***
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI VĂN HÓA ĐẠI CƯƠNG
Đề bài: quan điểm cho rằng: “Pháp luật được xây dựng dựa trên những
kinh nghiệm văn hóa có khả năng biến thành n hoá để điều chỉnh cuộc
sống”. Bằng nhng hiểu biết về văn hoá pháp luật, anh/chị hãy phân tích
và chứng minh nhận định trên.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Xuân Bảo
sinh viên: 2212650009
Lớp: NGOH102(GDD1+2-HK2-2223).1
Khóa: K61
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Thanh Thủy
TS. Nguyễn Th Mai
Nội, tháng 05 năm 2023
MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................ 01
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 02
I, Phân tích khái niệm văn hoá và đặc trưng của n hoá ............................ 03
1.
Văn hóa gì? ................................................................................................... 03
2.
Đặc trưng của văn hóa: .................................................................................... 04
II, Phân tích khái niệm pháp luật .................................................................. 05
III, Phân tích mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật .................................. 06
1, Văn hóa - Sản phẩm của tự do ........................................................................ 06
2, Nền văn hóa phi tự nhnnhững khuyết tật của ................................... 07
3, Hệ thống pháp luật phi tự nhiên - Hệ quả của nền văna phi tự nhiên ..... 09
4, Hướng tới một hệ thống luật pháp tiên tiến .................................................... 10
IV, Nêu quan điểm cá nhân về thực trạng văn hoá pháp lut hiện nay và đề
xuất giải pháp ................................................................................................. 14
1, Vai trò của văna pháp luật trong thực tiễn đời sống ................................. 14
2, Một số giải pháp bản về văna pháp luật ................................................ 15
LỜI KẾT .................................................................................................................. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 19
1
LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa luôn đóng một vai trò cùng quan trọng trong đời sống của con người, đặc
biệt trong quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất, tồn tại hội, ý thức hội,… Văn
hóa tạo nên gtrị to lớn về tinh thần cho con người cả một đất nước. Tìm hiểu về văn
hóa vẫn luôn một chủ đề hay đáng thử đối với tất cả mọi người, đặc biệt sinh
viên đại học những chủ nhân tương lai của đất nước. Hơn thế nữa, văn hóa còn mối
quan hệ cùng sâu sắc với pháp luật trong bối cảnh của đất nước hiện nay. Ngoài ra
các thực trạng về văn hóa pháp luật tại Việt Nam cũng là một vn đề đáng lưu m. Tất
cả những điều đó đều sẽ được trình bày phân tích một cách ràng, cụ thể tại bài tiểu
luận về văn hóa này.
2
I, Phân tích khái niệmn hoá và đặc trưng ca văn h
1.
Văn hóa gì?
Trong quá trình đổi mới thể chế, phát triển kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, đã
tạo những tiền đề, điều kiện, môi trường,, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với
văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng và quản của Nhà nước đối với văn hóa, cũng như vai
trò của tất cả các chủ thể tronghội về văn hóa, đã tạo nên bước phát triển mi của nền
văn hóa Việt Nam. Những thành tựu cũng như yếu kém, bất cập trong phát triển văn hóa,
đã được tổng kết đánh g chính thức nêu trong các văn kiện của Đảng (Nghị quyết các
Đại hội Đảng và nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng), Nhà nước.
“Văn hóa” rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa thường được dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa
chuyên biệt chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)… Trong khi
theo nghĩa rộng thì văn hóa hóa gm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến
tín ngưỡng, phong lục, lối sống, lao động…
Tuy nhiên ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng hàng trăm định nga
khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm trước hết cần xác định được những đặc trưng
bản của nó. Đó những nét riêng biệt tiêu biểu, cần đủ để phân biệt khái niệm
(sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến
hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thông, như gtrị, như hoạt động, như hiệu,
như thuộc tính nhân cách, như thuộc tínhhội…), thể xác định được 4 đặc trưng
bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hóa như sau:
“Văn hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chấttinh thần do con người sáng tạo
tích lũy qua quá trình hoạt động, thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”.
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống thị hiếu
những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào
hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển tính lịch
sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị tính nhân văn
phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa tính khái quát này, trong hoạt động quản
nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lạc: Quản văn hóa quản
các hoạt động sáng tạo thu hẹp hơn nữa quản sáng tác văn học nghệ thuật. Thực
tế quản văn hóa không phải như vậy, quản văn hóa cấp lại càng không phải
chỉ có thế.
3
Theo Hồ Chí Minh: lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó tức văn hóa”. Định nghĩa của Hồ
Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn.
Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì l sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian được lặp
đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá
trị vật chất tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành kho tàng
quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại thành di sản văn hóa của toàn
nhân loại.
một góc độ khác, người ta xem văn hóa như một hệ thống các giá trị vật chất
tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương
tác giữa con người với tự nhiên, hội bản thân. Văn hóa của con người, do con
người sáng tạo lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để
phục vụ đời sống con nời và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Văn hóa trong tiếng anh Culture.
2.
Đặc trưng của văn hóa:
Văn hóa tính hệ thống
Cần phải phân biệt rạch ròi giữa tính hệ thống với tính tập hợp. Tính hệ thống của văn
hóa xương sống” mối liên hệ mật thiết giữa các thành tố với nhau, các thành tố
thể bao gồm hàng loạt các sự kiện, kết nối những hiện tượng, quy luật lại với nhau
trong quá trình phát triển. Nhờ tính hệ thống văn hóa thể thực hiện được các
chức năng của hội. do bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh
vực. Từ đó thể m tăng độ ổn định củahội, cung cấp trang bị chohội những
phương tiện cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên. Nói cách khác, văn hóa xây
lên nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiến bộ của hội. lẽ chính thế người
ta thường gắn văn hóa với loại từ “nền” để tạo thành cụm từ thông dụng nền văn hóa”.
Văn hóa tính giá trị
Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa tốt đẹp,
giá trị. Người văn hóa cũng chính một người gtrị. Do đó văn hóa trở thành
thước đo chuẩn mực cho con người hội. Văn hóa tự chính bản thân cũng mang
trong mình những giá trị riêng bao gm giá trị vật chất giá trị tinh thần. Xét về mặt ý
nghĩa thì văn hóa thể chia thành g trị sử dụng, gtrị thẩm mỹ, gtrị đạo đức. Đứng
trên góc độ thời gian lại thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu giá trị nhất thời.
Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác nhau ta lại
4
thể cái nhìn khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta thể đánh giá văn hóa ới những
góc độ khách quan quan khác nhau.
Văn hóa tính nhân sinh
Tính nhân sinh của văn hóa nghĩa rằng văn hóa được coi như một hiện tượng
hội. Hiện tượnghội được hiểu những hiện tượng do con người sáng tạo ra hay còn
gọi nhân tạo, khác với các giá trị tự nhiên hay còn gọi thiên tạo. Chính vì một
thực thể tính nhân sinh nên văn hóa chịu tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của
con người. Đồng thời, tính nhân sinh nên văn hóa tình trở thành sợi dây liên kết
giữa người với người, vật với vật cả vật với người. Đó chính ý nghĩa nhân sinh sâu
sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.
Văn hóa tính lịch sử
Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một không gian thời gian
nhất định. Chính vì thế văn hóa cũng gắn liền với chiều dài lịch sử, thậm chí văn
hóa hàm chứa lịch sử. Tính lịch sử khiến cho văn hóa mang đặc trưng bề dày, chiều
sâu, hgiá trị. Nhờ tính lịch sử văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách
khác đó biến văn hóa trở thành truyền thống văn hóa. Văn hóa tính lịch sử cao cần
phải được tích lũy, được gìn giữ kng ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, không
ngừng sản sinh và phát triển để hoàn thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,
II, Phân tích khái niệm pháp luật
Cũng như nhà nước, đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật như: Pháp
luật ý muốn của Thượng đế; pháp luật phương tiện để quản hội (pháp luật gắn
liền vứi hội, đâu hội thì đó pháp luật); pháp luật những tiêu chuẩn căn
bản mọi người phải tuân theo để quản hội trừ khử những điều gian tà, bất
chính trong hội; pháp luật công đại diện cho sự công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích
cho tất cả mọi người trong hội; pháp luật ý chí của giai cấp thống trị được đề lên
thành luật;…
Các quan điểm hiện đại đều cho rằng, pháp luật công cụ pháp hội ra đời khi xã
hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, hội trở nên phức tạp, đặc biệt một trình
đọ nhất định, hội trở nên phức tạp, đặc biệt khi trong hội sự phân hóa thành
các giai cấp lợi ích đói lập nhau, các công cụ pháp hội khác như tập quán, đạo
đức, tính điều tôn giáo không còn đủ khả năng duy trì được trật tự hội bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những điều kiện như vậy, nhà nước đã ban hành ra
pháp luật (thừa nhận những quy định đã trong hội pháp luật và bảo đảm cho
chúng được thực hiện, nhà nước còn tiến hành đặt ra những quy định pháp luật mới) để
5
tổ chức quản hội vừa để bảo vệ lợi ích củahội vừa để bảo vệ lợi ích của giai
cấp cầm quyền.
Theo nghĩa hẹp, pháp luật gồm các quy định phần lớn các quy tắc xử sự chung
do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ hội lợi ích cảu cảhội lợi
ích của giai cấp thống trị.
Theo nghĩa rộng, pháp luật không chỉ gm các quy tắc xử sự chung còn bao hàm
cả các nguyên tắc xử sự, các tưởng, học thuyết pháp được thể hiện các loại
nguồn pháp luật khác nhau.
Thông thường, pháp luật được hiểu khái quát như sau:
Pháp luật hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, công cụ điều chỉnh các quan hệ hội sự
tồn tại phát triển của cả xã hội, đồng thời lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị.
III, Phân tích mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật
Văn hóa một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính
cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh
nghiệm văn hóa, tức pháp luật phải khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc
sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, rất nhiều nơi trên thế giới, hệ thống pháp luật tỏ ra
không tương thích với cuộc sống. Phải chăng yếu tố văn hóa, những nơi đó, đã bị tách
rời khỏi pháp luật hay bản thân pháp luật được xây dựng trên một nền văn hóa méo mó,
phi tự nhiên?
Phải khẳng định ngay rằng, một nền văn hóa phi tự nhiên chắc chắn sẽ dẫn đến một
một hệ thống pháp luật phi tự nhiên. Vậy văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến pháp luật?
Trước khi đi vào lý giải vấn đề, em xin bắt đầu từ một nền văn hóa được hình thành
phát triển tự nhiên như chính cuộc sống của con người. Nền văn hóa đó, trước hết, sản
phẩm của tự do.
1, Văn hóa - Sản phẩm của tự do
Văn hóa, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng đồng,
một dân tộc, do đó, văn hóa chính cuộc sống, mặt trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống. Quá trình hình thành văn hóa một quá trình tự nhiên khách quan. Từ xưa
đến nay, con người luôn sống hành động theo những lẽ phải của tâm hồn mình, tức
nhận thức về "cái tất yếu", kết quả tạo ra thành tựu. Những thành tựu đó, cùng với thời
gian, đã kết tinh lại và trở thành văn hóa. Một nền văn hóa hình thành tự nhiên như vậy
một nền văn hóa lành mạnh. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cần phải thấy là, chất xúc
tác cho quá trình hình thành của văn hóa không gì khác chính tự do, vì nếu không có
tự do thì đời sống tinh thần của con người kng phát triển. Đời sống tinh thần của con
6
người không phát triển thì không đời sống văn hóa lành mạnh. Vậy tiêu chuẩn để
phân biệt giữa một nền văn hóa lành mnh và một nền văn hóa không lành mạnh gì?
