-
Thông tin
-
Quiz
Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Trong thời kì hiện đại xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta nóichung và nghành y nói riêng đang đi trên con đường hội nhập và đổi mới mở cửa để tiếp thu và phát huy những thành tựu của thế giới.
Ở Việt Nam, lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước đã chứng minh một cách thuyết phục ý nghĩa quyết định của nhân tố con người đối với sự thành bại hay hưng vong của đất nước.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Kinh tế chính trị (HVNN) 14 tài liệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 593 tài liệu
Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Trong thời kì hiện đại xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta nóichung và nghành y nói riêng đang đi trên con đường hội nhập và đổi mới mở cửa để tiếp thu và phát huy những thành tựu của thế giới.
Ở Việt Nam, lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước đã chứng minh một cách thuyết phục ý nghĩa quyết định của nhân tố con người đối với sự thành bại hay hưng vong của đất nước.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị (HVNN) 14 tài liệu
Trường: Học viện Nông nghiệp Việt Nam 593 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46836766 MỞ ĐẦU
1 . Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì hiện đại xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta nói chung và
nghành y nói riêng đang đi trên con đường hội nhập và đổi mới mở cửa để tiếp thu
và phát huy những thành tựu của thế giới.
Ở Việt Nam, lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước đã chứng minh một cách
thuyết phục ý nghĩa quyết định của nhân tố con người đối với sự thành bại hay hưng vong của đất nước.
Chính vì vậy, chúng ta cũng càng ngày càng quan tâm đến vấn đề về đời sống
xã hội, về sự nghiệp đối mới của đất nước, trong đó có vấn đề về con người, về nguồn
nhân lực trong các ngành nghề, đặc biệt là nhân lực trong ngành y tế, giáo dục. Triết
học, đặc biệt là triết học Mác – Lênin với những vai trò, quan điểm thiết thực của nó
đối với đời sống xã hội – chính trị, do đó, triết học Mác – Lênin ngày càng được phát
triển và ứng dụng trong xã hội Việt Nam.
Để có thể nghiên cứu rõ hơn về vấn đề con người, sau đây tôi xin chọn Đề tài
số 15: “Vấn đề con người và phát huy nhân tố con người trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, các bài viết nghiên cứu về
vấn đề nhân tố con người và phát huy nhân tố con người trong các mặt của đời sống
xã hội, các lĩnh vực, các ngành nghề.
Những năm về trước, dưới góc độ triết học con người thường được bàn đến
với tư cách là con người với xã hội chủ nghĩa mà ở đó chủ yếu đề cập đến nghĩa vụ
của công dân đối với đất nước. Vấn đề quyền lợi, sự công bằng xã hội cũng được đề 1 lOMoAR cPSD| 46836766
cập nhưng ít gắn liền với thực tế. Theo những nhu cầu tự nhiên, tất yếu của con người
trong những năm gần đây, kể từ đại hội Đảng lần thứ VI, trong các nghị quyết của
các kỳ đại hội, Đảng đã đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách kinh tế - xã hội.
Các công trình nghiên cứu con người đã được đề cập đến nhiều mặt, nhiều
khía cạnh khác nhau. Chủ đề thường được chú ý đến trong các công trình nghiên
cứu là nguồn gốc, bản chất của con người, nhân tố con người trong lực lượng sản
xuất, quyền con người, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. Do đó
triết học Mác – Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội con người Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài :
Mục đích tiểu luận tập trung phân tích quan điểm triết học Mác – Lênin về con
người và đời sống xã hội, từ đó tiểu luận cho thấy triết học Mác – Lênin có vai trò
và chức năng quan trọng trong đời sống và sự đổi mới, phát triển của xã hội.
Để đạt được mục đích đó, tiểu luận có nhiệm vụ: -
Nêu lên các quan điểm của triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. -
Nêu ra vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. -
Nêu ra vấn đề con người và phát huy nhân tố con người trong lĩnh
vực y tế ở Việt Nam hiện nay. NỘI DUNG
I. CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI.
1 . Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người 2 lOMoAR cPSD| 46836766
Giống với mọi động vật, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, tìm thức
ăn, nước uống từ tự nhiên, phải đấu tranh sinh tồn, phải ăn uống, sinh con đẻ cái.
Vậy bản chất của con người là gì? Triết học mácxít coi điều kiện quyết định
hình thành con người là lao động. Ănggen chỉ rõ: “Người là giống vật duy nhất có
thể bằng lao động mà thoát ra khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” và “lao động đã
sáng tạo ra bản thân con người”; C.Mác cho rằng: “Bản thân con người bắt đầu bằng
tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”.
