TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày luận của CN Mác Lênin về xuất khẩu bản
và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Họtên sinh viên: Cao Tuấn Việt
Mã SV: 11231150
Lớp TÍN CHỈ: Kinh tế chính trị Mác Lênin (124) _CLC_13
Số thứ tự: 46
Hà Nội, tháng 11 năm 2024
MỤC LC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 4
I. luận về xuất khẩu bản ...................................................................................... 4
1. Khái niệm xuất khẩu bản .................................................................................. 4
2. Bản chất của xuất khẩu bản .............................................................................. 4
3. Các hình thức của xuất khẩu bản ..................................................................... 4
4. Ý nghĩa của xuất khẩu bản ................................................................................ 5
5. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện
nay ................................................................................................................................ 6
II. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2023 và những
thách thức, triển vọng về FDI trong năm 2024 ............................................................ 8
1. Khái niệm đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) ...................................................... 8
2. Đặc điểm của nguồn vốn FDI tại Việt Nam .......................................................... 9
3. Tình hình đầu trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023 ........................ 9
4. Một số thách thứctriển vọng thu hút FDI năm 2024 của Việt Nam ........... 13
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 17
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu hiện nay, xuất khẩu tư
bản đã và đang trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - hội của các quốc gia. Từ góc độ lịch sử, xuất khẩu bản không phải hiện
tượng mới, nó đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, gắn liền với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
xuất khẩu tư bản đã có những biến đổi sâu sắc cả về quy mô, hình thức và tính chất.
C.Mác và V.I.Lênin - những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã có
những đóng góp to lớn trong việc phân tích và làm sáng tỏ bản chất, động lực các hình
thức của hoạt động xuất khẩu tư bản. Đặc biệt, trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản", V.I.Lênin đã chỉ ra rằng xuất khẩu tư bản là một
trong năm đặc điểm bản của chủ nghĩa bản độc quyền. Những luận điểm này không
chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc mà còn có giá trị thực tiễn to lớn trong việc lý giải và định
hướng cho hoạt động đầu tư quốc tế hiện nay.
Đối với Việt Nam, một quốc gia đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hội nhập quốc tế sâu rộng, việc nghiên cứu vận dụng những luận điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về xuất khẩu tư bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ khi
thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tích cực thu hút đầu tư
nước ngoài và bước đầu có những thành công đáng kể trong việc đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xuất nhập khẩu tư bản
của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức. Việc nghiên cứu một cách có hệ
thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xuất khẩu tư bản và đối chiếu với thực tiễn
Việt Nam sẽ giúp chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện hơn, từ đó đề xuất được
những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới.
NỘI DUNG
I. luận về xuất khẩu bản
1. Khái niệm xuất khẩu bản
Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngoài) nhằm mục đích bóc lột, chiếm đoạt giá trị thặng và các nguồn lợi khác
các nước nhập khẩu tư bản.
Ngoài ra, xuất khẩu tư bản chính là quá trình ăn bám bình phương. Sở dĩ có thể
nói xuất khẩu bản quá trình ăn bám bình phương bản được xem như công cụ
bóc lột công nhân bản địa (chính quốc) nay được xuất khẩu ra nước ngoài theo hìnhthức
cho vay hoặc đầu tư nên bóc lột luôn cả công nhân nước ngoài (thuộc địa)
2. Bản chất của xuất khẩu bản
Xuất khẩu bản hình thức bóc lột nhiều tầng của chủ nghĩa bản.
Tư bản mà các nhà tư bản xuất khẩu ra nước ngoài vốn là một bộ phận giá trị
thặng dư, lao động quá khứ của người công dân chính quốc bị nhà bản bóc lột được
biến thành phương tiện để tiếp tục bóc lột giai cấp công nhân các nước nhập khẩu
bản.