Đó chính là tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống.
Chúng ta đều biết rằng, bản chất của cuộc sống chính tính đa dạng tự nhiên t
do điều kiện quan trọng nhất để không chỉ đảm bảo còn phát huy tính đa dạng ấy.
Tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khuynh
hướngcủa cuộc sống sau khi trải qua quá trình sàng lọc một cách tự nhiên, những
khuynh hướng còn lại những khuynh hướng hợp lý. Nếu con người áp đặt một khuynh
hướng nào đó một cách tuyệt đối thì tức đã tiêu diệt sự cạnh tranh giữa các khuynh
hướng, cũng tức tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống. Như vậy, một nền văn hóa lành
mạnh một nền văn hóa hình thành phát triển một cách tự nhiên từ bản chất đa dạng
của cuộc sống. Ngược lại, một nền văn hóa không lành mạnh một nền văn hóa
đấy người ta sử dụng công cụ nhà nước để áp đặt các giá trị.
Mặt khác, văn hóa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau chấp nhận sự bình đẳng giữa các
thành tố cấu tạo nên cuộc sống; nói cách kc, nếu không sự chấp nhận lẫn nhau và
bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống thì không văn hóa lành mạnh. Trong
quá trình đi đến sự chấp nhận đó chắc chắn không thể thiếu sự đấu tranh bình đẳng của
các thành tố do đó, văn hóa phản ánh cả nh xung đột tính hòa hợp. Yếu tố đảm
bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh hòa hợp giữa các yếu tố của cuộc sống không
khác chính tự do. Tự do đem lại cho con người sự phong phú về nhận thức và đến
lượt mình, sự phong phú vnhận thức sẽ tạo ra sự đa dạng về khuynh hướng. Khi đó,
trong một môi trường sự bình đẳng giữa các khuynh hướng, con người được tự do
nhận thức đi đến thỏa thuận. Hơn nữa, hết thảy những đẹp đẽ đều được sáng tạo
khi con người tự do, hay khi con người đạt đến trạng thái tự do chính những đóng góp
đẹp đẽ đó của con người đã tạo ra nền văn hóa lành mạnh, với cách sản phẩm của
tự do.
Như vy, ràng đâu nền văn hóa tính đa dạng, đâu sự tồn tại của các
khuynh hướng của cuộc sống được tôn trọng, thì đó tự do và khi đó, văn hóa hệ
quả của tự do. Văn hóa ấy hỗ trợ cuộc sống chính môi trường tinh thần của tất cả
những gì còn lại của cuộc sống.
2, Nền văn hóa phi tự nhnnhững khuyết tật của
Một nền văn hóa hình thành tự nhiên, đảm bảo tính đa dạng tự nhiên luôn luôn
tưởng, nhưng trên thực tế không phải không những sự can thiệp, áp đặt của con
người đối với văn hóa. Sự can thiệp đó, trên bất kỳ khía cạnh nào, cũng phi tự nhiên
khi đó, sự đa dạng tự nhiên của đời sống bị đơn giản hóa, thậm chí tới mức phi lý. Khi
con người bị áp đặt về nhận thức thì anh ta sẽ phản ánh một cách đơn giản về cuộc sống.
Sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của con người bằng cả hành vi lẫn duy, đến
7
lượt mình, tạo ra sự đơn giản của nền văn hóa hay tạo ra một nền văna méo mó, phi
tự nhiên.
Xin hãy lùi về lịch sử để thấy tính không chừng mực của con người khi ứng xử với
văn hóa. thời, người ta sử dụng văn hóa như một công cụ chính trị, tức họ tước bỏ
yếu tố tự do trong văn hóa và thao túng cho những mục đích chính trị. n ai hết,
các nhà chính trị đều hiểu rằng, văn hóa công cụ điều chỉnh trên phạm vi rộng lớn
nhất, tinh tế mạnh mẽ nhất đối với nhận thức ứng xử của con người. Chính vậy,
họ luôn tham vọng thao túng về mặt văn hóa để trên sở đó, tạo ra tính ổn định trong
hoạt động cầm quyền của mình. Tham vọng đó, thực ra, cũng có thể hiểu được đảng
chính trị nào cũng tuyên truyền, phổ biến nhận thức chính trị của mình vào trong đời
sống. Sự tuyên truyền trong trường hợp như vậy không phải không lành mạnh
đương nhiên. Tuy nhiên, người ta chỉ thể đi theo, cổ hay ưu tiên một khuynh
hướng chứ không thể dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất bằng việc phủ nhận
các khuynh hướng khác. Việc dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất sẽ làm biến
mất tính đa khuynh hướng, hay tính đa dạng tự nhiên của văn hóa, xét về bản chất,
chính là tiêu diệt tính đa dạng của đời sống tinh thần của con người.
Thực ra, về bản chất, con người không thể tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống hay
nói đúng hơn nếu tính đa dạng của cuộc sống bị tiêu diệt thì bản thân cuộc sống cũng
không tồn tại nữa, hay cuộc sống đã chết về mặt tinh thần. Do đó, nếu trong khi cuộc
sống vẫn đa dạng, dẫu sự đa dạng một cách bất hợp pháp, nền văn hóa không phản
ánh được điều đó thì bản thân nền văn hóa đó không có giá trị. Giá trị của một nền văn
hóa phi tự nhiên, nếu chăng nữa, thì chính bằng chứng của việc chính trị đã bóp
méo văn hóa.
Nói về một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên không thể không nhắc đến những khuyết
tật của nó. Đó là, một nền văn hóa méo mó biến con người trở nên đơn giản, đơn giản
tới mức hết thảy mọi người đều giống nhau mt cách phi phải tuân theo một khuôn
mẫu định sẵn. Cũng chính nền văn hóa đó biến con người trở nên cực đoan, cực đoan tới
mức trở thành lệ vmặt tinh thần cho một người hay một khuynh hướng nào đó.
tiêu diệt tính nhân trong con người bằng việc buộc con người phải tôn sùng chủ nghĩa
tập thể một cách tuyệt đối. còn nhiều khuyết tật khác nữa phạm vi bài viết này
khôngthể đề cập hết được.
Tuy nhiên, chúng ta thể kết luận rằng, khuyết tật căn bản nhất của một nền văn hóa
phi tự nhiên tính đơn giản. Người ta đã lầm tưởng rằng, tính đơn giản đó thể tạo ra
tính ổn định trong nhận thức của con nời do đó, tạo ra tính ổn định cho hoạt động
cầm quyền không nhận ra rằng, tính đơn giản đó đã m chết cả một nền văn hóa,
"nhổ rễ" cả một dân tộc ra khỏi “mảnh đất tinh thần” của làm cho những dân tộc
sở hữu những nền văn hóa phi tự nhiên đó trở thành những kẻ vất vưởng về mặt tinh
8
thần. Nhưng, với cách là sản phẩm của cuộc sống, văn hóa mang trong mình một sức
sống mãnh liệt, mãnh liệt đến mức không một tham vọng chính trị nào thể tiêu diệt
được. Chính vậy, khi tình hình thay đổi, các yếu tố văn hóa bị đè bẹp sẽ trỗi dậy
quay trở lại cuộc sống; hiện nay đang quay trở lại một cách mạnh mẽ với tất cả sự
quá tải của nó; đó cũng chính bằng chứng về sức sống tự nhiên, bền bỉ của văn hóa.
Điều đó chứng tỏ, không thể và không bao giờcái chết của một nền văn hóa, chỉ
cái chết của một dân tộc về văn hóa hay về tinh thần nếu chính trị tiếp tục can thiệp
vào quá trình hình thành và phát triển tự nhiên của văn hóa.
3, Hệ thống pháp luật phi tự nhiên - Hệ quả của nền văna phi tự nhiên
Văn hóa chính cuộc sống; do đó, khi m biến dạng văn hóa, những người cầm
quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống. Hệ thống pháp luật, để thể điều chỉnh được
cuộc sống, cũng bị biến dạng theo; nói cách khác, để tương thích với một cuộc sống đã
bị biến dạng thì bản thân pháp luật cũng phải méo sự méo đáng sợ nhất của
pháp luật chính là sự không thừa nhận quyền sở hữu của con người.
Chúng ta đều biết rằng, sở hữu là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của một
hội văn minh, sở hữu cũng quyền con người căn bản nhất. những nơi văn hóa
bị thao túng, người ta không thừa nhận sở hữu nhân với hy vọng sẽ biến con người
trở nên cao quý n không còn những tham vọng vật chất. Nhưng, họ đã lầm; họ đã
không nhận ra rằng, loại bỏ sở hữu nhân chính một trong những hành vi phá hoại
mạnh nhất đời sống văn hóa của con người rằng, khi tiêu diệt quyền sở hữu hay ý thức
sở hữu của con người đối với những vật cụ thể, thì người ta đã đồng thời tiêu diệt cả ý
thức sở hữu của con người đối với những tài sản tinh thần pháp luật một trong số
đó. Con người không cảm thấy mình chủ sở hữu của pháp luật; con người ứng xử một
cách thiếu chừng mực với pháp luật và dần dần, con người chà đạp lên cả những tài sản
tinh thần của mình. những nơi này, tham nhũng, dưới nhiều hình thức, tồn tại ngang
nhiên xu hướng ngày càng tinh vi hơn. Đó chính kết quả tất yếu của việc không
thừa nhận sở hữu nhân. Từ trước đến nay, người ta vẫn cho rằng, tham nhũng sự
suy đồi về đạo đức, nhưng theo em, nếu coi tham nhũng như biểu hiện của sự suy đồi
về đạo đức, thì tức chúng ta đang đơn giản hóa tham nhũng nếu tiếp tục với nhận
thức như vậy thì chúng ta không thể khắc phục được tình trạng lan tràn của tham nhũng.
Hơn nữa, như đã phân tích trong phần trước, khuyết tật quan trọng nhất của nền văn
hóa phi tự nhiên tính đơn giản; chính đã tiêu diệt sự đa dạng của đời sống. Chính
trong môi trường như vậy, cái chết vmặt tinh thần của con người đã tạo hội cho sự
lộng hành của một khuynh hướng đã được nhà cầm quyền lựa chọn thậm chí, còn tạo
ra nền văn hóa lộng hành. Sống trong môi trường đơn khuynh hướng ấy, một số người
tưởng rằng mình đang hít thở bầu không khí tự do không nhận ra rằng, mình đang
nạn nhân của sự lộng hành, nạn nhân của sự độc quyền lẽ phải hay độc quyền chân lý.
9
Một trong những công cụ các nhà cầm quyền dùng để tăng cường, kiểm soát con
người trong môi trường ấy chính luật pháp. Chỉ những hệ thống pháp luật méo
mới bảo đảm sở tồn tại hợp pháp của sự lộng hành; cũng chỉ những hệ thống pháp
luật méo mới bảo trợ cho những hành vi tham nhũng tinh thần như vậy.Những hệ
thống pháp luật như vậy, do bị cấy những yếu tố không khả năng biến thành văn hóa,
nên không chỉ tự mâu thuẫn với nhau mà còn mâu thuẫn với quá khứ và mâu thuẫn với
năng lực thực hiện của xã hội.
