ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP TỰ LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề bài 4:
Phân tích mối quan hệ giữa cạnh tranh độc quyền trong nền
kinh tế thị trường? sao trong nền kinh tế thị trường phải bảo vệ
cạnh tranh, hạn chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn nước ta.
Sinh viên thực hiện: Đặng Tiến Lợi
sinh viên: 19231656
Lớp: AUM32
Nội 1/2024
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng báo cáo đề tài này do chính tôi thực hiện, các thông tin
dữ liệu trong báo cáo dựa vào quá trình tìm hiểu và thu thập của tôi thông
qua các tài liệu khoa học, không sao chép từ bất cứ đtài nghiên cứu nào, ngoài
việc đáp ứng yêu cầu nghiên cứu làm bài tập, sẽ không sử dụng với mục
đích khác.
Ngày 15 tháng 01 năm 2024
Người thực hiện
Đặng Tiến Li
2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM BÀI 1
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Ngày …. tháng …. năm
Giáo viên chấm 1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM BÀI 2
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Ngày …. tháng …. năm
Giáo viên chấm 2
Chương 1: MỞ ĐẦU ................................................................................................... 4
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 4
1.2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 4
1.3. Đối tượng nghiên cứuphạm vi nghiên cứu .................................................... 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................... 5
1.5. Cấu trúc bài tập ................................................................................................... 5
Chương 2: NỘI DUNG ................................................................................................ 6
2.1. Các khái niệm chung ........................................................................................... 6
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường ...................................................................... 6
2.1.2. Khái niệm cạnh tranh ................................................................................. 6
2.1.3. Khái niệm độc quyền ................................................................................. 7
2.2. Mối quan hệ giữa cạnh tranhđộc quyền ........................................................ 8
2.2.1. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do ....................................................... 8
2.2.2. Độc quyền làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt hơn .................... 8
2.3. Bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền trong nền kinh tế thị trường ................... 9
2.3.1. Tác động của cạnh tranh ............................................................................ 9
2.3.2. Tác động của độc quyền ........................................................................... 10
2.3.3. sao phải bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc quyền ............................... 10
2.4. Liên hệ với thực tiễn tại Việt Nam .................................................................... 14
2.4.1. Khái quát nền kinh tế thị trường tại Việt Nam ......................................... 14
2.4.2. Cạnh tranh độc quyền tại Việt Nam .................................................... 15
2.4.3. Bảo vệ cạnh tranhhạn chế độc quyền tại Việt Nam ............................ 20
Chương 3: Kết luận ..................................................................................................... 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................. 1
3
Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường một giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế, thể hiện nền
văn minh của nhân loại, trong đó việc sản xuất phù hợp với nhu cầu của con người,
sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hội. Một trong những quy
luật quan trọng của kinh tế thị trường là quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh là linh hồn của
thị trường, động lực phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế
vận động hiệu quả thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Độc quyền lại
sản phẩm của cạnh tranh tự do, ở một mức độ nhất định độc quyền yếu tố đảm bảo
cho cạnh tranh phát triển duy trì được hiệu quả kinh tế của toàn hội, nhưng độc
quyền tuyệt đối lại làm cạnh tranh không hoàn hảo thường được nhắc đến như yếu
tố tạo ra cạnh tranh không lành mạnh. Trên thực tế nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh
tranh độc quyền luôn cùng tồn tại theo nhiều nh thức khác nhau phụ thuộc vào
hoàn cảnh của mỗi nền kinh tế thị trường ở các quốc gia khác nhau.
Để phân tích hơn đưa ra giải pháp về vấn đề bảo vệ cạnh tranh kiểm soát
độc quyền tại Việt Nam, em xin lựa chọn đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa cạnh
tranh độc quyền trong nền kinh tế thị trường? sao trong nền kinh tế thị trường
phải bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn ớc ta”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bài tiểu luận được thực hiện nhằm mục đích:
Cung cấp cho người đọc kiến thức về mối quan hệ giữa cạnh tranh độc
quyền.
Phân tích các nguyên nhân nền kinh tế thị trường cần phải bảo vệ cạnh tranh và
hạn chế độc quyền.
1.3. Đối tượng nghiên cứu phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: cạnh tranh, độc quyền, kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa
cạnh tranh và độc quyền, liên hệ với thực tế ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: nghiên cứu về mối quan hệ cạnh tranhđộc quyền trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4
Về thời gian: từ 1/1/2024 15/1/2024.
1.4. Phương pháp nghiên cu:
- Phương pháp nghiên cứu thuyết (định tính): thu thập các thông tin khoa học trên
sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu sơ cấp và thứ cấp.
- Phương pháp quy nạptổng hợp.
1.5. Cấu trúc bài tập
Ngoài phần tài liệu tham khảocác phụ lục, cấu trúc của đề tài nghiên cứu bao gồm:
- Chương 1: Mở đầu
- Chương 2: Nội dung
- Chương 3: Kết luận
5
Chương 2: NỘI DUNG
2.1. Các khái niệm chung
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Thị trường một hiện ợng xã hội và được ra đời trong những điều kiện lịch
sử nhất định. Sự xuất hiện của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của hoạt
động sản xuất, lưu thông hàng hoá tiền tệ của xã hội loài người. Ban đầu với trình độ
sản xuất lạc hậu, sản phẩm làm ra không đáp ứng đủ cho nhu cầu của con người, nền
kinh tế mang tính tự cung, tự cấp không cần thị trường để trao đổi sản phẩm.
Cùng với sự phát triển của hội loài người, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều đã
sự thừa nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa làm xuất hiện các thị trường để
đáp ứng nhu cầu đó.
chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh các
câm đối của nền kinh tế theo yêu cầu của quy luật kinh tế.
Kinh tế thị trường nền kinh tế vận hành theo chế thị trường.
2.1.2. Khái niệm cạnh tranh
Theo C.Mác “Cạnh tranh sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ hàng hoá để
thu được lợi nhuận siêu ngạch”. thể hiểu, cạnh tranh sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình.
Quy luật cạnh tranh điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh
tế giữa chủ thể sản xuất trao đổi hàng hóa. Khi đã tham gia thị trường, các chủ thể
sản xuất kinh doanh, bên cạnh sự hợp tác cần chấp nhận cạnh tranh, bất kỳ một doanh
nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên th
trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Như vậy hoạt động cạnh tranh trong kinh tế th
trường là tất yếu.
6
2.1.3. Khái niệm độc quyền
Nghiên cứu chủ nghĩa bản tự do cạnh tranh, C.Mác Ph.Ăngghen đã dự báo
rằng: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụtập trung sản xuất, tích cực và tập trung sản
xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Theo Lênin, sự tích tụ tập trung sản xuất đến mức cao sẽ hình thành các tổ
chức độc quyền, do các doanh nghiệp lớn số ợng ít nên khuynh hướng chấp
nhận thỏa hiệp với nhau dần hình thành các tổ chức lớn hơn địa vị độc quyền.
Khi mới hình thành, các tổ chức độc quyền nh thành theo liên kết ngang trong cùng
một ngành, nhưng vsau đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác
nhau ngày ng phức tạp. Sự phát triển của độc quyền còn hình thành ra bản tài
chính, sự kết hợp của một số ít ngân hàng độc quyềnliên minh độc quyền các nhà
công nghiệp. Theo Lênin, “sự phát triển của nhóm bản tài chính dần dẫn đến những
nhóm nhỏ nhà bản kếch chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn
hội, gọi tài phiệt”.
Theo khái niệm kinh tế học, một thị trường độc quyền được biểu hiện qua 3 yếu
tố như sau: Thứ nhất, toàn bộ thị trường đó được nắm giữ bởi một hoặc một số người
bán nhất định. Thứ hai, sản phẩm của nhà sản xuất được bán trên thị trường là duy nhất
không sản phẩm thay thế gần tồn tại. Thứ ba, tồn tại những o cản để ngăn cản
việc các doanh nghiệp khác kinh doanh trên thị trường liên quan.
Rào cản được coi đặc trưng quan trọng nhất của một thị trường độc quyền bởi
lẽ, nếu không o cản, các doanh nghiệp khác sẽ lập tức tham gia vào thị trường
kinh doanh khi nhà độc quyền thực hiện chính sách tăng giá bán hoặc giảm chất lượng
và số ợng sản phẩm. Chínhvậy, các nhà kinh doanh khi muốn tr thành độc quyền
đều cần phải một rào cản nhờ vào đó để cản trở các đối thủ khác. Rào cản thị
trường được thể hiện ới nhiều hình thức khác nhau, trong đó các hình thức phổ
biến các quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Đây loại rào cản rất
thường gặp,tạo ra sự độc quyền hợp pháp cho các doanh nghiệp. Trong những hoàn
cảnh nhất định, Chính phủ hầu hết các quốc gia đều cần thiết phải sử dụng rào cản do
pháp luật tạo ra để đảm bảo phát triển kinh tế, bảo vệ người tiêu ng hoặc bảo hộ sản
xuất trong nước. Trong những trường hợp đó, sự tồn tại của các rào cản thị trường
hợp lý. Chẳng hạn, việc nhà nước chỉ cho phép một hoặc một số doanh nghiệp được
hoạt động trong các lĩnh vực nhà nước cần giữ độc quyền như các ngành thuộc an
7
ninh, quốc phòng hay những ngành dịch vụ công ích hoặc những ngành tác động
mạnh ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ hội như: cấp, thoát nước, nắm giữ
mạng lưới truyền tải điện quốc gia, mạng lưới đường sắt tàu hoả... Trong những trường
hợp này, pháp luật cần thiết phải tạo ra các rào cản thị trường phù hợp.
2.2. Mối quan hệ giữa cạnh tranh độc quyền
2.2.1. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do
Sự xuất hiện của độc quyền thể tới từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Do sự
phát triển của lực lượng sản xuất tác động bởi tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải
các doanh nghiệp có quy lớn đủ tiềm lực để thúc đẩy sản xuất; Do khủng hoảng
khiến c doanh nghiệp vừa nhỏ phá sản còn lại các doanh nghiệp đủ lớn trụ vững;
Sự phát triển của các tchức tín dụng tạo đòn bẩy cho các doanh nghiệp tiếp tục m
rộng; Do quy luật cạnh tranh khiến các doanh nghiệp lớn thâu tóm các doanh nghiệp
khác và củ đủ lợi thế để trở thành độc quyền trong thị trường.