Khi tiếp nhận đầu tư, các quốc gia nhập khẩu tư bản phải tạo môi trường đầu tư
thuận lợi với nhiều ưu đãi về thuế, sử dụng đất, mua công nghệ, chuyển lợi nhuậnhồi
hướng vốn.
Tuy nhiên, dòng xuất khẩu bản chứa đựng nhiều yếu tố tạo tiền đề cần thiết cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý sản xuất,... Hầu hết các quốc gia đang phát triển chấp nhận bóc lột của xuất khẩu
tư bản.
3. Các hình thức của xuất khẩu bản
Xuất khẩu bản tồn tại ới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu thì đầu
tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới
hoặc mua lại nhữngnghiệp đang hoạt động nước nhận đầu tư, biếnthành một chi
nhánh của công ty mẹ. Cácnghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn
hợp song phương, nhưng cũng nhữngnghiệp toàn bộ số vốn của một công ty
nước ngoài
Đầu tư gián tiếp hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Thông
qua các ngân ng nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tếquốc gia, nhân hoặc
các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định khác nhau để đầu tư vào
các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua
trái khoán hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập khẩu tư bản
Nếu xét theo chủ sở hữu, xuất khẩu bản nhà nướcxuất khẩu bản
nhân:
Xuất khẩu bản nhà nước hình thức xuất khẩu bản nhà nước sản lấy
từ ngân quỹ của mình đầu vào nước nhập khẩu bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay
không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu
hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân
Về chính trị, viện trợ của nhà nước sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận
đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài
Về quân sự, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phục thuộc vào
các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước
khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để
bán vũ khí
Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực
hiện. Ngày nay nh thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua
hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường
được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc
quyền cao. Xất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu
hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của
thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỉ này
nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu
4. Ý nghĩa của xuất khẩu bản
Đối với nước nhập khẩu bản:
Mặt tích cực xuất khẩu tư bản làm cho quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển
lan rộng khắp thế giới, góp phần đẩy mạnh quá trình phân công lao động, hội nhập về
kinh tế của nhiều quốc gia, là nhân tổ quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở các nước nhập khẩu tư bản
Về mặt tiêu cực, xuất khẩu tư bản cũng để lại các quốc gia nhập khẩu tư bản
những hậu quả nặng nề như nền kinh tế phát triển mất cân đốilệ thuộc, nợ nần chống
chất do bị bóc lột nặng nề
Vì vậy, các nước nhập khẩu tư bản cần phải biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo
nguyên tắc cùng lợi, tận dung được hết mặt tích cực của xuất khẩu bản, lựa chọn
nhà đầu tư uy tín để có thể khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả
Đối với các nước xuất khẩu bản:
Đối với tư bản tài chính, các nguồn nguyên liệu khai thác được ở các nước nhập
khẩu tư bản rất quan trọng, do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh thổ
kinh tếthậm chí cả lãnh thổ nói chung. Chủ nghĩa bản phát triển càng cao, nhu cầu
nguyên liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh giành giật thuộc địa
giữa chúng càng quyết liệt
Trước kia lợi ích của việc xuất khẩu bản thúc đẩy các cường quốc bản đi xâm
chiếm nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại
trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường
tiêu thụ
5. Những biểu hiện mới của xuất khẩu bản trong giai đoạn phát triển hiện nay
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu bản đã sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luông
bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm
tỷ trọng trên 70%). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua
lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm
bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản và
Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu bản vào các nước
đang phát triển giảm mạnh.
Trước tình hình đó, nhiều nhà luận sản cho rằng, xuất khẩu bản không còn
là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột nước nghèo. Theo họ, xuất
khẩu bản đã trút bỏ bản chất của trở thành hình thức hợp tác cùng lợi trong
mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với
nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm
Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy
vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều
ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như: ngành công
nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành trụ
đại dương… Những ngành này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít
nguyên liệu, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra
sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự
xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu
nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra các nước
tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu, không phù
hợp, tình hình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư
không còn cao như trước. Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế các
trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng
hình thành các khối kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng
chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh
của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan
nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng
cách đó.