Những phân tích trên cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa đến pháp luật. Tuy
nhiên, sẽ rất phiến diện nếu chúng ta không phân tích ảnh hưởng ngược lại của pháp
luật đối với văn hóa. Với cách công cụ điều chỉnh hành vi của con người, một hệ
thống pháp luật méo sẽ tạo ra những hành vi méo mó. duy cũng một loại hành
vi, do đó, hệ thống pháp luật méo còn tạo ra cả những duy méo mó. Với thời
gian, những hành vi duy méo đó trở thành những thói quen méo củng cố
thêm cho nền văn hóa vốn đã méo đó. Một dân tộc sở hữu cả nền văn hóa dị dạng
lẫn hệ thống pháp luật méo như vậy là một dân tộc đã chết về mặt văn hóa hay chết
về đời sống tinh thần.
4, Hướng tới một hệ thống luật pháp tiên tiến
Những phân tích vmột hệ thống pháp luật méo hệ quả của một nền văn hóa
phi tự nhiên cho thấy, một hệ thống pháp luật tiên tiến phải một hệ thống pháp luật
lành mạnh được xây dựng trên một nền văn hóa lành mạnh. Trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu hóa hiện nay, nền văn hóa lành mạnh ấy còn phải một nền văn hóa mở.
Vậy, làm thế nào để có được một hệ thống pháp luật tiên tiến như vậy?
4.1.
Tự do - Tinh thn của pháp lut
hội nào cũng cần pháp luật như một công cụ điều chỉnh hành vi của con nời
trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, nhưng trên thực tế, con người chịu sự điều
chỉnh của văn hóa nhiều hơn pháp luật con người luôn hành động theo tập quán,
theo thói quen... Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp pháp luật được sử dụng để áp đặt
hành vi của con người thì con người vn hành động theo thói quen, theo những kinh
nghiệm văn hóa của mình, do đó, họ vi phạm pháp luật. Vấn đề đặt ra là, pháp luật
phải được xây dựng như thế nào để thể biến thành văn hóa đi vào cuộc sống của
con người? Nếu pháp luật không biến thành các giá trị văn hóa thì không tác dụng
điều chỉnh hành vi của con người? Em cho rằng, để làm được như vậy trước tiên cần
phải hiểu tinh thần của pháp luật, đó chính là tự do.
Từ thời kỳ Khai sáng, các triết gia đã đi đến kết luận rằng, pháp luật những khế ước
hội, tức kết quả của hoạt động thỏa thuận giữa con người với nhau để tham gia
bình đẳng vào quá trình thỏa thuận, con người cần phải tự do. Nếu không tự do thì
con người không nhận thức được cuộc sống, do đó, không thỏa thuận được. Chúng ta
10
đều biết rằng, tính phức tạp của cuộc sống chính nguồn gốc của tính phong phú về văn
hóa tính thực tế của pháp luật. Người không nhận thức được cuộc sống người không
lường hết được các tình huống của cuộc sống, do đó, không đủ kinh nghiệm để tham
gia vào quá trình thỏa thuận, quá trình đó, người ta hy sinh những quyền tự do
bản năng của mình tạo ra những quyền tự do mang tính tự giác. Mặt khác, nếu không
đủ tự do thì con người sẽ vụng về khi thỏa thuận. Kết quả là, thay được lợi từ việc
đóng góp phần tự do quý giá của mình, anh ta sẽ bị thua thiệt. Cảm giác về sự thua thiệt
khi tham gia vào quá trình thỏa thuận sẽ khiến con người cảm thấy pháp luật, thay vì
công cụ bảo vệ quyền tự do của con người, lại một thứ nhà vô hình đối với con
người, hạn chế tự do của con người. Để tránhnh trạng như vậy, tự do buộc phải điểm
khởi đầu của mọi quá trình thỏa thuận cũng chính như vậy tự do trở thành tinh
thần của pháp luật.
Mặt khác, bản chất của cuộc sống sự đa dạng, do đó, một hệ thống pháp luật chỉ
giá trị khi nó mang trong mình tính đa dạng của cuộc sống. Nếu tự do không phải tinh
thần của pháp luật thì pháp luật không thể chứa đựng trong tính đa dạng của cuộc
sống. Điều đó cũng đồng nghĩa rằng, một hệ thống pháp luật sẽ trở nên không tương
thích với cuộc sống khi không phải kết quả của sự thỏa thuận kết quả của
việc áp đặt chủ quan của mt người hay một nhóm người. Văn hóa chính phổ rộng
lớn nhất của pháp luật không một hệ thống pháp luật nào ngoài văn hóa đủ năng
lực điều chỉnh tất cả các tình huống của cuộc sống. Chính vậy, kinh nghiệm văn hóa
nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật. Nếu pháp luật được xây dựng trên
những kinh nghiệm văn hóa, tức thừa nhận cuộc sống chứ không áp đặt lên cuộc sống,
thì tốc độ thâm nhập của pháp luật vào trong cuộc sống sẽ nhanh hơn, khi đó việc tuân
thủ pháp luật trở thành thói quen chất lượng văn hóa của con người. Kinh nghiệm về
việc xây dựng pháp luật các quốc gia phát triển chỉ ra rằng, pháp luật càng gần với tập
quán cũng như thói quen của con người, càng chất lượng văn hóa bao nhiêu thì pháp
luật càng dễ được chấp nhận bấy nhiêu. Điều đó hoàn toàn thể giải được bởi nếu
chúng ta không xây dựng pháp luật dựa trên những thói quen, thì con người sẽ cảm thấy
hẫng hụt khi hành động ngược với thói quen. Hành động ngược với thói quen sẽ tạo ra
thói quen mới, đến lượt mình, thói quen mới sẽ mâu thuẫn, phá vỡ các thói quen
tạo ra mâu thuẫn trong các hành vi của con người. Nói cách khác, nếu pháp luật không
được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa thì sẽ chia rẽ con người thông
qua việc chia rẽ hành vi của con người.
Cuối cùng, sở tự do tinh thần của pháp luật còn bởi tự do công cụ duy nhất
thể điều chỉnh tự do nhân trở thành tự do cộng đồng. Tự do nhân phần sở hữu
riêng của từng người còn tự do cộng đồng quỹ tự do mọi nời góp vào. Nếu
không các gtrị văn hóa thì ai điều chỉnhkiểm soát quá trình góp tự do? ng,
11
góp tự do kết quả của sự tự giác. Nếu không sự giác ngvề mặt văn hóa thì con
người không tôn trọng các khế ước tạo rac vùng bất hợp pháp trong cuộc sống. Các
vùng bất hợp pháp trong cuộc sống vẫn tồn tại nhiều i trên thế giới, đặc biệt
những nền văn hóa không lành mạnh,i pháp luật bất lực trong việc bảo vệ tự do của
con người. Do vậy, cách tốt nhất để khắc phục tình trạng bất lực của pháp luật chính
mở rộng sự giác ngộ về mặt văn hóa của con người.
4.2.
Văna mở - Điều kiện tiên quyết để hội nhập với pháp luật quốc tế
Một nền văn hóa mở, trước hết, cũng sản phẩm của tự do. Trong thời đại hội nhập
toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hóa, mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc
lập với thế giới bên ngoài. Điều đó nghĩa là, mỗi nền văn hóa, n bao giờ hết phải
luôn nâng cao năng lực hợp tác với các nền văn hóa khác, tức nâng cao tính mở của
chính mình. Sự mở của các nền văn hóa chính nguồn gốc của trạng thái hòa bình giữa
các dân tộc bởi khi con người hiểu biết và hiểu nhau thì sẽ tránh được rất nhiều sự va
chạm. Chính vậy, xây dựng một nền văn hóa tính mở chính nâng cao năng lực
tạo ra đời sống hòa bình của nhân loại.
Xét trên khía cạnh hẹp hơn, đối với mỗi cộng đồng, tính mở về văn hóa sẽ góp phần
nâng đỡ các cộng đồng lạc hậu đi qua những khó khăn về mặt nhận thức hay đi qua
ngưỡng của sự chậm phát triển.Đã đến lúc các cộng đồng văn hóa biệt phải nhận ra
rằng, hội của họ chắc chắn sẽ đến từ việc nâng cao tính mở của nền văn hóa, mở
cửa về văn hóa sẽ giúp một cộng đồng nâng cao năng lực thu nhận các giá trị tiến bộ
loại bỏ những gì lạc hậu cản trở sự phát triển, cũng tức nâng cao năng lực cạnh
tranh của chính cộng đồng đó. Do đó, một nền văn hóa mở hội hội nhập vào cộng
đồng quốc tế hay cơ hội phát triển của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc lạc hậu.
Mặt khác, mở cửa vvăn hóa sẽ tạo ra môi trường tinh thần cởi mở. Môi trường tinh
thần cởi mchính môi trường nâng đỡ các hệ thống luật pháp tham gia vào quá trình
hội nhập. Nếu tạo ra một hệ thống luật pháp không năng lực hội nhập thì ràng,
chúng ta đang bảo vệ tính khu trú của cộng đồng. Chúng ta đều biết rằng, trong luật học
một ngành luật rất nổi tiếng phức tạp - đó Luật So sánh nhằm phiên dịch sự khác
biệt của các quy định pháp luật của các cộng đồng, các quốc gia khác nhau. Trong thời
kỳ trước những m 50, Luật So sánh chỉ nhằm so nh giữa các quốc gia nhưng đến
nay, Luật So sánh còn phải so sánh cả các bộ luật quốc gia các bộ luật quốc tế. Một
lúc nào đó, khi sự chênh lệch phát triển giữac quốc gia được giảm bớt thì những hoạt
động quốc tế sẽ được quy định rất giống nhau các bộ luật. Khuynh ớng các điều luật
trở nên giống nhau tốc độ giống nhau của chúng, không nghi nggì, sẽ bị chi phối
bởi các giá trị mở của nền văn hóa. Việc thừa nhận các giá trị tự do, dân chủ cũng đồng
nghĩa người ta xây dựng luật dựa trên thỏa thuận của các thành viên của cộng đồng.
Nếu những thành viên của một cộng đồng lạc hậu thì không thể những điều luật
12
tiến bộ được. Do vậy, xây dựng một nền văn hóa mở chính hạn chế tính lạc hậu của
các cộng đồng dân tộc, để tạo ra khả năng thể tiến đến các thỏa thuận tiến bộ cũng
như khả năng hợp tác giữa các dân tộc.
Từ những phân tích trên, em muốn nhấn mạnh rằng, chính văn hóa điều chỉnh hành
vi của con người mạnh hơn cả pháp luật. Do đó, pháp luật hay mọi khế ước hội phải
được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa chứ không phải chỉ những kinh
nghiệm pháp lý. Để xây dựng một hệ thống pháp luật với tinh thần như vậy, chúng ta
không sự lựa chọn nào khác ngoài việc thừa nhận tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống
đảm bảo tính đa khuynh hướng của văn hóa. Đó một nền văn hóa lành mạnh - nền
tảng của một hệ thống pháp luật lành mạnh. Nhưng, trên hết thảy, cần phải ý thức được
rằng, văn hóa pháp luật lành mạnh đều phải hướng tới bảo vệ các giá trị tự do của
con người. Chỉ khi làm được như vậy, con người mới đạt đến trạng thái phát triển thực
sự.
Thật vậy, như đã nói trên, "văn hóa điều chỉnh hành vi của con người mạnh hơn cả
pháp luật", cũng vì lẽ đó, BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định
về "áp dụng tập quán" trong quan hệ dân sự và giải quyết vụ việc dân sự (Điều 5 BLDS
năm 2015 và Điều 45 BLTTDSm 2015).
Theo đó, "tập quán" quy tắc xử sự nội dung ràng để xác định quyền, nghĩa vụ
của nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành lặp đi lặp lại
nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng,
miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.
