù hợp với điều kiện sử dụng bản địa, tức phù hợp với
văn hóa bản địa, và sau một thời gian sử dụng và biến đổi tiếp thì chúng trở thành
những yếu tố văn hóa bản địa ngoại sinh.
Giao lưu tiếp biến văn hóa là sự tương hỗ lẫn nhau giữa hai nền văn hóa. Sự
tương hỗ này có khi diễn ra không cân xứng, và kết quả sẽ có một nền văn hóa bị
hút vào trong một nền văn hóa khác, hoặc bị thay đổi bởi một nền văn hóa khác;
hay cả hai nền văn hóa cùng thay đổi. Bên cạnh đó, nó còn là phương pháp định vị
văn hoá dựa trên lý thuyết các trung tâm và sự lan toả văn hoá, Thuyết này cho
rằng, sự phân bổ của văn hoá mang tính không đồng đều; văn hoá tập trung ở một
số khu vực sau đó lan toả ra các khu vực kế cận. Càng xa trung tâm, ảnh hưởng của
văn hoá gốc càng giảm - cho tới khi mất hẳn (lan toả tiên phát). Cơ chế này tạo ra
các vùng giao thoa văn hoá - nơi chịu ảnh hưởng của nhiều trung tâm văn hoá và
cả những "vùng tối" khi sức lan toả không với tới…Đến lượt mình, các vùng giao
thoa văn hoá cũng có khả năng "phát sáng" tạo nên sự lan toả thứ phát, hình thành
các trung tâm văn hoá mới và tiếp tục ảnh hưởng đến các khu vực kế cận.
Thuyết lan toả văn hoá giúp lý giải vì sao trong cùng một khu vực địa lý lại có sự
tương đồng về văn hoá, và vì sao ở những khu vực giáp ranh giữa các nền văn hoá
lớn thường tồn tại các nền văn hoá hỗn dung. Cơ sở khoa học của thuyết này là
những luận điểm dưới đây:
Văn hoá là cái đặc trưng chỉ có ở con người xã hội. Chính sự hợp quần thành xã
hội của các cá thể người - mới là nền tảng đích thực của văn hóa. Không có hoạt
động, không có giao lưu thì cũng không có bản chất xã hội của con người, và do đó 2
cũng không thể có văn hóa. Chỉ trong giao lưu (diễn ra trong nội bộ cộng đồng,
hoặc giữa các cộng đồng với nhau) văn hóa mới có thể tồn tại. Như vậy, giao lưu
và tiếp xúc văn hoá là sự vận động thường xuyên của văn hoá.
Đề cập đến văn hoá cũng có nghĩa là đề cập đến tất cả các khâu của giao lưu: từ
chủ thể của giao lưu (cá nhân, cộng đồng) cho đến hoạt động giao lưu và sản phẩm
của hoạt động giao lưu ấy. Do đó, khi tiến hành định vị một nền văn hoá, nhất thiết
phải xét nó trong quan hệ dẫn đến các trung tâm văn hoá kế cận hoặc các trung tâm
văn hoá đã từng có mối liên hệ với nền văn hoá ấy trong lịch sử, tức là phải xét đến
quá trình giao lưu - tiếp biến dẫn đến sự hình thành và phát triển của nền văn hoá
ấy. Sự thật là: xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hóa còn tồn tại cho
đến giờ, thì đều hiện thân như kết quả của quá trình giao lưu - tiếp biến. Giao lưu -
tiếp biến là phương thức tồn tại của mọi nền văn hóa trên hành tinh này.
Giao lưu - tiếp biến văn hoá (acculturation) được hiểu là hiện tượng xảy ra khi
những nhóm người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến
đổi mô thức văn hoá của các bên. Trong giao lưu có thể xảy ra hiện tượng những
yếu tố của của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia (tiếp thu thụ động);
hoặc nền văn hoá này vay mượn yếu tố của nền văn hoá kia (tiếp thu chủ động); rồi
trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh ấy mà điều chỉnh, cải biên cho phù
hợp, gây ra sự giao thoa văn hoá.
Giao lưu - tiếp biến văn hóa còn là một phương pháp được văn hóa học sử dụng
khá thường xuyên khi phân xuất kết cấu của một nền văn hóa cụ thể. Với phương
pháp này, nội dung của một nền văn hóa cụ thể được phân thành yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Tuy nhiên việc phân biệt như vậy chỉ mang tính tương đối.
2. Kết quả của giao lưu văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu văn hóa với bên ngoài.
2.1. Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ
2.1.1. Quá trình giao lưu văn hóa
Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và thế
giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhiều bình diện
có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức. Giao lưu và
tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các thương gia, các 3
nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền bá, văn hóa, tôn giáo.
Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, không gian văn
hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên kỷ đầu Công
nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu
thổ Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
đến ba vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn
hóa Ấn Độ khá toàn diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la
môn đến từ Ấn Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn
Độ ở tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với
việc truyền bá các thành tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v..
Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương quốc
Chăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Người Chăm đã tiếpnhận
mô hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và phát
triển các thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ
để tạo dựng nên nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn
Độ, Đông Nam Á và văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các
lĩnh vực, đặc biệt là chữ viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt ở vùng châu thổ Bắc bộ
lại diễn ra trong đặc điểm hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc với văn hóa
Ấn Độ, văn hóa của người Việt đã định hình và phát triển. Dưới thời Bắc thuộc,
người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp qua các thương gia, các nhà sư
từ Ấn Độ sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những thế kỷ đầu Công nguyên,
người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất và phải
đối mặt với văn hóa Hán. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chỉ diễn ra trong
tầng lớp dân chúng nhưng lại có sức phát triển lớn. Vùng châu thổ Bắc Bộ trở
thành địa bàn trung chuyển văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo. Giao Châu trở
thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhận Phật giáo một
cách dung dị bởi đạo Phật ở một số nội dung giáo lý phù hợp với tín ngưỡng bản địa Việt Nam.
* Nghiên cứu giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ
cần chú ý những đặc điểm sau:

Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần cơ
bản là hỗn dung tôn giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với tín 4
ngưỡng bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các
hiện tượng tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn hóa
bản địa, người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một dòng
Phật giáo dân gian thờ Tứ Pháp hết sức đặc sắc..v.v.. Phật giáo Ấn Độ đến Giao
Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn là một hiện tượng văn hóa.
Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng đến Việt Nam ngay từ
đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ đạo, nghệ thuật .v.v..Cũng hình
thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ thuật có giá trị: hệ thống chùa,
tháp .v.v..Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đối
trọng với ảnh hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn hoá của người Việt.
2.1.2. Kết quả quá trình giao lưu văn hóa với Ấn Độ 2.1.2.1. Tôn giáo
Phật giáo: Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Viêt Nam ngay từ đầu
công nguyên mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông. 2.1.2.2. Văn học
Từ đầu công nguyên, chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ các nước Ấn Độ, Trung Hoa, Ả Rập, Tây Âu….
Ở Việt Nam, từ rất lâu đời các tác phẩm sử thi Ấn Độ đã trở thành món ăn tinh
thần hấp dẫn truyền từ đời này sang đời khác như sử thi nổi tiếng Ramayana.
2.1.2.3. Nghệ thuật kiến trúc
Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ trong các công trình có tính chất tôn giáo như đền, tháp, điêu
khắc trên phù điêu. Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa, biến đổi cho phù hợp với nền văn hóa của
từng nước khác nhau và trở thành điểm nổi bật của chính nước đó như: Borobudur (Indonesia),
Angkor Wat (Campuchia) đặc biệt ở Việt Nam thì có thánh địa Mỹ Sơn. Ngoài ra kiến trúc Ấn
Độ cổ xưa còn được phát hiện qua các công trình đổ nát được xây dựng bằng nhiều loại vật liệu
khác nhau chủ yếu là gạch và đá (các công trình của người Champa).
2.1.2.4. Lễ hội- Ẩm thực
Ở Việt Nam người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều nhất của nền văn hóa Ấn
vì vậy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hiện qua các lễ hội
đền tháp như:lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng năm.
Ẩm thực truyền thống của Ấn Độ với món cà ri nổi tiếng đã phổ biến ở trên thế
giới và trong đó có Việt Nam. Khác với cà ri kiểu Ấn người Việt thường nấu nhiều
nước hơn và được dùng với nhiều hình thức đa dạng. 5
2.2. Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc 2.2.1. Giao lưu Văn hóa
Sự giao lưu tiếp biến văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc là sự giao lưu tiếp
biến rất dài trong rất nhiều thời kì lịch sử của Việt Nam. Quá trình ấy diễn ra cả hai
trạng thái: giao lưu cưỡng bức và giao lưu không cưỡng bức.
2.2.1.1. Giao lưu cưỡng bức:
Việc này diễn ra vào những giai đoạn lịch sử mà người Việt bị đô hộ, bị xâm lược
Thời kì thứ nhất 1000 năm Bắc thuộc từ năm 179TCN đến năm 938 và thời kì thứ 2
bị nhà Minh xâm lược từ năm 1407 đến năm 1427.
Lần thứ nhất, với sự thất bại của An Dương Vương trước sự xâm lược của Triệu
Đà năm 179TCN đã mở đầu cho thời kì bắc thuộc ở Giao Châu. Người Hán tổ chức
được nền đô hộ, ngoài việc bóc lột nhân dân ta về mọi phương diện, bộ máy cai trị
của người Hán thực hiện chính sách đồng hóa nhằm tiêu diệt văn hóa cư dân bản
địa, người Hán đã sử dụng văn hóa Hán như một công cụ xâm lược quan trọng bắt
nhân dân ta phải làm ruộng theo lối Hán, ăn mặc kiểu người Hán, nói tiếng Hán,
học chữ Hán, ứng xử theo phong tục Hán.
