TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
MÔN VĂN HOÁ ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH:
VĂNA CHÍNH PHỔ RỘNG LỚN NHẤT CỦA PHÁP LUẬT
VÀ PHÁP LUẬT ĐƯỢC XÂY DỰNG DỰA TRÊN NHỮNG
KINH NGHIỆM VĂNA”.
Họ và tên sinh viên :
sinh vn :
Lớp tín chỉ :
Khoá :
Giáo viên ớng dẫn :
Nội, tháng
2
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU 3
1.1. do chọn đề tài 3
1.2. Mục đíchnhiệm vụ 4
1.3. Phạm vi nghiên cứu 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu 4
2. NỘI DUNG 4
2.1. sở luận 4
2.1.1. Văn hoá 4
2.1.1.1. Định nghĩa văn hoá 4
2.1.1.2. Đặc trưng chức năng của văn hoá 6
2.1.2. Pháp luật 8
2.1.2.1. Định nghĩa pháp luật 8
2.1.2.2. Những đặc trưng bản vai trò của pháp luật 9
2.2. Phân tích 11
2.2.1. Văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật 11
2.2.1.1. Trước hết, văn hoá một sản phẩm của tự do và tính bao quát lớn nhất.
11
2.2.1.2. Văn hoá đi ra từ cuộc sống, sức ảnh hưởng to lớn đến con người 12
2.2.2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa 13
2.2.2.1. Văn hoá là nguồn của pháp luật 13
2.2.2.2. Tập quán pháp 16
3. KẾT LUẬN 19
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
1. MỞ ĐẦU
1.1. do chọn đề tài
“CON NGƯỜI”- hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao!”
Nhà văn người Nga vĩ đại Maksim Gorky đã viết nên một câu văn đầy khái quát như vậy,
sau những trải nghiệm đắng cay của đời riêng cuộc đời sáng tạo văn chương. Trên bình
diện triết học, chúng ta thấu hiểu sự vĩ đại của con người sản phẩm tiến hoá của lịch sử.
Con người được hình thành tcon n sau hàng triệu năm chuyên sống bằng săn bắt
hái lượm. Chính trong quá trình lao động dài lâu, con người ngày càng phát triển, hoàn
thiện về bộ não thể. Lao động đã tạo ra lịch sử con người; đến lượt nó, con người
lại tạo ra lịch sử hội. Ông cũng từng nhấn mạnh rằng: Con người kẻ mang trong
mình năng lực tổ chức thế giới, kẻ sáng tạo ra thiên niên kỷ thứ hai, sáng tạo ra văn
minh. Những sự sáng tạo ấy, văn minh ấy bao gm cả văn hoá cả pháp luật, những
thành quả tất yếu của con người; những điều ấy song hành gắn cùng thời gian, tạo
nên lịch sử hội. trong đó, văn hoá đã góp phần tạo nên một nền văn minh đại,
nâng cao trí thức duy cho con người. Nhờ thế con người ít dần đi sự phụ thuộc
lệ lẫn nhau. Còn pháp luật sinh ra để mang đến ng bằng trật tự hội. Hai
phạm trù này luôn song hành, gắn chặt chẽ, tạo thành mối liên kết không thể bị đứt
gãy. Đây là mối quan hệ có sức ảnh hưởng và tác động to lớn tới đời sống mỗi chúng ta.
Trên thực tế hiện nay, trong bối cảnh hội ngày càng phát triển, kinh tế thị trường
hội nhập toàn cầu đang trở thành xu thế mới của thời đại, đem lại những lợi ích to lớn
nhưng ng để lại những tác động tiêu cực không hề nhỏ với các vấn đề nghiêm trọng về
mặt hội như ô nhiễm môi trường, tệ nạn hội, phân hoá giàu nghèo, nguy đảo
lộn biến dạng thang giá trị truyền thống một cách gay gắt, lại càng đặt ra yêu cầu cho
dân tộc Việt Nam một thách thức: Làm sao để hoà nhập nhưng không hoà tan và yêu cầu
bức bách phải đấu tranh gìn giữ những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã
tồn tại qua bao thế hệ. Để làm được điều đó trước hết phải xuất phát từ việc xây dựng
được một hệ thống pháp luật nghiêm minh trong quản lí, phù hợp với hội, thích nghi
với thời cuộc đặc biệt phải những nét đặc trưng của đất nước, con người Việt
Nam, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, hướng tới việc xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện.
Trước những nhận định trên cho thấy việc nhận thức được tầm quan trọng của văn
hoá và pháp luật hết sức cần thiết. Chính vì thế bài tiểu luận này sẽ đi sâu tập trung
làm mối quan hệ giữa văn hoá pháp luật, phân tích và chứng minh nhận định Văn
hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật pháp luật được xây dựng dựa trên
những kinh nghiệm văn hóa nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, đồng thời cung cấp
những góc nhìn, quan điểm đa chiều, đa dạng về văn hoá pháp luật. Đó chính s
để mỗi người nói chung, mỗi sinh viên nói riêng có cái nhìn bao quát về văn hoá, về pháp
3
luật, thêm hiểu về vai trò của văn hoá pháp luật đối với đời sống thái độ đúng đắn
ý thức nghiêm túc trong việc bảo vệ nền văn hoá dân tộc phát triển pháp luật ngày
càng hoàn thiện và toàn diện hơn.
1.2. Mục đíchnhiệm vụ
Nghiên cứu phân tích những vấn đề luận bản về văn hoá pháp luật. Trên
sở đó xác định và làm rõ mối quan hệ giữa hai phạm trù này. Đồng thời tập trung đánh
giá và chứng minh nhận định Văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật pháp
luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa. cuối cùng kết luận, đánh giá
tính chất của vấn đề và tác động của vấn đề đã đưa ra.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: kể từ khi văn hoá xuất hiện
Về không gian: Mọi địa điểm, khu vực có liên quan đến đề tài, chủ yếu tập trung
vào Việt Nam.
Về nội dung: Mối quan hệ giữa văn hoá pháp luật sở để xây dựng pháp
luật.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thu thập xử thông tin, phân
tích tài liệu, các phương pháp khái quát, phân tích, tổng hợp,…
2. NỘI DUNG
2.1. sở luận
2.1.1. Văn hoá
2.1.1.1. Định nghĩa văn hoá
Mặc ra đời cùng sự hình thành phát triển của loài người, tuy nhiên văn hoá
vẫn chưa thể cho riêng mình một định nghĩa riêng biệt cụ thể. Bởi đây một
phạm trù rất rộng lớn, mang tính trừu tượng mức độ khái quát hoá cùng sâu sắc. Do
vậy việc cụ thể hoá văn hoá như một khái niệm cụ thể, phản ánh toàn bộ chủ thể
khó thể thành hiện thực. Một số nhân tổ chức kinh nghiệm trình độ am hiểu
nhất định về ngôn ngữ và đặc thù của lĩnh vực này đã định nghĩa văn hoá theo nhiều cách
khác nhau, mỗi định nghĩa phản ánh cách nhìn nhận đánh giá khác nhau. Tạo nên một
khái niệm đa chiều, đa sắc.
Edward Burnett Tylor (1832-1917), nhà nhân chủng học nổi tiếng người Anh được
coi một trong số những lớp tiên phong định nghĩa vvăn hoá. Trong ng trình nghiên
cứu Văn hoá nguyên thuỷ (1871), ông đã đề cập:
4
Văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học một tổng thể phức hợp
gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, bất cứ những khả
năng, tập quán nào con người thu nhận được với cách một thành viên của
hội.
1
Định nghĩa này đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu khoa học viện dẫn như mt
trong những định nghĩa mang tính kinh điển về chủ đề văn hoá, giải văn hoá sự tổng
hoà của một tập hợp những thành quả sáng tạo của con người. Trong định nghĩa này, quan
niệm văn hoá đề cao vai trò của con người.
Từ sau công trình nghiên cứu mang tính “mở đườngcho việc giải quan niệm văn hoá
của E.B.Tylor, văn hoá ngày càng trở thành một vấn đề tính chất hàn lâm cần được đào
sâu và nghiên cứu một cách hệ thống, bài bản. Cùng với đó sự ra đời của một loạt các
định nghĩa khác nhau dựa trên những sở, phương diện khác nhau như tính miêu tả, tính
lịch sử, tính chuẩn mực, tính chất tâm lý học, tính cấu trúc, tính nguồn gốc,… từ rất nhiều
các nhà nghiên cứu khoa học khác nhau. Kể từ năm 1952, hai nhà nhân loại học người
Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê được tới 164 định nghĩa khác nhau về
văn hoá trong các công trình nổi tiếng thế giới.
2
Năm 2002, Tổ chức Giáo dục, Khoa học Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) cũng đã
đưa ra định nghĩa vvăn hoá như sau:
Văn hóa nên được đề cập đến như một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức xúc cảm của một hội hay một nhóm người trong hội chứa
đựng, ngoài văn học nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá
trị, truyền thống và đức tin.
3
Bên cạnh đó, nước ta cũng đã đang tồn tại không ít định nghĩa về văn hoá, tiêu biểu
trong số đó có thể đề cập đến định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo phát minh đó tức văn hóa. Văn hóa tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
4
Hay như nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm giải quan niệm văn hoá dựa trên 4 đặc trưng
cơ bản:
1
E.B.Tylor, Văna nguyên thủy, NXB n hóa Thông tin, 2000
2
Lương Văn Kế, Thế giới đa chiều, NXB Thế giới, 2007, tr.313
3
Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng văn hoá
4
Hồ Chí Minh toàn tập (tập III), NXB Chính tr Quốc gia, 1995
5
Văn hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội.
5
Mặc hiện hữu sự khác biệt về mặt ngôn từ, quan điểm phương thức giải
của các định nghĩa về văn hoá; tuy nhiên, điểm chung thể khái quát được về các khái
niệm văn hoá đó sự phản ánh một cách phong phú toàn diện mọi mặt đời sống vật
chất tinh thần con nời. Văn hoá sản phẩm tất yếu của của hội, hệ quả của
quá trình tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên và hiện diện trong mọi hành vi
sáng tạo của nhân loại nhằm mục đích phục vụ đời sống con người. Văn hoá hình thành
trong cộng đồng, tích luỹ và tồn tại theo thời gian, cũng đồng thời phản ánh phương thức
sống của cộng đồng đó. Tuy thể tồn tại một số điểm tương đồng nhưng vẫn những
nét riêng biệt không thể trộn lẫn, tạo nên những bản sắc, đặc trưng riêng giữa cộng đồng
này với cộng đồng khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác; làm nên sự đa dạng khác
biệt quý giá, đáng được tôn trọng, đáng được gìn giữ.
2.1.1.2. Đặc trưng chức năng của văn hoá
thể xem văn hoá như một hình thái ý thc hội. Hình thái ý thức hội ấy
cũng sản phẩm của một hội khả năng tác động vào thực tiễn của hội ấy.
Trong văn hoá, người ta xác định đó một hình thái ý thức hội đặc biệt, và hình thái
ấy tồn tại những đặc trưng tiêu biểu. Trong bài tiểu luận này, em xin được nêu ra các đặc
trưng chức năng của văn hoá dựa trên nghiên cứu của PGS.VS Trần Ngọc Thêm trong
công trình Cơ sở văn hoá Việt Nam (1999).
Trước hết, văn hoá có tính hệ thống. thể hiểu, văn hoá chính gốc rễ, một
“chiếc khung” tổng thể vai trò kết nối các thành tố vi nhau. Các thành tố ấy thể
một loạt c sự kiện, các hiện tượng xảy ra tiếp nối, hoặc diễn tiến thành một quá trình
phát triển tạo thành quy luật, chúng có mối liên kết gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành
một hthống giúp văn hoá tầng lớp, đan cài, xâu chuỗi tiếp nối nhau. Đó chính
sự khác biệt với tập hợp (mang tính liệt không sự kết nối). Tính hệ thống giúp
văn hoá thực hiện được chức năng tổ chức hội. Bởi văn hoá bao trùm lên mọi mặt của
đời sống hội, trên tất cả các lĩnh vực. Chức năng thực hiện việc cấu tạo hội, từ đó
làm tăng độ ổn định của hội, cung cấp và trang bị cho hội những phương tiện kỹ
năng cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên. Chính thế, không thể tách biệt các
thành tố của hệ thống văn hoá bởi chúng tồn tại trong sự gắn hữu cơ, cấu tạo thành nền
tảng của xã hội.
Đặc trưng bản thứ hai của văn hoá chínhtính giá trị. Cụm từ văn hoá thường
được hiểu theo khía cạnh là những điều tốt đẹp, có giá trị và bền vững. Người có văn hoá
5
PGS.VS Trần Ngọc Thêm (ch biên), sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999
6
cũng chính người giá trị. Chính thế văn hoá thường được coi chuẩn mực,
thước đo giá trị vđẹp của mỗi con người. Về bản, bản thân chủ thể văn hoá cũng
mang trong mình những gtrị vật chất cả những giá trị tinh thần. Đứng trên nhiều góc
độ và quan điểm thể xét tính giá trị của văn hoá trên nhiều bình diện khác nhau. Về ý
nghĩa, văn hoá thể bao gồm giá trị sdụng, giá trị đạo đức giá trị thẩm mỹ. Trên
bình diện thời gian, văn hoá thể phân chia thành gtrị nhất thời hay gtrị vĩnh cửu.
Nhờ thế mà, văn hoá thực hiện được chức năng điều chỉnh xã hội. Văn hoá duy trì trạng
thái cân bằng động, luôn khả năng thay đổi vận động, linh hoạt trong thích ứng với
sự biến đổi của môi trường một cách phù hợp, không ngừng tự hoàn thiện, giúp định
hướng các chuẩn mực, làm bàn đạp cho sự phát triển của xã hội.
Văn hoá còn tồn tại tính nhân sinh. Văn hoá sản phẩm tự nhiên do con người
sáng tạo ra, thành quả tất yếu của hội. Chính vì thế, tính nhân sinh của văn hoá
giải rằng văn hoá được coi như một hiện tượng của hội. Văn hoá chịu tác động vật
chất của con người được biểu hiện qua việc con người tác động vào tự nhiên (đẽo gỗ,
luyện quặng, làm muối,…) hoặc tác động tinh thần (như việc đặt tên, sáng tạo truyền
thuyết cho cảnh quan thiên nhiên,…). Từ đó, văn hoá thực hiện chức năng tiếp theo, đó
chức năng giao tiếp. Văn hoá trở thành sự kết nối quan trọng giữa con người con người
ngôn ngữ chính phương tiện để biểu đạt nội dung văn hoá (thể hiện qua hình thức
truyền miệng các truyền thuyết về cảnh quan thiên nhiên…).
Đặc trưng còn lại của văn hoá chính tính lịch sử. Bởi văn hoá phản ánh quá
trình sáng tạo của con người trong một không gian thời gian nhất định, tạo thành cả
một quá trình và tích luỹ qua nhiều thế hệ vi văn minh như một sản phẩm cuối cùng.
Chính vì thế thể coi văn hoá mối gắn chặt chẽ mật thiết với thời gian, với
lịch sử thậm chí văn hoá thể chứa đựng, bao m lịch sử. Đặc trưng đó tạo thành
nền văn hoá có bề dày và chiều sâu, độ ổn định, tồn tại hệ giá trị. Và khi tính lịch sử
được duy trì trong văn hoá thì khiến văn hoá trở thành truyền thống văn hoá. Những giá
trị được tích luỹ tái tạo trong cộng đồng người, trải qua không gian thời gian, được
đúc kết thành khuôn mẫu hội được cố định hoá dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tính lịch sử của văn hoá cũng chính sở để văn hoá thực hiện chức năng giáo dục.
Văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách con người định
hướng con người theo những giá trị tốt đẹp đạo đức thông qua việc thực hiện hệ
thống chuẩn mực đạo đức dựa trên những giá trị truyền thống, tính ổn định và cả
những giá trị mới hình thành.
Những đặc trưng những chức năng trên của văn hoá một cách bản đã góp
phần làm thêm khái niệm về văn hoá, giúp chúng ta cái nhìn khái quát nhất vmột
hình thái ý thức hội vai trò cùng quan trọng trong hội đời sống con người.
7
Văn hoá cũng chính sở để hình thành nên pháp luật, thiết chế vai trò thiết yếu
trong việc quản lí và điều hành mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
2.1.2. Pháp luật
2.1.2.1. Định nghĩa pháp luật
Bên cạnh văn hoá thì pháp luật cũng không phải một khái niệm mà thể dễ
dàng định nghĩa. Pháp luật cũng chính thành quả của duy con người, hình thành từ
khi hình nhà nước xuất hiện. Đây một khái niệm phức tạp, cũng đồng thời thường
được đánh giá, quan sát dựa trên nhiều góc độ và bình diện khác nhau. mỗi thời đại
khác nhau, mỗi khu vực khác nhau trên thế giới, pháp luật lại được nhận thức một cách
khác nhau, những vấn đề liên quan từ bản chất, nguồn gốc, vai trò,cho đến phạm vi
điều chỉnh của pháp luật cũng có những sự khác biệt nhất định.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước pháp luật, thể xác
định pháp luật đã xuất hiện từ thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ - hình thái hội đầu tiên