Điều kiện để áp dụng tập quán bao gồm:
Các bên trong quan hệ dân sự không thỏa thuận.
Pháp luật không quy định (chưa điều luật để áp dụng).
Tập quán dự định áp dụng không trái các nguyên tắc bản của pháp luật dân sự.
Một dụ về áp dụng tập quán trong thực tiễn thể kể đến chính Án lệ số
13/2017/AL "về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế sở của L/C bị hủy bỏ".
Tình huống án lệ:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thỏa thuận phương thức thanh toán bằng thư
tín dụng (L/C), thỏa thuận thực hiện L/C theo tập quán thương mại quốc tế (Quy tắc thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương
mại Quốc tế) phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Hp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ.
Giải pháp pháp lý:
13
Trường hợp này, Tòa án phải xác định thư tín dụng (L/C) không bị mất hiệu lực thanh
toán do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sở của thư tín dụng (L/C) bị hủy
bỏ.
Như vậy, trong án lệ này, tòa án đã áp dụng tập quán thương mại quốc tế thể hiện
trong "Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần th6 m
2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc tế".
IV, u quan điểm nhân về thực trạng n hoá pháp luật hiện nay đề
xuất giải pháp
Văn hóa pháp luật - một trong những hình thái của văn hóa, vai trò đặc biệt quan
trọng trong thực hiện chiến lược xây dựng con nời Việt Nam phát triển toàn diện - trụ
cột bản của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc theo
quan điểm trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
1, Vai trò của văna pháp luật trong thực tiễn đời sống
Từ phương diện áp dụng trong thực tiễn đời sống, văn hóa pháp luật khái niệm chỉ
một trạng thái tốt, chất lượng của đời sốnghội của quốc gia, được thể hiện trình
độ nhất định về hoàn thiện pháp luật, chất lượng hiệu quả thực thi pháp luật, về ý thức
tôn trọng, tuân thủ pháp luật, ý thức về quyền, nghĩa vụ của mọi cá nhân.
Phát triển văn hóa sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người văn hóa,
phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh một trong những quan
điểm chủ đạo trong tổng thể nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để
văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước bảo vệ Tổ
quốc.
Tạo lập văn hpháp luật một cách bền vững vai trò đặc biệt quan trọng trong thực
hành đạo đức nhân, dân chủ hóa đời sốnghội, xây dựng thực thi pháp luật. Nội
dung bản về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện bao gồm xây dựng
những phẩm chất tốt đẹp và chống những biểu hiện sai trái về đạo đức, pháp luật.
Vai trò giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện sự định hướng cho các thành viên
hội lựa chọn cách xử sự hợp để tránh xung đột với các nhân khác, cách giải
quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật.
Văn hóa pháp luật góp phần tích cực trong việc điều tiết ý thức, hành vi, chuẩn mực
đạo đức, chuẩn mực pháp luật không chỉ trong các mối quan hệ của con người với nhau
cả trong quan hệ của con nời với môi trường thiên nhiên, định hướng con người
đến những giá trị cốt lõi Chân - Thiện - Mỹ - Ích.
14
2, Một số giải pháp bản về văna pháp luật
Để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cần phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp văn hóa, kinh tế, chính trị, pháp lý. Từ phương diện pháp lý, cần triển khai
thực hiện một số giải pháp về văn hóa pháp luật góp phần thực hiện chiến lược xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Một , kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức, lối sống
tuân theo pháp luật phù hợp đạo đức hội. Giáo dục pháp luật hướng vào việc hình
thành, nâng cao thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật, niềm tin của con người vào pháp
luật, tôn trọng quyền, tự do, lợi ích chính đáng của con người, ý thức trách nhiệm đối
với nời khác, cộng đồng hội. Làm sao cho việc phòng, chống, việc xử phạt cái
ác, khuyến khích, bảo vệ cái thiện phải được th hiện nét hơn trong pháp luật thực
thi pháp luật. Đó chính cách tốt nhất để phát huy tác động tích cực giữa pháp luật
đạo đức, đồng thời cách tốt nhất để vừa “thượng tôn pháp luật, vừa thực hành đạo
đức” trong cuộc sống hiện đại. Không chỉ dừng lại những chế tài pháp luật phải
“gõ cửa”, “đánh thức” lương tâm mỗi con người để họ thận trọng n, trách nhiệm
hơn về mỗi hành vi của mình. Do đó, cần tạo luận hội để lên án những hành vi vi
phạm đạo đức pháp luật. Đồng thời, ủng hộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho những
hành vi hợp pháp, hợp đạo đức.
Hai , đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo
tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật. Cần thiết kết hợp phổ biến, giáo dục về
kiến thức pháp luật với những k năng cần thiết trong thực hiện pháp luật. Đưa các yếu
tố pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong giáo dục đạo đức ngược lại; phát
triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp nâng
cao an toàn pháp cho các nhân, tổ chức trong các quan hệhội, hoạt động hội.
Ba , giáo dục ý thức về quyền, nghĩa vụ trách nhiệm của con người. Trong nội
dung giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cần trang bị kiến thức, kỹ năng
thực hành văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người. Văn hóa quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm con người một thể thống nhất bao gm các thành tố bản là: sự hiểu biết
- kiến thức bản về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, pháp của con người, ý
thức tôn trọng quyền con người, tôn trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức; kỹ năng sử
dụng, bảo vệ các quyền con người, thực hiện nghĩa vụ bản, nghĩa vụ cụ thể theo quy
định pháp luật. Để xây dựng con người phát triển toàn diện, cần thiết phải xây dựng văn
hóa quyền, nghĩa vụ trách nhiệm con người. Con người phát triển toàn diện trước hết
phải con người hiểu biết các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trước cộng đồng, hội;
tôn trọng, tuân thủ pháp luật thành thói quen, ứng xử văn hóa trong mọi hoạt động
hội của bản thân mình. một thực tế là, khi thực hành các quyền, tự do của mình,
nhân rất dễ rơi vào trạng thái nguy lạm dụng, lợi dụng, ợt quá giới hạn tràn
15
sang miền cấm của pháp luật đạo đức hội, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích
của những người khác hội. hội càng hiện đại, khoảng không tự do càng rộng
thì lại càng cần đến ý thức thực hành trách nhiệm - bổn phận nhân đối với những
người xung quanh, cộng đồng và hội. Văn hóa nói chung, văn hóa quyền con người,
văn hóa nghĩa vụ, trách nhiệm con người không chỉ những hành vi nhất thời, hình thức
phải trở thành những thói quen ứng xử, nhận thức và hành vi thực tế của mỗi con
người trong mọi không gian, thời gian, lĩnh vực, địa bàn; phải được nhận thức, thực hành
thường xuyên, mọi nơi, mọi thời điểm, trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động
của các quan công quyền, nhân công quyền chứ không chỉ những khẩu hiệu, báo
cáo... Tạo lập một cách bền vững văn hóa quyền con người, văn hóa nghĩa vụ, trách
nhiệm con người cũng chính tiền đề, điều kiện đảm bảo thực hiện mục tiêu xây dựng
con người phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay.
Bốn , xây dựng văn hóa pháp luật đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Văn hóa pháp
luật của cán bộ, viên chức, công chức nhà nước ảnh hưởng mạnh mđến văn hóa
pháp luật của các nhân, trong đó việc tạo lập niềm tin vào công pháp luật -
một trong những điều kiện bản đảm bảo ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Đối với
đội ngũ cán bộ, viên chức, công chức, trình độ văn hóa pháp luật phải được thể hiện, đo
lường thông qua các tiêu chí bản: trình độ hiểu biết pháp luật, bản lĩnh kỹ năng áp
dụng, thi hành pháp luật, ý thức, hành vi tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con người. Xây dựng văn hóa công vụ để hình
thành một cách bền vững ý thức trách nhiệm đạo đức công vụ, tính chuyên nghiệp, tôn
trọng, tuân thủ pháp luật thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ, nhiệm vụ được
giao một cách trung thực, tận tụy, mẫn cán, cẩn trọng, tránh xung đột lợi ích, không vụ
lợi nhân chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện. Cần đưa nội dung giáo dục liêm
chính vào trong giáo dục đạo đức giáo dục pháp luật, giáo dục quyền con người theo
cách mới, gắn với chế độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, phòng, chống
tham nhũng.
Năm , đảm bảo công bằng, nghiêm minh, kịp thời trong thi hành, áp dụng pháp luật,
xây dựng niềm tin pháp luật. Tình trạng pháp luật không được thực hiện, hay thực hiện
không nghiêm minh, không kịp thời, không minh bạch, công bằng trong thực thi pháp
luật của các quan công quyền sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đối với ý thức
hành vi hợp pháp luật của con người.
Sáu , hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cân bằng các loại lợi ích, đơn giản,
minh bạch, nhất quán, thống nhất, ổn định. Tính ổn định tương đối, phù hợp cuộc sống,
công khai, minh bạch của pháp luật việc thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng,
kịp thời sẽ một trong những điều kiện bản để tạo dựng môi trường pháp lành
mạnh, hiệu quả. Tình trạng tần suất cao về sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản pháp luật,
16
quy định pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo nhau trong hệ thống pháp luật sẽ những
lực cản cho việc thực thi pháp luật, dẫn đến tâm coi thường, mất niềm tin vào pháp
luật. Các chế tài pháp luật cần đủ độ răn đe phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả
của các hành vi vi phạm pháp luật một trong những điều kiện bản đảm bảo thực
hiện các hành vi hợp pháp, giảm thiểu vi phạm pháp luật.
Bảy , xây dựng tính tích cực pháp luật, tạo lập luận hội lên án những biểu hiện
coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật; hỗ trợ, tôn vinh những hành vi hợp pháp,
văn hóa pháp luật. Tạo lập dư luậnhội chính một trong những biện pháp mạnh mẽ
để đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, khuyến khích, hỗ trợ các hành vi hợp
pháp, đặc biệt trong một số lĩnh vực như giao thông, sản xuất, kinh doanh các mặt
hàng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh...
17
LỜI KẾT
Những m hiểu vvăn hóa trên đây đã không chỉ giúp chính em ôn lại được những
kiến thức đã học về văn hóa hay pháp luật, còn giúp em thêm những hiểu biết,
kinh nghiệm cụ thể khi hội được tìm hiểu càng sâu sắc về các vấn đề này.
Quả thực văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người, đẩy mạnh sự
phát triển, giao lưu giữa người với người, quốc gia với quốc gia,… Văn hóa đã hỗ trợ
pháp luật một cách rất hiệu quả trong việc phản ánh những tưởng, quan điểm của
người dân, nhà nước về những đúng, sai xuất hiện một cách khách quan trong xã
hội. Em xin chân thành cảm ơn hai Nguyễn Thị Mai Trần Thị Thanh Thủy
đã giảng dạy bộ môn Văn hóa đại cương cho em và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình
hoàn thành bài tiểu luận này.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Văna gì? Đặc trưng, chức năng vai trò của văn hóa? Luật Nguyễn
Văn Dương (https://luatduonggia.vn/van-hoa-la-gi-dac-trung-chuc-nang-va-vai-
tro-cua-van-hoa/)
2.
Khái niệm pháp luật trong hệ thống khoa học pháp Thế giới Luật
(https://thegioiluat.vn/bai-viet/khai-niem-phap-luat-trong-he-thong-khoa-hoc-
phap-ly-1358/)
3.
Ảnh ng của n hóa đối với pháp luật? Luật Bùi Thị Nhung
(https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx)
4.