Lần thứ hai, Giao lưu văn hóa cưỡng bức xảy ra từ 1407 đến 1427. Sau khi soán
ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly lên ngôi, lấy cớ “Phù Trần diệt Hồ” nhà Minh mang
quân xâm lược nước với những chính sách sai lầm trong đường lối lãnh đạo nhà
Hồ mau chóng thất bại trước sự xâm lược của giắc Minh. Giặc Minh đã thủ tiêu
nền văn hóa Đại Việt bằng mọi cách: đập phá văn bia, đốt sạch những sách, tài
liệu, do người Việt viết hoặc thu nhặt về Trung Quốc, đưa về Trung Quốc những
thợ thủ công tài giỏi…Đây kẻ thù xâm lược tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt,
bằng chứng là Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho Trương Phụ rằng: "Một khi binh lính
vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu
hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân
gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu "Thượng đại nhân, khưu ất dĩ" một
mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc
dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá
sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn.”

2.2.1.2. Giao lưu không cưỡng bức
Đây là hình thức giao lưu - tiếp biến văn hóa vẫn xuất hiện dưới hình thức tự
nguyện. Sự mô phỏng mô hình Trung Hoa được các triều đại của nhà nước quân
chủ Đại Việt đẩy mạnh. Về tổ chức xã hội, chính trị, nhà Lý lấy cơ chế Nho giáo 6
làm gốc và vẫn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật giáo; nhưng đến nhà Trần, nhà Lê
thì đã hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Nho giáo, cụ thể là Tống Nho. Ngày nay, quá
trình giao lưu - tiếp biến văn hóa tự nguyện được thể hiện dưới việc các loại hình
văn hóa của Trung Quốc được xuất bản rộng rãi, nhiều thể loại phim của Trung
Quốc cũng được dịch và chiếu ở các kênh truyền hình…
2.2.2. Kết quả quá trình giao lưu Văn hóa 2.2.2.1. Tôn giáo Phật giáo
Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền tông,
Tịnh độ tông và Mật tông
Thiền tông: Do nhà sư Ấn Độ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhiharma) sáng lập ra ở Trung
Quốc thế kỷ VI, chủ trương tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra
chân lí. Thiền tông Việt Nam luôn đề cao cái Tâm. Phật tại tâm, tâm là niết bàn, là
Phật. Tu theo Thiền tông cần nhiều công phu và khả năng trí tuệ nên phổ biến ở giới thượng lưu.
Tịnh Độ tông: chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để giúp chúng sinh
thoát khổ. Đó là việc hướng họ đến một cõi niết bàn- cõi Tịnh Độ và bản thân họ
cần thường xuyên đi chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm danh hiệu Phật A-di-
đà. Nhờ cách tu đơn giản như vậy, Tịnh Độ tông trở thành Phật giáo của giới bình
dân, phổ biến khắp Việt Nam.
Mật tông: chủ trương sử dụng phép tu huyền bí như dùng linh phù, mật chú, ấn
quyết…để thu hút tín đồ và nhanh chóng đạt đến cảnh giới giác ngộ và giải thoát.
Sau khi vào Việt Nam, Mật tông nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian
với những truyền thống dùng pháp thuật, yểm bùa… Đạo giáo
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II, gồm Đạo giáo phù thủy và Đạo giáo thần tiên.
Đạo giáo phù thủy: Người Việt Nam từ xưa đã rất sùng bái ma thuật, phù phép, họ
tin rằng các lá bùa, những câu thần chú…có thể chữa bệnh, trị tà ma, có thể tăng
sức mạnh gươm chém không đứt…Bởi vậy, Đạo giáo phù thủy nhanh chóng thâm
nhập và hòa quyện dễ dàng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền đến mức không còn
ranh giới rõ ràng. Bên cạnh việc thờ Ngọc Hoàng Đại Đế, Thái Thượng Lão
Quân... (những đối tượng thờ cúng của Đạo giáo Trung Hoa), Đạo giáo phù thủy
của Việt Nam còn lập nên đối tượng thờ cúng riêng: Đức Thánh Trần (Trần Hưng 7
Đạo), Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh)... Đạo giáo phù thủy ở Việt Nam còn gắn liền với
đồng cốt (đồng bóng).
Đạo giáo thần tiên: họ tu luyện, luyện đan để trường sinh bất lão và kinh doanh
bằng vàng cho người giàu ở vùng đất Giao Châu. Phổ biến trong giới Đạo giáo
thần tiên ở Việt Nam là nội tu. Người Việt thờ Chử Đồng Tử (người thời vua
Hùng, tương truyền đã từng lên núi tu luyện, được ban gậy thần và sách ước, sau
thành tiên bay lên trời) làm ông tổ của Đạo giáo Việt Nam, gọi là Chử Đạo Tổ.
Giới sĩ phu Việt Nam xưa thường cùng nhau tổ chức phụ tiên (hay cầu tiên, cầu
cơ) để hỏi chuyện thời thế, đại sự cát hung... Một số đàn phụ tiên nổi danh một thời
là đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây). 2.2.2.2 Thế giới quan:
Không chỉ trong tín ngưỡng Phật giáo mà nền văn hóa của Trung Hoa như ngấm
sâu vào nhận thức (thế giới quan) của người dân đất Việt qua: triết lý Âm-Dương,
thuyết Ngũ hành
và hệ thống Lịch Âm.