Cạnh tranh một trong những quy luật vận động của kinh tế thị trường. Xét theo
góc độ này, cạnh tranh sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể trong
sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuât tiêu
dung hàng hóa để thu nhiều lợi ích cho mình nhất. Kinh tế thị trường càng phát triển thì
cạnh tranh trên thị trường lại ng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Sự cạnh tranh gay
gắt này làm nhiều doanh nghiệp nhỏ phá sản hoặc bị thâu tóm bởi các doanh nghiệp
lớn, đồng thời các doanh nghiệp lớn bắt tay liên kết với nhau cuối cùng sinh ra độc
quyền.
thể thấy độc quyền cạnh tranh vừa hai phạm trù đối lập nhau mối
quan hệ nhân quả trong cấu trúc thị trường.
2.2.2. Độc quyền làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt hơn.
Nền kinh tế thị trường khi có sự xuất hiện của độc quyền thì cũng dần hình thành
thêm các hình thức cạnh tranh mới khiến cho sự cạnh tranh của các chủ thể trong nền
kinh tế càng khốc liệt. Hình thức cạnh tranh sự tham gia của các tchức độc quyền
bao gồm:
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền. Các tổ chức độc quyền thường tìm cách để chi phối, thôn tính các
doanh nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện
pháp như: độc quyền mua
8
nguyên liệu đầu vào; độc quyền phương tiện vận tải; độc quyền tín dụng... để
có thể loại bỏ các chủ thể yếu thế hơn ra khỏi thị trường.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại hình cạnh tranh này
nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành,
kết thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sàn của một bên cạnh tranh;
cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành liên quan với nhau về
nguồn lực đầu vào..
- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những doanh nghiệp tham
gia các tổ chức độc quyền cũng thể cạnh tranh với nhau đề giành lợi
thế trong hệ thống. c thành viên trong các tổ chức độc quyển cũng thể
cạnh tranh nhau để chiếm tỷ lệ có phần khống chế, từ đó chiếm địa vị chi phối
và phân chia lợi ích có lợi hơn.
2.3. Bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền trong nền kinh tế th trường
2.3.1. Tác động của cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật quan trọng để nền kinh tế vận hành ổn định và duy trì
theo cơ chế thị trường, nó vừa mang lại các tác động tích cực lẫn tiêu cực:
Tích cực
Tiêu cực
- Thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát
triển;
- Phát triển lực lượng sản xuất;
- Sử dụng phân bổ c nguồn lực kinh
tế tối ưu;
- Thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật
sáng tạo đổi mới;
- Điều phối các hoạt động kinh doanh
trên thị trường;
- Mang lại lợi ích cho người tiêu dùng
hiệu quả hội (giá cả, sự đa dạng
chất lượng sản phẩm…).
- Phân hóa người sản xuất;
- Gây rối, phá hoại thị trường;
- Cạnh tranh tiêu cực, phi đạo đức làm
ảnh hưởng tới lợi ích hội i
trường kinh doanh.
9
2.3.2. Tác động của độc quyền
Cũng như cạnh tranh, độc quyền vừa những tác động tích cực lẫn tiêu cực
trong nền kinh tế thị trường:
Tích cực
Tiêu cực
- Khả năng nghiên cứu, thúc đẩy phát
triển khoa học kỹ thuật;
- Gia tăng năng suất lao động, năng lực
cạnh tranh;
- Tạo ra sức mạnh kinh tế, làm thúc đẩy
nền kinh tế theo hướng sản xuất hiện đại.
- Làm cho cạnh tranh không hoàn hảo
gây thiệt hại cho người tiêu dùng
hội;
- thể kìm hãm tiến bộ khoa học
hội;
- Các quan hệ kinh tế hội bị chi phối,
làm gia tăng phân hóa giàu nghèo.
2.3.3. sao phải bảo vệ cạnh tranh hạn chế độc quyền
Cạnh tranh vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, cạnh tranh không lành mạnh sẽ mang lại những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế, nhà sản xuất, chuỗi cung ứng cũng như người tiêu ng. vậy, cần đánh
giá những tác động của cạnh tranh cũng như tác động của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, nghiên cứu luận thực trạng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
qua đó đưa ra những giải pháp đồng bộ thiết thực nhất để xây dựng môi trường kinh
doanh cạnh tranh bình đẳng, cùng lợi đẩy lùi tối đa các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế.
Nền kinh tế hàng hóa cao hơn nền kinh tế thị trường đã sản sinh ra cạnh
tranh. Sau đó cạnh tranh lại đẻ ra độc quyền. Do đó, cả độc quyền cạnh tranh một
nền tảng ra đời chung kinh tế ng hóa hay kinh tế thị trường. Những tác động tiêu
cực của độc quyền cũng tạo ra tác đông tiêu cực của cạnh tranh, bởi lẽ độc quyền luôn
triệt tiêu sự cạnh tranh lành mạnh công bằng. Cạnh tranh cao độ sẽ làm xuất hiện
các doanh nghiệp lớn có khả năng khống chế được thị trường tiến tới độc quyền thị
trường.
10
Theo Ph. Ăngghen, những kẻ cạnh tranh để muốn trở thành độc quyền, nhưng chỉ
khi trở thành độc quyền vẫn không thủ tiêu được cạnh tranh, khi mỗi nhân cạnh
tranh đều muốn trở thành độc quyền thì xã hội lại yêu cầu phải xóa bỏ độc quyền.
Trong một số trường hợp độc quyền cần thiết để tạo ra mô hình tối ưu trong
một số lĩnh vực khi chỉ cần một nhà sản xuất đủ khả năng cung cấp sản phẩm
cho thị trường với hiệu quả kinh tế cao nhất, nếu cho các nhà cung cấp khác tham
gia sẽ khiến thị trường dẫn đến sự cạnh tranh lãng phí. dụ như trong ngành sản
xuất kinh doanh điện, việc nhiều nhà sản xuất điện cạnh tranh trên thị trường sẽ
làm giảm giá bán điện nâng cao chất ợng điện được cung cấp. Tuy nhiên, trong
một quốc gia thì không nhất thiết mỗi nhà sản xuất điện phải xây dựng một hệ thống
dây truyền tải riêng biệt. Đó điều không thể làm được đối với tất cả các doanh
nghiệp vì đòi hỏi chi phí rất lớn cũng như gây ra sự lãng phí không cần thiết. Chính
vậy, các doanh nghiệp sản xuất điện chỉ cần sử dụng một hệ thống đường truyền tải
đủ. Điều đó nghĩa doanh nghiệp nắm giữ hệ thống truyền tải điện sẽ trở thành
nhà độc quyền hiện tượng đó gọi độc quyền tự nhiên. Những dụ khác về độc
quyền tự nhiên thể tìm thấy trong các ngành như vận tải đường sắt, đường hàng
không hay viễn thông. Việc xác định rõ ranh giới của độc quyền tự nhiên điều rất
quan trọng trong việc xây dựng pháp xác định độc quyền được tồn tại đối với một số
ngành nhất định.
Tuy nhiên trong lịch sử, sự phát triển của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
mang nhiều yếu tố khó kiểm soát các mức độ ảnh hưởng cũng khác nhau. Theo
Lênin, các hình thức tồ chức độc quyền bản từ thấp đến cao bao gồm: Cartel (Các-
ten), Syndicate (Xanh-đi-ca), Trust (Tờ-rớt), Consortium (Công-xoóc-xi-om). Các tổ
chức độc quyền với quy càng lớn thì càng mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền
kinh tế, tới ngày nay các hình thức tổ chức độc quyền trên vẫn còn tồn tại và ngày càng
mở rộng quy mô. Đối với một thị trường nhỏ hoặc một ngành nghề cụ thể, khi độc
quyền xuất hiệnsẽ ảnh hưởng tới lợi ích của các doanh nghiệp khác đang hoạt động
hoặc một doanh nghiệp mới muốn tham gia thị trường đó. Khi các doanh nghiệp khác
không thể cạnh tranh được với doanh nghiệp độc quyền sẽ dẫn đến tình trạng áp đặt giá
bán, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của người tiêu dùng. Đối với mức độ cao hơn, nh
thái các tổ chức độc quyền phát triển cả về liên kết ngang liên kết dọc, trở thành
những tập đoàn khổng lồ hàng trăm công ty con, đầu vào nhiều ngành nghề khác
nhau nhưng về bản vẫn mang tiền tạo lợi nhuận cho công ty mẹ. Khi các tổ
11
chức độc quyền này sự tham gia của các bản ngân hàng sẽ hình thành nên bản
tài chính, tạo ra những nhà tài phiệt nắm giữ khối tài sản khổng lồ chi phối nh
hưởng mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế, chính trị hội. dụ như tại Hàn Quốc,
các tập đoàn lớn chi phối nền kinh tế Hàn Quốc tên gọi Cheabol
1
, một hiện
tượng của vị thế độc quyền, hình thành từ sự hậu thuẫn của chính phủngân hàng sau
chiến tranh thế giới th2. Các ông chủ của Cheabol duy trì quyền lực nh trướng
quy mô thông qua sở hữu chéo, những tập đoàn thể sở hữu tới hàng trăm công ty
con ảnh hưởng mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia này. Sự phát triển của
các Cheabol đạt được mức liên kết Syndicate, Trust, Consortium cũng nhờ vào việc
ngay cả khi các đế chế này gặp khó khăn về tài chính thì các ngân hàng cũng sẵn ng
gia hạn hoặc giảm các khoản nợ, hay được chính phủ giảm xóa nợ. Tuy nhiên các
Cheabol tại Hàn Quốc cũng đã vướng phải không ít những bối tiêu cực liên quan
đến lũng đoạn nền kinh tế chính trị. Các Cheabol thường gây áp lực với chính phủ
để những chính ch thuận lợi cho việc kinh doanh của mình, trong khi các doanh
nghiệp này được sự hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ chính phủ thì đã tạo ra các rào
cản đối với các doanh nghiệp khác tham gia vào nền kinh tế thị trường, khiến các
doanh nghiệp khác hoặc chấp nhận hợp tác hoặc phải chịu sức ép cạnh tranh không
lành mạnh. Vì khối tài sản trong nền kinh tế bị tập trung vào trong tay một số các
Cheabol nên sự gia tăng về bất bình đẳng khoảng cách giàu nghèo tại Hàn Quốc
ngày trầm trọng.