trong lịch sloài người, khi con người sống thành tập thể, thành cộng đồng. Mặc từ
thuở khai và nguyên thủy, chế độ này chưa cho thấy những dấu hiệu về sự tồn tại của
thiết chế nhà nước, sự phân chia các giai cấp tầng lớp hay pháp luật nhưng hình hội
này chính tiền đề, là cơ sở căn bản cho sự hình thành của pháp luật. Do nhu cầu chung,
các mối quan hệ hội giữa người với người bắt đầu được điều chỉnh bằng các quy tắc
đạo đức, các phong tục, và quy tắc tôn giáo.
Khi sở hữu nhân xuất hiện trong hội, các mối quan hệ hội dần thay đổi,
bắt đầu ra đời các tầng lớp phân chia giai cấp, sự phân chia giàu nghèo, những mâu
thuẫn đối kháng dần nảy sinh, thì đó cũng là lúc hình thái hội bắt đầu thay đổi, đạt đến
một giai đoạn phát triển nhất định. Những tập quán, tín điều, tôn giáo,… không còn khả
năng để duy trì trật tự quản hội bởi sbất đồng về ý chí, lợi ích giữa các thành
viên trong hội, giữa các tầng lớp, giai cấp với nhau. hội ấy đòi hỏi việc thực hiện
các quy tắc xử sự chung tính bắt buộc và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực
tính cưỡng chế đối với các thành viên trong hội; đòi hỏi sự xuất hiện của một tổ
chức chính trị quyền lực đặc biệt bộ máy cưỡng chế để thể đảm bảo cho các quy tắc
xử sự đó được thực hiện.
Đó những dẫn chứng để có thể khẳng định rằng, sự ra đời phát triển của pháp
luật cũng gắn và song hành cùng sự ra đời và phát triển của các kiểu nhà nước. Và nhà
nước quyết định sự tồn tại của pháp luật.
phương Đông, tiêu biểu Trung Quốc, hội chiếm hữu lệ thời cổ đại
đã tồn tại nhiều cuộc tranh đấu rất quyết liệt về cách thức trị nước, an dân giữa các trường
phái chính trị - xã hội khác nhau. Nhiều phương thức cai trị xã hội, quản nhà nước được
các nhà tưởng theo đuổi. Phổ biến nổi bật hơn cả tưởng Nho giáo của Khổng
8
Tử sáng lập với chủ trương nhân trị, lễ trị, lễ, nhạc,… Thuyết giáo của Khổng Tử tác
dụng vô cùng sâu sắc tính khái quát cao, vừa tính cụ thể hoá, vừa công cụ,
tính chính danh, biện pháp hữu hiệu để rèn đạo đức nhân văn con người, tạo ra trật
tự trong các quan hệ giữa gia đình hội. Là một học thuyết được xây dựng từ thời
đầu của đất nước Trung Hoa nhưng Nho giáo đã được coi một hệ tư tưởng kéo dài suốt
hơn 2000 năm lịch sử cai trị của giai cấp thống trị nhằm củng cố quyền lực địa vị của
mình.
Hàn Phi Tử, một đại biểu của trường phái Pháp gia, đại diện cho lợi ích của giai
cấp địa chủ mi lên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã phát triển tư tưởng Pháp trị lên
đến đỉnh cao. Ông coi pháp luật sở duy nhất để quản hội, tưởng này cũng
đánh dấu sự hình thành của pháp luật một cách thực nghĩa trong hội Trung Quốc thời
điểm đó.
“Lễ cái biên soạn thành sách đặt nơi công đường và nói cùng trăm họ... cho nên bậc
minh chúa nói pháp luật thì mọi kẻ hèn kém trong nước, không ai không nghe thấy”.
Theo Hàn Phi Tử, pháp luật phải thành văn, phải tính công khai, minh bạch tất c
mọi người đều thể tiếp cận được chấp hành, tuân thủ. Ni cầm quyền phải ưu tiên
sử dụng pháp luật, không thể cứ mãi dựa vào lễ, nhạc để quản lí và điều hành xã hội.
Còn Phương Tây, quan niệm về pháp luật được đánh giá tương đối phức tạp,
phần sâu sắc n vì dựa trên sở của duy triết học, tính khách quan, duy được
ưu tiên trong bầu không khí dân chủ tương đối cao. Pháp luật phương Tây chủ yếu gắn
liền với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp La Mã. Tính tối cao của đạo luật, tính
hợp trong tổ chức bộ máy nhà nước được coi trọng coi tối cao. Platon, nhà triết
học người Hy Lạp cổ đại cho rằng: Nếu pháp luật không sức mạnh, bị đặt dưới quyền
lực của ai đó thì nhà nước sẽ diệt vong. Còn với Aristoteles, nhà bác học đại thời cổ đại
khẳng định: Bất kỳ Nhà nước nào cũng phải ba bộ phận: quan làm luật, quan
thực hành pháp luật, cơ quan toà án xét xử.
Hiện nay, không ít những định nghĩa vpháp luật dưới góc độ là pháp luật thực
định. Tuy nhiên, điểm chung của những định nghĩa đó đều thể hiện quan niệm về pháp
luật bản một loại quy tắc xử sự của con người, một loại chuẩn mực hội , tồn tại
những điểm khác biệt so với các loại chuẩn mực hội khác như phong tục tập quán hay
đạo đức,… Nhìn chung, có thể khái quát quan niệm vpháp luật thành một khái niệm:
Pháp luật hệ thống quy tắc xử schung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ hội theo mục đích, định hướng của nhà
nước.
6
2.1.2.2. Những đặc trưng bn và vai trò của pháp luật
6
Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên), Giáo trình luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB pháp, 2020, tr.212
9
Trên sở quan niệm về pháp luật, thể khái quát một sđặc trưng bn của
pháp luật như:
Tính quyền lực nhà ớc:
Đây một đặc điểm mà chỉ riêng pháp luật có, thực hiện việc tổ chức và quản lí các mặt
của đời sống hội. Thường những quy định pháp luật do nhà nước đặt ra hoặc dựa trên
việc thừa nhận các quy tắc xử sự sẵn trong hội. Bên cạnh đó, pháp luật chính
công cụ thể hiện ý chí của nhà nước, quy định những điều công dân được m và không
được làm, bắt buộc thực hiện hoặc cấm…Với quyền lực của mình, nhà nước thể sử
dụng nhiều biện pháp khác nhau yêu cầu các tổ chức, nhân nghiêm chỉnh thực hiện
chấp hành pháp luật.
Tính quy phạm phổ biến
Các quy định của pháp luật chính khuôn mẫu, chuẩn mực để mọi người tuân thủ và
thực hiện theo, giúp định hướng nhận thức hành vi con người. Phạm vi tác động của
pháp luật cùng rộng lớn, khuôn mẫu ứng xử cho mọi nhân tổ chức; điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội và tác động đến mọi khu vực của đất nước.
Tính hệ thống
Bản chất pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự, các nguyên tắc, các bộ và điều luật
giá trị yêu cầu thực hiện. Các quy định của pháp luật không tồn tại một cách riêng lẻ
biệt lập mà luôn mối liên kết chặt chẽ, khăng khít, tạo thành một chỉnh thể hoàn thiện,
thống nhất.
Tính xác định về hình thức
Pháp luật biểu đạt cụ thể qua các hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp hay
c văn bản quy phạm pháp luật. Các quy định của pháp luật cũng được thể hiện dạng
thành văn, được xác định cụ thể, rõ ràng, tường minh, dễ hiểu để có thể tiếp cận với tất cả
mọi người, mọi thành phần trong xã hội.
Về vai trò, thể xem xét dựa trên nhiều góc độ khía cạnh khác nhau, đặt trong
các mối quan hệ cụ thể. Đối vớihội, pháp luật điều tiết định hướng sự phát triển của
các quan hệ hội, sở để bảo đảm an toàn hội, sở để giải quyết các tranh
chấp trong hội, phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, là phương tiện bảo
đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ hội; đảm bảo sự phát triển bền vững của
hội vai trò giáo dục con người. Đối vi lực lượng cầm quyền, pháp luật thể chế
hoá chủ trương, đường lối, chỉnh sách của lực lượng cầm quyền khí chính trị của
10
lực lượng cầm quyền để chống lại sự phản kháng chổng đối trong hội. Đối vi nhà
nước, pháp luật công cụ bảo vệ nhà nước, bảo đảm an toàn cho các nhân viên nhà nước,
công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước cũng đồng thời công cụ để nhà nước tổ
chức quản mọi mặt của đời sống hội. Còn đối với các công cụ điều chỉnh khác,
pháp luật thể dung hợp trong chúng những quy tắc nhất định trong các thể chế phi quan
phương và đồng thời sự ghi nhận thành pháp luật còn tác dụng tạo điều kiện cho sự tồn
tại, giữ gìn và phát huy vai trò của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2.2. Phânch
2.2.1. Văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật
Để làm ý này, cần phải hiểu phổ rộng gì. được hiểu sự phổ biến rộng
rãi, tính chất khái quát cao tính hàm chứa lớn. Nói Văn hoá chính phổ rộng lớn
nhất của pháp luật để khẳng định rằng, văn hoá sự phổ biến rộng rãi nhất của pháp
luật, văn hoá thể bao chứa pháp luật khả năng điều chỉnh pháp luật. Câu này đã
phản ánh được mối quan hệ và sức ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật.
Vậy tại sao Văn hoá phổ rộng lớn nhất của pháp luật?
2.2.1.1. Trước hết, văn hoá một sản phẩm của tự do tính bao
quát lớn nhất.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhấn mnh rằng: Nói tới văn hoá nói tới
một lĩnh vực cùng phong phú rộng lớn, bao gồm tất cả những không phải thiên
nhiên liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử…”. Quả thực văn hoá một phạm trù cùng rộng lớn và
sức khái quát cao, sự hiện thân và thâu m toàn bộ đời sống hàng ngày của con người
gắn với con người theo suốt quá trình lịch sử. Quá trình hình thành văn hoá một
quá trình tự nhiên khác quan. tính tự do đã làm cho văn hoá trở nên đa dạng đa
sắc màu, góp phần làm cho gtrị con người thêm phát triển. Văn hoá hiện diện mọi nơi,
mọi lúc trong đời sống con người, trong mọi hành vi, mọi hoạt động của nhân, của tập
thể, không phân biệt bất cứ ai, bất cứ thời điểm nào. Chính vì thế điều đó làm nên tính tự
do, sự đa dạng tự nhiên của văn hoá. Đó chất xúc tác cho văn hoá, làm cho đời sống
con người phát triển. Chúng ta cũng hiểu rằng, bản chất tự do và đa dạng của văn hoá
cũng chính bản chất của cuộc sống, muôn hình vạn trạng và khác biệt. Đó chính cầu
nối để kết luận rằng văn hoá chính cuộc sống, văn hđi ra từ cuộc sống. Giống như
một thói quen ăn uống cũng trở thành một văn hoá ẩm thực riêng biệt; một món ăn chỉ
thể được tạo ra từ một vùng đất, được lưu truyền qua bao thế hệ những con người cùng
sinh sống đó, gọi là đặc sản, cũng được coi là một nét văn hoá của vùng đất đó. Một ngày
hội như Hội Lim nơi những liền anh liền chị trao nhau những câu ca Quan họ thường
chỉ được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng hàng m tại vùng đất Bắc Ninh, thì đó được
11
coi truyền thống văn hoá của tỉnh Bắc Ninh… Tính tự do trong văn hoá cũng phản ánh
cả tính xung đột tính hoà hp. Bởi sự đa dạng và tự nhiên trong văn hoá và đời sống sẽ
tạo ra những sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khuynh hướng của đời sống và văn hoá,
những khuynh hướng do chính con người sáng tạo ra trong chính sự tự do của bản thân
mình. Để được một nền văn hoá lành mạnh thì những khuynh hướng khả năng tạo
ra những giá trị tốt đẹp cho xã hội, giúp đời sống phát triển đi lên thì sẽ tồn tại trường tồn,
trên cách sản phẩm tự do. Trong môi trường sự bình đẳng giữa các khuynh
hướng, con người cũng sẽ tự do về nhận thức và đi đến thoả thuận.
tự do cũng chính tinh thần chung của pháp luật. Đối với pháp luật, tinh
thần tự do là vô cùng quan trọng. Bởi nếu không tdo thì con người không thể nhận
thức được cuộc sống, sẽ không thể đi đến những thoả thuận vốn được coi những “khế
ước hội” từ thời kỳ Khai sáng. Những thoả thuận của pháp luật vốn cần những người
đủ nhận thức trước sự phức tạp của cuộc sống để tham gia vào quá trình thoả thuận đó,
đi đến những quyết định cuối cùng, thống nhất với nhau để tạo dựng thành hệ thống quy
tắc cuộc sống, đồng thời nơi người ta hy sinh những quyền tự do bản năng của mình
tạo ra những quyền tự do mang tính tự giác. Và nếu như con người không có đủ tự do, họ
sẽ trở nên vụng về tỏ ra thiếu kinh nghiệm khi thoả thuận, kết quả trở thành kthua
thiệt giữa những thoả thuận. lúc này, không khác pháp luật như trở thành một sự áp
đặt vô hình, ép buộc mọi người phải tuân thủ, hạn chế sự tự do của con người.
Bên cạnh đó, khi khẳng định rằng pháp luật bước ra từ đời sống, điều đó đồng
nghĩa với việc pháp luật cũng phải mang tính đa dạng, đa chiều tự do của cuộc sống.
nếu pháp luật thiếu đi điều đó thì pháp luật không thể nào tương thích vi con người.
Hơn nữa, cuộc sống và văn hoá vốn những điều luôn gắn song hành với nhau,
mang theo nhiều điểm tương đồng và rộng hơn pháp luật. Chính thế, không một hệ
thống pháp luật nào ngoài văn hóa đủ năng lực điều chỉnh tất cả các tình huống của
cuộc sống; chứng minh cho ta thấy mối liên hệ giữa văn hoá, đời sống pháp luật
cùng chặt chẽ và gắn bó.
2.2.1.2. Văn hoá đi ra từ cuộc sống, sức ảnh hưởng to lớn đến con
người
Nhìn chung, văn hoá hình thành từ sự tích luỹ kinh nghiệm sống của cả một cộng
đồng, một tập thể, một dân tộc, mang tính tự nhiên, tất yếu. Do vậy, thể khẳng định
rằng, văn hoá xuất phát từ đời sống nhân dân, đời sống con người. Bởi thế văn hoá
một cách tất yếu sức nặng, thể tác động mạnh mđến cuộc sống. Văn hoá hiện hữu
dưới nhiều phương thức, nhiều trạng thái bằng nhiều cách khác nhau trong cuộc sống
hàng ngày. Văn hoá thể vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, di sản
văn hóa, những sản phẩm văn hóa: kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...), thể phi vật
thể (ca dao, dân ca, vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng
12
miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). văn hoá cũng đạo đức, tính cách con người
(phép lịch sự, lòng nhân đạo, lòng hiếu thảo, đức hy sinh, lòng yêu nước,…). Văn hoá
chính một hiện tượng hội, phản ánh trình độ duy, trình độ phát triển của hội
loài người. Trong mối quan hệ với pháp luật, giữa văn hoá và pháp luật điểm chung
đều hướng đến hạnh phúc con người, tuy nhiên cũng tồn tại những điểm khác biệt. Nếu
như văn hoá thường mang tính định hướng, giáo dục, nhắc nhở khuyên n con người
thì pháp luật, được xây dựng trên nền tảng và những giá trị chung của văn hoá, lại có tính
bắt buộc mọi người phải tuân theo chấp nh nghiêm chỉnh. Luật pháp mang tính xác
định chặt chẽ về mặt hình thức, được nhà nước đặt ra bảo vệ. Trong mối quan hệ với
văn hoá, pháp luật vai trò hỗ trợ lẫn nhau, củng cố phát triển văn hoá. Một đặc trưng
khác của luật pháp thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nơi hội cần pháp luật như
một công cụ điều chỉnh hành vi con người. Tuy nhiên, thực tế đã phn ánh rằng, con
người xu hướng chịu sự điều chỉnh của văn hoá nhiều hơn pháp luật. Điều này
được giải bởi con người vốn hành động theo bản năng, theo thói quen, theo phong
tục, tập quán, những điều vốn cấu thành văn hoá. Ngay cả khi pháp luật được sử dụng
nhằm áp đặt hành vi con người thì con người vẫn hành động theo thói quen kinh
nghiệm n hoá của bản thân. thể khẳng định văn hoá và con người mối quan hệ
biện chứng văn hoá thực sự sức ảnh hưởng không hề nhỏ đến đời sống con người
cả pháp luật.
2.2.2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa
Như đã được giải, chính bởi sự gắn chặt chẽ giữa văn hoá đời sống con
người, nên văn hoá trở thành nền tảng, sở để xây dựng pháp luật. Chính thế, tồn
tại sở để khẳng định Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn
hóa.
2.2.2.1. Văn hoá nguồn của pháp luật
thể nói phong tục, tập quán những bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ
thống văn hoá. Dưới dạng quy phạm hội, thể hiểu phong tục, tập quán: những
cách ứng xử hay những thói quen ứng xử hoặc những quy tắc xử sự chung được hình
thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân nhất định, được bảo đảm thực
hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng luận hội thể
bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi nhà ớc. Các phong tục, tập quán thường