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không
làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi, mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng
của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có
hàm lượng khoa học công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến
cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đố tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là
không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công
nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất
trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát
triển, những tư liệu sản xuất này rất có hữu ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhẳm mục
đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang
các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa
đế quốc tồn tại thì xuất khẩu bản từ các ớc bản phát triển sang các nước đang phát
triển điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, thể diễn ra
sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một
thời kỳ dài hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà
tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước
đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên
Thứ hai chủ thể xuất khẩu bản sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công
ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu bản ngày càng to lớn, đặc biệt trong FDI. Trong
thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát
triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với
những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty
xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp, chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu
thành của khối kinh tế mới như EU, NAFTA nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo
luật bảo hộ. Nhật Bản và Tây Âu đã tham gia đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách này.
Tuy nhiên, một loạt các công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan… đã vượt qua cả lệnh
cấm vận của Mỹ để đầu vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ đầu thăm dò và
khai thác dầu khó ở Việt Nam – đó là bằng chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng trên.
Sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những kim loại quý hiếm vẫn đang là” gót
chân Asin” của nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
Thứ ba hình thức xuất khẩu bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu
bản và xuất khẩu hàng hóa tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những
hình thức mới như BOT, BT… sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn
bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu bản đã được gỡ bỏ dần
và nguyên tắc cùng có lợi được để cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho
các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp
phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế
của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào
làm cho quá trình công nghiệp hóa và tái công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước nhập
khẩu tư bản phát triển nhanh chóng. Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại những
hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đốilệ thuộc, nợ nần chồng chất do
bị bóc lột quá nặng nề. Song điều này tùy thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của
nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản, nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu từ để
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa ở nước mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng
mềm dẻo, linh hoạt, nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác
nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
II. Tình hình đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2023 và
những thách thức, triển vọng về FDI trong năm 2024
1. Khái niệm đầu trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI (Foreign Direct Investment) hình thức đầu do đầu nước ngoài bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ
vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy luật này và các
quy định khác có liên quan.
Theo luật Đầu nước ngoài Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ sung hoàn
thiện sau ba lần sửa đổi “Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài
trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính
phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
2. Đặc điểm của nguồn vốn FDI tại Việt Nam
Thứ nhất, các chủ đầu tư phải đóng góp một khối lượng vốn tối thiểu theo quy
định của từng quốc gia. Luật Đầu nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu nước
ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thứ hai, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ
đóng góp vốn. Nếu đóng góp 10% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu nước
ngoàiđiều hành và quản lý.
Thứ ba, lợi nhuận của các chủ đầu phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh
và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn sau khi nộp thuế và trả lợi tức cổ phần.
Thứ tư, FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại
toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với
nhau.
Thứ năm, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn còn gắn liền với chuyển
giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý tạo ra thị trường mới
cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Thứ sáu, FDI hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các
công ty đa quốc gia.
3. Tình hình đầu trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023
Trong gần 4 thập kỷ kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được Việt Nam thông qua
vào năm 1987, tổng vốn FDI đổ vào nước ta đã đạt gần 438,7 tỷ USD. Nguồn vốn này đã
góp phần đáng kể vào sự phát triển của đất nước, không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả xã
hội, đồng thời giúp nâng tầm hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Đáng
chú ý, dù tốc độ tăng trưởng GDP m 2023 chỉ đạt 5,05%, giảm đáng kể so với mức 8%
của năm 2022 do tác động từ tình hình kinh tế thế giới bất ổn, Việt Nam vẫn duy trì được
sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc Đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đã ghi dấu
ấn đặc biệt trên bản đồ đầu toàn cầu khi trở thành điểm đến hấp dẫn cho dòng vốn FDI
và là một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng sản xuất quốc tế. Hành trình
phát triển của Việt Nam thể hiện rõ qua sự chuyển dịch từ việc thu hút đầu tư vào các
ngành giá trị gia tăng thấp như dệt may và giày dép, đến việc vươn lên trở thành trung
tâm sản xuất và lắp ráp điện tử quan trọng của khu vực. Đặc biệt, trong bối cảnh căng
thẳng thương mại toàn cầu, Việt Nam vẫn khẳng định được vị thế của mình khi tiếp tục
dẫn đầu trong việc thu hút FDI chất lượng cao, với khu vực sản xuất chiếm tỷ trọng áp
đảo lên tới 85% trong tổng vốn đầu tư mới.