Nâng cao văn hóa pháp luật để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện GS.TS Hoàng Thị Kim Quế - TS. Lê Thị Phương Nga (Đại học Quốc gia
Nội) (https://baophapluat.vn/nang-cao-van-hoa-phap-luat-de-xay-dung-con-
nguoi-viet-nam-phat-trien-toan-dien-post453915.html)
19

Preview text:

***
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ VĂN HÓA ĐẠI CƯƠNG
Đề bài: Có quan điểm cho rằng: “Pháp luật được xây dựng dựa trên những
kinh nghiệm văn hóa và có khả năng biến thành văn hoá để điều chỉnh cuộc
sống”.
Bằng những hiểu biết về văn hoá và pháp luật, anh/chị hãy phân tích
và chứng minh nhận định trên.

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Xuân Bảo
Mã sinh viên: 2212650009
Lớp: NGOH102(GDD1+2-HK2-2223).1 Khóa: K61
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Thanh Thủy
TS. Nguyễn Thị Tú Mai
Hà Nội, tháng 05 năm 2023 MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................ 01
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 02
I, Phân tích khái niệm văn hoá và đặc trưng của văn hoá ............................ 03
1. Văn hóa là gì? ................................................................................................... 03
2. Đặc trưng của văn hóa: .................................................................................... 04
II, Phân tích khái niệm pháp luật .................................................................. 05
III, Phân tích mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật .................................. 06
1, Văn hóa - Sản phẩm của tự do ........................................................................ 06
2, Nền văn hóa phi tự nhiên và những khuyết tật của nó ................................... 07
3, Hệ thống pháp luật phi tự nhiên - Hệ quả của nền văn hóa phi tự nhiên ..... 09
4, Hướng tới một hệ thống luật pháp tiên tiến .................................................... 10
IV, Nêu quan điểm cá nhân về thực trạng văn hoá pháp luật hiện nay và đề
xuất giải pháp ................................................................................................. 14

1, Vai trò của văn hóa pháp luật trong thực tiễn đời sống ................................. 14
2, Một số giải pháp cơ bản về văn hóa pháp luật ................................................ 15
LỜI KẾT .................................................................................................................. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 19 1 LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con người, đặc
biệt trong quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất, tồn tại xã hội, ý thức xã hội,… Văn
hóa tạo nên giá trị to lớn về tinh thần cho con người và cả một đất nước. Tìm hiểu về văn
hóa vẫn luôn là một chủ đề hay và đáng thử đối với tất cả mọi người, đặc biệt là sinh
viên đại học – những chủ nhân tương lai của đất nước. Hơn thế nữa, văn hóa còn có mối
quan hệ vô cùng sâu sắc với pháp luật trong bối cảnh của đất nước hiện nay. Ngoài ra
các thực trạng về văn hóa pháp luật tại Việt Nam cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Tất
cả những điều đó đều sẽ được trình bày và phân tích một cách rõ ràng, cụ thể tại bài tiểu luận về văn hóa này. 2
I, Phân tích khái niệm văn hoá và đặc trưng của văn hoá 1. Văn hóa là gì?
Trong quá trình đổi mới thể chế, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đã
tạo những tiền đề, điều kiện, môi trường,, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với
văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với văn hóa, cũng như vai
trò của tất cả các chủ thể trong xã hội về văn hóa, đã tạo nên bước phát triển mới của nền
văn hóa Việt Nam. Những thành tựu cũng như yếu kém, bất cập trong phát triển văn hóa,
đã được tổng kết – đánh giá chính thức nêu trong các văn kiện của Đảng (Nghị quyết các
Đại hội Đảng và nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng), Nhà nước.
“Văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa thường được dùng theo nghĩa
thông dụng là để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa
chuyên biệt chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)… Trong khi
theo nghĩa rộng thì văn hóa hóa gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến
tín ngưỡng, phong lục, lối sống, lao động…
Tuy nhiên ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định nghĩa
khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm trước hết cần xác định được những đặc trưng
cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái niệm
(sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến
hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thông, như giá trị, như hoạt động, như kí hiệu,
như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội…), có thể xác định được 4 đặc trưng cơ
bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hóa như sau:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động, thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu
– những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào
hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch
sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn
phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái quát này, trong hoạt động quản lý
nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lạc: Quản lý văn hóa là quản lý
các hoạt động sáng tạo và thu hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ thuật. Thực
tế quản lý văn hóa không phải như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng không phải chỉ có thế. 3
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Định nghĩa của Hồ
Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn.
Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian được lặp
đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá
trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành kho tàng
quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản văn hóa của toàn nhân loại.
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương
tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do con
người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để
phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Văn hóa trong tiếng anh là Culture.
2. Đặc trưng của văn hóa:
Văn hóa có tính hệ thống
Cần phải phân biệt rạch ròi giữa tính hệ thống với tính tập hợp. Tính hệ thống của văn
hóa có “xương sống” là mối liên hệ mật thiết giữa các thành tố với nhau, các thành tố có
thể bao gồm hàng loạt các sự kiện, nó kết nối những hiện tượng, quy luật lại với nhau
trong quá trình phát triển. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện được các
chức năng của xã hội. Lý do là bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh
vực. Từ đó có thể làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho xã hội những
phương tiện cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên. Nói cách khác, văn hóa xây
lên nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiến bộ của xã hội. Có lẽ chính vì thế mà người
ta thường gắn văn hóa với loại từ “nền” để tạo thành cụm từ thông dụng “nền văn hóa”.
Văn hóa có tính giá trị
Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa là tốt đẹp, là có
giá trị. Người có văn hóa cũng chính là một người có giá trị. Do đó mà văn hóa trở thành
thước đo chuẩn mực cho con người và xã hội. Văn hóa tự chính bản thân nó cũng mang
trong mình những giá trị riêng bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Xét về mặt ý
nghĩa thì văn hóa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức. Đứng
trên góc độ thời gian lại có thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.
Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác nhau ta lại có 4
thể có cái nhìn khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta có thể đánh giá văn hóa dưới những
góc độ khách quan quan khác nhau.
Văn hóa có tính nhân sinh
Tính nhân sinh của văn hóa có nghĩa rằng văn hóa được coi như một hiện tượng xã
hội. Hiện tượng xã hội được hiểu là những hiện tượng do con người sáng tạo ra hay còn
gọi là nhân tạo, khác với các giá trị tự nhiên hay còn gọi là thiên tạo. Chính vì là một
thực thể có tính nhân sinh nên văn hóa chịu tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của
con người. Đồng thời, vì có tính nhân sinh nên văn hóa vô tình trở thành sợi dây liên kết
giữa người với người, vật với vật và cả vật với người. Đó chính là ý nghĩa nhân sinh sâu
sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.
Văn hóa có tính lịch sử
Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một không gian và thời gian
nhất định. Chính vì thế mà văn hóa cũng gắn liền với chiều dài lịch sử, thậm chí là văn
hóa hàm chứa lịch sử. Tính lịch sử khiến cho văn hóa mang đặc trưng có bề dày, có chiều
sâu, có hệ giá trị. Nhờ có tính lịch sử mà văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách
khác đó là biến văn hóa trở thành truyền thống văn hóa. Văn hóa có tính lịch sử cao cần
phải được tích lũy, được gìn giữ và không ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, không
ngừng sản sinh và phát triển để hoàn thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,…
II, Phân tích khái niệm pháp luật
Cũng như nhà nước, đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật như: Pháp
luật là ý muốn của Thượng đế; pháp luật là phương tiện để quản lý xã hội (pháp luật gắn
liền vứi xã hội, ở đâu có xã hội thì ở đó có pháp luật); pháp luật là những tiêu chuẩn căn
bản mà mọi người phải tuân theo để quản lý xã hội và trừ khử những điều gian tà, bất
chính trong xã hội; pháp luật là công lý đại diện cho sự công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích
cho tất cả mọi người trong xã hội; pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật;…
Các quan điểm hiện đại đều cho rằng, pháp luật công cụ pháp lý xã hội ra đời khi xã
hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt một trình
đọ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt là khi trong xã hội có sự phân hóa thành
các giai cấp có lợi ích đói lập nhau, các công cụ pháp lý xã hội khác như tập quán, đạo
đức, tính điều tôn giáo … không còn đủ khả năng duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những điều kiện như vậy, nhà nước đã ban hành ra
pháp luật (thừa nhận những quy định đã có trong xã hội là pháp luật và bảo đảm cho
chúng được thực hiện, nhà nước còn tiến hành đặt ra những quy định pháp luật mới) để 5
tổ chức và quản lý xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Theo nghĩa hẹp, pháp luật gồm các quy định mà phần lớn là các quy tắc xử sự chung
do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích cảu cả xã hội và vì lợi
ích của giai cấp thống trị.
Theo nghĩa rộng, pháp luật không chỉ gồm các quy tắc xử sự chung mà còn bao hàm
cả các nguyên tắc xử sự, các tư tưởng, học thuyết pháp lý … được thể hiện ở các loại
nguồn pháp luật khác nhau.
Thông thường, pháp luật được hiểu khái quát như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự
tồn tại và phát triển của cả xã hội, đồng thời vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị.

III, Phân tích mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật
Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là
cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh
nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc
sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở rất nhiều nơi trên thế giới, hệ thống pháp luật tỏ ra
không tương thích với cuộc sống. Phải chăng yếu tố văn hóa, ở những nơi đó, đã bị tách
rời khỏi pháp luật hay bản thân pháp luật được xây dựng trên một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên?

Phải khẳng định ngay rằng, một nền văn hóa phi tự nhiên chắc chắn sẽ dẫn đến một
một hệ thống pháp luật phi tự nhiên. Vậy văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến pháp luật?
Trước khi đi vào lý giải vấn đề, em xin bắt đầu từ một nền văn hóa được hình thành và
phát triển tự nhiên như chính cuộc sống của con người. Nền văn hóa đó, trước hết, là sản phẩm của tự do.
1, Văn hóa - Sản phẩm của tự do
Văn hóa, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng đồng,
một dân tộc, do đó, văn hóa chính là cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống. Quá trình hình thành văn hóa là một quá trình tự nhiên và khách quan. Từ xưa
đến nay, con người luôn sống và hành động theo những lẽ phải của tâm hồn mình, tức là
nhận thức về "cái tất yếu", kết quả là tạo ra thành tựu. Những thành tựu đó, cùng với thời
gian, đã kết tinh lại và trở thành văn hóa. Một nền văn hóa hình thành tự nhiên như vậy
là một nền văn hóa lành mạnh. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cần phải thấy là, chất xúc
tác cho quá trình hình thành của văn hóa không gì khác chính là tự do, vì nếu không có
tự do thì đời sống tinh thần của con người không phát triển. Đời sống tinh thần của con 6
người không phát triển thì không có đời sống văn hóa lành mạnh. Vậy tiêu chuẩn để
phân biệt giữa một nền văn hóa lành mạnh và một nền văn hóa không lành mạnh là gì?
Đó chính là tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống.
Chúng ta đều biết rằng, bản chất của cuộc sống chính là tính đa dạng tự nhiên và tự
do là điều kiện quan trọng nhất để không chỉ đảm bảo mà còn phát huy tính đa dạng ấy.
Tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khuynh
hướngcủa cuộc sống và sau khi trải qua quá trình sàng lọc một cách tự nhiên, những
khuynh hướng còn lại là những khuynh hướng hợp lý. Nếu con người áp đặt một khuynh
hướng nào đó một cách tuyệt đối thì tức là đã tiêu diệt sự cạnh tranh giữa các khuynh
hướng, cũng tức là tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống. Như vậy, một nền văn hóa lành
mạnh là một nền văn hóa hình thành và phát triển một cách tự nhiên từ bản chất đa dạng
của cuộc sống. Ngược lại, một nền văn hóa không lành mạnh là một nền văn hóa mà ở
đấy người ta sử dụng công cụ nhà nước để áp đặt các giá trị.
Mặt khác, văn hóa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau và chấp nhận sự bình đẳng giữa các
thành tố cấu tạo nên cuộc sống; nói cách khác, nếu không có sự chấp nhận lẫn nhau và
bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống thì không có văn hóa lành mạnh. Trong
quá trình đi đến sự chấp nhận đó chắc chắn không thể thiếu sự đấu tranh bình đẳng của
các thành tố và do đó, văn hóa phản ánh cả tính xung đột và tính hòa hợp. Yếu tố đảm
bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh và hòa hợp giữa các yếu tố của cuộc sống không
gì khác chính là tự do. Tự do đem lại cho con người sự phong phú về nhận thức và đến
lượt mình, sự phong phú về nhận thức sẽ tạo ra sự đa dạng về khuynh hướng. Khi đó,
trong một môi trường có sự bình đẳng giữa các khuynh hướng, con người được tự do
nhận thức và đi đến thỏa thuận. Hơn nữa, hết thảy những gì đẹp đẽ đều được sáng tạo
khi con người tự do, hay khi con người đạt đến trạng thái tự do và chính những đóng góp
đẹp đẽ đó của con người đã tạo ra nền văn hóa lành mạnh, với tư cách là sản phẩm của tự do.
Như vậy, rõ ràng ở đâu nền văn hóa có tính đa dạng, ở đâu mà sự tồn tại của các
khuynh hướng của cuộc sống được tôn trọng, thì ở đó có tự do và khi đó, văn hóa là hệ
quả của tự do. Văn hóa ấy hỗ trợ cuộc sống và chính là môi trường tinh thần của tất cả
những gì còn lại của cuộc sống.
2, Nền văn hóa phi tự nhiên và những khuyết tật của nó
Một nền văn hóa hình thành tự nhiên, đảm bảo tính đa dạng tự nhiên luôn luôn là lý
tưởng, nhưng trên thực tế không phải là không có những sự can thiệp, áp đặt của con
người đối với văn hóa. Sự can thiệp đó, trên bất kỳ khía cạnh nào, cũng là phi tự nhiên
vì khi đó, sự đa dạng tự nhiên của đời sống bị đơn giản hóa, thậm chí tới mức phi lý. Khi
con người bị áp đặt về nhận thức thì anh ta sẽ phản ánh một cách đơn giản về cuộc sống.
Sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của con người bằng cả hành vi lẫn tư duy, đến 7
lượt mình, tạo ra sự đơn giản của nền văn hóa hay tạo ra một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên.
Xin hãy lùi về lịch sử để thấy tính không chừng mực của con người khi ứng xử với
văn hóa. Có thời, người ta sử dụng văn hóa như một công cụ chính trị, tức là họ tước bỏ
yếu tố tự do trong văn hóa và thao túng nó cho những mục đích chính trị. Vì hơn ai hết,
các nhà chính trị đều hiểu rõ rằng, văn hóa là công cụ điều chỉnh trên phạm vi rộng lớn
nhất, tinh tế và mạnh mẽ nhất đối với nhận thức và ứng xử của con người. Chính vì vậy,
họ luôn có tham vọng thao túng về mặt văn hóa để trên cơ sở đó, tạo ra tính ổn định trong
hoạt động cầm quyền của mình. Tham vọng đó, thực ra, cũng có thể hiểu được vì đảng
chính trị nào cũng tuyên truyền, phổ biến nhận thức chính trị của mình vào trong đời
sống. Sự tuyên truyền trong trường hợp như vậy không phải là không lành mạnh vì nó
là đương nhiên. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể đi theo, cổ vũ hay ưu tiên một khuynh
hướng chứ không thể dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất bằng việc phủ nhận
các khuynh hướng khác
. Việc dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất sẽ làm biến
mất tính đa khuynh hướng, hay tính đa dạng tự nhiên của văn hóa, mà xét về bản chất,
chính là tiêu diệt tính đa dạng của đời sống tinh thần của con người.
Thực ra, về bản chất, con người không thể tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống hay
nói đúng hơn là nếu tính đa dạng của cuộc sống bị tiêu diệt thì bản thân cuộc sống cũng
không tồn tại nữa, hay là cuộc sống đã chết về mặt tinh thần. Do đó, nếu trong khi cuộc
sống vẫn đa dạng, dẫu là sự đa dạng một cách bất hợp pháp, mà nền văn hóa không phản
ánh được điều đó thì bản thân nền văn hóa đó không có giá trị. Giá trị của một nền văn
hóa phi tự nhiên, nếu có chăng nữa, thì chính là bằng chứng của việc chính trị đã bóp méo văn hóa.
Nói về một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên không thể không nhắc đến những khuyết
tật của nó. Đó là, một nền văn hóa méo mó biến con người trở nên đơn giản, đơn giản
tới mức hết thảy mọi người đều giống nhau một cách phi lý vì phải tuân theo một khuôn
mẫu định sẵn. Cũng chính nền văn hóa đó biến con người trở nên cực đoan, cực đoan tới
mức trở thành nô lệ về mặt tinh thần cho một người hay một khuynh hướng nào đó. Nó
tiêu diệt tính cá nhân trong con người bằng việc buộc con người phải tôn sùng chủ nghĩa
tập thể một cách tuyệt đối. Và còn nhiều khuyết tật khác nữa mà phạm vi bài viết này
khôngthể đề cập hết được.
Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận rằng, khuyết tật căn bản nhất của một nền văn hóa
phi tự nhiên là tính đơn giản. Người ta đã lầm tưởng rằng, tính đơn giản đó có thể tạo ra
tính ổn định trong nhận thức của con người và do đó, tạo ra tính ổn định cho hoạt động
cầm quyền mà không nhận ra rằng, tính đơn giản đó đã làm chết cả một nền văn hóa,
"nhổ rễ" cả một dân tộc ra khỏi “mảnh đất tinh thần” của nó và làm cho những dân tộc
sở hữu những nền văn hóa phi tự nhiên đó trở thành những kẻ vất vưởng về mặt tinh 8
thần. Nhưng, với tư cách là sản phẩm của cuộc sống, văn hóa mang trong mình một sức
sống mãnh liệt, mãnh liệt đến mức không một tham vọng chính trị nào có thể tiêu diệt
được. Chính vì vậy, khi tình hình thay đổi, các yếu tố văn hóa bị đè bẹp sẽ trỗi dậy và
quay trở lại cuộc sống; hiện nay nó đang quay trở lại một cách mạnh mẽ với tất cả sự
quá tải của nó; đó cũng chính là bằng chứng về sức sống tự nhiên, bền bỉ của văn hóa.
Điều đó chứng tỏ, không thể và không bao giờ có cái chết của một nền văn hóa, mà chỉ
có cái chết của một dân tộc về văn hóa hay về tinh thần nếu chính trị tiếp tục can thiệp
vào quá trình hình thành và phát triển tự nhiên của văn hóa.

3, Hệ thống pháp luật phi tự nhiên - Hệ quả của nền văn hóa phi tự nhiên
Văn hóa chính là cuộc sống; do đó, khi làm biến dạng văn hóa, những người cầm
quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống. Hệ thống pháp luật, để có thể điều chỉnh được
cuộc sống, cũng bị biến dạng theo; nói cách khác, để tương thích với một cuộc sống đã
bị biến dạng thì bản thân pháp luật cũng phải méo mó và sự méo mó đáng sợ nhất của
pháp luật chính là sự không thừa nhận quyền sở hữu của con người.
Chúng ta đều biết rằng, sở hữu là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của một
xã hội văn minh, sở hữu cũng là quyền con người căn bản nhất. ở những nơi mà văn hóa
bị thao túng, người ta không thừa nhận sở hữu tư nhân với hy vọng sẽ biến con người
trở nên cao quý hơn vì không còn những tham vọng vật chất. Nhưng, họ đã lầm; họ đã
không nhận ra rằng, loại bỏ sở hữu tư nhân chính là một trong những hành vi phá hoại
mạnh nhất đời sống văn hóa của con người và rằng, khi tiêu diệt quyền sở hữu hay ý thức
sở hữu của con người đối với những vật cụ thể, thì người ta đã đồng thời tiêu diệt cả ý
thức sở hữu của con người đối với những tài sản tinh thần mà pháp luật là một trong số
đó
. Con người không cảm thấy mình là chủ sở hữu của pháp luật; con người ứng xử một
cách thiếu chừng mực với pháp luật và dần dần, con người chà đạp lên cả những tài sản
tinh thần của mình. ở những nơi này, tham nhũng, dưới nhiều hình thức, tồn tại ngang
nhiên và có xu hướng ngày càng tinh vi hơn. Đó chính là kết quả tất yếu của việc không
thừa nhận sở hữu tư nhân. Từ trước đến nay, người ta vẫn cho rằng, tham nhũng là sự
suy đồi về đạo đức, nhưng theo em, nếu coi tham nhũng như là biểu hiện của sự suy đồi
về đạo đức, thì tức là chúng ta đang đơn giản hóa tham nhũng và nếu tiếp tục với nhận
thức như vậy thì chúng ta không thể khắc phục được tình trạng lan tràn của tham nhũng.
Hơn nữa, như đã phân tích trong phần trước, khuyết tật quan trọng nhất của nền văn
hóa phi tự nhiên là tính đơn giản; chính nó đã tiêu diệt sự đa dạng của đời sống. Chính
trong môi trường như vậy, cái chết về mặt tinh thần của con người đã tạo cơ hội cho sự
lộng hành của một khuynh hướng đã được nhà cầm quyền lựa chọn và thậm chí, còn tạo
ra nền văn hóa lộng hành. Sống trong môi trường đơn khuynh hướng ấy, một số người
tưởng rằng mình đang hít thở bầu không khí tự do mà không nhận ra rằng, mình đang là
nạn nhân của sự lộng hành, nạn nhân của sự độc quyền lẽ phải hay độc quyền chân lý. 9
Một trong những công cụ mà các nhà cầm quyền dùng để tăng cường, kiểm soát con
người trong môi trường ấy chính là luật pháp. Chỉ có những hệ thống pháp luật méo mó
mới bảo đảm cơ sở tồn tại hợp pháp của sự lộng hành; cũng chỉ có những hệ thống pháp
luật méo mó mới bảo trợ cho những hành vi tham nhũng tinh thần như vậy.
Những hệ
thống pháp luật như vậy, do bị cấy những yếu tố không có khả năng biến thành văn hóa,
nên không chỉ tự mâu thuẫn với nhau mà còn mâu thuẫn với quá khứ và mâu thuẫn với
năng lực thực hiện của xã hội.
Những phân tích trên cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa đến pháp luật. Tuy
nhiên, sẽ là rất phiến diện nếu chúng ta không phân tích ảnh hưởng ngược lại của pháp
luật đối với văn hóa. Với tư cách là công cụ điều chỉnh hành vi của con người, một hệ
thống pháp luật méo mó sẽ tạo ra những hành vi méo mó. Tư duy cũng là một loại hành
vi, và do đó, hệ thống pháp luật méo mó còn tạo ra cả những tư duy méo mó. Với thời
gian, những hành vi và tư duy méo mó đó trở thành những thói quen méo mó và củng cố
thêm cho nền văn hóa vốn đã méo mó đó. Một dân tộc sở hữu cả nền văn hóa dị dạng
lẫn hệ thống pháp luật méo mó như vậy là một dân tộc đã chết về mặt văn hóa hay chết
về đời sống tinh thần.