phản ánh điểm nhìn của một cộng đồng dân tộc về thế giới quan hay vũ trụ duy trì
những quy tắc ứng xử, những thói quen xử sự trong cộng đồng; tính chất lặp đi lặp lại
nhiều lần tạo thành nếp sống, nếp nghĩ. Chính thế có thể coi phong tục, tập quán
chính những kinh nghiệm n hoá. Chính các phong tục, tập quán đã góp phần hình
thành nên những nét truyền thống văn hoá, những nét đặc thù, bản sắc của các cộng đồng,
dân tộc. Ở Việt Nam, các phong tục, tập quán thường được biểu hiện cụ thể ở từng thôn,
13
làng, bản,.. trở thành lệ làng, hương ước. Bên cạnh đó, các phong tục, tập quán hình hình
thành trên nền tảng của tâm hội và ý thức hệ của dân tộc, tạo nên sự gắn kết bền chặt
giữa nhân cộng đồng trong tính thống nhất phổ biến. Những tác động về nhận
thức, sự ràng buộc của các luật tục, phong tục, tập quán đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy
nghĩ và hành vi mỗi con người. Từ đó hình thành tâm hội cộng đồng chuyển hoá
thành ý thức hệ của một dân tộc, gọi là tư tưởng.
nước ta, thể thấy trình độ phát triển phân bố giữa các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước không đồng đều những sự chênh lệch nhất định về đời sống
văn hoá. Chính vì do đó, không phải các quy phạm pháp luật mang tính khái quát hoá
cao cũng có thể phù hợp để điều chỉnh một ch chính xác, thoả đáng những vấn đề pháp
mang đặc tính vùng miền và địa phương. Do vậy, mỗi một cộng đồng làng cụ thể
luôn cần đến các quy định cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện cho mọi thành viên trong
làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức phát triển của mỗi làng, cụ thể.
7
đặt ra
nhu cầu tất yếu phải áp dụng tập quán để hỗ trợ cho việc phát triển hệ thống pháp
luật quản lí xã hội.
Chúng ta hiểu rằng, cuộc sống luôn vận hành một cách phức tạp và không thể đoán
định, mọi vấn đề phát sinh thường nằm ngoài tầm kiểm soát bản thân pháp luật không
thể khả năng toàn diện để thể điều chỉnh các vấn đề đó một cách luôn hiệu quả
trơn tru. Các nhà làm luật và nghiên cứu luật pháp sẽ không thể dự liệu được các tình
huống pháp thể phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sốnghội, không thể “luật hoá”
mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời sống. Do vậy sẽ luôn trường hợp không sdụng pháp
luật thành văn để áp dụng xử các tình huống xảy ra trên thực tiễn. Đây thường thời
điểm con nời sử dụng bản năng nhân, những thói quen, các giá trị đạo đức của cộng
đồng để ứng xử, đó chính các phong tục, tập quán, vốn thường cùng phong phú
đa dạng; với chế điều chỉnh linh hoạt, mềm dẻo, thích nghi được với các điều kiện
hội sẽ nguồn hỗ trợ, bổ sung hiệu quđể hoàn thiện pháp luật, góp phần điều chỉnh
các quan hệ xã hội nói chung.
Ngược lại, pháp luật cũng những tác động mạnh mđến những phong tục,
tập quán, luật tục. Bởi phong tục tập quán thể vừa nguồn nội dung, vừa
nguồn hình thức của pháp luật. Những phong tục, tập quán truyền thống tiến bộ, mang
những giá trị tốt đẹp, phù hợp với ý chí Nhà nước, sẽ được Nhà nước thừa nhận trở
thành nguồn nội dung của pháp luật. dụ như nhà nước đã thừa nhận phong tục Tết
Nguyên Đán, Giỗ Tổ Hùng Vương thông qua việc nhà nước đảm bảo thực hiện trên toàn
bộ cả nước, những quy định cụ thể về việc cho phép người lao động, cán bộ, công
chức, học sinh, sinh viên,… được nghỉ lao động, nghỉ học vào những ngày này. Hoặc trên
một số lĩnh vực khác như các quan niệm đạo đức chính thống, những giá trị đạo đức
7
PGS.TS. Minh Thông, Ban Tổ chức Trung ương, Luật nước hương ước lệ làng trong đời sống pháp của
các cộng đồng làng xã Việt Nam, tr.3
14
truyền thống tốt đẹp của dân tộc vốn được gìn giữ qua nhiều thế hệ cũng thể trở thành
nguồn nội dung của pháp luật. Căn cứ trên các quy định của pháp luật về quyền nghĩa
vụ trong các mối quan hệ hội như giữa cha mẹ con cái trong gia đình, Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
Điều 69. Nghĩa vụ quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát
triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,
công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với con trên sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân
của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không khả năng lao động; không được xúi
giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Điều 70. Quyền nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân
thân tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập giáo dục; được phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
2. bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn
danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
khả năng lao động không tài sản để tnuôi mình thì quyền sống chung với cha
mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi không trái với
quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4. Con đã thành niên quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi trú, học tập, nâng cao
trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa,
hội theo nguyện vọng khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con nghĩa
vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống
15
chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp
với khả năng của mình.
Những điều khoản được quy định ràng đó cũng xuất phát trên sở từ những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp về gia đình của dân tộc ta, vốn tồn tại trong hội, như tình
yêu thương con cái, lòng hiếu thảo, yêu kính cha mẹ,… Đó chính sự thể chế hoá các
quan niệm đạo đức truyền thống, thừa nhận các nguyên tắc đạo đức thịnh hành trong
hội. Đối với trường hợp phong tục, tập quán nguồn hình thức của pháp luật, Nhà nước
ta thừa nhận việc áp dụng một số tập quán trong một số bộ và điều luật. Điều 3 trong Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định:
Điều 3. Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật
Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không thoả thuận thì có thể áp
dụng tập quán; nếu không tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập
quán quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định
trong Bộ luật này.
Hay trong Khoản 1, Điều 7, Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014 quy định:
Điều 7. Áp dụng tập quán về hôn nhân gia đình
1. Trong trường hợp pháp luật không quy định các bên không thỏa thuận thì tập
quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại
Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng.
Phong tục, tập quán chính những chất liệu quý để hoàn thiện một nền pháp luật
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và những giá trị tốt đẹp các phong tục, tập quán để
lại vẫn luôn những mạch ngầm ẩn dưới tầng sâu của văn hoá dân tộc không hề dứt.
bởi nhân dân Việt Nam luôn tinh thần trân trọng gìn giữ những g trị văn hoá
truyền thống tốt đẹp một cách bền vững trường tồn, sự mai một gần như hạn chế. Đó
chính ưu điểm quan trọng, điều kiện cần để đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng
tập quán.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải tất cả các phong tục, tập quán đều tốt đẹp
luôn thể áp dụng vào trong pháp luật. Sẽ tồn tại cả những phong tục, tập quán lạc
hậu, cổ hủ, không tiến bộ khiến Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để u cầu loại bỏ, bài trừ những hủ tục đó ra khỏi xã hội. dụ như Nhà
nước đã cấm người dân buôn bán, tàng trữ sử dụng trái phép pháo nổ bởi sự không an
toàn và sự lãng phí gây ra, loại bỏ tục đốt pháo ra khỏi hội. Hay các hủ tục như
thách cưới của một số đồng bào dân tộc thiểu số trái với ý chí của Nhà nước cũng được
loại trừ bằng quy định Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định tại điểm b, khoản
1, điều 8, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
2.2.2.2. Tập quán pháp
16
Những luận giải về văn hoá với vai trò nguồn của pháp luật cũng đã phần nào
thể hiện vtập quán pháp, một hình thức cụ thể về nguồn của pháp luật liên quan đến văn
hoá. Về bản, tập quán pháp được hiểu : Những tập quán của cộng đồng được nhà
nước thùa nhận, nâng lên thành pháp luật.
8
Tập quán pháp vừa một loại nguồn của pháp luật vừa nh thức thể hiện của
pháp luật trên thực tế. Trong tập quán pháp bao gm nội dung của các tập quán vai trò
những kinh nghiệm văn hoá được nâng lên thành pháp luật, đồng nghĩa với việc các tập
quán đó trnên gtrị pháp lí. Khi một tập quán được thừa nhận tập quán pháp, tập
quán đó sẽ trở nên ý nghĩa bắt buộc mang tính cưỡng chế bởi nhà nước không chỉ
chấp nhận sự tồn tại của tập quán đó còn áp dụng quyền lực cưỡng chế vào trong tập
quán. Nhà nước chỉ thừa nhận những tập quán lành mạnh, giá trị đạo đức, giá trị
tinh thần tích cực. Tập quán pháp có vai trò điều chỉnh các hành vi sai lệch trái với chuẩn
mực nhằm tạo lập hội phát triển ổn định lành mạnh. Áp dụng tập quán một trong
những cách thức phổ biến để khắc phục một thực trạng hiện nay trong các văn bản quy
phạm pháp luật không quy phạm điều chỉnh hết các quan hệ hội, góp phần giải
quyết tạm thời tình trạng bế tắc khi giải quyết vviệc dân sự và là cơ sở để quan chức
năng có thẩm quyền xem xét để hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Sự tồn tại của tập quán pháp ý nghĩa quan trọng đối với cả nhà nước hội.
Đối với nhà nước, tập quán pháp vai trò quan trọng cấu thành hệ thống pháp luật quốc
gia, góp phần đáp ứng nhu cầu quản của nhà nước. Việc áp dụng tập quán thành các
quy phạm pháp luật giúp quy định được tăng tính thực tế và mức độ khả thi trong việc áp
dụng vào đời sống, giúp pháp luật trở nên tương thích n với hội khiến cho vai trò
quản của nhà nhà nước được mở rộng, tiếp cận được với đời sống hội và tất cả nhân
dân. Đối với hội, sự thừa nhận tập quán pháp của nhà nước mang ý nghĩa thể hiện sự
chấp thuận của nhà nước đối với một thói quen ứng xử của cộng đồng. Rộng hơn, điều
này mang ý nghĩa cho sự thống nhất ý chí giữa nhà nước vi cộng đồng, giữa những nhà
quản lí và nhân dân. Đồng thời, thừa nhận tập quán pháp cũng là cách để duy trì sự tồn tại
phát triển của một phong tục tập quán tốt đẹp cho hội, cho nhân dân, góp phần làm
rõ nét bản sắc văn hoá, nâng cao giá trị con người trong xã hội.
nhiều phương thức để thề hiện việc thừa nhận sự tồn tại của tập quán pháp
trong hệ thống pháp luật. Trong đó thể bao gm: liệt kê danh mục các tập quán được
nhà nước thừa nhận; viện dẫn tập quán trong pháp luật thành văn; hay áp dụng tập quán
để giải quyết các vụ việc phát sinh trong thực tiễn… Điều đó đồng nghĩa với việc tập
quán thể được tạo ra từ cả quan lập pháp cả hoạt động xét xử của quan
pháp.
8
Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên), Giáo trình luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB pháp, 2020, tr.286
17
Tuy nhiên, nhìn chung tập quán pháp chỉ được coi nguồn thyếu của pháp luật
Việt Nam bởi các quy định củachủ yếu tồn tại dưới dạng bất thành văn nên thường chỉ
được hiểu một cách ước lệ, thiếu ràng, cụ thể, khó bảo đảm cho việc hiểu áp dụng
thống nhất trong phạm vi rộng. Do đó, khi pháp luật thành văn ngày càng phát triển
trở nên phổ biến thì tập quán pháp cũng theo đó bị thu hẹp phạm vi sử dụng. Hiện nay,
tập quán pháp thường đóng vai trò nguồn bổ sung cho các quy phạm pháp luật. nhiều
nước trên thế giới, trong hệ thống pháp luật của mình cũng quy định cụ thể vthứ tự áp
dụng các loại nguồn của pháp luật.
Trong Bộ luật Dân sự 2015 cũng một số quy định về việc áp dụng tập quán
pháp. Cụ thể Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giải thích giao dịch dân
sự như sau:
Điều 121. Giải thích giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự nội dung không ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân
sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán i giao dịch được xác lập.
Theo đó trong trường hợp giao dịch dân sự có nội dung không ràng, khiểu, được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau không thuộc quy định tại khoản 2 Điều 121, đồng thời
không thể giải thích dân sự theo các điểm a b của khoản 1 thì tập quán của nơi phát
sinh giao dịch dân sự mới sự lựa chọn cuối cùng để giải thích giao dịch dân s(tức
điểm c, khoản 1).
Khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc xác định ranh giới giữa các bất
động sản như sau:
Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản
1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30
năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới kênh,
mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.
18
Theo quy định, ranh giới giữa các bất động sản liền kề thể được xác định theo tập quán
hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên không tranh chấp, lúc này, tập quán
áp dụng để xác định ranh giới tồn tại từ trên 30 năm không phát sinh tranh chấp sẽ tập
quán pháp.
3. KẾT LUẬN
thể khẳng định rằng văn hoá và pháp luật đều hai phạm trù rộng lớn, mang
tính trừu tượng mức độ khái quát hoá cao. Tuy nhiên, những biểu hiện đặc
trưng của chúng lại vốn rất quen thuộc gắn chặt chẽ vi đời sống con người. n
hoá sinh ra từ cuộc sống, văn hoá xuất phát từ nhân dân, sản phẩm của văn minh con
người. Pháp luật quy tắc xử sự chung của cộng đồng, phải bắt nguồn từ đời sống nhân
dân. Hai khái niệm tưởng như đối lập về tính chất, vai trò nhưng trên thực tế lại sức
bao chứa, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó Văn hoá phổ rộng lớn nhất của pháp luật.
Văn hoá nền tảng, căn bản để pháp luật hình thành phát triển, sao cho thể
tương thích với con người, tương thích với hội gần gũi với cuộc sống. Giữa cả hai
phạm trù, đều mang tinh thần tự do chung, chứa đựng tính đa dạng phong phú, đa
chiều. Đồng thời, văn hoá đi ra từ cuộc sống, sức ảnh hưởng to lớn tới cuộc sống, và
con người xu hướng chịu sự điều chỉnh của văn hoá nhiều hơn pháp luật. Mặt khác,
thể khẳng định rằng, Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa
bởi văn hoá được coi nguồn của pháp luật, biểu hiện qua những phong tục, tập
quán mang đặc trưng của mỗi cộng đồng, mỗi vùng miền của đất nước. Các phong tục
tập quán vốn tự thân đã những quy tắc, những luật lệ được mỗi cộng đồng, mỗi dân
tộc đặt ra nhằm định hướng, điều chỉnh đạo đức và hành vi cho mỗi nhân, trên sở
tương đồng đó, việc áp dụng tập quán vào pháp luật sẽ giúp nhà nước quản hội,
quản cộng đồng, quản nhân dân một cách chặt chẽ, mở rộng hơn về phạm vi. Hơn
nữa, n hoá thể tác động mạnh mẽ đến pháp luật ngược lại bởi văn hoá vừa thể
nguồn nội dung, vừa thể nguồn hình thức của pháp luật. Bên cạnh đó, tập quán
pháp thể được coi đại diện tiêu biểu để chứng minh rằng Pháp luật được xây dựng
dựa trên những kinh nghiệm văn hóa bởi đó vừa nguồn, vừa hình thức thể hiện của
pháp luật trên thực tế, vai trò điều chỉnh các hành vi sai lệch trái với chuẩn mực nhằm
tạo lập hội phát triển ổn định lành mạnh, mang lại những ý nghĩa quan trọng đối
19