Theo Lênin, các tập đoàn độc quyền không chỉ dừng tại thị trường trong nước
sẽ xuất khẩu bản để tìm lợi nhuận các nước nhập khẩu bản, đồng thời các tập
đoàn độc quyền hậu thuẫn cho chính phủ để thực hiện chính sách thực dân kiểu mới.
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, hình thành không ít những tập đoàn toàn cầu tạo
ra những đế chế độc quyền khổng lồ, sử dụng công cụ đầu trực tiếp đầu gián
tiếp hay viện trợ để biến các quốc gia khác trở thành con nợ, từ đó bị lệ thuộc vào các
quốc gia chủ nợ. Nếu các quốc gia nhận được đầu hay viện trợ không những
chính sách phù hợp thì rất dễ bị sa vào các bẫy nợ làm ảnh hưởng tới kinh tế, chính
trị hội. Tập đoàn dầu mỏ khổng lồ Standard Oil
2
của Hoa Kỳ một dụ điển
1
Cheabol: là tên gọi của các đại tập đoàn gia đình lớn tại Hàn Quốc. Thông thường, chaebol là các tập
đoàn đa quốc gia với tập hợp thành viên bao gồm rất nhiều doanh nghiệp quốc tế nằm dưới sự điều
khiển của một ông chủ duy nhất nắm quyền hành trên tất cả những cơ sở này. Một thống kê năm 2015
cho thấy chỉ tính riêng 5 Chaebol đứng đầu đã kiểm soát tới 58% GDP của Hàn Quốc.
2
Standard Oil: một công ty sản xuất, vận chuyển, tinh chế tiếp thị dầu mỏ của Mỹ. Được thành
lập vào năm 1870 bởi John D. Rockefeller và đã giải thể vào năm 1911, khi Tòa án tối cao Hoa Kỳ
12
hình về một tổ chức độc quyền xuất hiện từ cạnh tranh, sau đó biến ớng thành cạnh
tranh không lành mạnh để đạt được độc quyền cuối cùng thực hiện xuất khẩu tư bản
được kết hợp với chính sách đối ngoại bành trướng của nước Mỹ trong giai đoạn từ
năm 1865 đến 1918. Ktừ khi được thành lập vào năm 1870 tại thành phố Cleverland,
bang Ohio, Standard Oil đã thực hiện hàng loạt các chiến lược mang tính cạnh tranh
thiếu lành mạnh để loại bỏ đối thủ. Bằng cách liên kết với các công ty đường sắt để
kiểm soát giá cước vận tải, mua sát nhập các công ty lọc dầu đối thủ, mua lại các
mạng lưới đường ống dẫn dầu… Phiên tòa xét xử Standard Oil diễn ra vào năm 1908
đã đưa ra bằng chứng Standard Oil sử dụng mức chiết khấu bất hợp pháp, ngăn chặn
các đối thủ cạnh tranh sử dụng đường ống dẫn dầu, theo dõi các công ty khác hối lộ
các quan chức, khiến các doanh nghiệp đối thủ phải chịu phá sản hoặc bán nh, qua
đó đưa Standard Oil trở thành doanh nghiệp gần như độc quyền tại thị trường Hoa Kỳ.
Vào giai đoạn thập niên 1980 1990 khi dầu lửa trở thành ngành xuất khẩu lớn của
Mỹ thì Standard Oil đã nắm giữ tới 88% thị phần sản xuất dầu tinh luyện tại Hoa Kỳ
kiểm soát 70% thị trường thế giới, qua đó trở thành công ty độc quyền công nghiệp
lớn đầu tiên trên thế giới. Chính phủ Hoa Kđã tuyên bố Standard Oil vi phạm luật
chống độc quyền chia tập đoàn này thành 34 công ty độc lập để khôi phục sự cạnh
tranh trong ngành dầu mỏ.
Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh gay gắt như ngày nay thì các doanh
nghiệp cũng luôn muốn giành được vị thế độc quyền về cho mình để thu được nhiều lợi
ích nhất. Không thể phủ nhận một số mặt ch cực thì độc quyền đem lại sự phát triển
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, và ở một số ngành nhất định như cơ sở hạ tầng hoặc để bảo
vệ lợi ích quốc gia thì cần tồn tại độc quyền, tức không thể triệt tiêu hoàn toàn độc
quyền. Tuy nhiên sự tồn tại của độc quyền luôn tồn tại những tiêu cực rõ ràng vì không
những tạo ra cạnh tranh không lành mạnh, làm ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu dùng
còn tạo ra những mâu thuẫn bất ổn về toàn bộ kinh tế, chính trị hội.
vậy trong nền kinh tế thị trường cần phải những biện pháp để kiểm soát nhằm hạn
chế các tác động tiêu cực độc quyền mang lại, thông thường việc kiểm soát độc
quyền thường các rào cản được tạo ra bởi chính phủ các quốc gia. Trong thời đại
kinh tế toàn cầu, sự phát triển của độc quyền tạo ra nhiều hình thức tồn tại khác nhau
cũng những tác động rất khó lường, điều này đặt ra nhiều thách thức cho chính
phán quyết rằng Standard Oil là một độc quyền bất hợp pháp.
13
phủ các nước vừa phải tăng cường bảo vệ cạnh tranh hạn chế độc quyền không chỉ
môi trường trong nước mà còn từ tác động của môi trường bên ngoài.
Sự công bằng khách quan của nền kinh tế thị trường yêu cầu phải bảo vệ cạnh
tranh hạn chế độc quyền, qua đó phát huy tốt nhất các mặt tích cực của nền kinh tế
thị trường:
- Thúc đẩy đổi mới và phát triển: Cạnh tranh lành mạnh sẽ luôn thúc đẩy các
doanh nghiệp phải đổi mới phát triển sản phẩm để giành giật thị trường,
qua đó người tiêu dùng nhiều sự lựa chọn hơn, đồng thời chỉ những sản
phẩm tốt nhất mới tồn tại được trên thị trường;
- Tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng: Cạnh tranh công bằng sẽ buộc các doanh
nghiệp phải thiết lập một mức giá đầu vào đầu ra hợp lý, dẫn đến giá cả
cạnh tranh và người tiêu dùng được hưởng lợi nhiều nhất.
- Ổn định kinh tế chính trị: Các tập đoàn hoặc liên minh độc quyền thường
tìm cách tạo ra sức ảnh hưởng chi phối kinh tế và chính trị nhằm thu về lợi ích
cho mình. Hạn chế độc quyền sẽ tạo ra rào cản ngăn ngừa các tổ chức này gây
lũng đoạn cho kinh tế và chính trị.
- Kích thích tăng trưởng kinh tế: một môi trường cạnh tranh công bằng thì
luôn hội cho những doanh nghiệp mới muốn tham gia vào thị trường,
giúp tạo ra việc làm và tạo môi trường thu hút vốn đầu tư.
- Phòng ngừa quyền lực kinh tế tập trung: Bảo vệ cạnh tranh hạn chế độc
quyền giúp cho nền kinh tế được phân phối một cách công bằng trong hội,
giảm khoảng cách giàu nghèo.
2.4. Liên hệ với thực tiễn tại Việt Nam
2.4.1. Khái quát nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
Sau 38 năm thực hiện “Đổi mới”, nên kinh tế Việt Nam đã được khẳng định đi
theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội Đảng IX năm
2001. Quá trình đổi mới duy luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN được
xác định trên sở khái quát lại quá trình đổi mới với 2 giai đoạn nhận thức về nền
kinh tế XHCN: Trước Đại hội Đảng VI (năm 1986); Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội
Đảng IX (1986-2000):
- Giai đoạn trước Đại hội VI (1986): Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ
chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Những cải tiến theo ớng kinh tế thị
trường chủ yếu cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để thiếu đồng
14
bộ, diễn ra trong khuôn khổ chế kế hoạch hoá tập trung nhằm duy trì,
củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấpđóng cửa. Đây giai
đoạn nền kinh tế chịu sthống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu công cộng, vận
hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc trưng nổi bật quan liêu
- bao cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận.
- Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001): Đổi mới toàn diện
cả cấu trúc chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính từ bỏ chế
kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo chế thị trường, sự quản của nhà nước, theo định hướng
hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa
hội.
2.4.2. Cạnh tranh độc quyền tại Việt Nam
Việt Nam mới trải qua giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế thị trường cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên một số
yếu tố bất hợp của hình kinh tế trước đây vẫn còn tồn tại đòi hỏi cần phải
những giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần
giải quyết tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Stồn tại quá nhiều
doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh không hiệu quả) việc độc
quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực một trong những do được
các luật Mỹ sử dụng để khẳng định Việt Nam không nền kinh tế thị trường trong
vụ kiện da trơn của Việt Nam
3
. Để hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các
3
Vụ kiện da trơn: là cuộc tranh chấp thương mại giữa Việt Nam các nhà sản xuất da trơn của
Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 2001. Lập luận chính liên quan đến việc nhập khẩu da trơn từ Việt Nam
gây ra sự giảm sút lợi nhuận đối với các nhà sản xuất da trơn của Mỹ. Chiến dịch này bắt đầu từ
cuối năm 2000, một số người Mỹ gọi đó "chiến tranh da trơn" hay "cuộc chiến mới chống Việt
Nam". Hiệp hội các chủ trại nuôi nheo Mỹ (CFA) đại diện cho giới chủ trại nuôi giàu bang
15
điều kiện gia nhập WTO trong thời gian tới tránh thua thiệt trong thương mại quốc
tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp cho sự độc
quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo
thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Việt Nam hiện nay có hai nh thức độc quyền
phổ biến như sau:
- Độc quyền do kết quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường;
- Độc quyền từ kết quả của chế hành chính trước đâymột số quy định của
pháp luật cũng như các chính sách kinh tế hiện hành.