Theo quan điểm con người là thực thể sinh học – tâm lý – xã hội, con người là
thể thống nhất hoàn chỉnh của các cấp độ sinh học (cơ thể), tâm lý và xã hội được
hình thành từ hai mặt: tự nhiên và xã hội, di truyền và tập nhiễm trong cuộc sống.
Theo quan điểm về vị trí, vai trò của con người trong lịch sử, con người chính
là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và là chủ thể sáng tạo nên những nền
văn minh trong lịch sử nhân loại.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con
người chính là giới tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một trong những phương
diện cơ bản của con người, loài người.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn
về sự tiến hóa của các loài. 3 lOMoAR cPSD| 46836766
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng là “ thân thể vô cơ của con người”.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây: Một là,
xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ có
nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà có nguồn gốc xã hội
của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà
con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành
người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó
mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết
trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn
tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã
hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và
ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông
qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo
nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch
sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
2 . Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin,
được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người
là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn
bộ nội dung tư tưởng của Người.
Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả 4 lOMoAR cPSD| 46836766
cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ
sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước.
Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại tư cách cá nhân, vừa là thành viên
của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa,
phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người". Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn
cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu
chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao
cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được
quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản
thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ
thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng
cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ
bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và
"người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu
nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp
cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản
cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân
dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một
khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải
pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện
các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người 5 lOMoAR cPSD| 46836766
v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp
đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy
mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ
nhân dân.Về chủ nghĩa xã hội, theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ
nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng
chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp.
Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý
luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội,
trước hết, "cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán
quan điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự
nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
II. VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Qua hơn 30 năm đổi mới, trên cơ sở đánh giá thực tiễn và tổng kết lý luận,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: con người và các nguồn lực của con người
đóng vai trò quyết định sự phát triển của đất nước. Nhân tố con người được đặt vào
vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự 6 lOMoAR cPSD| 46836766
phát triển. Vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng nhưng quan trọng nhất vẫn là
nhân tố con người. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 20112020, Đảng ta
xác định mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…Nâng cao rõ rệt hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng đã đặt ra một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm là: “Phát huy nhân
tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người
về đạo đức, về nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh”.
Như vậy, đến Đại hội lần thứ XII, vấn đề “phát triển con người toàn diện” được
Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm
2016 - 2020 và “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành
một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng
sau 35 năm đổi mới, khẳng định và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của việc
phát huy nhân tố con người, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kì hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, quán triệt sâu sắc tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng là phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, khơi
dậy khát vọng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030)
bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn lực con người: “Khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân
tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục
tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh
nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát
huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải
hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”. 7 lOMoAR cPSD| 46836766
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề cập một cách nhất quán, sâu sắc, toàn
diện về vấn đề phát huy nhân tố con người. Điều đó thể hiện tập trung trong Quan
điểm chỉ đạo, Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Nhiệm vụ trọng
tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và cả trong Đột phá chiến lược.
Trong Quan điểm chỉ đạo đã khẳng định nhân tố con người là quan trọng nhất,
“nguồn lực con người là quan trọng nhất”, đồng thời chủ trương phát huy nhân tố
con người: “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa... bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực… thúc đẩy đổi mới sáng tạo”. Trong các Định hướng phát
triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 thì vấn đề phát huy nhân tố con người được thể
hiện rất rõ nét, như: “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút trọng dụng
nhân tài...”; “Phát triển con người toàn diện...”; “bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người... chú trọng nâng cao chất lượng dân số...”.
Vấn đề phát huy nhân tố con người được Đảng ta cụ thể hóa thành một trong
những Nhiệm vụ trọng tâm, thể hiện “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế... thực hiện
tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. Tiếp đó,
phát huy nhân tố con người được Đảng coi là một trong những Đột phá chiến lược,
điều đó thể hiện: “Phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao... phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”.
Những động lực cơ bản phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ,
nâng cao năng lực trí tuệ con người Việt Nam
Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, một mặt, phục
vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác, xây dựng 8 lOMoAR cPSD| 46836766
tiềm lực trí tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Trí tuệ là một trong
những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con người, nhất là trong thời
đại cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khoa học
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện nay.
Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con
người, trước hết là với các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải có sức khoẻ, năng lực, trình độ,
có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Chú trọng phát triển đội
ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số,
nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản
lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đào tạo con người theo hướng
có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống,
kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và
hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu).
Thứ hai, quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm
bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển.
Lợi ích chính là điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng đầu nhằm
phát huy nhân tố con người. Theo đó, để phát huy vai trò của nhân tố con người trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa
lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước
mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần... Bên cạnh đó, cần
coi trọng và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội theo hướng lấy con người là
trung tâm. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước cần có chính sách bảo đảm công bằng xã hội,
tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của nền kinh 9 lOMoAR cPSD| 46836766
tế, có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến phát triển con người.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống
xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực
con người trong các lĩnh vực.
Nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực
sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích
cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây dựng
và thực hiện một cơ chế dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp
nhằm hiện thực hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội.
Việc phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể
cống hiến năng lực của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc
thực hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy
trách nhiệm công dân. Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ
cương pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực
đoan hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng thuận
xã hội. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước làm nòng cốt để thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm giải phóng mọi năng lực sáng
tạo của quần chúng nhân dân, góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện cho
sự nghiệp đổi mới thắng lợi.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc
vai trò to lớn của nhân tố con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện
để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế - xã hội, đó
là một vấn đề có tính quy luật. Trong giai đoạn hiện nay, phải phát huy nhân tố con
người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự 10 lOMoAR cPSD| 46836766
phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh
thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân. 11 lOMoAR cPSD| 46836766
III. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đối với ngành Y tế, một ngành chăm sóc sức khỏe, yếu tố con người càng
được đặt lên hàng đầu, con người là trung tâm, vừa đóng vai trò người bệnh, vừa
đóng vai trò nhân viên y tế, cho đến nay, những máy móc, phương pháp thăm khám,
phẫu thuật hiện đại cũng do con người điều khiển, thực hiện.
Vấn đề phát triển con người trong ngành y tế Việt Nam đã được thực hiện từ
lâu; thời phong kiến, có những gia đình cha truyền con nối hành nghề y, thầy truyền
nghề cho trò, đến thời Pháp thuộc, chúng ta có trường Y đầu tiên, cho đến nay, đã có
một hệ thống các trường Y Dược trên cả nước, có sự liên kết với các trường Đại học Y ở nhiều nước.
Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực y tế đối với công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân, Nhà nước đã có rất nhiều chính sách nhằm nâng cao số lượng và chất
lượng của nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế. Trên thực tế, ngành y vẫn còn gặp
nhiều khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực, dẫn đến hạn chế chất lượng chăm
sóc sức khỏe cộng đồng ở nước ta, đó là:
Sự phân bổ nguồn nhân lực mất cân đối, bất hợp lý theo vùng, miền, lĩnh vực.
Nhiều khu vực còn thiếu nhân lực y tế như Vùng đồng bằng sông Cửu Long
và Tây Nguyên có tỷ lệ bác sĩ trên vạn dân thấp nhất so với cả nước. Đặc biệt, một
số lĩnh vực: pháp y, giải phẫu, lao, phong, tâm thần… của ngành y tế thiếu nhân lực
hơn hẳn các lĩnh vực khác. Lý do của sự thiếu hụt này là do thu nhập thấp, không đủ
thu hút cán bộ y tế. Tình trạng thiếu nhân lực y tế nói chung và nhân lực có trình độ
là bác sĩ ở tuyến y tế cơ sở, cũng như nhân lực y tế dự phòng vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại. 12 lOMoAR cPSD| 46836766
Quản lý, sử dụng nhân lực y tế còn nhiều bất cập, hạn chế
Mạng lưới y tế cơ sở nói chung, gồm cả tuyến xã và tuyến huyện, chưa tạo
được niềm tin cho người dân vào chất lượng dịch vụ, dẫn tới tình trạng các bệnh viện
tuyến trung ương bị quá tải, trong khi các cơ sở y tế tuyến dưới không hoạt động hết
công suất. Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ chế sử dụng nhân lực của Nhà
nước và ngành y tế chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm chưa rõ ràng, tính
trách nhiệm của người cán bộ y tế không cao, dẫn tới lãng phí nguồn lực. Bên cạnh
đó, việc tuân thủ các chế độ, chính sách, quy định trong quản lý, sử dụng nhân lực y
tế vẫn còn nhiều vấn đề, góp phần làm hạn chế năng lực nguồn nhân lực y tế.