Preview text:


TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
MÔN VĂN HOÁ ĐẠI CƯƠNG ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH:
VĂN HÓA CHÍNH LÀ PHỔ RỘNG LỚN NHẤT CỦA PHÁP LUẬT
VÀ PHÁP LUẬT ĐƯỢC XÂY DỰNG DỰA TRÊN NHỮNG
KINH NGHIỆM VĂN HÓA”. Họ và tên sinh viên : Mã sinh viên : Lớp tín chỉ : Khoá : Giáo viên hướng dẫn : Hà Nội, tháng 2 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 3
1.1. Lí do chọn đề tài 3
1.2. Mục đích và nhiệm vụ 4
1.3. Phạm vi nghiên cứu 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu 4 2. NỘI DUNG 4
2.1. Cơ sở lý luận 4 2.1.1. Văn hoá 4
2.1.1.1. Định nghĩa văn hoá 4
2.1.1.2. Đặc trưng và chức năng của văn hoá 6 2.1.2. Pháp luật 8
2.1.2.1. Định nghĩa pháp luật 8
2.1.2.2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của pháp luật 9 2.2. Phân tích 11
2.2.1. Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật 11
2.2.1.1. Trước hết, văn hoá là một sản phẩm của tự do và có tính bao quát lớn nhất. 11
2.2.1.2. Văn hoá đi ra từ cuộc sống, có sức ảnh hưởng to lớn đến con người 12
2.2.2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa 13
2.2.2.1. Văn hoá là nguồn của pháp luật 13 2.2.2.2. Tập quán pháp 16 3. KẾT LUẬN 19
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 20 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
“CON NGƯỜI”- hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao!”
Nhà văn người Nga vĩ đại Maksim Gorky đã viết nên một câu văn đầy khái quát như vậy,
sau những trải nghiệm đắng cay của đời riêng và cuộc đời sáng tạo văn chương. Trên bình
diện triết học, chúng ta thấu hiểu sự vĩ đại của con người – sản phẩm tiến hoá của lịch sử.
Con người được hình thành từ con vượn sau hàng triệu năm chuyên sống bằng săn bắt và
hái lượm. Chính trong quá trình lao động dài lâu, con người ngày càng phát triển, hoàn
thiện về bộ não và cơ thể. Lao động đã tạo ra lịch sử con người; và đến lượt nó, con người
lại tạo ra lịch sử xã hội. Ông cũng từng nhấn mạnh rằng: Con người là kẻ mang trong
mình năng lực tổ chức thế giới, kẻ sáng tạo ra thiên niên kỷ thứ hai, sáng tạo ra văn
minh.
Những sự sáng tạo ấy, văn minh ấy bao gồm cả văn hoá và cả pháp luật, những
thành quả tất yếu của con người; những điều ấy song hành và gắn bó cùng thời gian, tạo
nên lịch sử xã hội. Và trong đó, văn hoá đã góp phần tạo nên một nền văn minh vĩ đại,
nâng cao trí thức và tư duy cho con người. Nhờ thế mà con người ít dần đi sự phụ thuộc
và nô lệ lẫn nhau. Còn pháp luật sinh ra để mang đến công bằng và trật tự xã hội. Hai
phạm trù này luôn song hành, gắn bó chặt chẽ, tạo thành mối liên kết không thể bị đứt
gãy. Đây là mối quan hệ có sức ảnh hưởng và tác động to lớn tới đời sống mỗi chúng ta.
Trên thực tế hiện nay, trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển, kinh tế thị trường
và hội nhập toàn cầu đang trở thành xu thế mới của thời đại, đem lại những lợi ích to lớn
nhưng cũng để lại những tác động tiêu cực không hề nhỏ với các vấn đề nghiêm trọng về
mặt xã hội như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, phân hoá giàu – nghèo, nguy cơ đảo
lộn và biến dạng thang giá trị truyền thống một cách gay gắt, lại càng đặt ra yêu cầu cho
dân tộc Việt Nam một thách thức: Làm sao để hoà nhập nhưng không hoà tan và yêu cầu
bức bách phải đấu tranh gìn giữ những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã
tồn tại qua bao thế hệ. Để làm được điều đó trước hết phải xuất phát từ việc xây dựng
được một hệ thống pháp luật nghiêm minh trong quản lí, phù hợp với xã hội, thích nghi
với thời cuộc và đặc biệt là phải có những nét đặc trưng của đất nước, con người Việt
Nam, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, hướng tới việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Trước những nhận định trên cho thấy việc nhận thức được tầm quan trọng của văn
hoá và pháp luật là hết sức cần thiết. Chính vì thế bài tiểu luận này sẽ đi sâu và tập trung
làm rõ mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật, phân tích và chứng minh nhận định Văn
hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp luật được xây dựng dựa trên
những kinh nghiệm văn hóa
nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, đồng thời cung cấp
những góc nhìn, quan điểm đa chiều, đa dạng về văn hoá và pháp luật. Đó chính là cơ sở
để mỗi người nói chung, mỗi sinh viên nói riêng có cái nhìn bao quát về văn hoá, về pháp 3
luật, thêm hiểu về vai trò của văn hoá pháp luật đối với đời sống và có thái độ đúng đắn
và ý thức nghiêm túc trong việc bảo vệ nền văn hoá dân tộc và phát triển pháp luật ngày
càng hoàn thiện và toàn diện hơn.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ
Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lí luận cơ bản về văn hoá và pháp luật. Trên
cơ sở đó xác định và làm rõ mối quan hệ giữa hai phạm trù này. Đồng thời tập trung đánh
giá và chứng minh nhận định Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp
luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa.
Và cuối cùng kết luận, đánh giá
tính chất của vấn đề và tác động của vấn đề đã đưa ra.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: kể từ khi văn hoá xuất hiện
Về không gian: Mọi địa điểm, khu vực có liên quan đến đề tài, chủ yếu tập trung vào Việt Nam.
Về nội dung: Mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật và cơ sở để xây dựng pháp luật.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thu thập và xử lý thông tin, phân
tích tài liệu, các phương pháp khái quát, phân tích, tổng hợp,… 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Văn hoá 2.1.1.1.
Định nghĩa văn hoá
Mặc dù ra đời cùng sự hình thành và phát triển của loài người, tuy nhiên văn hoá
vẫn chưa có thể có cho riêng mình một định nghĩa riêng biệt và cụ thể. Bởi đây là một
phạm trù rất rộng lớn, mang tính trừu tượng và mức độ khái quát hoá vô cùng sâu sắc. Do
vậy mà mà việc cụ thể hoá văn hoá như một khái niệm cụ thể, phản ánh toàn bộ chủ thể là
khó có thể thành hiện thực. Một số cá nhân và tổ chức có kinh nghiệm và trình độ am hiểu
nhất định về ngôn ngữ và đặc thù của lĩnh vực này đã định nghĩa văn hoá theo nhiều cách
khác nhau, mỗi định nghĩa phản ánh cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Tạo nên một
khái niệm đa chiều, đa sắc.
Edward Burnett Tylor (1832-1917), nhà nhân chủng học nổi tiếng người Anh được
coi là một trong số những lớp tiên phong định nghĩa về văn hoá. Trong công trình nghiên
cứu Văn hoá nguyên thuỷ (1871), ông đã đề cập: 4
Văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp
gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả
năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội.1