Nội dung cơ bản của triết lý Âm-Dương:

Thái cực: là trạng thái âm dương chưa phân, vũ trụ còn nằm trong tình
Trạng hỗn mang, không định hình, không giới hạn.
Lưỡng nghi: là việc tự phân đôi của Thái cực thành Dương (ký hiệu bằng một vạch
liền, tượng trời, tượng số lẻ) và Âm (ký hiệu bằng một vạch đứt, tượng đất, tượng số chẵn).
Tứ tượng: khi đã tồn tại Âm, Dương - chúng gặp gỡ nhau và gặp gỡ chính bản thân
mình để tạo thành bốn tổ hợp: Dương - Dương (Thái Dương); Âm -Dương (Thiếu
Dương); Dương Âm (Thiếu Âm); Âm - Âm (Thái Âm).
Bát quái (tám quẻ): tứ tượng lại phối hợp với nhau để tạo thành tám tổ hợp gọi là bát quái.
Bát quái (những quẻ cơ bản) lại tiếp tục kết hợp với nhau để tạo thành 64 quẻ -
biểu trưng cho những trạng thái thường gặp ở giới tự nhiên ở con người.
Các quy luật cơ bản: Âm Dương đối lập, Âm Dương là gốc của nhau
(trong dương có âm trong âm có dương); Âm tiêu Dương trưởng và ngược lại; Âm
Dương chuyển hóa (biến dịch); Âm Dương giao hòa (cân bằng động).
Nội dung cơ bản của thuyết Ngũ hành:
Thuyết gồm 5 yếu tố: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ.
Cơ chế sinh: Thủy sinh Mộc (VD: nước giúp cây tươi tốt); Mộc sinh Hỏa (VD: gỗ
làm nhiên liệu cho lửa cháy); Hỏa sinh Thổ (VD: lửa đốt tro bụi làm đất màu mỡ); 8
Thổ sinh Kim (VD: trong lòng đất sinh ra kim loại); Kim sinh Thủy (VD: kim loại
nóng chảy trở về chất lỏng).
Cơ chế khắc: Thủy khắc Hỏa (VD nước dập lửa); Hỏa khắc Kim (VD: lửa làm
chảy kim loại); Kim khắc Mộc (VD: dao chặt cây); Mộc khắc Thổ (VD: cây hút
chất ở đất); Thổ khắc Thủy (VD: đất lấp nước).
Nội dung cơ bản của Lịch Âm Dương và hệ Can Chi:
Dựa trên thuyết Âm Dương: lấy Thái Âm chủ tháng (nguyệt lệnh), lấy Thái Dương
chủ ngày và giờ (nhật chủ). Dựa trên thuyết ngũ hành, lấy độ dài của một chu kì
biến đổi ngũ hành làm Năm (từ tiết lập xuân - khí mộc được tính là đầu một Năm,
cho đến tiết đông chí - khí thủy là hết một năm). Âm dương và ngũ hành hóa từng
năm theo hệ can chi tạo thành chu kì 60 năm (lục thập hoa giáp).
Hệ can (thiên can - gốc là khí dương) của năm bao gồm 10 đơn vị: Giáp
(dương mộc), ất (âm mộc), bính (dương hỏa), đinh (âm hỏa), mậu (dương thổ), kỷ
(âm thổ), canh (dương kim), tân (âm kim), nhâm (dương thủy), quý (âm thủy).
Hệ chi (địa chi - gốc là khí âm) gồm 12 đơn vị dựa trên các con giáp: Tý (dương
thủy), sửu (âm thổ), dần (dương mộc), mão (âm mộc), thìn (dương thổ), tỵ (âm
hỏa), ngọ (dương hỏa), mùi (âm thổ), thân (dương kim), dậu (âm kim), tuất (dương
thổ), hợi (âm thủy). Kết hợp thiên can với địa chi tạo thành một chuỗi các năm với
chu kì 60 năm quay vòng lại một lần (lục thập hoa giáp). Với quy tắc Âm Dương
giao hòa, mỗi một năm đều là kết quả của sự kết hợp giữa thiên (can) và địa (chi)
để tạo ra nhân - hay còn gọi là hành của năm; ví dụ năm 1963 có hàng can là Quý,
hàng chi là Mão, và nhân của năm là Kim (Kim bạc kim).
Đây cũng chính là bản chất của thuyết tam tài: Thiên - địa - nhân (thiên
địa hợp thành nhân) và nó được áp dụng như một hệ tọa độ để xác định sự sinh
thành, phát triển cũng như diệt vong của mọi sự kiện diễn ra trong thế giới.
2.2.2.3. Về kiến trúc, thủ công nghiệp, canh tác nông nghiệp…:
Kiến trúc:
Ngoài ra, cả hai đều có sự giao lưu văn hóa kiến trúc liên tục suốt hơn một ngàn năm lịch sử.