Năm 2023 đánh dấu một cột mốc đáng tự hào trong hành trình thu hút FDI của
Việt Nam, với tổng vốn đăng ký hơn 36,6 tỷ USD (số liệu tính đến ngày 20/12/2023).
Đặc biệt, mức giải ngân đạt 23,183 tỷ USD - một con số kỷ lục trong giai đoạn 2019-
2023, tăng mạnh 32,1% so với cùng kỳ. Thành tích này bao gồm cả vốn đăng ký mới,
vốn điều chỉnhhoạt động góp vốn mua cổ phần của nhà đầu nước ngoài. Điểm sáng
nổi bật là sự gia tăng mạnh mẽ của số dự án mới, với 3.188 dự án được cấp phép, tăng
66,2% - một tốc độ tăng trưởng ấn tượng vượt xa mức tăng của tổng vốn đầu tư mới
(43,6%). Xu hướng này cho thấy sự quan tâm và niềm tin ngày càng lớn của các nhà đầu
tư quy mô vừa và nhỏ đối với môi trường đầu tư Việt Nam.
Hình 1: Vốn đầu nước ngoài các năm 2019-2023
Nguồn: Tổng cục Thống
Về cấu ngành nghề, các nhà đầu nước ngoài đã thể hiện sự đa dạng trong lựa
chọn khi đầu tư vào 18 trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu với tổng vốn đầu tư ấn tượng đạt hơn 23,5 tỷ
USD, chiếm 64,2% tổng vốn đầu tư đăng ký và ghi nhận mức tăng trưởng 39,9% so với
cùng kỳ. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành này mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp
trong nước trong việc tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa
quốc gia. Tiếp theo là ngành kinh doanh bất động sản với tổng vốn đầu tư gần 4,67 t
USD, chiếm 12,7% và tăng 4,8% so với cùng kỳ. Các vị trí tiếp theo thuộc về ngành sản
xuất, phân phối điện với hơn 2,37 tỷ USD (tăng 4,9%) và ngành tài chính - ngân hàng với
gần 1,56 tỷ USD (tăng gấp gần 27 lần so với cùng kỳ).
Hình 2: Đầu nước ngoài năm 2023 theo ngành kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống
Năm 2023 còn ghi nhận một điểm sáng đặc biệt khi dòng vốn FDI mới đổ vào lĩnh
vực sản xuất tăng mạnh, bất chấp những khó khăn của nền kinh tế toàn cầu và những hậu
quả còn tồn đọng sau đại dịch Covid-19. Trong bối cảnh xu hướng đa dạng hóa chuỗi
cung ứng toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, vốn FDI được ví như "cơn gió thuận" đối với
nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù vẫn còn những thách thức cần khắc phục, đặc biệt là vấn
đề chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam vẫn được đánh giá cao về môi trường đầu tư
nhờ những ưu thế vượt trội và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng hấp dẫn.
Những con số và thành tựu này không chỉ phản ánh sự thành công trong chiến
lược thu hút FDI của Việt Nam còn khẳng định vị thế của đất nước như một điểm đến
đầu tư an toàn, tin cậy và đầy tiềm năng trong mắt cộng đồng đầu tư quốc tế. Đây chính
nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục phát triểnhội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế toàn cầu trong những năm tới.