Đại hội X năm 2006 của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa theo ớng phát
triển đồng bộquản hiệu quả sự vận hành các loại thị trường bản theo chế
cạnh tranh lành mạnh. Luật Cạnh tranh lần đầu tiên được Quốc hội khóa XI thông qua
ngày 03 tháng 12 năm 2004, tại kỳ họp thứ 6 và hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7
năm 2005. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 đánh dấu mốc quan trọng trong
việc tạo lập hành lang pháp lý thống nhất thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh của
doanh nghiệp trên thị trường, đặc biệt là công cụ quan trọng để nhà nước kiểm soát các
hành vi có tính chất phản cạnh tranh. Kể từ khi luật cạnh tranh ra đời cho tới nay, theo
thống từ Cục Quản cạnh tranh (Bộ Công Thương) ghi nhận trong giai đoạn 2005-
2016, số vụ vi phạm chính sách cạnh tranh được quan thực thi pháp luật cạnh tranh
điều tra chính thức 8 vụ, số vụ điều tra tiền tố tụng 87 vụ, số vụ vi phạm Luật Cạnh
tranh được Hội đồng cạnh tranh quốc gia tiến hành xử 6 vụ, 70 doanh nghiệp bị điều
tra. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì tình trạng độc quyền diễn ra cũng
càng khó lường, kéo theo đó tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng thủ
đoạn ngăn cản loại bỏ các đối thủ, trục lợi từ thị trường. Số vụ vi phạm liên quan
đến độc quyền cạnh tranh không lành mạnh kể từ khi ra đời Luận Cạnh tranh 2004
cho tới nay vẫn mức thấp, còn tồn tại nhiều hạn chế chưa giải quyền triệt để. vậy
Chính phủ vẫn cần c định những tồn tại trong nền kinh tế thị trường, hoàn thiện
thể chế, tăng ờng kiểm tra giám sát để sớm tạo ra môi trường cạnh tranh lành lạnh,
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và xã hội.
Đối với tình trạng độc quyền xuất phát từ cạnh tranh, các doanh nghiệp thường
tìm cách lách luật hoặc bất chấp vi phạm quy định để đạt được vị thế độc quyền, từ đó
thu lợi nhuận siêu ngạch. Năm 2010, Cục Quản cạnh tranh đã xử phạt 19 doanh
Mississippi một số bang miền nam nước Mỹ đã đâm đơn kiện phía Việt Nam.
16
nghiệp bảo hiểm chiếm 99,79% thị phần trên thị trường bảo hiểm vật chất xe ô tại
Việt Nam, liên minh với nhau, thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực bảo hiểm xe
giới, thống nhất biểu phí bảo hiểm ô để tăng 15% mức phí bảo hiểm xe giới.
thể thấy mặc đã quy định nhưng lợi nhuận, các doanh nghiệp vẫn sẵn sàng sử
dụng nhiều cách thức để đạt được ưu thế độc quyền, chèn ép đối thđể hạn chế cạnh
tranh, mua bán sát nhập để chiếm vị trí độc quyền. Theo thông lệ quốc tế và cũng được
quy định tại Luật Cạnh tranh của Việt Nam, khi một hoặc nhóm doanh nghiệp tổng
thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan sẽ được xác định là "vị trí thống
lĩnh thị trường". Doanh nghiệp được coi "vị trí độc quyền" nếu không doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị
trường liên quan. Theo quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018, chính sách của Việt
Nam về cạnh tranh tạo lập, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng,
bình đẳng, minh bạch; bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của doanh
nghiệp; nâng cao phúc lợi hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mặt khác, đối
tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh không chỉ tổ chức, nhân kinh doanh
đăng kinh doanh tại Việt Nam còn bao gồm cả quan, tổ chức, nhân nước
ngoài liên quan. Hiện nay dưới tác động của toàn cầu hóa, Việt Nam còn gặp phải
sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các tổ chức độc quyền lớn trên thế giới tham gia vào thị
trường. Năm 2020, tại Mỹ nhiều nước châu Âu đang diễn ra các vụ kiện cấp liên
bang, chính phủ đối với 2 công ty công nghệ khổng lồ Facebook (thuộc tập đoàn nền
tảng Meta) Google đang thống lĩnh thị trường cạnh tranh không lành mạnh. Các
tập đoàn công nghệ đã tham gia vào thị trường Việt Nam từ lâu, tuy nhiên những năm
gần đây các doanh nghiệp này mới bắt đầu đăng kinh doanh hoạt động nộp thuế
cho Việt Nam, qua đó các quy định quản lý cạnh tranh hạn chế độc quyền mới được
áp dụng cho những doanh nghiệp này.
Loại hình độc quyền do chế hành chính trước đây một số quy định hiện
hành vẫn đang phổ biến tại Việt Nam. Quá trình chuyển đổi chế độ công hữu
chế quản kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính đã hình thành nên các doanh
nghiệp nhà nước độc quyền một số ngành vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Hơn
nữa, hiện nay còn xu hướng độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh
nghiệp làm cản trở quá trình phát triển nền kinh tế thị trường nước ta. Ví dụ Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam - VNPT lợi thế về việc nắm giữ đường trục viễn
thông quốc gia, qua đó có vị thế độc quyền để ngăn cản các công ty khác tham gia vào
17
thị trường viễn thông, bởi lẽ nếu các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông
họ buộc phải sử dụng đường trục viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về
thị phần sẵn từ trước cùng với các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá dịch vụ
viễn thông cung cấp cho người sử dụng cao hơn 30% so với các nước ASEAN. Tình
trạng này cũng tương tnhư Tổng công ty điện lực Việt Nam - EVN. nước ta đã
một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN được nắm giữ hệ thống truyền
tải điện. Trong thị trường điện lực, việc sản xuất điện liên quan mật thiết đến việc
truyền tải điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào
EVN. Chính vậy, độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện điều không
thể tránh khỏi. Mặc vị thế độc quyền trong thị trường, nhưng hoạt động của EVN
những năm gần đây không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ, không đảm bảo chất lượng
dịch vụ điều độ hệ thống điện quốc gia, chậm đầu nguồn lưới điện trong khi vẫn
tăng giá điện, thậm chí dấu hiệu tham ô hối lộ. Tới tháng 11/2023, quan An ninh
điều tra Bộ Công an đã tiến hành khởi tố Giám đốc Công ty Mua bán điện Tập đoàn
EVN, khởi tbắt tạm giam 5 cán bcủa Bộ Công thương EVN tội “lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ”. Tiếp đến tháng 12/2023, Bộ Công an tiếp
tục khởi tố 17 đối tượng EVN Bình Thuận và tập đoàn Tuấn Ân về tội "vi phạm quy
định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng", "đưa hối lộ", "vi phạm quy định về kế
toán gây hậu quả nghiêm trọng". Vụ việc của EVN chỉ một trong những trường hợp
độc quyền do chế nhà nước không còn phù hợp, hoạt động không hiệu quả gây
thiệt hại nghiêm trọng, ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu dùng và cho xã hội.
Nhằm đảm bảo nâng cao hiệu lực của nền kinh tế thtrường, Bộ ng thương đã
trình Chính phủ Nghị định công bố 20 loại ng hóa, dịch vụ quan trọng liên quan đến
an ninh quốc phònglợi ích quốc gia, đồng thời tạo sở pháp ràng, minh bạch.
Tuy nhiên, việc pháp luật quy định nhà ớc nắm độc quyền đối với các phương tiện
thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà ga
sân bay, hệ thống đường sắt nhưng không sự tách biệt ràng các yếu tố thuộc về
cạnh tranh tiềm năng các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc quyền
nhà nước biến thành khối độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy rằng những quy
định này không phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trườngcần phải được
tiếp tục thay đổi trong thời gian tới. Không những thế, một số chính sách kinh tế thời
gian qua cũng nguyên nhân tạo ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta, điển hình là
chính sách thành lập các tổng công ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp
18
nhà nước trong các nh vực như xây dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập c tổng
công ty này, một loạt các công ty nhỏ có cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập một
cách hệ thống theo quyết định của Chính phủ. Kết quả các công ty một sức mạnh
thị trường đáng kể trong ngành nghề nó kinh doanh và nhanh chóng vị trí thống
lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, không một doanh nghiệp nào thể cạnh tranh với
các tổng công ty nhà nước. dụ về lĩnh vực cảng hàng không sân bay, lĩnh vực
nhiều nước đã cho phép doanh nghiệp tư nhân được tham gia, Tổng công ty Cảng hàng
không Việt Nam - ACV hiện đang quản 21 sân bay trên tổng số 22 sân bay tại Việt
Nam, trong đó vốn từ nhà nước chiếm hơn 95%. Mới đây năm 2018 chỉ duy nhất
một sân bay được đầu quản bởi doanh nghiệp nhân, đánh dấu sự tham gia
cạnh tranh với ACV trong lĩnh vực hạ tầng sân bay. Tuy nhiên một số sản phẩm dịch
vụ phụ trợ hàng không, như an ninh hàng không được nhà nước chỉ định cấp phép cho
duy nhất ACV cung cấp dịch vụ này, đã tạo ra lợi thế độc quyền cho ACV. Hơn nữa
việc nhà nước chỉ định thầu cho ACV những dự án sân bay vị trí đẹp như Long
Thành khiến các doanh nghiệp khác vẫn phải chịu thiệt thòi, cho thấy khung pháp
của nước ta vẫn chưa đủ hoàn thiện để tạo môi trường cạnh tranh công bằng. Mặt khác,
thực trạng tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chậm, theo thống
của Cục Tài chính doanh nghip (B Tài chính) tiến độ cổ phần hóa giai đoạn 2016
- 2020 mới chỉ đạt 28% so với kế hoạch. vậy tình trạng thoái vốn nhà nước không
hiệu quả, thiếu công khai, thất thoát vốn nhà nước, làm giảm hiệu lực nguyên tắc thị
trường vẫn sẽ là vấn đề cần phải xử lý ở nước ta trong thời gian tới.