Quá trình giao thoa văn hóa đã để lại dấu ấn rõ nét ở dòng kiến trúc chính thống,
chẳng hạn như là một số nét tương đồng giữa cố cung Bắc Kinh và Tử cấm thành
của Kinh thành Huế hoặc sự giống nhau giữa Văn Miếu Hà Nội và Văn Miếu
Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của suốt hơn một ngàn năm giao lưu văn hóa này đã không
thể xâm nhập vào cộng đồng làng xã Việt Nam nên nó đã không ảnh hưởng nhiều 9
đến dòng kiến trúc dân gian. Vào cuối đời Minh, đầu đời nhà Thanh đã có một sự
dịch cư lớn của một bộ phận người Hoa sang Việt Nam và trong quá trình dịch cư
đó thì cộng đồng người Hoa đã đem theo văn hóa cũng như là kiến trúc của họ
sang và cũng tạo nên một kiểu kiến trúc lai tạp khá độc đáo. Ngoài ra thì cả Việt
Nam và Trung Quốc đều nằm trong vòng ảnh hưởng của văn hóa phương Đông
nên việc có sự tương đồng giữa hai nền kiến trúc cổ Việt Nam, Trung Hoa là điều
tất nhiên. Tuy nhiên, sự tương đồng này không những đã không phủ nhận tính chất
độc lập và bản sắc riêng của nền văn hóa Việt Nam mà trái lại, nó còn chứng minh
cho khả năng hấp thụ, khả năng tự cường tuyệt vời của nền văn hóa Việt Nam.
Thủ công nghiệp, canh tác nông nghiệp: Nền văn hóa Việt Nam không co lại để
tự vệ một cách bảo thủ và cô lập. Nó không từ chối những đóng góp của những
yếu tố bên ngoài mà còn tỏ ra có khả năng thu nạp mạng những cái hay cái đẹp của
nền văn hóa ngoại. Người Việt chấp nhận kỹ thuật rèn, đúc sắt, gang, kinh nghiệm
chất đá làm đê ngăn sóng biển, kỹ thuật dùng phân và dân gian vùng châu thổ Bắc
Bộ gọi là “phân bắc” 2.2.2.4 Ngôn ngữ:
Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái
vốn liếng văn hóa bản địa.
Tiếng nói là thành tựu văn hóa là một thành phần của văn hóa. Tiếng Việt thuộc
nhóm ngôn ngữ cổ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á điều đó chứng tỏ cái
gốc tích lâu đời, bản địa của dân tộc ta trên mảnh đất này. Khi bị người Hán thống
trị tiếng Hán và chữ Hán du nhập ồ ạt vào nước ta song nó không thể tiêu diệt được
tiếng Việt bởi chỉ có một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động
trong các xóm người Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình cho nên họ
duy trì tiếng nói của tổ tiên. Dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài trong cuộc
sống đã nảy sinh ra những biến đổi về vật chất và tinh thần, đã nảy sinh ra nhiều
nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải qua nhiều
thế kỉ, tiếng Việt phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó, nó đã hấp
thu nhiều yếu tố Hán ngữ. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán tuy nhiên nhân dân ta đã
hấp thụ ảnh hưởng Hán ngữ một cách độc đáo, sáng tạo đã Việt hóa những từ ngữ
ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mới mà sau này ta gọi là từ Hán Việt. 10
Người Việt sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong giao dịch. Trên cở sở
chũ Hán, từ cuối thời kì Bắc thuộc người Việt đã tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương.
2.2.2.5 Về nhân chủng:
Người Việt hiện đại là kết quả của sự hòa huyết của những tộc người Bách Việt với người Hán.
2.3. Giao lưu văn hóa giữa việt nam và Phương Tây.
2.3.1. Quá trình giao lưu văn hoá diễn ra:
2.3.1.1. Giai đoạn đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX (năm 1858)
Cho đến thế kỷ XIX hầu như trên thế giới không có vùng đất nào vắng chân người
phương Tây. Lợi dụng tình hình chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng
hoảng trầm trọng thực dân Pháp đã cho các giáo sĩ giả làm người buôn sang Việt
Nam truyền đạo mà mục đích chính là thăm dò tình hình nước ta lúc bấy
giờ. Trước tình hình đó, vua quan nhà Nguyễn đã thi hành chính sách cấm đạo,
không những thế còn ra lệnh sát đạo. Chính vì lý do đó mà thực dân Pháp đã mang
quân sang xâm lược nước ta. Trong bối cảnh đó phải tiếp nhận văn hoá phương
Tây để hiện đại hoá nền văn hoá truyền thống.
2.3.1.2. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX (kết thúc giai đoạn
này được đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954):
Khi thực dân pháp đánh chiếm cửa Cần giờ và thiết lập nền cai trị lên dân tộc Việt
Nam. Đây là thời kỳ biến động lớn về tư tưởng và chính trị, đồng thời văn hoá Việt
Nam cũng có sự thay đổi căn bản. Nhìn ở phương diện tính chất giao lưu văn hoá ở
thời kỳ này có hai dạng: Thứ nhất là giao lưu một cách cưỡng bức, áp đặt. Thứ hai
là tiếp nhận một cách tự nguyện. Về phía thực dân Pháp, đội quân đi xâm lược và
đô hộ rất có ý thức dùng văn hoá như một công cụ cai trị nên bị người dân Việt
phản ứng một cách quyết liệt. Tuy nhiên với người Việt Nam, vận mệnh dân tộc là
thiêng liêng nhất, bằng thái độ cởi mở họ đã tiếp nhận những giá trị, những thành
tố văn hoá mới, miễn sao chúng có tác dụng hữu ích trong công cuộc ngoại xâm,
giành lại độc lập dân tộc.