Chất lượng nguồn nhân lực tuyến y tế cơ sở còn thấp
Chất lượng nguồn nhân lực y tế ở tuyến cơ sở, vùng sâu, vùng xa, miền núi
chưa đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Năng lực của cán bộ
y tế, kể cả bác sĩ của tuyến xã yếu, thậm chí không đủ khả năng cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nhiều trạm y tế khang trang, không thiếu trang thiết bị
nhưng cán bộ y tế nơi đây lại không biết sử dụng. Đây là vấn đề mà Nhà nước cần
ưu tiên giải quyết trong những năm tới. Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ làm việc tăng
hàng năm, nhưng bác sĩ ở tuyến xã đa phần là học tại chức, hoặc chuyên tu nên năng
lực chuyên môn thấp. Tỷ lệ cán bộ y tế xã có kiến thức và kỹ năng đạt yêu cầu trong
sơ cấp cứu, chẩn đoán và điệu trị một số bệnh, cũng như kiến thức về xử lý bệnh dịch rất hạn chế.
Các chế độ chính sách chưa phù hợp; đời sống cán bộ y tế có nhiều khó khăn.
Qua 2 năm chống dịch, nhiều cán bộ nhân viên y tế đã rất mệt mỏi do phải liên tục
làm việc trong môi trường có áp lực cao và trong thời gian dài, trực tiếp đối diện với
nguy cơ lây nhiễm cao, bị sang chấn tâm lý, quá tải công việc... Đã ghi nhận các
trường hợp xin nghỉ việc, thôi việc dẫn đến gia tăng nguy cơ thiếu nhân lực y tế. 13 lOMoAR cPSD| 46836766
Từ những động lực cơ bản phát huy nhân tố con người Việt Nam đã trình bày
ở chương II, chúng ta thấy rằng, khi chỉ một động lực không được thỏa mãn, ở đây
là sự không hài hòa quan hệ lợi ích giữa cá nhân cán bộ y tế với bệnh viện, với xã
hội không được giải quyết một cách thỏa đáng, đời sống vật chất, tinh thần không
đảm bảo, dẫn đến tình trạng nghỉ việc hàng loạt.
Một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng về phát huy yếu tố con người, mà cụ thể ở đây là phát huy yếu
tố con người trong nghành y tế Việt Nam:
Thứ nhất, tạo việc làm cho nhân viên y tế, người lao động, nâng cao mức sống
và đảm bảo an ninh, an sinh trong một môi trường làm việc ổn định, lành mạnh. Đây
là tiền đề thiết yếu để xây dựng con người, là đảm bảo không thể thiếu cho sự tồn tại của con người.
Thứ hai, thực hiện công bằng trong sự phát triển con người và xã hội, thực hiện
và phát huy dân chủ, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở nhằm tạo môi trường làm việc, xã
hội tích cực để đào tạo, giáo dục con người, giải quyết các quan hệ lợi ích theo
phương châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển
Đây là nhu cầu xã hội phổ biến của dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ và trí thức.
Thứ ba, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, lý luận chính trị
của đội ngũ nhân viên y tế, người lao động, nhất là trong bối cảnh thời đại hiện nay
khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang làm bùng nổ dòng thác của những
tri thức mới và thông tin mới, phải là một nhân cách sáng tạo, làm chủ tri thức và thông tin mới.
Hiện nay, chất lượng nguồn lao động nước ta nói chung và ngành y tế nói riêng
vẫn còn hạn chế, hàm lượng trí tuệ của lao động còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. 14 lOMoAR cPSD| 46836766
Vì vậy, cần chú trọng nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế có trí tuệ
cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp. KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi đến
khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển.
Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi liền
với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta cũng như ngành Y tế phải coi nhân tố
con người là nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt
nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn
thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một
xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
cuộc đại thắng của dân tộc ta đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của chính
con người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược
giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và phẩm chất của con
người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Giáo trình Triết học – sách tham khảo dùng cho học viên sau đại học ngành
khoa học xã hội và nhân văn không chuyên triết học, NXB Lý luận chính trị, 2021. 2.
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 15 lOMoAR cPSD| 46836766 3.
Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Phạm Minh
Hạc, NXB Chính trị quốc gia, 1996. 4.
Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Ở Việt Nam-Lý Luận Và Thực Tiễn, Nguyễn
Trọng Chuẩn, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Thế Nghĩa, NXB Chính trị, 2002. 5.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.219. 6.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội,2021. 16