4, Hướng tới một hệ thống luật pháp tiên tiến
Những phân tích về một hệ thống pháp luật méo mó là hệ quả của một nền văn hóa
phi tự nhiên cho thấy, một hệ thống pháp luật tiên tiến phải là một hệ thống pháp luật
lành mạnh và được xây dựng trên một nền văn hóa lành mạnh. Trong bối cảnh hội nhập
và toàn cầu hóa hiện nay, nền văn hóa lành mạnh ấy còn phải là một nền văn hóa mở.
Vậy, làm thế nào để có được một hệ thống pháp luật tiên tiến như vậy?
4.1. Tự do - Tinh thần của pháp luật
Xã hội nào cũng cần pháp luật như một công cụ điều chỉnh hành vi của con người
trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, nhưng trên thực tế, con người chịu sự điều
chỉnh của văn hóa nhiều hơn là pháp luật vì con người luôn hành động theo tập quán,
theo thói quen... Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp pháp luật được sử dụng để áp đặt
hành vi của con người thì con người vẫn hành động theo thói quen, theo những kinh
nghiệm văn hóa của mình, và do đó, họ vi phạm pháp luật. Vấn đề đặt ra là, pháp luật
phải được xây dựng như thế nào để có thể biến thành văn hóa và đi vào cuộc sống của
con người? Nếu pháp luật không biến thành các giá trị văn hóa thì không có tác dụng
điều chỉnh hành vi của con người? Em cho rằng, để làm được như vậy trước tiên cần
phải hiểu tinh thần của pháp luật, đó chính là tự do.
Từ thời kỳ Khai sáng, các triết gia đã đi đến kết luận rằng, pháp luật là những khế ước
xã hội, tức là kết quả của hoạt động thỏa thuận giữa con người với nhau và để tham gia
bình đẳng vào quá trình thỏa thuận, con người cần phải có tự do. Nếu không có tự do thì
con người không nhận thức được cuộc sống, do đó, không thỏa thuận được. Chúng ta 10
đều biết rằng, tính phức tạp của cuộc sống chính là nguồn gốc của tính phong phú về văn
hóa và tính thực tế của pháp luật. Người không nhận thức được cuộc sống là người không
lường hết được các tình huống của cuộc sống, do đó, không có đủ kinh nghiệm để tham
gia vào quá trình thỏa thuận, là quá trình mà ở đó, người ta hy sinh những quyền tự do
bản năng của mình và tạo ra những quyền tự do mang tính tự giác. Mặt khác, nếu không
có đủ tự do thì con người sẽ vụng về khi thỏa thuận. Kết quả là, thay vì được lợi từ việc
đóng góp phần tự do quý giá của mình, anh ta sẽ bị thua thiệt. Cảm giác về sự thua thiệt
khi tham gia vào quá trình thỏa thuận sẽ khiến con người cảm thấy pháp luật, thay vì là
công cụ bảo vệ quyền tự do của con người, lại là một thứ nhà tù vô hình đối với con
người, hạn chế tự do của con người. Để tránh tình trạng như vậy, tự do buộc phải là điểm
khởi đầu của mọi quá trình thỏa thuận và cũng chính vì như vậy mà tự do trở thành tinh thần của pháp luật.
Mặt khác, bản chất của cuộc sống là sự đa dạng, do đó, một hệ thống pháp luật chỉ có
giá trị khi nó mang trong mình tính đa dạng của cuộc sống. Nếu tự do không phải là tinh
thần của pháp luật thì pháp luật không thể chứa đựng trong nó tính đa dạng của cuộc
sống. Điều đó cũng đồng nghĩa rằng, một hệ thống pháp luật sẽ trở nên không tương
thích với cuộc sống khi nó không phải là kết quả của sự thỏa thuận mà là kết quả của
việc áp đặt chủ quan của một người hay một nhóm người. Văn hóa chính là phổ rộng
lớn nhất của pháp luật và không một hệ thống pháp luật nào ngoài văn hóa có đủ năng
lực điều chỉnh tất cả các tình huống của cuộc sống
. Chính vì vậy, kinh nghiệm văn hóa
là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật. Nếu pháp luật được xây dựng trên
những kinh nghiệm văn hóa, tức là thừa nhận cuộc sống chứ không áp đặt lên cuộc sống,
thì tốc độ thâm nhập của pháp luật vào trong cuộc sống sẽ nhanh hơn, khi đó việc tuân
thủ pháp luật trở thành thói quen có chất lượng văn hóa của con người. Kinh nghiệm về
việc xây dựng pháp luật ở các quốc gia phát triển chỉ ra rằng, pháp luật càng gần với tập
quán cũng như thói quen của con người, càng có chất lượng văn hóa bao nhiêu thì pháp
luật càng dễ được chấp nhận bấy nhiêu. Điều đó hoàn toàn có thể lý giải được bởi nếu
chúng ta không xây dựng pháp luật dựa trên những thói quen, thì con người sẽ cảm thấy
hẫng hụt khi hành động ngược với thói quen. Hành động ngược với thói quen sẽ tạo ra
thói quen mới, đến lượt mình, thói quen mới sẽ mâu thuẫn, phá vỡ các thói quen cũ và
tạo ra mâu thuẫn trong các hành vi của con người. Nói cách khác, nếu pháp luật không
được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa thì nó sẽ chia rẽ con người thông
qua việc chia rẽ hành vi của con người
.
Cuối cùng, sở dĩ tự do là tinh thần của pháp luật còn bởi tự do là công cụ duy nhất có
thể điều chỉnh tự do cá nhân trở thành tự do cộng đồng. Tự do cá nhân là phần sở hữu
riêng của từng người còn tự do cộng đồng là quỹ tự do mà mọi người góp vào. Nếu
không có các giá trị văn hóa thì ai điều chỉnh và kiểm soát quá trình góp tự do? Rõ ràng, 11
góp tự do là kết quả của sự tự giác. Nếu không có sự giác ngộ về mặt văn hóa thì con
người không tôn trọng các khế ước và tạo ra các vùng bất hợp pháp trong cuộc sống. Các
vùng bất hợp pháp trong cuộc sống vẫn tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở
những nền văn hóa không lành mạnh, nơi pháp luật bất lực trong việc bảo vệ tự do của
con người. Do vậy, cách tốt nhất để khắc phục tình trạng bất lực của pháp luật chính là
mở rộng sự giác ngộ về mặt văn hóa của con người.
4.2. Văn hóa mở - Điều kiện tiên quyết để hội nhập với pháp luật quốc tế
Một nền văn hóa mở, trước hết, cũng là sản phẩm của tự do. Trong thời đại hội nhập
và toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hóa, mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc
lập với thế giới bên ngoài. Điều đó có nghĩa là, mỗi nền văn hóa, hơn bao giờ hết phải
luôn nâng cao năng lực hợp tác với các nền văn hóa khác, tức là nâng cao tính mở của
chính mình. Sự mở của các nền văn hóa chính là nguồn gốc của trạng thái hòa bình giữa
các dân tộc bởi khi con người hiểu biết và hiểu nhau thì sẽ tránh được rất nhiều sự va
chạm. Chính vì vậy, xây dựng một nền văn hóa có tính mở chính là nâng cao năng lực
tạo ra đời sống hòa bình của nhân loại.
Xét trên khía cạnh hẹp hơn, đối với mỗi cộng đồng, tính mở về văn hóa sẽ góp phần
nâng đỡ các cộng đồng lạc hậu đi qua những khó khăn về mặt nhận thức hay đi qua
ngưỡng của sự chậm phát triển.
Đã đến lúc các cộng đồng văn hóa cá biệt phải nhận ra
rằng, cơ hội của họ chắc chắn sẽ đến từ việc nâng cao tính mở của nền văn hóa, vì mở
cửa về văn hóa sẽ giúp một cộng đồng nâng cao năng lực thu nhận các giá trị tiến bộ và
loại bỏ những gì lạc hậu và cản trở sự phát triển, cũng tức là nâng cao năng lực cạnh
tranh của chính cộng đồng đó. Do đó, một nền văn hóa mở là cơ hội hội nhập vào cộng
đồng quốc tế hay cơ hội phát triển của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc lạc hậu.
Mặt khác, mở cửa về văn hóa sẽ tạo ra môi trường tinh thần cởi mở. Môi trường tinh
thần cởi mở chính là môi trường nâng đỡ các hệ thống luật pháp tham gia vào quá trình
hội nhập. Nếu tạo ra một hệ thống luật pháp không có năng lực hội nhập thì rõ ràng,
chúng ta đang bảo vệ tính khu trú của cộng đồng. Chúng ta đều biết rằng, trong luật học
có một ngành luật rất nổi tiếng và phức tạp - đó là Luật So sánh nhằm phiên dịch sự khác
biệt của các quy định pháp luật của các cộng đồng, các quốc gia khác nhau. Trong thời
kỳ trước những năm 50, Luật So sánh chỉ nhằm so sánh giữa các quốc gia nhưng đến
nay, Luật So sánh còn phải so sánh cả các bộ luật quốc gia và các bộ luật quốc tế. Một
lúc nào đó, khi sự chênh lệch phát triển giữa các quốc gia được giảm bớt thì những hoạt
động quốc tế sẽ được quy định rất giống nhau ở các bộ luật. Khuynh hướng các điều luật
trở nên giống nhau và tốc độ giống nhau của chúng, không nghi ngờ gì, sẽ bị chi phối
bởi các giá trị mở của nền văn hóa. Việc thừa nhận các giá trị tự do, dân chủ cũng đồng
nghĩa là người ta xây dựng luật dựa trên thỏa thuận của các thành viên của cộng đồng.
Nếu là những thành viên của một cộng đồng lạc hậu thì không thể có những điều luật 12
tiến bộ được. Do vậy, xây dựng một nền văn hóa mở chính là hạn chế tính lạc hậu của
các cộng đồng dân tộc, để tạo ra khả năng có thể tiến đến các thỏa thuận tiến bộ cũng
như khả năng hợp tác giữa các dân tộc
.
Từ những phân tích trên, em muốn nhấn mạnh rằng, chính văn hóa điều chỉnh hành
vi của con người mạnh hơn cả pháp luật. Do đó, pháp luật hay mọi khế ước xã hội phải
được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa chứ không phải chỉ là những kinh
nghiệm pháp lý. Để xây dựng một hệ thống pháp luật với tinh thần như vậy, chúng ta
không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thừa nhận tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống
và đảm bảo tính đa khuynh hướng của văn hóa. Đó là một nền văn hóa lành mạnh - nền
tảng của một hệ thống pháp luật lành mạnh. Nhưng, trên hết thảy, cần phải ý thức được
rằng, văn hóa và pháp luật lành mạnh đều phải hướng tới bảo vệ các giá trị tự do của
con người
. Chỉ khi làm được như vậy, con người mới đạt đến trạng thái phát triển thực sự.
Thật vậy, như đã nói ở trên, "văn hóa điều chỉnh hành vi của con người mạnh hơn cả
pháp luật", cũng vì lẽ đó, BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định
về "áp dụng tập quán" trong quan hệ dân sự và giải quyết vụ việc dân sự (Điều 5 BLDS
năm 2015 và Điều 45 BLTTDS năm 2015).
Theo đó, "tập quán" là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ
của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại
nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng,
miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.