2.3.1.3. Giai đoạn từ 1954 đến nay:
Ở miền Bắc diễn ra trong sự tự nhiên và tự giác. Điểm xuất phát của vấn đề là quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về văn hoá. Việc trao đổi văn hoá với nước
ngoài được chú ý ngay từ sau hoà bình lập lại ở tất cả các bộ môn văn hoá : sân
khấu, âm nhạc, ca múa, giao hưởng, điện ảnh, thư viện, bảo tàng, văn hoá quần 11
chúng, ba lê,… Giai đoạn này giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và các nước xã hội
chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây) cũng như Trung Quốc đã được đẩy mạnh.
Trong đó ở Miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, giao lưu giữa văn hoá Việt
Nam và văn hoá Mỹ không phải là giao lưu tự nhiên mà là sự giao lưu cưỡng bức.
Từ sau năm 1975 hai miền thống nhất, việc giao lưu văn hoá giữa nước ta và thế
giới càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Và cuối cùng không thể không thừa nhận sự tiến
bộ về khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học công nghệ thông tin hiện đại đã khiến
cho việc giao lưu văn hoá ở thời hiện đại diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so với trước đây.
2.3.2. Kết quả của quá trình giao lưu văn hoá: 2.3.2.1. Chữ viết:
Chữ quốc ngữ: Dùng làm ngôn ngữ chính thức thay thế cho chữ Nôm. Mục đích
dùng chữ quốc ngữ để dễ bề cai trị nhân dân ta. Pháp đưa ra các nghị định, thống
đốc Nam Kỳ đưa ra quyết định các công văn, nghị định được ghi bằng chữ quốc ngữ.
2.3.2.2. Giáo dục và thi cử:
Nền giáo dục mới: Pháp lập các trường học mới tại Việt Nam, đào tạo theo chương
trình của Pháp, dùng chữ quốc ngữ trong giảng dạy. Đào tạo đội ngũ thông ngôn
viên, các viên chức phục vụ cho chính quyền Pháp. Giao lưu với phương Tây, mở
rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn so với thế hệ cũ. 2.3.2.3. Tôn giáo
Chính sách cấm đạo ngày càng gay gắt, ban hành các chỉ dụ để quy định biện pháp
đối xử với giáo dân,. Đó là biện pháp sai lầm vì không phân biệt được các giáo dân
lương thiện và những giáo dân nhẹ dạ cả tin.
Sau hơn bốn thế kỷ truyền giáo, tới nay Kito giáo đã có chỗ đứng vững chắc ở
Việt Nam với khoảng hơn 5 triệu tín đồ công giáo và gần nửa triệu tín đồ Tin Lành.
2.3.2.4. Văn học - nghệ thuật:
Văn học Việt Nam biến đổi từ văn học trung đại sang nền văn học hiện đại:
Tiêu biểu là tiểu thuyết. Nội dung nói về tiếng lòng sâu kín, nỗi oan thân trách
phận, ước mơ hão huyền. Các tác phẩm tiêu biểu: Oán hồng quần, cay đắng mùi
đời. Các tác giả nổi tiếng như: Xuân Diệu, Nhất Linh, Tản Đà. Bên cạnh đó xuất 12
hiện các nhà văn như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng viết về hiện thực đời sống. Nội
dung là tình cảnh của người nông dân trong xã hội đương thời.
Nghệ thuật nước ta cũng có nhiều nét phát triển độc đáo:
Các máy hát, radio được nhập vào Việt Nam phục vụ cho công chức. Sau đó các
tiệm băng đĩa nhạc, phòng trà được mở lên nhiều tạo điều kiện cho việc phát triển
âm nhạc ở khắp đất nước.
Nhạc nhẹ, nhạc trữ tình được du nhập vào Việt Nam và truyền bá âm nhạc vào các
trường học hay qua các hoạt động hướng đạo. Người Việt Nam dần dần làm quen
với âm nhạc Phương Tây. Một phong trào cải cách âm nhạc diễn ra với sự ra đời
của Tân nhạc. Tân nhạc sử dụng các dụng cụ mới như đàn ghi ta, piano và các
xướng âm mới tạo ra những sản phẩm mang đậm phong cách nhạc Âu. 2.3.2.5. Kiến trúc:
Xuất hiện các kiến trúc của thời hiện đại như nhà tầng, các khu đô thị vừa và nhỏ
với nổi bật là các kiến trúc còn lưu lại cho tới thời nay như cầu Long Biên, Nhà thờ Lớn Hà Nội...