Hiện nay, Chính phủ chủ trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định, việc
xây dựng các tập đoàn kinh tế quan trọng bởi vì xét về mức độ tập trung vốn và công
nghệ, hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam đều rất nhỏ so với các công ty nước
ngoài, đặc biệt các tập đoàn đa quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
hợp tác đi cùng với cạnh tranh điều không thể tránh khỏi. Để thể tham gia và cạnh
tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam rất cần thiết phải thành lập các tập đoàn kinh
tế đủ mạnh trong những lĩnh vực nhất định. Theo chính sách này, các tập đoàn kinh tế
được thành lập dựa trên việc sáp nhập các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn, nếu việc
sáp nhập nhiều khả năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn chế cạnh
tranh, sẽ không bị cấm. Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, việc
tránh xung đột giữa độc quyền kết quả của sáp nhập lợi ích công cộng rất cần
thiết. Khi các tập đoàn kinh tế được thành lập bởi Chính phủ t sẽ rất dễ dàng cho các
19

Preview text:

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP TỰ LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề bài 4:
Phân tích mối quan hệ giữa cạnh tranh độc quyền trong nền
kinh tế thị trường? sao trong nền kinh tế thị trường phải bảo vệ
cạnh tranh, hạn chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn nước ta.
Sinh viên thực hiện: Đặng Tiến Lợi
sinh viên: 19231656 Lớp: AUM32
Nội 1/2024
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng báo cáo đề tài này là do chính tôi thực hiện, các thông tin
và dữ liệu trong báo cáo là dựa vào quá trình tìm hiểu và thu thập của tôi thông
qua các tài liệu khoa học, không sao chép từ bất cứ đề tài nghiên cứu nào, ngoài
việc đáp ứng yêu cầu nghiên cứu và làm rõ bài tập, sẽ không sử dụng với mục đích khác.
Ngày 15 tháng 01 năm 2024
Người thực hiện
Đặng Tiến Lợi 1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM BÀI 1
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Ngày …. tháng …. năm
Giáo viên chấm 1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM BÀI 2
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Ngày …. tháng …. năm
Giáo viên chấm 2 2
Chương 1: MỞ ĐẦU ................................................................................................... 4
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 4
1.2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 4
1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .................................................... 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................... 5
1.5. Cấu trúc bài tập ................................................................................................... 5
Chương 2: NỘI DUNG ................................................................................................ 6
2.1. Các khái niệm chung ........................................................................................... 6 2.1.1.
Khái niệm kinh tế thị trường ...................................................................... 6 2.1.2.
Khái niệm cạnh tranh ................................................................................. 6 2.1.3.
Khái niệm độc quyền ................................................................................. 7
2.2. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền ........................................................ 8 2.2.1.
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do ....................................................... 8 2.2.2.
Độc quyền làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt hơn .................... 8
2.3. Bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền trong nền kinh tế thị trường ................... 9 2.3.1.
Tác động của cạnh tranh ............................................................................ 9 2.3.2.
Tác động của độc quyền ........................................................................... 10 2.3.3.
Vì sao phải bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc quyền ............................... 10
2.4. Liên hệ với thực tiễn tại Việt Nam .................................................................... 14 2.4.1.
Khái quát nền kinh tế thị trường tại Việt Nam ......................................... 14 2.4.2.
Cạnh tranh và độc quyền tại Việt Nam .................................................... 15 2.4.3.
Bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc quyền tại Việt Nam ............................ 20
Chương 3: Kết luận ..................................................................................................... 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................. 1 3
Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế, thể hiện nền
văn minh của nhân loại, trong đó việc sản xuất phù hợp với nhu cầu của con người, có
sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong xã hội. Một trong những quy
luật quan trọng của kinh tế thị trường là quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh là linh hồn của
thị trường, là động lực phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế
vận động hiệu quả và thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Độc quyền lại
là sản phẩm của cạnh tranh tự do, ở một mức độ nhất định độc quyền là yếu tố đảm bảo
cho cạnh tranh phát triển và duy trì được hiệu quả kinh tế của toàn xã hội, nhưng độc
quyền tuyệt đối lại làm cạnh tranh không hoàn hảo và thường được nhắc đến như yếu
tố tạo ra cạnh tranh không lành mạnh. Trên thực tế nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh
tranh và độc quyền luôn cùng tồn tại theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào
hoàn cảnh của mỗi nền kinh tế thị trường ở các quốc gia khác nhau.
Để phân tích rõ hơn và đưa ra giải pháp về vấn đề bảo vệ cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền tại Việt Nam, em xin lựa chọn đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa cạnh
tranh độc quyền trong nền kinh tế thị trường? sao trong nền kinh tế thị trường
phải bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn nước ta”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bài tiểu luận được thực hiện nhằm mục đích:
• Cung cấp cho người đọc kiến thức về mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền.
• Phân tích các nguyên nhân nền kinh tế thị trường cần phải bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc quyền.
1.3. Đối tượng nghiên cứu phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: cạnh tranh, độc quyền, kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa
cạnh tranh và độc quyền, liên hệ với thực tế ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu:
• Về nội dung: nghiên cứu về mối quan hệ cạnh tranh và độc quyền trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 4
• Về thời gian: từ 1/1/2024 – 15/1/2024.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (định tính): thu thập các thông tin khoa học trên cơ
sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu sơ cấp và thứ cấp.
- Phương pháp quy nạp và tổng hợp.
1.5. Cấu trúc bài tập
Ngoài phần tài liệu tham khảo và các phụ lục, cấu trúc của đề tài nghiên cứu bao gồm: - Chương 1: Mở đầu - Chương 2: Nội dung - Chương 3: Kết luận 5
Chương 2: NỘI DUNG
2.1. Các khái niệm chung
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Thị trường là một hiện tượng xã hội và nó được ra đời trong những điều kiện lịch
sử nhất định. Sự xuất hiện của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của hoạt
động sản xuất, lưu thông hàng hoá – tiền tệ của xã hội loài người. Ban đầu với trình độ
sản xuất lạc hậu, sản phẩm làm ra không đáp ứng đủ cho nhu cầu của con người, nền
kinh tế mang tính tự cung, tự cấp và không cần có thị trường để trao đổi sản phẩm.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và đã
có sự dư thừa và có nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa làm xuất hiện các thị trường để đáp ứng nhu cầu đó.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh các
câm đối của nền kinh tế theo yêu cầu của quy luật kinh tế.
⇨ Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
2.1.2. Khái niệm cạnh tranh
Theo C.Mác “Cạnh tranh sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ hàng hoá để
thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Có thể hiểu, cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Quy luật cạnh tranh là điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh
tế giữa chủ thể sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khi đã tham gia thị trường, các chủ thể
sản xuất kinh doanh, bên cạnh sự hợp tác cần chấp nhận cạnh tranh, bất kỳ một doanh
nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên thị
trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Như vậy hoạt động cạnh tranh trong kinh tế thị trường là tất yếu. 6
2.1.3. Khái niệm độc quyền
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo
rằng: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích cực và tập trung sản
xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Theo Lênin, sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao sẽ hình thành các tổ
chức độc quyền, do các doanh nghiệp lớn có số lượng ít nên có khuynh hướng chấp
nhận thỏa hiệp với nhau và dần hình thành các tổ chức lớn hơn có địa vị độc quyền.
Khi mới hình thành, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết ngang trong cùng
một ngành, nhưng về sau đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác
nhau và ngày càng phức tạp. Sự phát triển của độc quyền còn hình thành ra tư bản tài
chính, là sự kết hợp của một số ít ngân hàng độc quyền và liên minh độc quyền các nhà
công nghiệp. Theo Lênin, “sự phát triển của nhóm bản tài chính dần dẫn đến những
nhóm nhỏ nhà bản kếch chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn
hội, gọi tài phiệt”.
Theo khái niệm kinh tế học, một thị trường độc quyền được biểu hiện qua 3 yếu
tố như sau: Thứ nhất, toàn bộ thị trường đó được nắm giữ bởi một hoặc một số người
bán nhất định. Thứ hai, sản phẩm của nhà sản xuất được bán trên thị trường là duy nhất
mà không có sản phẩm thay thế gần tồn tại. Thứ ba, tồn tại những rào cản để ngăn cản
việc các doanh nghiệp khác kinh doanh trên thị trường liên quan.
Rào cản được coi là đặc trưng quan trọng nhất của một thị trường độc quyền bởi
lẽ, nếu không có rào cản, các doanh nghiệp khác sẽ lập tức tham gia vào thị trường
kinh doanh khi nhà độc quyền thực hiện chính sách tăng giá bán hoặc giảm chất lượng
và số lượng sản phẩm. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh khi muốn trở thành độc quyền
đều cần phải có một rào cản và nhờ vào đó để cản trở các đối thủ khác. Rào cản thị
trường được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các hình thức phổ
biến là các quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Đây là loại rào cản rất
thường gặp, nó tạo ra sự độc quyền hợp pháp cho các doanh nghiệp. Trong những hoàn
cảnh nhất định, Chính phủ ở hầu hết các quốc gia đều cần thiết phải sử dụng rào cản do
pháp luật tạo ra để đảm bảo phát triển kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng hoặc bảo hộ sản
xuất trong nước. Trong những trường hợp đó, sự tồn tại của các rào cản thị trường là
hợp lý. Chẳng hạn, việc nhà nước chỉ cho phép một hoặc một số doanh nghiệp được
hoạt động trong các lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền như các ngành thuộc an 7
ninh, quốc phòng hay những ngành dịch vụ công ích hoặc những ngành có tác động
mạnh và ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ xã hội như: cấp, thoát nước, nắm giữ
mạng lưới truyền tải điện quốc gia, mạng lưới đường sắt tàu hoả... Trong những trường
hợp này, pháp luật cần thiết phải tạo ra các rào cản thị trường phù hợp.