Định nghĩa này đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu khoa học viện dẫn như một
trong những định nghĩa mang tính kinh điển về chủ đề văn hoá, lý giải văn hoá là sự tổng
hoà của một tập hợp những thành quả sáng tạo của con người. Trong định nghĩa này, quan
niệm văn hoá đề cao vai trò của con người.
Từ sau công trình nghiên cứu mang tính “mở đường” cho việc lý giải quan niệm văn hoá
của E.B.Tylor, văn hoá ngày càng trở thành một vấn đề có tính chất hàn lâm cần được đào
sâu và nghiên cứu một cách hệ thống, bài bản. Cùng với đó là sự ra đời của một loạt các
định nghĩa khác nhau dựa trên những cơ sở, phương diện khác nhau như tính miêu tả, tính
lịch sử, tính chuẩn mực, tính chất tâm lý học, tính cấu trúc, tính nguồn gốc,… từ rất nhiều
các nhà nghiên cứu khoa học khác nhau. Kể từ năm 1952, hai nhà nhân loại học người Mĩ
là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê được tới 164 định nghĩa khác nhau về
văn hoá trong các công trình nổi tiếng thế giới.2
Năm 2002, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) cũng đã
đưa ra định nghĩa về văn hoá như sau:
Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá
trị, truyền thống và đức tin.3