2.3.2.6. Văn hoá trang phục
Trong thế kỷ hai mươi, sau tác động của sự kiện Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
sự nổi lên của các nhà thiết kế thời trang và phong trào nữ quyền, trang phục của
người phụ nữ đã có thay đổi rất lớn, ngược lại với quần áo nam đã trở thành một
hình thức cố định, bao gồm chủ yếu là âu phục, cà vạt cùng áo sơ mi phối hợp với quần dài.
2.3.2.7. Văn hoá ẩm thực:
Từ khi người phương Tây (mà đi tiên phong là các giáo sĩ và thương nhân) có mặt
ở nước ta thì bột mì và bánh mì và các loại bánh làm từ bột mì cũng đã được chở
tới. Từ nửa sau thế kỷ XIX, thì văn hoá ẩm thực của Việt Nam bắt đầu một quá
trình chuyển hoá khá mạnh mẽ. Có năm hiện tượng mới đã xuất hiện và ngày càng
trở nên phổ biến: như bột mì, các sản phẩm chế biến từ bột mì cùng với khoai tây,
rượu và bia Phương Tây dần len lỏi vào thị trường Việt Nam và đã được một bộ
phận xã hội tiếp nhận. Từ đây, khái niệm lương thực có phần phong phú hơn trước.
3. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thời kì giao lưu hội nhập và phát triển giữa các nền văn hóa đã và đang phát triển
không ngừng trong thời gian gần đây, Việt Nam cũng nhân cơ hội ấy mà đã được
trải nghiệm, học hỏi và tích lũy thêm nguồn kiến thức phong phú của mình, đồng 13
thời lan tỏa được những nét đẹp văn hóa của dân tộc đến với khắp năm châu diễn.
Tuy nhiên do tình hình dịch bệnh đang diễn ra vô cùng phức tập trên toàn thế giới
và là vấn đề nhức nhối của toàn cầu mà các hoạt động mở cửa giao thương, kết nối,
hội nhập và giao lưu văn hóa…đã phải tạm thời dừng hoạt động. Thế nhưng việc
giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam dù là trong bối cảnh nào cũng luôn
phải được cân nhắc, chú trọng, quan tâm đúng mức độ và luôn có những cách thức
để bồi dưỡng, trau dồi, phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam và những biện pháp
ứng phó kịp thời khi bản sắc văn hóa của dân tộc có dấu hiệu bị mai một, lợi dụng và xâm phạm tới.
Thứ nhất, cần phải nhận thức được bản chất về bản sắc văn hóa Việt Nam. Ta
cần hiểu rằng “Bản sắc văn hóa Việt Nam” là tổng thể các đặc trưng của văn hóa
Việt Nam được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của
dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và
tiềm ẩn. Đó là những nét văn hóa riêng biệt đặc trưng mang đậm phong cách dân
tộc Việt Nam, c
hính bản sắc văn hóa đã góp phần tạo nên cái gọi là bản lĩnh văn
hóa và bản lĩnh dân tộc.
Thứ hai, cùng với những kiến thức tiếp thu được và tiếp tục trau dồi ta sẽ nhận
thức và hiểu được những vấn đề xoay quanh bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam,
từ đó đưa ra được những đánh giá về tầm quan trọng, giá trị của chúng.
Trong
"bầu trời u ám" kinh tế thế giới năm 2020, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng
đáng ghi nhận và tự hào, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn
mạnh: “Chưa bao giời Việt Nam có được vị thế và cơ đồ vững chắc như hiện nay"
khi liên tục đạt những thành tích tốt về kinh tế (kinh tế tăng trưởng dương trong
điều kiện dịch bệnh), công tác phòng chống dịch (đứng thứ hai toàn thế giới về các
biện pháp hiệu quả) và ở cả môi trường quốc tế (Việt Nam là quốc gia Đông Nam
Á duy nhất đạt được 5 mục tiêu hành động của Liên Hiệp Quốc (LHQ). Tất cả
những thành tích đó đạt được cũng chính nhờ một phần do đặc trưng của bản sắc
dân tộc Việt Nam ta, làm nên dân tộc ta, một dân tộc đoàn kết, kiên cường bất
khuất, tài giỏi và đầy cẩn trọng, làm nên con người Việt Nam ta, yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, có niềm tin vững chắc vào đội ngũ lãnh đạo, tự ý thức và thực hiện
tốt công việc của mình.
Thứ ba, khi nhận thức được những giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam, ta cần có những biện pháp thiết thực để nâng cao để bồi dưỡng niềm tự hào 14
cho mỗi người về bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với lứa tuổi còn nhỏ, các em thiếu
niên việc tìm hiểu học thuật là khá khô khan và khó nhớ, do vậy mà cần phải đến
các hoạt động tuyên truyền giáo dục từ nhà trường, cho tới địa phương và gia đình.