2.2. Mối quan hệ giữa cạnh tranh độc quyền
2.2.1. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do
Sự xuất hiện của độc quyền có thể tới từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Do sự
phát triển của lực lượng sản xuất tác động bởi tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải có
các doanh nghiệp có quy mô lớn đủ tiềm lực để thúc đẩy sản xuất; Do khủng hoảng
khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản còn lại các doanh nghiệp đủ lớn trụ vững;
Sự phát triển của các tổ chức tín dụng tạo đòn bẩy cho các doanh nghiệp tiếp tục mở
rộng; Do quy luật cạnh tranh khiến các doanh nghiệp lớn thâu tóm các doanh nghiệp
khác và củ đủ lợi thế để trở thành độc quyền trong thị trường.
Cạnh tranh là một trong những quy luật vận động của kinh tế thị trường. Xét theo
góc độ này, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể trong
sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuât tiêu
dung hàng hóa để thu nhiều lợi ích cho mình nhất. Kinh tế thị trường càng phát triển thì
cạnh tranh trên thị trường lại càng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Sự cạnh tranh gay
gắt này làm nhiều doanh nghiệp nhỏ phá sản hoặc bị thâu tóm bởi các doanh nghiệp
lớn, đồng thời các doanh nghiệp lớn bắt tay liên kết với nhau và cuối cùng sinh ra độc quyền.
Có thể thấy độc quyền và cạnh tranh vừa là hai phạm trù đối lập nhau và có mối
quan hệ nhân quả trong cấu trúc thị trường.
2.2.2. Độc quyền làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt hơn.
Nền kinh tế thị trường khi có sự xuất hiện của độc quyền thì cũng dần hình thành
thêm các hình thức cạnh tranh mới khiến cho sự cạnh tranh của các chủ thể trong nền
kinh tế càng khốc liệt. Hình thức cạnh tranh có sự tham gia của các tổ chức độc quyền bao gồm:
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền. Các tổ chức độc quyền thường tìm cách để chi phối, thôn tính các
doanh nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc quyền mua 8
nguyên liệu đầu vào; độc quyền phương tiện vận tải; độc quyền tín dụng... để
có thể loại bỏ các chủ thể yếu thế hơn ra khỏi thị trường.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại hình cạnh tranh này có
nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành,
kết thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sàn của một bên cạnh tranh;
cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về
nguồn lực đầu vào..
- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những doanh nghiệp tham
gia các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh với nhau đề giành lợi
thế trong hệ thống. Các thành viên trong các tổ chức độc quyển cũng có thể
cạnh tranh nhau để chiếm tỷ lệ có phần khống chế, từ đó chiếm địa vị chi phối
và phân chia lợi ích có lợi hơn.
2.3. Bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền trong nền kinh tế thị trường
2.3.1. Tác động của cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật quan trọng để nền kinh tế vận hành ổn định và duy trì
theo cơ chế thị trường, nó vừa mang lại các tác động tích cực lẫn tiêu cực: Tích cực Tiêu cực
- Thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát - Phân hóa người sản xuất; triển;
- Gây rối, phá hoại thị trường;
- Phát triển lực lượng sản xuất;
- Cạnh tranh tiêu cực, phi đạo đức làm
- Sử dụng và phân bổ các nguồn lực kinh ảnh hưởng tới lợi ích xã hội và môi tế tối ưu; trường kinh doanh.
- Thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và sáng tạo đổi mới;
- Điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường;
- Mang lại lợi ích cho người tiêu dùng
và hiệu quả xã hội (giá cả, sự đa dạng và
chất lượng sản phẩm…). 9
2.3.2. Tác động của độc quyền
Cũng như cạnh tranh, độc quyền vừa có những tác động tích cực lẫn tiêu cực
trong nền kinh tế thị trường: Tích cực Tiêu cực
- Khả năng nghiên cứu, thúc đẩy phát
- Làm cho cạnh tranh không hoàn hảo
triển khoa học kỹ thuật;
gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội;
- Gia tăng năng suất lao động, năng lực cạnh tranh;
- Có thể kìm hãm tiến bộ khoa học và xã hội;
- Tạo ra sức mạnh kinh tế, làm thúc đẩy
nền kinh tế theo hướng sản xuất hiện đại. - Các quan hệ kinh tế xã hội bị chi phối,
làm gia tăng phân hóa giàu nghèo.
2.3.3. Vì sao phải bảo vệ cạnh tranh hạn chế độc quyền
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, cạnh tranh không lành mạnh sẽ mang lại những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế, nhà sản xuất, chuỗi cung ứng cũng như người tiêu dùng. Vì vậy, cần đánh
giá những tác động của cạnh tranh cũng như tác động của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, nghiên cứu lý luận và thực trạng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
qua đó đưa ra những giải pháp đồng bộ và thiết thực nhất để xây dựng môi trường kinh
doanh cạnh tranh bình đẳng, cùng có lợi đẩy lùi tối đa các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế.
Nền kinh tế hàng hóa và cao hơn là nền kinh tế thị trường đã sản sinh ra cạnh
tranh. Sau đó cạnh tranh lại đẻ ra độc quyền. Do đó, cả độc quyền và cạnh tranh có một
nền tảng ra đời chung là kinh tế hàng hóa hay kinh tế thị trường. Những tác động tiêu
cực của độc quyền cũng tạo ra tác đông tiêu cực của cạnh tranh, bởi lẽ độc quyền luôn
triệt tiêu sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Cạnh tranh cao độ sẽ làm xuất hiện
các doanh nghiệp lớn có khả năng khống chế được thị trường và tiến tới độc quyền thị trường. 10
Theo Ph. Ăngghen, những kẻ cạnh tranh để muốn trở thành độc quyền, nhưng chỉ
khi trở thành độc quyền vẫn không thủ tiêu được cạnh tranh, và khi mỗi cá nhân cạnh
tranh đều muốn trở thành độc quyền thì xã hội lại yêu cầu phải xóa bỏ độc quyền.
Trong một số trường hợp độc quyền là cần thiết để tạo ra mô hình tối ưu trong
một số lĩnh vực khi mà chỉ cần một nhà sản xuất là đủ khả năng cung cấp sản phẩm
cho thị trường với hiệu quả kinh tế cao nhất, và nếu cho các nhà cung cấp khác tham
gia nó sẽ khiến thị trường dẫn đến sự cạnh tranh lãng phí. Ví dụ như trong ngành sản
xuất và kinh doanh điện, việc có nhiều nhà sản xuất điện cạnh tranh trên thị trường sẽ
làm giảm giá bán điện và nâng cao chất lượng điện được cung cấp. Tuy nhiên, trong
một quốc gia thì không nhất thiết mỗi nhà sản xuất điện phải xây dựng một hệ thống
dây truyền tải riêng biệt. Đó là điều không thể làm được đối với tất cả các doanh
nghiệp vì nó đòi hỏi chi phí rất lớn cũng như gây ra sự lãng phí không cần thiết. Chính
vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất điện chỉ cần sử dụng một hệ thống đường truyền tải
là đủ. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp nắm giữ hệ thống truyền tải điện sẽ trở thành
nhà độc quyền và hiện tượng đó gọi là độc quyền tự nhiên. Những ví dụ khác về độc
quyền tự nhiên có thể tìm thấy trong các ngành như vận tải đường sắt, đường hàng
không hay viễn thông. Việc xác định rõ ranh giới của độc quyền tự nhiên là điều rất
quan trọng trong việc xây dựng pháp lý xác định độc quyền được tồn tại đối với một số ngành nhất định.
Tuy nhiên trong lịch sử, sự phát triển của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
mang nhiều yếu tố khó kiểm soát và các mức độ ảnh hưởng cũng khác nhau. Theo
Lênin, các hình thức tồ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao bao gồm: Cartel (Các-
ten), Syndicate (Xanh-đi-ca), Trust (Tờ-rớt), Consortium (Công-xoóc-xi-om). Các tổ
chức độc quyền với quy mô càng lớn thì càng có mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền
kinh tế, tới ngày nay các hình thức tổ chức độc quyền trên vẫn còn tồn tại và ngày càng
mở rộng quy mô. Đối với một thị trường nhỏ hoặc một ngành nghề cụ thể, khi độc
quyền xuất hiện nó sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của các doanh nghiệp khác đang hoạt động
hoặc một doanh nghiệp mới muốn tham gia thị trường đó. Khi các doanh nghiệp khác
không thể cạnh tranh được với doanh nghiệp độc quyền sẽ dẫn đến tình trạng áp đặt giá
bán, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của người tiêu dùng. Đối với mức độ cao hơn, hình
thái các tổ chức độc quyền phát triển cả về liên kết ngang và liên kết dọc, trở thành
những tập đoàn khổng lồ có hàng trăm công ty con, đầu tư vào nhiều ngành nghề khác
nhau nhưng về cơ bản vẫn là mang tiền và tạo lợi nhuận cho công ty mẹ. Khi các tổ 11
chức độc quyền này có sự tham gia của các tư bản ngân hàng sẽ hình thành nên tư bản
tài chính, tạo ra những nhà tài phiệt nắm giữ khối tài sản khổng lồ chi phối và ảnh
hưởng mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế, chính trị và xã hội. Ví dụ như tại Hàn Quốc,
các tập đoàn lớn chi phối nền kinh tế Hàn Quốc có tên gọi là Cheabol1, là một hiện
tượng của vị thế độc quyền, hình thành từ sự hậu thuẫn của chính phủ và ngân hàng sau
chiến tranh thế giới thứ 2. Các ông chủ của Cheabol duy trì quyền lực và bành trướng
quy mô thông qua sở hữu chéo, có những tập đoàn có thể sở hữu tới hàng trăm công ty
con ảnh hưởng mạnh mẽ và thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia này. Sự phát triển của
các Cheabol đạt được mức liên kết Syndicate, Trust, Consortium cũng nhờ vào việc
ngay cả khi các đế chế này gặp khó khăn về tài chính thì các ngân hàng cũng sẵn sàng
gia hạn hoặc giảm các khoản nợ, hay được chính phủ giảm và xóa nợ. Tuy nhiên các
Cheabol tại Hàn Quốc cũng đã vướng phải không ít những bê bối tiêu cực liên quan
đến lũng đoạn nền kinh tế và chính trị. Các Cheabol thường gây áp lực với chính phủ
để có những chính sách thuận lợi cho việc kinh doanh của mình, trong khi các doanh
nghiệp này được sự hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ chính phủ thì đã tạo ra các rào
cản đối với các doanh nghiệp khác tham gia vào nền kinh tế thị trường, khiến các
doanh nghiệp khác hoặc là chấp nhận hợp tác hoặc phải chịu sức ép cạnh tranh không
lành mạnh. Vì khối tài sản trong nền kinh tế bị tập trung vào trong tay một số các
Cheabol nên sự gia tăng về bất bình đẳng và khoảng cách giàu nghèo tại Hàn Quốc ngày trầm trọng.