Bên cạnh đó, ở nước ta cũng đã và đang tồn tại không ít định nghĩa về văn hoá, tiêu biểu
trong số đó có thể đề cập đến định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.4

Hay như nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm lý giải quan niệm văn hoá dựa trên 4 đặc trưng cơ bản:
1 E.B.Tylor, Văn hóa nguyên thủy, NXB Văn hóa Thông tin, 2000
2 Lương Văn Kế, Thế giới đa chiều, NXB Thế giới, 2007, tr.313
3 Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng văn hoá
4 Hồ Chí Minh toàn tập (tập III), NXB Chính trị Quốc gia, 1995 5
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội.5

Mặc dù hiện hữu sự khác biệt về mặt ngôn từ, quan điểm và phương thức lý giải
của các định nghĩa về văn hoá; tuy nhiên, điểm chung có thể khái quát được về các khái
niệm văn hoá đó là sự phản ánh một cách phong phú và toàn diện mọi mặt đời sống vật
chất và tinh thần con người. Văn hoá là sản phẩm tất yếu của của xã hội, là hệ quả của
quá trình tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên và hiện diện trong mọi hành vi
sáng tạo của nhân loại nhằm mục đích phục vụ đời sống con người. Văn hoá hình thành
trong cộng đồng, tích luỹ và tồn tại theo thời gian, cũng đồng thời phản ánh phương thức
sống của cộng đồng đó. Tuy có thể tồn tại một số điểm tương đồng nhưng vẫn có những
nét riêng biệt không thể trộn lẫn, tạo nên những bản sắc, đặc trưng riêng giữa cộng đồng
này với cộng đồng khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác; làm nên sự đa dạng và khác
biệt quý giá, đáng được tôn trọng, đáng được gìn giữ. 2.1.1.2.
Đặc trưng và chức năng của văn hoá
Có thể xem văn hoá như một hình thái ý thức xã hội. Hình thái ý thức xã hội ấy
cũng là sản phẩm của một xã hội và có khả năng tác động vào thực tiễn của xã hội ấy.
Trong văn hoá, người ta xác định đó là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, và hình thái
ấy tồn tại những đặc trưng tiêu biểu. Trong bài tiểu luận này, em xin được nêu ra các đặc
trưng và chức năng của văn hoá dựa trên nghiên cứu của PGS.VS Trần Ngọc Thêm trong
công trình Cơ sở văn hoá Việt Nam (1999).
Trước hết, văn hoá có tính hệ thống. Có thể hiểu, văn hoá chính là gốc rễ, là một
“chiếc khung” tổng thể có vai trò kết nối các thành tố với nhau. Các thành tố ấy có thể là
một loạt các sự kiện, các hiện tượng xảy ra tiếp nối, hoặc diễn tiến thành một quá trình
phát triển tạo thành quy luật, chúng có mối liên kết và gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành
một hệ thống giúp văn hoá có tầng lớp, đan cài, xâu chuỗi và tiếp nối nhau. Đó chính là
sự khác biệt với tập hợp (mang tính liệt kê và không có sự kết nối). Tính hệ thống giúp
văn hoá thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Bởi văn hoá bao trùm lên mọi mặt của
đời sống xã hội, trên tất cả các lĩnh vực. Chức năng thực hiện việc cấu tạo xã hội, từ đó
làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho xã hội những phương tiện và kỹ
năng cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên. Chính vì thế, không thể tách biệt các
thành tố của hệ thống văn hoá bởi chúng tồn tại trong sự gắn bó hữu cơ, cấu tạo thành nền tảng của xã hội.
Đặc trưng cơ bản thứ hai của văn hoá chính là tính giá trị. Cụm từ văn hoá thường
được hiểu theo khía cạnh là những điều tốt đẹp, có giá trị và bền vững. Người có văn hoá
5 PGS.VS Trần Ngọc Thêm (chủ biên), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 6
cũng chính là người có giá trị. Chính vì thế văn hoá thường được coi là chuẩn mực, là
thước đo giá trị vẻ đẹp của mỗi con người. Về cơ bản, bản thân chủ thể văn hoá cũng
mang trong mình những giá trị vật chất và cả những giá trị tinh thần. Đứng trên nhiều góc
độ và quan điểm có thể xét tính giá trị của văn hoá trên nhiều bình diện khác nhau. Về ý
nghĩa, văn hoá có thể bao gồm giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ. Trên
bình diện thời gian, văn hoá có thể phân chia thành giá trị nhất thời hay giá trị vĩnh cửu.
Nhờ thế mà, văn hoá thực hiện được chức năng điều chỉnh xã hội. Văn hoá duy trì trạng
thái cân bằng động, luôn có khả năng thay đổi và vận động, linh hoạt trong thích ứng với
sự biến đổi của môi trường một cách phù hợp, không ngừng tự hoàn thiện, giúp định
hướng các chuẩn mực, làm bàn đạp cho sự phát triển của xã hội.
Văn hoá còn tồn tại tính nhân sinh. Văn hoá là sản phẩm tự nhiên do con người
sáng tạo ra, là thành quả tất yếu của xã hội. Chính vì thế, tính nhân sinh của văn hoá lý
giải rằng văn hoá được coi như là một hiện tượng của xã hội. Văn hoá chịu tác động vật
chất của con người được biểu hiện qua việc con người tác động vào tự nhiên (đẽo gỗ,
luyện quặng, làm muối,…) hoặc tác động tinh thần (như việc đặt tên, sáng tạo truyền
thuyết cho cảnh quan thiên nhiên,…). Từ đó, văn hoá thực hiện chức năng tiếp theo, đó là
chức năng giao tiếp. Văn hoá trở thành sự kết nối quan trọng giữa con người – con người
và ngôn ngữ chính là phương tiện để biểu đạt nội dung văn hoá (thể hiện qua hình thức
truyền miệng các truyền thuyết về cảnh quan thiên nhiên…).
Đặc trưng còn lại của văn hoá chính là tính lịch sử. Bởi văn hoá phản ánh quá
trình sáng tạo của con người trong một không gian và thời gian nhất định, tạo thành cả
một quá trình và tích luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như một sản phẩm cuối cùng.
Chính vì thế mà có thể coi văn hoá có mối gắn bó chặt chẽ và mật thiết với thời gian, với
lịch sử và thậm chí văn hoá có thể chứa đựng, bao hàm lịch sử. Đặc trưng đó tạo thành
nền văn hoá có bề dày và có chiều sâu, có độ ổn định, tồn tại hệ giá trị. Và khi tính lịch sử
được duy trì trong văn hoá thì khiến văn hoá trở thành truyền thống văn hoá. Những giá
trị được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người, trải qua không gian và thời gian, được
đúc kết thành khuôn mẫu xã hội và được cố định hoá dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tính lịch sử của văn hoá cũng chính là cơ sở để văn hoá thực hiện chức năng giáo dục.
Văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách con người và định
hướng con người theo những giá trị tốt đẹp và có đạo đức thông qua việc thực hiện hệ
thống chuẩn mực đạo đức dựa trên những giá trị truyền thống, có tính ổn định và cả
những giá trị mới hình thành.
Những đặc trưng và những chức năng trên của văn hoá một cách cơ bản đã góp
phần làm rõ thêm khái niệm về văn hoá, giúp chúng ta có cái nhìn khái quát nhất về một
hình thái ý thức xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội và đời sống con người. 7
Văn hoá cũng chính là cơ sở để hình thành nên pháp luật, thiết chế có vai trò thiết yếu
trong việc quản lí và điều hành mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. 2.1.2. Pháp luật 2.1.2.1.
Định nghĩa pháp luật
Bên cạnh văn hoá thì pháp luật cũng không phải là một khái niệm mà có thể dễ
dàng định nghĩa. Pháp luật cũng chính là thành quả của tư duy con người, hình thành từ
khi mô hình nhà nước xuất hiện. Đây là một khái niệm phức tạp, cũng đồng thời thường
được đánh giá, quan sát dựa trên nhiều góc độ và bình diện khác nhau. Ở mỗi thời đại
khác nhau, mỗi khu vực khác nhau trên thế giới, pháp luật lại được nhận thức một cách
khác nhau, những vấn đề liên quan từ bản chất, nguồn gốc, vai trò,… cho đến phạm vi
điều chỉnh của pháp luật cũng có những sự khác biệt nhất định.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, có thể xác
định pháp luật đã xuất hiện từ thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ - hình thái xã hội đầu tiên
trong lịch sử loài người, khi con người sống thành tập thể, thành cộng đồng. Mặc dù từ
thuở sơ khai và nguyên thủy, chế độ này chưa cho thấy những dấu hiệu về sự tồn tại của
thiết chế nhà nước, sự phân chia các giai cấp tầng lớp hay pháp luật nhưng mô hình xã hội
này chính là tiền đề, là cơ sở căn bản cho sự hình thành của pháp luật. Do nhu cầu chung,
các mối quan hệ xã hội giữa người với người bắt đầu được điều chỉnh bằng các quy tắc
đạo đức, các phong tục, và quy tắc tôn giáo.
Khi sở hữu tư nhân xuất hiện trong xã hội, các mối quan hệ xã hội dần thay đổi,
bắt đầu ra đời các tầng lớp và phân chia giai cấp, sự phân chia giàu – nghèo, những mâu
thuẫn đối kháng dần nảy sinh, thì đó cũng là lúc hình thái xã hội bắt đầu thay đổi, đạt đến
một giai đoạn phát triển nhất định. Những tập quán, tín điều, tôn giáo,… không còn khả
năng để duy trì trật tự và quản lí xã hội bởi sự bất đồng về ý chí, lợi ích giữa các thành
viên trong xã hội, giữa các tầng lớp, giai cấp với nhau. Xã hội ấy đòi hỏi việc thực hiện
các quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực và
có tính cưỡng chế đối với các thành viên trong xã hội; đòi hỏi sự xuất hiện của một tổ
chức chính trị quyền lực đặc biệt có bộ máy cưỡng chế để có thể đảm bảo cho các quy tắc
xử sự đó được thực hiện.
Đó là những dẫn chứng để có thể khẳng định rằng, sự ra đời và phát triển của pháp
luật cũng gắn bó và song hành cùng sự ra đời và phát triển của các kiểu nhà nước. Và nhà
nước quyết định sự tồn tại của pháp luật.
Ở phương Đông, mà tiêu biểu là Trung Quốc, xã hội chiếm hữu nô lệ thời cổ đại
đã tồn tại nhiều cuộc tranh đấu rất quyết liệt về cách thức trị nước, an dân giữa các trường
phái chính trị - xã hội khác nhau. Nhiều phương thức cai trị xã hội, quản lí nhà nước được
các nhà tư tưởng theo đuổi. Phổ biến và nổi bật hơn cả là tư tưởng Nho giáo của Khổng 8
Tử sáng lập với chủ trương nhân trị, lễ trị, lễ, nhạc,… Thuyết giáo của Khổng Tử có tác
dụng vô cùng sâu sắc và có tính khái quát cao, vừa có tính cụ thể hoá, vừa là công cụ, có
tính chính danh, là biện pháp hữu hiệu để rèn đạo đức và nhân văn con người, tạo ra trật
tự trong các quan hệ giữa gia đình và xã hội. Là một học thuyết được xây dựng từ thời kì
đầu của đất nước Trung Hoa nhưng Nho giáo đã được coi là một hệ tư tưởng kéo dài suốt
hơn 2000 năm lịch sử cai trị của giai cấp thống trị nhằm củng cố quyền lực và địa vị của mình.
Hàn Phi Tử, một đại biểu của trường phái Pháp gia, đại diện cho lợi ích của giai
cấp địa chủ mới lên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã phát triển tư tưởng Pháp trị lên
đến đỉnh cao. Ông coi pháp luật là cơ sở duy nhất để quản lí xã hội, tư tưởng này cũng
đánh dấu sự hình thành của pháp luật một cách thực nghĩa trong xã hội Trung Quốc thời điểm đó.
“Lễ cái biên soạn thành sách đặt ở nơi công đường và nói rõ cùng trăm họ... cho nên bậc
minh chúa nói pháp luật thì mọi kẻ hèn kém trong nước, không ai không nghe thấy”.