Nhà trường tổ chức các buổi sinh hoạt giao lưu văn hóa qua các tiểu phẩm hài
kịch, cuộc thi vẽ tranh hay ca hát âm nhạc, tổ chức hàng năm các buổi tham quan
bảo tàng lịch sử để tiếp cận dần dần với bản sắc văn hóa dân tộc. Ở địa phương thì
dán các poster và banner quảng cáo về các chủ đề văn hóa vào các dịp cụ thể để
không chỉ trẻ nhỏ mà mọi đối tượng đều có thể theo dõi nắm bắt thông tin được.
Ngoài ra, việc tổ chức hàng tháng các buổi sinh hoạt cộng đồng sẽ giúp mọi người
trau dồi thêm kiến thức về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Với gia đình, bố mẹ
có thể giới thiệu cho con em bằng tranh ảnh, hay những câu chuyện. Các lứa tuổi
lớn hơn nữa thì tiếp cận được với các kiến thức học thuật và tham gia các cuộc thi
tìm hiểu, nghiên cứu khoa học để làm sâu rộng nhận thức, vốn hiểu biết của mình
hơn. Nhà nước liên kết với các phương tiện truyền thông để đẩy mạnh công tác
quảng bá bản sắc văn hóa Việt Nam.
Thứ tư, với tình hình toàn cầu như hiện tại, dù khó khăn nhưng cũng là cơ hội
để Việt Nam vươn mình, mở rộng và khai phá về chính đất nước mình, đồng
thời cũng cần chủ động mở cửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế
giới.
Càng mở rộng giao lưu văn hóa, đất nước càng có nhiều cơ hội tiếp thu một
cách có chọn lọc những tinh hoa của nền văn hóa, văn minh nhân loại để làm giàu
kho tàng văn hóa dân tộc.
Thứ năm, cần biết rằng bản sắc văn hóa dân tộc cũng sẽ bị thay đổi bởi bối cảnh
với nhiều yếu tố tác động, thế nên những yếu tố văn hóa tiến bộ được dung nạp và
những yếu tố văn hóa lạc hậu, lỗi thời sẽ bị loại bỏ, và ta khi tiếp thu tinh hoa ở
những nước bạn cũng cần chừng mực, không tràn lan, hòa nhập nhưng không

hòa tan và phù hợp với đặc điểm vốn có của bản sắc văn hóa Việt Nam. Bên cạnh
đó cũng cần chuẩn bị những phương án cần thiết để ngăn chặn tình trạng mai một
văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc bị lợi dụng, xâm phạm và làm biến tướng
bởi một số đối tượng xấu.
15 KẾT LUẬN
Tóm lại, toàn cầu hóa hiện nay đang dần trở thành xu thế lôi cuốn mọi quốc gia
dân tộc, vừa là cơ hội để các quốc gia tiếp thu văn minh nhân loại, vừa là sự biến
đổi theo nhịp điệu chung của thế giới nhưng cũng có thể vừa là nguy cơ đối với
một số dân tộc tự đánh mất bản sắc của mình trong quá trình hội nhập. Cũng trong
dòng chảy ấy, Việt Nam không ngừng thay đổi, đó là kết quả của quá trình giao
lưu, hội nhập với các quốc gia khu vực cũng như trên thế giới. Nằm trong vùng
giao thoa giữa các trung tâm văn hóa lớn, bản sắc văn hóa Việt Nam ngày càng đa
dạng, phong phú trên mọi phương diện nhưng không đánh mất đi những giá trị văn
hóa thuần túy, đó là kết quả của sự giao lưu, tiếp thu văn hóa có chọn lọc. Cùng
với sự phát triển hiện đại của khoa học- kỹ thuật, các quốc gia trên thế giới đã có
thêm nhiều cơ hội để tìm hiểu về văn hóa nước bạn, đây là một trong những bước
tiến tích cực trong việc điểm tô thêm bản sắc văn hóa khu vực. Việt Nam hiện nay
đã và đang hoàn thành tốt công cuộc giao lưu văn hóa nước nhà, trong thời gian tới
Việt Nam sẽ ngày càng nỗ lực, sẵn sàng vượt lên xây dựng một nền văn hóa hiện
đại, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc với những giá trị thuần túy vốn có với
những tiếp thu có chọn lọc để nâng tầm văn hóa Việt trên trường quốc tế. 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, luận án
1. Đại cương về văn hoá Việt Nam, Phạm Thái Việt (chủ biên) - Đảo Ngọc Tuấn
(2004), Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
2 Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm (2001), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3. Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Quốc Vượng chủ biên (2003), Nxb. Giáo dục. Hà Nội.
4. Bản sắc văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc (2002), Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
5. Đào Duy Anh (2003), Việt Nam văn hoả sử cương, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội. Website:
6. https://dangcongsan.vn/the-gioi/the-gioi-noi-ve-viet-nam/viet-nam-la-nuoc-xu-
ly-dai-dich-covid-19-tot-thu-2-tren-the-gioi-573845.html
7. http://bacgiangtv.vn/tin-tuc/240/103572/viet-nam-lot-top-quoc-gia-nang-dong- nhat-the-gioi-trong-nam-2020
8.http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ ThongTinTongHop/vanhoa
9. https://123docz.net/document/5047985-giao-luu-van-hoa-viet-nam-va-phuong- tay.htm