Theo Lênin, các tập đoàn độc quyền không chỉ dừng tại thị trường trong nước mà
sẽ xuất khẩu tư bản để tìm lợi nhuận ở các nước nhập khẩu tư bản, đồng thời các tập
đoàn độc quyền hậu thuẫn cho chính phủ để thực hiện chính sách thực dân kiểu mới.
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, hình thành không ít những tập đoàn toàn cầu tạo
ra những đế chế độc quyền khổng lồ, sử dụng công cụ đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp hay viện trợ để biến các quốc gia khác trở thành con nợ, từ đó bị lệ thuộc vào các
quốc gia chủ nợ. Nếu các quốc gia nhận được đầu tư hay viện trợ mà không có những
chính sách phù hợp thì rất dễ bị sa vào các bẫy nợ và làm ảnh hưởng tới kinh tế, chính
trị và xã hội. Tập đoàn dầu mỏ khổng lồ Standard Oil2 của Hoa Kỳ là một ví dụ điển
1 Cheabol: là tên gọi của các đại tập đoàn gia đình lớn tại Hàn Quốc. Thông thường, chaebol là các tập
đoàn đa quốc gia với tập hợp thành viên bao gồm rất nhiều doanh nghiệp quốc tế nằm dưới sự điều
khiển của một ông chủ duy nhất nắm quyền hành trên tất cả những cơ sở này. Một thống kê năm 2015
cho thấy chỉ tính riêng 5 Chaebol đứng đầu đã kiểm soát tới 58% GDP của Hàn Quốc.
2 Standard Oil: là một công ty sản xuất, vận chuyển, tinh chế và tiếp thị dầu mỏ của Mỹ. Được thành
lập vào năm 1870 bởi John D. Rockefeller và và đã giải thể vào năm 1911, khi Tòa án tối cao Hoa Kỳ 12
hình về một tổ chức độc quyền xuất hiện từ cạnh tranh, sau đó biến tướng thành cạnh
tranh không lành mạnh để đạt được độc quyền và cuối cùng thực hiện xuất khẩu tư bản
được kết hợp với chính sách đối ngoại bành trướng của nước Mỹ trong giai đoạn từ
năm 1865 đến 1918. Kể từ khi được thành lập vào năm 1870 tại thành phố Cleverland,
bang Ohio, Standard Oil đã thực hiện hàng loạt các chiến lược mang tính cạnh tranh
thiếu lành mạnh để loại bỏ đối thủ. Bằng cách liên kết với các công ty đường sắt để
kiểm soát giá cước vận tải, mua và sát nhập các công ty lọc dầu đối thủ, mua lại các
mạng lưới đường ống dẫn dầu… Phiên tòa xét xử Standard Oil diễn ra vào năm 1908
đã đưa ra bằng chứng Standard Oil sử dụng mức chiết khấu bất hợp pháp, ngăn chặn
các đối thủ cạnh tranh sử dụng đường ống dẫn dầu, theo dõi các công ty khác và hối lộ
các quan chức, khiến các doanh nghiệp đối thủ phải chịu phá sản hoặc bán mình, qua
đó đưa Standard Oil trở thành doanh nghiệp gần như độc quyền tại thị trường Hoa Kỳ.
Vào giai đoạn thập niên 1980 – 1990 khi dầu lửa trở thành ngành xuất khẩu lớn của
Mỹ thì Standard Oil đã nắm giữ tới 88% thị phần sản xuất dầu tinh luyện tại Hoa Kỳ và
và kiểm soát 70% thị trường thế giới, qua đó trở thành công ty độc quyền công nghiệp
lớn đầu tiên trên thế giới. Chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố Standard Oil vi phạm luật
chống độc quyền và chia tập đoàn này thành 34 công ty độc lập để khôi phục sự cạnh
tranh trong ngành dầu mỏ.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như ngày nay thì các doanh
nghiệp cũng luôn muốn giành được vị thế độc quyền về cho mình để thu được nhiều lợi
ích nhất. Không thể phủ nhận ở một số mặt tích cực thì độc quyền đem lại sự phát triển
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, và ở một số ngành nhất định như cơ sở hạ tầng hoặc để bảo
vệ lợi ích quốc gia thì cần tồn tại độc quyền, tức là không thể triệt tiêu hoàn toàn độc
quyền. Tuy nhiên sự tồn tại của độc quyền luôn tồn tại những tiêu cực rõ ràng vì không
những tạo ra cạnh tranh không lành mạnh, làm ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu dùng
mà nó còn tạo ra những mâu thuẫn và bất ổn về toàn bộ kinh tế, chính trị và xã hội. Vì
vậy trong nền kinh tế thị trường cần phải có những biện pháp để kiểm soát nhằm hạn
chế các tác động tiêu cực mà độc quyền mang lại, thông thường việc kiểm soát độc
quyền thường là các rào cản được tạo ra bởi chính phủ các quốc gia. Trong thời đại
kinh tế toàn cầu, sự phát triển của độc quyền tạo ra nhiều hình thức tồn tại khác nhau
và cũng có những tác động rất khó lường, điều này đặt ra nhiều thách thức cho chính
phán quyết rằng Standard Oil là một độc quyền bất hợp pháp. 13
phủ các nước vừa phải tăng cường bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc quyền không chỉ ở
môi trường trong nước mà còn từ tác động của môi trường bên ngoài.
Sự công bằng và khách quan của nền kinh tế thị trường yêu cầu phải bảo vệ cạnh
tranh và hạn chế độc quyền, qua đó phát huy tốt nhất các mặt tích cực của nền kinh tế thị trường:
- Thúc đẩy đổi mới và phát triển: Cạnh tranh lành mạnh sẽ luôn thúc đẩy các
doanh nghiệp phải đổi mới và phát triển sản phẩm để giành giật thị trường,
qua đó người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, đồng thời chỉ những sản
phẩm tốt nhất mới tồn tại được trên thị trường;
- Tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng: Cạnh tranh công bằng sẽ buộc các doanh
nghiệp phải thiết lập một mức giá đầu vào và đầu ra hợp lý, dẫn đến giá cả
cạnh tranh và người tiêu dùng được hưởng lợi nhiều nhất.
- Ổn định kinh tế và chính trị: Các tập đoàn hoặc liên minh độc quyền thường
tìm cách tạo ra sức ảnh hưởng chi phối kinh tế và chính trị nhằm thu về lợi ích
cho mình. Hạn chế độc quyền sẽ tạo ra rào cản ngăn ngừa các tổ chức này gây
lũng đoạn cho kinh tế và chính trị.
- Kích thích tăng trưởng kinh tế: Ở một môi trường cạnh tranh công bằng thì
luôn có cơ hội cho những doanh nghiệp mới muốn tham gia vào thị trường,
giúp tạo ra việc làm và tạo môi trường thu hút vốn đầu tư.
- Phòng ngừa quyền lực kinh tế tập trung: Bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc
quyền giúp cho nền kinh tế được phân phối một cách công bằng trong xã hội,
giảm khoảng cách giàu nghèo.
2.4. Liên hệ với thực tiễn tại Việt Nam
2.4.1. Khái quát nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
Sau 38 năm thực hiện “Đổi mới”, nên kinh tế Việt Nam đã được khẳng định đi
theo nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội Đảng IX năm
2001. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN được
xác định trên cơ sở khái quát lại quá trình đổi mới với 2 giai đoạn nhận thức về nền
kinh tế XHCN: Trước Đại hội Đảng VI (năm 1986); Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng IX (1986-2000):
- Giai đoạn trước Đại hội VI (1986): Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị
trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng 14
bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nhằm duy trì,
củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa. Đây là giai
đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu công cộng, vận
hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc trưng nổi bật là quan liêu
- bao cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận.
- Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001): Đổi mới toàn diện
cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
2.4.2. Cạnh tranh độc quyền tại Việt Nam
Việt Nam mới trải qua giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế thị trường và cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên một số
yếu tố bất hợp lý của mô hình kinh tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có
những giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần
giải quyết là tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều
doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh không hiệu quả) và việc độc
quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được
các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng định Việt Nam không có nền kinh tế thị trường trong
vụ kiện cá da trơn của Việt Nam3. Để hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các
3 Vụ kiện cá da trơn: là cuộc tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và các nhà sản xuất cá da trơn của
Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 2001. Lập luận chính liên quan đến việc nhập khẩu cá da trơn từ Việt Nam
gây ra sự giảm sút lợi nhuận đối với các nhà sản xuất cá da trơn của Mỹ. Chiến dịch này bắt đầu từ
cuối năm 2000, một số người Mỹ gọi đó là "chiến tranh cá da trơn" hay "cuộc chiến mới chống Việt
Nam". Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) đại diện cho giới chủ trại nuôi cá giàu có ở bang 15
điều kiện gia nhập WTO trong thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc
tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho sự độc
quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo
thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Việt Nam hiện nay có hai hình thức độc quyền phổ biến như sau:
- Độc quyền do kết quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường; và
- Độc quyền từ kết quả của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của
pháp luật cũng như các chính sách kinh tế hiện hành.