Theo Hàn Phi Tử, pháp luật phải thành văn, phải có tính công khai, minh bạch và tất cả
mọi người đều có thể tiếp cận được và chấp hành, tuân thủ. Người cầm quyền phải ưu tiên
sử dụng pháp luật, không thể cứ mãi dựa vào lễ, nhạc để quản lí và điều hành xã hội.
Còn ở Phương Tây, quan niệm về pháp luật được đánh giá là tương đối phức tạp,
có phần sâu sắc hơn vì dựa trên cơ sở của tư duy triết học, tính khách quan, duy lý được
ưu tiên trong bầu không khí dân chủ tương đối cao. Pháp luật phương Tây chủ yếu gắn
liền với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã. Tính tối cao của đạo luật, tính
hợp lí trong tổ chức bộ máy nhà nước được coi trọng và coi là tối cao. Platon, nhà triết
học người Hy Lạp cổ đại cho rằng: Nếu pháp luật không có sức mạnh, bị đặt dưới quyền
lực của ai đó thì nhà nước sẽ diệt vong. Còn với Aristoteles, nhà bác học vĩ đại thời cổ đại
khẳng định: Bất kỳ Nhà nước nào cũng phải có ba bộ phận: cơ quan làm luật, cơ quan
thực hành pháp luật, cơ quan toà án xét xử.
Hiện nay, có không ít những định nghĩa về pháp luật dưới góc độ là pháp luật thực
định. Tuy nhiên, điểm chung của những định nghĩa đó đều thể hiện quan niệm về pháp
luật cơ bản là một loại quy tắc xử sự của con người, một loại chuẩn mực xã hội , tồn tại
những điểm khác biệt so với các loại chuẩn mực xã hội khác như phong tục tập quán hay
đạo đức,… Nhìn chung, có thể khái quát quan niệm về pháp luật thành một khái niệm:
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.6
2.1.2.2.
Những đặc trưng cơ bản và vai trò của pháp luật
6 Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, 2020, tr.212 9
Trên cơ sở quan niệm về pháp luật, có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của pháp luật như:
● Tính quyền lực nhà nước:
Đây là một đặc điểm mà chỉ riêng pháp luật có, thực hiện việc tổ chức và quản lí các mặt
của đời sống xã hội. Thường những quy định pháp luật do nhà nước đặt ra hoặc dựa trên
việc thừa nhận các quy tắc xử sự sẵn có trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật chính là
công cụ thể hiện ý chí của nhà nước, quy định những điều công dân được làm và không
được làm, bắt buộc thực hiện hoặc cấm…Với quyền lực của mình, nhà nước có thể sử
dụng nhiều biện pháp khác nhau yêu cầu các tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh thực hiện và chấp hành pháp luật.
● Tính quy phạm phổ biến
Các quy định của pháp luật chính là khuôn mẫu, chuẩn mực để mọi người tuân thủ và
thực hiện theo, giúp định hướng nhận thức và hành vi con người. Phạm vi tác động của
pháp luật vô cùng rộng lớn, là khuôn mẫu ứng xử cho mọi cá nhân tổ chức; điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội và tác động đến mọi khu vực của đất nước. ● Tính hệ thống
Bản chất pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự, các nguyên tắc, các bộ và điều luật
có giá trị yêu cầu thực hiện. Các quy định của pháp luật không tồn tại một cách riêng lẻ và
biệt lập mà luôn có mối liên kết chặt chẽ, khăng khít, tạo thành một chỉnh thể hoàn thiện, thống nhất.
● Tính xác định về hình thức
Pháp luật biểu đạt cụ thể qua các hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp hay
các văn bản quy phạm pháp luật. Các quy định của pháp luật cũng được thể hiện ở dạng
thành văn, được xác định cụ thể, rõ ràng, tường minh, dễ hiểu để có thể tiếp cận với tất cả
mọi người, mọi thành phần trong xã hội.
Về vai trò, có thể xem xét dựa trên nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau, đặt trong
các mối quan hệ cụ thể. Đối với xã hội, pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của
các quan hệ xã hội, là cơ sở để bảo đảm an toàn xã hội, là cơ sở để giải quyết các tranh
chấp trong xã hội, là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, là phương tiện bảo
đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội; đảm bảo sự phát triển bền vững của
xã hội và có vai trò giáo dục con người. Đối với lực lượng cầm quyền, pháp luật thể chế
hoá chủ trương, đường lối, chỉnh sách của lực lượng cầm quyền và là vũ khí chính trị của 10
lực lượng cầm quyền để chống lại sự phản kháng chổng đối trong xã hội. Đối với nhà
nước, pháp luật là công cụ bảo vệ nhà nước, bảo đảm an toàn cho các nhân viên nhà nước,
là công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước và cũng đồng thời là công cụ để nhà nước tổ
chức và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội. Còn đối với các công cụ điều chỉnh khác,
pháp luật có thể dung hợp trong chúng những quy tắc nhất định trong các thể chế phi quan
phương và đồng thời sự ghi nhận thành pháp luật còn có tác dụng tạo điều kiện cho sự tồn
tại, giữ gìn và phát huy vai trò của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. 2.2. Phân tích
2.2.1. Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật
Để làm rõ ý này, cần phải hiểu phổ rộng là gì. Nó được hiểu là sự phổ biến rộng
rãi, là tính chất khái quát cao và tính hàm chứa lớn. Nói Văn hoá chính là phổ rộng lớn
nhất của pháp luật
là để khẳng định rằng, văn hoá là sự phổ biến rộng rãi nhất của pháp
luật, văn hoá có thể bao chứa pháp luật và có khả năng điều chỉnh pháp luật. Câu này đã
phản ánh được mối quan hệ và sức ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật.
Vậy tại sao Văn hoá là phổ rộng lớn nhất của pháp luật? 2.2.1.1.
Trước hết, văn hoá là một sản phẩm của tự do và có tính bao quát lớn nhất.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhấn mạnh rằng: “Nói tới văn hoá là nói tới
một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử…”.
Quả thực văn hoá là một phạm trù vô cùng rộng lớn và có
sức khái quát cao, có sự hiện thân và thâu tóm toàn bộ đời sống hàng ngày của con người
và gắn bó với con người theo suốt quá trình lịch sử. Quá trình hình thành văn hoá là một
quá trình tự nhiên và khác quan. Và tính tự do đã làm cho văn hoá trở nên đa dạng và đa
sắc màu, góp phần làm cho giá trị con người thêm phát triển. Văn hoá hiện diện mọi nơi,
mọi lúc trong đời sống con người, trong mọi hành vi, mọi hoạt động của cá nhân, của tập
thể, không phân biệt bất cứ ai, bất cứ thời điểm nào. Chính vì thế điều đó làm nên tính tự
do, sự đa dạng tự nhiên của văn hoá. Đó là chất xúc tác cho văn hoá, làm cho đời sống
con người phát triển. Chúng ta cũng hiểu rằng, bản chất tự do và đa dạng của văn hoá
cũng chính là bản chất của cuộc sống, muôn hình vạn trạng và khác biệt. Đó chính là cầu
nối để kết luận rằng văn hoá chính là cuộc sống, văn hoá đi ra từ cuộc sống. Giống như
một thói quen ăn uống cũng trở thành một văn hoá ẩm thực riêng biệt; một món ăn chỉ có
thể được tạo ra từ một vùng đất, được lưu truyền qua bao thế hệ những con người cùng
sinh sống đó, gọi là đặc sản, cũng được coi là một nét văn hoá của vùng đất đó. Một ngày
hội như Hội Lim nơi có những liền anh liền chị trao nhau những câu ca Quan họ thường
chỉ được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm tại vùng đất Bắc Ninh, thì đó được 11
coi là truyền thống văn hoá của tỉnh Bắc Ninh… Tính tự do trong văn hoá cũng phản ánh
cả tính xung đột và tính hoà hợp. Bởi sự đa dạng và tự nhiên trong văn hoá và đời sống sẽ
tạo ra những sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khuynh hướng của đời sống và văn hoá,
những khuynh hướng do chính con người sáng tạo ra trong chính sự tự do của bản thân
mình. Để có được một nền văn hoá lành mạnh thì những khuynh hướng có khả năng tạo
ra những giá trị tốt đẹp cho xã hội, giúp đời sống phát triển đi lên thì sẽ tồn tại trường tồn,
trên tư cách là sản phẩm tự do. Trong môi trường có sự bình đẳng giữa các khuynh
hướng, con người cũng sẽ tự do về nhận thức và đi đến thoả thuận.
Và tự do cũng chính là tinh thần chung của pháp luật. Đối với pháp luật, tinh
thần tự do là vô cùng quan trọng. Bởi nếu không có tự do thì con người không thể nhận
thức được cuộc sống, sẽ không thể đi đến những thoả thuận vốn được coi là những “khế
ước xã hội” từ thời kỳ Khai sáng. Những thoả thuận của pháp luật vốn cần những người
có đủ nhận thức trước sự phức tạp của cuộc sống để tham gia vào quá trình thoả thuận đó,
đi đến những quyết định cuối cùng, thống nhất với nhau để tạo dựng thành hệ thống quy
tắc cuộc sống, đồng thời là nơi người ta hy sinh những quyền tự do bản năng của mình và
tạo ra những quyền tự do mang tính tự giác. Và nếu như con người không có đủ tự do, họ
sẽ trở nên vụng về và tỏ ra thiếu kinh nghiệm khi thoả thuận, kết quả là trở thành kẻ thua
thiệt giữa những thoả thuận. Và lúc này, không gì khác pháp luật như trở thành một sự áp
đặt vô hình, ép buộc mọi người phải tuân thủ, hạn chế sự tự do của con người.
Bên cạnh đó, khi khẳng định rằng pháp luật bước ra từ đời sống, điều đó đồng
nghĩa với việc pháp luật cũng phải mang tính đa dạng, đa chiều và tự do của cuộc sống.
Và nếu pháp luật thiếu đi điều đó thì pháp luật không thể nào tương thích với con người.
Hơn nữa, cuộc sống và văn hoá vốn là những điều luôn gắn bó và song hành với nhau,
mang theo nhiều điểm tương đồng và rộng hơn pháp luật. Chính vì thế, không một hệ
thống pháp luật nào ngoài văn hóa có đủ năng lực điều chỉnh tất cả các tình huống của
cuộc sống;
chứng minh cho ta thấy mối liên hệ giữa văn hoá, đời sống và pháp luật là vô
cùng chặt chẽ và gắn bó. 2.2.1.2.
Văn hoá đi ra từ cuộc sống, có sức ảnh hưởng to lớn đến con người
Nhìn chung, văn hoá hình thành từ sự tích luỹ kinh nghiệm sống của cả một cộng
đồng, một tập thể, một dân tộc, mang tính tự nhiên, tất yếu. Do vậy, có thể khẳng định
rằng, văn hoá xuất phát từ đời sống nhân dân, đời sống con người. Bởi thế mà văn hoá
một cách tất yếu có sức nặng, có thể tác động mạnh mẽ đến cuộc sống. Văn hoá hiện hữu
dưới nhiều phương thức, nhiều trạng thái và bằng nhiều cách khác nhau trong cuộc sống
hàng ngày. Văn hoá có thể là vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, di sản
văn hóa, những sản phẩm văn hóa: kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...), có thể là phi vật
thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng 12
miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Và văn hoá cũng là đạo đức, tính cách con người
(phép lịch sự, lòng nhân đạo, lòng hiếu thảo, đức hy sinh, lòng yêu nước,…). Văn hoá
chính là một hiện tượng xã hội, phản ánh trình độ tư duy, trình độ phát triển của xã hội
loài người. Trong mối quan hệ với pháp luật, giữa văn hoá và pháp luật có điểm chung là
đều hướng đến hạnh phúc con người, tuy nhiên cũng tồn tại những điểm khác biệt. Nếu
như văn hoá thường mang tính định hướng, giáo dục, nhắc nhở và khuyên răn con người
thì pháp luật, được xây dựng trên nền tảng và những giá trị chung của văn hoá, lại có tính
bắt buộc mọi người phải tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh. Luật pháp mang tính xác
định chặt chẽ về mặt hình thức, được nhà nước đặt ra và bảo vệ. Trong mối quan hệ với
văn hoá, pháp luật có vai trò hỗ trợ lẫn nhau, củng cố và phát triển văn hoá. Một đặc trưng
khác của luật pháp là thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nơi xã hội cần pháp luật như
một công cụ điều chỉnh hành vi con người. Tuy nhiên, thực tế đã phản ánh rằng, con
người có xu hướng chịu sự điều chỉnh của văn hoá nhiều hơn pháp luật
. Điều này
được lý giải là bởi con người vốn hành động theo bản năng, theo thói quen, theo phong
tục, tập quán, những điều vốn cấu thành văn hoá. Ngay cả khi pháp luật được sử dụng
nhằm áp đặt hành vi con người thì con người vẫn hành động theo thói quen và kinh
nghiệm văn hoá của bản thân
. Có thể khẳng định văn hoá và con người có mối quan hệ
biện chứng và văn hoá thực sự có sức ảnh hưởng không hề nhỏ đến đời sống con người và cả pháp luật.
2.2.2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa
Như đã được lý giải, chính bởi sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hoá và đời sống con
người, nên văn hoá trở thành nền tảng, là cơ sở để xây dựng pháp luật. Chính vì thế, tồn
tại cơ sở để khẳng định Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa. 2.2.2.1.
Văn hoá là nguồn của pháp luật
Có thể nói phong tục, tập quán là những bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ
thống văn hoá. Dưới dạng quy phạm xã hội, có thể hiểu phong tục, tập quán: là những
cách ứng xử hay những thói quen ứng xử hoặc những quy tắc xử sự chung được hình
thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư nhất định, được bảo đảm thực
hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể
bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Các phong tục, tập quán thường
phản ánh điểm nhìn của một cộng đồng dân tộc về thế giới quan hay vũ trụ và duy trì
những quy tắc ứng xử, những thói quen xử sự trong cộng đồng; có tính chất lặp đi lặp lại
nhiều lần tạo thành nếp sống, nếp nghĩ. Chính vì thế có thể coi phong tục, tập quán
chính là những kinh nghiệm văn hoá. Chính các phong tục, tập quán đã góp phần hình
thành nên những nét truyền thống văn hoá, những nét đặc thù, bản sắc của các cộng đồng,
dân tộc. Ở Việt Nam, các phong tục, tập quán thường được biểu hiện cụ thể ở từng thôn, 13
làng, bản,.. trở thành lệ làng, hương ước. Bên cạnh đó, các phong tục, tập quán hình hình
thành trên nền tảng của tâm lí xã hội và ý thức hệ của dân tộc, tạo nên sự gắn kết bền chặt
giữa cá nhân và cộng đồng trong tính thống nhất và phổ biến. Những tác động về nhận
thức, sự ràng buộc của các luật tục, phong tục, tập quán đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy
nghĩ và hành vi mỗi con người. Từ đó hình thành tâm lý xã hội cộng đồng và chuyển hoá
thành ý thức hệ của một dân tộc, gọi là tư tưởng.
Ở nước ta, có thể thấy rõ trình độ phát triển và phân bố giữa các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước là không đồng đều và có những sự chênh lệch nhất định về đời sống
văn hoá. Chính vì lí do đó, không phải các quy phạm pháp luật mang tính khái quát hoá
cao cũng có thể phù hợp để điều chỉnh một cách chính xác, thoả đáng những vấn đề pháp
lí mang đặc tính vùng miền và địa phương. Do vậy, mỗi một cộng đồng làng xã cụ thể
luôn cần đến các quy định cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện cho mọi thành viên trong
làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát triển của mỗi làng, xã cụ thể.7
Nó đặt ra
nhu cầu tất yếu phải áp dụng tập quán để hỗ trợ cho việc phát triển hệ thống pháp
luật quản lí xã hội
.
Chúng ta hiểu rằng, cuộc sống luôn vận hành một cách phức tạp và không thể đoán
định, mọi vấn đề phát sinh thường nằm ngoài tầm kiểm soát và bản thân pháp luật không
thể có khả năng toàn diện để có thể điều chỉnh các vấn đề đó một cách luôn hiệu quả và
trơn tru. Các nhà làm luật và nghiên cứu luật pháp sẽ không thể dự liệu được các tình
huống pháp lí có thể phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không thể “luật hoá”
mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời sống. Do vậy sẽ luôn có trường hợp không sử dụng pháp
luật thành văn để áp dụng xử lí các tình huống xảy ra trên thực tiễn. Đây thường là thời
điểm con người sử dụng bản năng cá nhân, những thói quen, các giá trị đạo đức của cộng
đồng để ứng xử, đó chính là các phong tục, tập quán, vốn thường vô cùng phong phú và
đa dạng; với cơ chế điều chỉnh linh hoạt, mềm dẻo, thích nghi được với các điều kiện xã
hội sẽ là nguồn hỗ trợ, bổ sung hiệu quả để hoàn thiện pháp luật, góp phần điều chỉnh
các quan hệ xã hội nói chung.
Ngược lại, pháp luật cũng có những tác động mạnh mẽ đến những phong tục,
tập quán, luật tục. Bởi phong tục tập quán có thể vừa là nguồn nội dung, vừa là
nguồn hình thức của pháp luật
. Những phong tục, tập quán truyền thống tiến bộ, mang
những giá trị tốt đẹp, phù hợp với ý chí Nhà nước, sẽ được Nhà nước thừa nhận và trở
thành nguồn nội dung của pháp luật. Ví dụ như nhà nước đã thừa nhận phong tục Tết
Nguyên Đán, Giỗ Tổ Hùng Vương thông qua việc nhà nước đảm bảo thực hiện trên toàn
bộ cả nước, và có những quy định cụ thể về việc cho phép người lao động, cán bộ, công
chức, học sinh, sinh viên,… được nghỉ lao động, nghỉ học vào những ngày này. Hoặc trên
một số lĩnh vực khác như các quan niệm đạo đức chính thống, những giá trị đạo đức
7 PGS.TS. Lê Minh Thông, Ban Tổ chức Trung ương, Luật nước và hương ước lệ làng trong đời sống pháp lý của
các cộng đồng làng xã Việt Nam
, tr.3 14
truyền thống tốt đẹp của dân tộc vốn được gìn giữ qua nhiều thế hệ cũng có thể trở thành
nguồn nội dung của pháp luật. Căn cứ trên các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa
vụ trong các mối quan hệ xã hội như giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
● Điều 69. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát
triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,
công dân có ích cho xã hội.