Điều kiện để áp dụng tập quán bao gồm:
 Các bên trong quan hệ dân sự không có thỏa thuận.
 Pháp luật không quy định (chưa có điều luật để áp dụng).
 Tập quán dự định áp dụng không trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Một ví dụ về áp dụng tập quán trong thực tiễn có thể kể đến chính là Án lệ số
13/2017/AL "về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ".
Tình huống án lệ:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thỏa thuận phương thức thanh toán bằng thư
tín dụng (L/C), thỏa thuận thực hiện L/C theo tập quán thương mại quốc tế (Quy tắc thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương
mại Quốc tế) và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ.
Giải pháp pháp lý: 13
Trường hợp này, Tòa án phải xác định thư tín dụng (L/C) không bị mất hiệu lực thanh
toán vì lý do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của thư tín dụng (L/C) bị hủy bỏ.
Như vậy, trong án lệ này, tòa án đã áp dụng tập quán thương mại quốc tế thể hiện
trong "Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm
2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc tế".
IV, Nêu quan điểm cá nhân về thực trạng văn hoá pháp luật hiện nay và đề xuất giải pháp
Văn hóa pháp luật - một trong những hình thái của văn hóa, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong thực hiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện - trụ
cột cơ bản của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc theo
quan điểm trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
1, Vai trò của văn hóa pháp luật trong thực tiễn đời sống
Từ phương diện áp dụng trong thực tiễn đời sống, văn hóa pháp luật là khái niệm chỉ
một trạng thái tốt, có chất lượng của đời sống xã hội của quốc gia, được thể hiện ở trình
độ nhất định về hoàn thiện pháp luật, chất lượng và hiệu quả thực thi pháp luật, về ý thức
tôn trọng, tuân thủ pháp luật, ý thức về quyền, nghĩa vụ của mọi cá nhân.
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người văn hóa,
phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là một trong những quan
điểm chủ đạo trong tổng thể nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để
văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tạo lập văn hoá pháp luật một cách bền vững có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực
hành đạo đức cá nhân, dân chủ hóa đời sống xã hội, xây dựng và thực thi pháp luật. Nội
dung cơ bản về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện bao gồm xây dựng
những phẩm chất tốt đẹp và chống những biểu hiện sai trái về đạo đức, pháp luật.
Vai trò giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện ở sự định hướng cho các thành viên
xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải
quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật.
Văn hóa pháp luật góp phần tích cực trong việc điều tiết ý thức, hành vi, chuẩn mực
đạo đức, chuẩn mực pháp luật không chỉ trong các mối quan hệ của con người với nhau
mà cả trong quan hệ của con người với môi trường thiên nhiên, định hướng con người
đến những giá trị cốt lõi Chân - Thiện - Mỹ - Ích. 14
2, Một số giải pháp cơ bản về văn hóa pháp luật
Để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cần phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp văn hóa, kinh tế, chính trị, pháp lý. Từ phương diện pháp lý, cần triển khai
thực hiện một số giải pháp về văn hóa pháp luật góp phần thực hiện chiến lược xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Một là, kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức, lối sống
tuân theo pháp luật và phù hợp đạo đức xã hội. Giáo dục pháp luật hướng vào việc hình
thành, nâng cao thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật, niềm tin của con người vào pháp
luật, tôn trọng quyền, tự do, lợi ích chính đáng của con người, ý thức trách nhiệm đối
với người khác, cộng đồng và xã hội. Làm sao cho việc phòng, chống, việc xử phạt cái
ác, khuyến khích, bảo vệ cái thiện phải được thể hiện rõ nét hơn trong pháp luật và thực
thi pháp luật. Đó chính là cách tốt nhất để phát huy tác động tích cực giữa pháp luật và
đạo đức, đồng thời là cách tốt nhất để vừa “thượng tôn pháp luật, vừa thực hành đạo
đức” trong cuộc sống hiện đại. Không chỉ dừng lại ở những chế tài pháp luật mà phải
“gõ cửa”, “đánh thức” lương tâm mỗi con người để họ thận trọng hơn, có trách nhiệm
hơn về mỗi hành vi của mình. Do đó, cần tạo dư luận xã hội để lên án những hành vi vi
phạm đạo đức và pháp luật. Đồng thời, ủng hộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho những
hành vi hợp pháp, hợp đạo đức.
Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo
tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật. Cần thiết kết hợp phổ biến, giáo dục về
kiến thức pháp luật với những kỹ năng cần thiết trong thực hiện pháp luật. Đưa các yếu
tố pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong giáo dục đạo đức và ngược lại; phát
triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp lý và nâng
cao an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức trong các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội.
Ba là, giáo dục ý thức về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của con người. Trong nội
dung giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cần trang bị kiến thức, kỹ năng
thực hành văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người. Văn hóa quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm con người là một thể thống nhất bao gồm các thành tố cơ bản là: sự hiểu biết
- kiến thức cơ bản về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, pháp lý của con người, ý
thức tôn trọng quyền con người, tôn trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức; kỹ năng sử
dụng, bảo vệ các quyền con người, thực hiện nghĩa vụ cơ bản, nghĩa vụ cụ thể theo quy
định pháp luật. Để xây dựng con người phát triển toàn diện, cần thiết phải xây dựng văn
hóa quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm con người. Con người phát triển toàn diện trước hết
phải là con người hiểu biết các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội;
tôn trọng, tuân thủ pháp luật thành thói quen, ứng xử văn hóa trong mọi hoạt động xã
hội của bản thân mình. Có một thực tế là, khi thực hành các quyền, tự do của mình, cá
nhân rất dễ rơi vào trạng thái có nguy cơ lạm dụng, lợi dụng, vượt quá giới hạn và tràn 15
sang miền cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích
của những người khác và xã hội. Xã hội càng hiện đại, khoảng không tự do càng rộng
thì lại càng cần đến ý thức và thực hành trách nhiệm - bổn phận cá nhân đối với những
người xung quanh, cộng đồng và xã hội. Văn hóa nói chung, văn hóa quyền con người,
văn hóa nghĩa vụ, trách nhiệm con người không chỉ là những hành vi nhất thời, hình thức
mà phải trở thành những thói quen ứng xử, là nhận thức và hành vi thực tế của mỗi con
người trong mọi không gian, thời gian, lĩnh vực, địa bàn; phải được nhận thức, thực hành
thường xuyên, mọi nơi, mọi thời điểm, trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động
của các cơ quan công quyền, cá nhân công quyền chứ không chỉ là những khẩu hiệu, báo
cáo... Tạo lập một cách bền vững văn hóa quyền con người, văn hóa nghĩa vụ, trách
nhiệm con người cũng chính là tiền đề, điều kiện đảm bảo thực hiện mục tiêu xây dựng
con người phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay.
Bốn là, xây dựng văn hóa pháp luật đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Văn hóa pháp
luật của cán bộ, viên chức, công chức nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa
pháp luật của các cá nhân, trong đó có việc tạo lập niềm tin vào công lý và pháp luật -
một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Đối với
đội ngũ cán bộ, viên chức, công chức, trình độ văn hóa pháp luật phải được thể hiện, đo
lường thông qua các tiêu chí cơ bản: trình độ hiểu biết pháp luật, bản lĩnh và kỹ năng áp
dụng, thi hành pháp luật, ý thức, hành vi tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con người. Xây dựng văn hóa công vụ để hình
thành một cách bền vững ý thức trách nhiệm đạo đức công vụ, tính chuyên nghiệp, tôn
trọng, tuân thủ pháp luật thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ, nhiệm vụ được
giao một cách trung thực, tận tụy, mẫn cán, cẩn trọng, tránh xung đột lợi ích, không vụ
lợi cá nhân và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện. Cần đưa nội dung giáo dục liêm
chính vào trong giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, giáo dục quyền con người theo
cách mới, gắn với chế độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, phòng, chống tham nhũng.
Năm là, đảm bảo công bằng, nghiêm minh, kịp thời trong thi hành, áp dụng pháp luật,
xây dựng niềm tin pháp luật. Tình trạng pháp luật không được thực hiện, hay thực hiện
không nghiêm minh, không kịp thời, không minh bạch, công bằng trong thực thi pháp
luật của các cơ quan công quyền sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đối với ý thức và
hành vi hợp pháp luật của con người.
Sáu là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cân bằng các loại lợi ích, đơn giản,
minh bạch, nhất quán, thống nhất, ổn định. Tính ổn định tương đối, phù hợp cuộc sống,
công khai, minh bạch của pháp luật và việc thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng,
kịp thời sẽ là một trong những điều kiện cơ bản để tạo dựng môi trường pháp lý lành
mạnh, hiệu quả. Tình trạng tần suất cao về sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản pháp luật, 16
quy định pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo nhau trong hệ thống pháp luật sẽ là những
lực cản cho việc thực thi pháp luật, dẫn đến tâm lý coi thường, mất niềm tin vào pháp
luật. Các chế tài pháp luật cần đủ độ răn đe và phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả
của các hành vi vi phạm pháp luật là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo thực
hiện các hành vi hợp pháp, giảm thiểu vi phạm pháp luật.
Bảy là, xây dựng tính tích cực pháp luật, tạo lập dư luận xã hội lên án những biểu hiện
coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật; hỗ trợ, tôn vinh những hành vi hợp pháp, có
văn hóa pháp luật. Tạo lập dư luận xã hội chính là một trong những biện pháp mạnh mẽ
để đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, khuyến khích, hỗ trợ các hành vi hợp
pháp, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như giao thông, sản xuất, kinh doanh các mặt
hàng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... 17 LỜI KẾT
Những tìm hiểu về văn hóa trên đây đã không chỉ giúp chính em ôn lại được những
kiến thức đã học về văn hóa hay pháp luật, mà còn giúp em có thêm những hiểu biết,
kinh nghiệm cụ thể khi có cơ hội được tìm hiểu kĩ càng và sâu sắc về các vấn đề này.
Quả thực văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người, đẩy mạnh sự
phát triển, giao lưu giữa người với người, quốc gia với quốc gia,… Văn hóa đã hỗ trợ
pháp luật một cách rất hiệu quả trong việc phản ánh những tư tưởng, quan điểm của
người dân, nhà nước về những gì là đúng, là sai xuất hiện một cách khách quan trong xã
hội. Em xin chân thành cảm ơn hai cô Nguyễn Thị Tú Mai và cô Trần Thị Thanh Thủy
đã giảng dạy bộ môn Văn hóa đại cương cho em và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình
hoàn thành bài tiểu luận này. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn hóa là gì? Đặc trưng, chức năng và vai trò của văn hóa? – Luật sư Nguyễn
Văn Dương (https://luatduonggia.vn/van-hoa-la-gi-dac-trung-chuc-nang-va-vai- tro-cua-van-hoa/)
2. Khái niệm pháp luật trong hệ thống khoa học pháp lý – Thế giới Luật
(https://thegioiluat.vn/bai-viet/khai-niem-phap-luat-trong-he-thong-khoa-hoc- phap-ly-1358/)
3. Ảnh hưởng của văn hóa đối với pháp luật? – Luật sư Bùi Thị Nhung
(https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx)
4. Nâng cao văn hóa pháp luật để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện – GS.TS Hoàng Thị Kim Quế - TS. Lê Thị Phương Nga (Đại học Quốc gia
Hà Nội) (https://baophapluat.vn/nang-cao-van-hoa-phap-luat-de-xay-dung-con-
nguoi-viet-nam-phat-trien-toan-dien-post453915.html) 19