Đại hội X năm 2006 của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng phát
triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế
cạnh tranh lành mạnh. Luật Cạnh tranh lần đầu tiên được Quốc hội khóa XI thông qua
ngày 03 tháng 12 năm 2004, tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7
năm 2005. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 đánh dấu mốc quan trọng trong
việc tạo lập hành lang pháp lý thống nhất thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh của
doanh nghiệp trên thị trường, đặc biệt là công cụ quan trọng để nhà nước kiểm soát các
hành vi có tính chất phản cạnh tranh. Kể từ khi luật cạnh tranh ra đời cho tới nay, theo
thống kê từ Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) ghi nhận trong giai đoạn 2005-
2016, số vụ vi phạm chính sách cạnh tranh được cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh
điều tra chính thức là 8 vụ, số vụ điều tra tiền tố tụng 87 vụ, số vụ vi phạm Luật Cạnh
tranh được Hội đồng cạnh tranh quốc gia tiến hành xử lý 6 vụ, 70 doanh nghiệp bị điều
tra. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì tình trạng độc quyền diễn ra cũng
càng khó lường, kéo theo đó là tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng thủ
đoạn ngăn cản và loại bỏ các đối thủ, trục lợi từ thị trường. Số vụ vi phạm liên quan
đến độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh kể từ khi ra đời Luận Cạnh tranh 2004
cho tới nay vẫn ở mức thấp, còn tồn tại nhiều hạn chế chưa giải quyền triệt để. Vì vậy
Chính phủ vẫn cần xác định rõ những tồn tại trong nền kinh tế thị trường, hoàn thiện
thể chế, tăng cường kiểm tra giám sát để sớm tạo ra môi trường cạnh tranh lành lạnh,
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và xã hội.
Đối với tình trạng độc quyền xuất phát từ cạnh tranh, các doanh nghiệp thường
tìm cách lách luật hoặc bất chấp vi phạm quy định để đạt được vị thế độc quyền, từ đó
thu lợi nhuận siêu ngạch. Năm 2010, Cục Quản lý cạnh tranh đã xử phạt 19 doanh
Mississippi và một số bang miền nam nước Mỹ đã đâm đơn kiện phía Việt Nam. 16
nghiệp bảo hiểm chiếm 99,79% thị phần trên thị trường bảo hiểm vật chất xe ô tô tại
Việt Nam, liên minh với nhau, ký thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ
giới, thống nhất biểu phí bảo hiểm ô tô để tăng 15% mức phí bảo hiểm xe cơ giới. Có
thể thấy mặc dù đã có quy định nhưng vì lợi nhuận, các doanh nghiệp vẫn sẵn sàng sử
dụng nhiều cách thức để đạt được ưu thế độc quyền, chèn ép đối thủ để hạn chế cạnh
tranh, mua bán sát nhập để chiếm vị trí độc quyền. Theo thông lệ quốc tế và cũng được
quy định tại Luật Cạnh tranh của Việt Nam, khi một hoặc nhóm doanh nghiệp có tổng
thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan sẽ được xác định là có "vị trí thống
lĩnh thị trường". Doanh nghiệp được coi là có "vị trí độc quyền" nếu không có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị
trường liên quan. Theo quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018, chính sách của Việt
Nam về cạnh tranh là tạo lập, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng,
bình đẳng, minh bạch; bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của doanh
nghiệp; nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mặt khác, đối
tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh không chỉ là tổ chức, cá nhân kinh doanh và có
đăng ký kinh doanh tại Việt Nam mà còn bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài có liên quan. Hiện nay dưới tác động của toàn cầu hóa, Việt Nam còn gặp phải
sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các tổ chức độc quyền lớn trên thế giới tham gia vào thị
trường. Năm 2020, tại Mỹ và nhiều nước châu Âu đang diễn ra các vụ kiện cấp liên
bang, chính phủ đối với 2 công ty công nghệ khổng lồ là Facebook (thuộc tập đoàn nền
tảng Meta) và Google đang thống lĩnh thị trường và cạnh tranh không lành mạnh. Các
tập đoàn công nghệ đã tham gia vào thị trường Việt Nam từ lâu, tuy nhiên những năm
gần đây các doanh nghiệp này mới bắt đầu đăng ký kinh doanh hoạt động và nộp thuế
cho Việt Nam, qua đó các quy định quản lý cạnh tranh và hạn chế độc quyền mới được
áp dụng cho những doanh nghiệp này.
Loại hình độc quyền do cơ chế hành chính trước đây và một số quy định hiện
hành vẫn đang là phổ biến tại Việt Nam. Quá trình chuyển đổi chế độ công hữu và cơ
chế quản lý kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính đã hình thành nên các doanh
nghiệp nhà nước độc quyền mà một số ngành vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Hơn
nữa, hiện nay còn có xu hướng độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh
nghiệp làm cản trở quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Ví dụ Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam - VNPT có lợi thế về việc nắm giữ đường trục viễn
thông quốc gia, qua đó có vị thế độc quyền để ngăn cản các công ty khác tham gia vào 17
thị trường viễn thông, bởi lẽ nếu các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông
họ buộc phải sử dụng đường trục viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về
thị phần sẵn có từ trước cùng với các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá dịch vụ
viễn thông cung cấp cho người sử dụng cao hơn 30% so với các nước ASEAN. Tình
trạng này cũng tương tự như ở Tổng công ty điện lực Việt Nam - EVN. Ở nước ta đã
có một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN được nắm giữ hệ thống truyền
tải điện. Trong thị trường điện lực, việc sản xuất điện có liên quan mật thiết đến việc
truyền tải điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào
EVN. Chính vì vậy, độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều không
thể tránh khỏi. Mặc dù có vị thế độc quyền trong thị trường, nhưng hoạt động của EVN
những năm gần đây không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ, không đảm bảo chất lượng
dịch vụ điều độ hệ thống điện quốc gia, chậm đầu tư nguồn lưới điện trong khi vẫn
tăng giá điện, thậm chí có dấu hiệu tham ô hối lộ. Tới tháng 11/2023, cơ quan An ninh
điều tra Bộ Công an đã tiến hành khởi tố Giám đốc Công ty Mua bán điện – Tập đoàn
EVN, khởi tố và bắt tạm giam 5 cán bộ của Bộ Công thương và EVN vì tội “lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ”. Tiếp đến tháng 12/2023, Bộ Công an tiếp
tục khởi tố 17 đối tượng EVN Bình Thuận và tập đoàn Tuấn Ân về tội "vi phạm quy
định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng", "đưa hối lộ", "vi phạm quy định về kế
toán gây hậu quả nghiêm trọng". Vụ việc của EVN chỉ là một trong những trường hợp
độc quyền do cơ chế nhà nước không còn phù hợp, hoạt động không hiệu quả và gây
thiệt hại nghiêm trọng, ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu dùng và cho xã hội.
Nhằm đảm bảo nâng cao hiệu lực của nền kinh tế thị trường, Bộ Công thương đã
trình Chính phủ Nghị định công bố 20 loại hàng hóa, dịch vụ quan trọng liên quan đến
an ninh quốc phòng và lợi ích quốc gia, đồng thời tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, minh bạch.
Tuy nhiên, việc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các “ phương tiện
thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà ga
sân bay, hệ thống đường sắt nhưng không có sự tách biệt rõ ràng các yếu tố thuộc về
cạnh tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc quyền
nhà nước biến thành khối độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy rằng những quy
định này là không phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường và cần phải được
tiếp tục thay đổi trong thời gian tới. Không những thế, một số chính sách kinh tế thời
gian qua cũng là nguyên nhân tạo ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta, điển hình là
chính sách thành lập các tổng công ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp 18
nhà nước trong các lĩnh vực như xây dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập các tổng
công ty này, một loạt các công ty nhỏ có cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập một
cách hệ thống theo quyết định của Chính phủ. Kết quả là các công ty có một sức mạnh
thị trường đáng kể trong ngành nghề mà nó kinh doanh và nhanh chóng có vị trí thống
lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, không một doanh nghiệp nào có thể cạnh tranh với
các tổng công ty nhà nước. Ví dụ về lĩnh vực cảng hàng không sân bay, lĩnh vực mà
nhiều nước đã cho phép doanh nghiệp tư nhân được tham gia, Tổng công ty Cảng hàng
không Việt Nam - ACV hiện đang quản lý 21 sân bay trên tổng số 22 sân bay tại Việt
Nam, trong đó vốn từ nhà nước chiếm hơn 95%. Mới đây năm 2018 chỉ có duy nhất
một sân bay được đầu tư và quản lý bởi doanh nghiệp tư nhân, đánh dấu sự tham gia
cạnh tranh với ACV trong lĩnh vực hạ tầng sân bay. Tuy nhiên một số sản phẩm dịch
vụ phụ trợ hàng không, như an ninh hàng không được nhà nước chỉ định cấp phép cho
duy nhất ACV cung cấp dịch vụ này, đã tạo ra lợi thế độc quyền cho ACV. Hơn nữa
việc nhà nước chỉ định thầu cho ACV những dự án sân bay có vị trí đẹp như Long
Thành khiến các doanh nghiệp khác vẫn phải chịu thiệt thòi, cho thấy khung pháp lý
của nước ta vẫn chưa đủ hoàn thiện để tạo môi trường cạnh tranh công bằng. Mặt khác,
thực trạng tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chậm, theo thống
kê của Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) tiến độ cổ phần hóa giai đoạn 2016
- 2020 mới chỉ đạt 28% so với kế hoạch. Vì vậy tình trạng thoái vốn nhà nước không
hiệu quả, thiếu công khai, thất thoát vốn nhà nước, làm giảm hiệu lực nguyên tắc thị
trường vẫn sẽ là vấn đề cần phải xử lý ở nước ta trong thời gian tới.
Hiện nay, Chính phủ chủ trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định, việc
xây dựng các tập đoàn kinh tế là quan trọng bởi vì xét về mức độ tập trung vốn và công
nghệ, hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam đều rất nhỏ bé so với các công ty nước
ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
hợp tác đi cùng với cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Để có thể tham gia và cạnh
tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam rất cần thiết phải thành lập các tập đoàn kinh
tế đủ mạnh trong những lĩnh vực nhất định. Theo chính sách này, các tập đoàn kinh tế
được thành lập dựa trên việc sáp nhập các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn, nếu việc
sáp nhập mà có nhiều khả năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn chế cạnh
tranh, nó sẽ không bị cấm. Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, việc
tránh xung đột giữa độc quyền là kết quả của sáp nhập và lợi ích công cộng là rất cần
thiết. Khi các tập đoàn kinh tế được thành lập bởi Chính phủ thì sẽ rất dễ dàng cho các 19