2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình.

3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.

4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân
của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi
giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

● Điều 70. Quyền và nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân
thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn
danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.

3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha
mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.

Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với
quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

4. Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao
trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa
vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống
15
chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp
với khả năng của mình.

Những điều khoản được quy định rõ ràng đó cũng xuất phát trên cơ sở từ những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp về gia đình của dân tộc ta, vốn tồn tại trong xã hội, như tình
yêu thương con cái, lòng hiếu thảo, yêu kính cha mẹ,… Đó chính là sự thể chế hoá các
quan niệm đạo đức truyền thống, thừa nhận các nguyên tắc đạo đức thịnh hành trong xã
hội. Đối với trường hợp phong tục, tập quán là nguồn hình thức của pháp luật, Nhà nước
ta thừa nhận việc áp dụng một số tập quán trong một số bộ và điều luật. Điều 3 trong Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định:
Điều 3. Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật
Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp
dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập
quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.

Hay trong Khoản 1, Điều 7, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
Điều 7. Áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình
1. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập
quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại
Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng.

Phong tục, tập quán chính là những chất liệu quý để hoàn thiện một nền pháp luật
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và những giá trị tốt đẹp mà các phong tục, tập quán để
lại vẫn luôn là những mạch ngầm ẩn dưới tầng sâu của văn hoá dân tộc và không hề dứt.
bởi nhân dân Việt Nam luôn có tinh thần trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hoá
truyền thống tốt đẹp một cách bền vững và trường tồn, sự mai một gần như là hạn chế. Đó
chính là ưu điểm quan trọng, là điều kiện cần để đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng tập quán.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải tất cả các phong tục, tập quán đều là tốt đẹp và
luôn có thể áp dụng vào trong pháp luật. Sẽ tồn tại cả những phong tục, tập quán lạc
hậu, cổ hủ, không tiến bộ khiến Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để yêu cầu loại bỏ, bài trừ những hủ tục đó ra khỏi xã hội
. Ví dụ như Nhà
nước đã cấm người dân buôn bán, tàng trữ và sử dụng trái phép pháo nổ bởi sự không an
toàn và sự lãng phí mà nó gây ra, loại bỏ tục đốt pháo ra khỏi xã hội. Hay các hủ tục như
thách cưới của một số đồng bào dân tộc thiểu số trái với ý chí của Nhà nước cũng được
loại trừ bằng quy định Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định tại điểm b, khoản
1, điều 8, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. 2.2.2.2. Tập quán pháp 16
Những luận giải về văn hoá với vai trò là nguồn của pháp luật cũng đã phần nào
thể hiện về tập quán pháp, một hình thức cụ thể về nguồn của pháp luật liên quan đến văn
hoá. Về cơ bản, tập quán pháp được hiểu : Những tập quán của cộng đồng được nhà
nước thùa nhận, nâng lên thành pháp luật.8

Tập quán pháp vừa là một loại nguồn của pháp luật vừa là hình thức thể hiện của
pháp luật trên thực tế. Trong tập quán pháp bao gồm nội dung của các tập quán có vai trò
là những kinh nghiệm văn hoá được nâng lên thành pháp luật, đồng nghĩa với việc các tập
quán đó trở nên có giá trị pháp lí. Khi một tập quán được thừa nhận là tập quán pháp, tập
quán đó sẽ trở nên có ý nghĩa bắt buộc và mang tính cưỡng chế bởi nhà nước không chỉ
chấp nhận sự tồn tại của tập quán đó mà còn áp dụng quyền lực cưỡng chế vào trong tập
quán. Nhà nước chỉ thừa nhận những tập quán lành mạnh, có giá trị đạo đức, và giá trị
tinh thần tích cực. Tập quán pháp có vai trò điều chỉnh các hành vi sai lệch trái với chuẩn
mực nhằm tạo lập xã hội phát triển ổn định và lành mạnh. Áp dụng tập quán là một trong
những cách thức phổ biến để khắc phục một thực trạng hiện nay trong các văn bản quy
phạm pháp luật là không có quy phạm điều chỉnh hết các quan hệ xã hội, góp phần giải
quyết tạm thời tình trạng bế tắc khi giải quyết vụ việc dân sự và là cơ sở để cơ quan chức
năng có thẩm quyền xem xét để hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Sự tồn tại của tập quán pháp có ý nghĩa quan trọng đối với cả nhà nước và xã hội.
Đối với nhà nước, tập quán pháp có vai trò quan trọng cấu thành hệ thống pháp luật quốc
gia, góp phần đáp ứng nhu cầu quản lí của nhà nước. Việc áp dụng tập quán thành các
quy phạm pháp luật giúp quy định được tăng tính thực tế và mức độ khả thi trong việc áp
dụng vào đời sống, giúp pháp luật trở nên tương thích hơn với xã hội và khiến cho vai trò
quản lí của nhà nhà nước được mở rộng, tiếp cận được với đời sống xã hội và tất cả nhân
dân. Đối với xã hội, sự thừa nhận tập quán pháp của nhà nước mang ý nghĩa thể hiện sự
chấp thuận của nhà nước đối với một thói quen ứng xử của cộng đồng. Rộng hơn, điều
này mang ý nghĩa cho sự thống nhất ý chí giữa nhà nước với cộng đồng, giữa những nhà
quản lí và nhân dân. Đồng thời, thừa nhận tập quán pháp cũng là cách để duy trì sự tồn tại
và phát triển của một phong tục tập quán tốt đẹp cho xã hội, cho nhân dân, góp phần làm
rõ nét bản sắc văn hoá, nâng cao giá trị con người trong xã hội.
Có nhiều phương thức để thề hiện việc thừa nhận sự tồn tại của tập quán pháp
trong hệ thống pháp luật. Trong đó có thể bao gồm: liệt kê danh mục các tập quán được
nhà nước thừa nhận; viện dẫn tập quán trong pháp luật thành văn; hay áp dụng tập quán
để giải quyết các vụ việc phát sinh trong thực tiễn… Điều đó đồng nghĩa với việc tập
quán có thể được tạo ra từ cả cơ quan lập pháp và cả hoạt động xét xử của cơ quan tư pháp.
8 Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, 2020, tr.286 17
Tuy nhiên, nhìn chung tập quán pháp chỉ được coi là nguồn thứ yếu của pháp luật
Việt Nam bởi các quy định của nó chủ yếu tồn tại dưới dạng bất thành văn nên thường chỉ
được hiểu một cách ước lệ, thiếu rõ ràng, cụ thể, khó bảo đảm cho việc hiểu và áp dụng
thống nhất trong phạm vi rộng. Do đó, khi mà pháp luật thành văn ngày càng phát triển và
trở nên phổ biến thì tập quán pháp cũng theo đó mà bị thu hẹp phạm vi sử dụng. Hiện nay,
tập quán pháp thường đóng vai trò là nguồn bổ sung cho các quy phạm pháp luật. Ở nhiều
nước trên thế giới, trong hệ thống pháp luật của mình cũng quy định cụ thể về thứ tự áp
dụng các loại nguồn của pháp luật.
Trong Bộ luật Dân sự 2015 cũng có một số quy định về việc áp dụng tập quán
pháp. Cụ thể Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giải thích giao dịch dân sự như sau:
Điều 121. Giải thích giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân
sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:

a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.
Theo đó trong trường hợp giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều 121, đồng thời
không thể giải thích dân sự theo các điểm a và b của khoản 1 thì tập quán của nơi phát
sinh giao dịch dân sự mới là sự lựa chọn cuối cùng để giải thích giao dịch dân sự (tức điểm c, khoản 1).
Khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc xác định ranh giới giữa các bất động sản như sau:
Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản
1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30
năm trở lên mà không có tranh chấp.

Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh,
mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.
18
Theo quy định, ranh giới giữa các bất động sản liền kề có thể được xác định theo tập quán
hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp, lúc này, tập quán
áp dụng để xác định ranh giới tồn tại từ trên 30 năm không phát sinh tranh chấp sẽ là tập quán pháp. 3. KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng văn hoá và pháp luật đều là hai phạm trù rộng lớn, mang
tính trừu tượng và có mức độ khái quát hoá cao. Tuy nhiên, những biểu hiện và đặc
trưng của chúng lại vốn rất quen thuộc và gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Văn
hoá sinh ra từ cuộc sống, văn hoá xuất phát từ nhân dân, là sản phẩm của văn minh con
người. Pháp luật là quy tắc xử sự chung của cộng đồng, phải bắt nguồn từ đời sống nhân
dân. Hai khái niệm tưởng như đối lập về tính chất, vai trò nhưng trên thực tế lại có sức
bao chứa, ảnh hưởng lẫn nhau, mà trong đó Văn hoá là phổ rộng lớn nhất của pháp luật.
Văn hoá là nền tảng, là căn bản để pháp luật hình thành và phát triển, sao cho có thể
tương thích với con người, tương thích với xã hội và gần gũi với cuộc sống. Giữa cả hai
phạm trù, đều mang tinh thần tự do chung, chứa đựng tính đa dạng và phong phú, đa
chiều. Đồng thời, văn hoá đi ra từ cuộc sống, có sức ảnh hưởng to lớn tới cuộc sống, và
con người có xu hướng chịu sự điều chỉnh của văn hoá nhiều hơn pháp luật. Mặt khác,
có thể khẳng định rằng, Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa
bởi văn hoá được coi là nguồn của pháp luật, nó biểu hiện qua những phong tục, tập
quán mang đặc trưng của mỗi cộng đồng, mỗi vùng miền của đất nước. Các phong tục
tập quán vốn tự thân đã là những quy tắc, những luật lệ được mỗi cộng đồng, mỗi dân
tộc đặt ra nhằm định hướng, điều chỉnh đạo đức và hành vi cho mỗi cá nhân, trên cơ sở
tương đồng đó, việc áp dụng tập quán vào pháp luật sẽ giúp nhà nước quản lí xã hội,
quản lí cộng đồng, quản lí nhân dân một cách chặt chẽ, và mở rộng hơn về phạm vi. Hơn
nữa, văn hoá có thể tác động mạnh mẽ đến pháp luật và ngược lại bởi văn hoá vừa có thể
là nguồn nội dung, vừa có thể là nguồn hình thức của pháp luật. Bên cạnh đó, tập quán
pháp
có thể được coi là đại diện tiêu biểu để chứng minh rằng Pháp luật được xây dựng
dựa trên những kinh nghiệm văn hóa
bởi đó vừa là nguồn, vừa là hình thức thể hiện của
pháp luật trên thực tế, có vai trò điều chỉnh các hành vi sai lệch trái với chuẩn mực nhằm
tạo lập xã hội phát triển ổn định và lành mạnh, mang lại những ý nghĩa quan trọng đối 19