Về địa bàn đầu tư, vốn FDI tiếp tục tập trung vào các tỉnh, thành phố có lợi thế về
cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, cải cách thủ tục và hoạt động xúc tiến đầu tư như
TP.HCM, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Hà Nội, Bắc Ninh, Nghệ An,
Bình DươngĐồng Nai. Nhóm 10 địa phương này đã chiếm tới 78,6% số dự án mới và
74,4% tổng vốn FDI trong năm 2023. Riêng TP.HCM dẫn đầu cả nước về số dự án mới
(38,2%), số dự án điều chỉnh (23%) và góp vốn mua cổ phần (66,3%), với tổng vốn đăng
ký đạt hơn 5,85 tỷ USD, chiếm 16% tổng vốn FDI và tăng 48,5% so với 2022. Quảng
Ninh cũng ghi nhận sự vượt trội khi thu hút hơn 3 tỷ USD vốn FDI, vươn lên vị trí thứ ba
cả nước.
Hình 3: Đầu nước ngoài năm 2023 theo địa phương
Nguồn: Tổng cục Thống
Về đối tác đầu tư, Việt Nam đã thu hút vốn FDI từ 111 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Các nhà đầu tư châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt là Singapore, Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Hồng KôngĐài Loan. Tổng số vốn từ 6 quốc gia này đã chiếm 78,8%
tổng vốn FDI tại Việt Nam. Cụ thể, Singapore dẫn đầu với hơn 6,8 tỷ USD, tăng 5,4%
chiếm 18,6% tổng vốn. Nhật Bản xếp thứ 2 với gần 6,57 tỷ USD, tăng 37,3% và chiếm
17,9%. Hồng Kông đứng thứ 3 với hơn 4,68 tỷ USD, gấp 2,1 lần và chiếm 12,8% tổng
vốn.
Trong năm 2023, Trung Quốc dẫn đầu về số dự án mới với 22,2%, tập trung vào
ngành điện tử. Hàn Quốc lại dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (25,9%) và góp vốn, mua
cổ phần (27,8%). Các dự án mới từ Trung Quốc, Hàn Quốc các ớc công nghiệp hóa
cao khác đều hướng tới công nghệ sản xuất tiên tiến và quản lý hiện đại. Mỹ hiện có
1.286 dự án đầu tư tại Việt Nam với 11,7 tỷ USD, xếp thứ 11. Các nhà đầu tư Mỹ mong
muốn trở thành nhà đầu tư số 1, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao - lĩnh vực Việt
Nam đang hướng tới thu hút FDI. Thành công của Samsung Việt Nam cũng thu hút các
"ông lớn" công nghệ khác như Apple mở rộng đầu tư.
Hình 4: Đầu nước ngoài năm 2023 theo đối tác
Nguồn: Tổng cục Thống
4. Một số thách thứctriển vọng thu hút FDI năm 2024 của Việt Nam
Năm 2024, việc thu hút FDI của Việt Nam đối mặt với một số khó khăn, bao gồm:
Thứ nhất, sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu đã làm chậm quá trình phục hồi kinh
tế. Sự gia tăng giá lương thực và năng lượng do cuộc xung đột Nga - Ukraine kéo dài đã
làm gián đoạn quá trình phục hồi toàn cầu. Dự báo rằng các nền kinh tế lớn như Mỹ và
Trung Quốc, những đối tác thương mại và nhà đầu FDI chủ chốt của Việt Nam, sẽ tăng
trưởng chậm trong những năm tới.
Thứ hai, xu hướng đầu tư gần (nearshoring) được nhiều quốc gia, đặc biệt là Hàn
Quốc và Nhật Bản, theo đuổi sau đại dịch Covid-19. Trong khi đó, Mỹ và một số quốc
gia EU đang cố gắng hạn chế đầu ra ngoài bằng cách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
và đưa ra các ưu đãi đầu tư trong nước để khuyến khích vốn quay trở lại. Những xu
hướng này đang tạo thêm khó khăn cho Việt Nam trong việc thu hút FDI.
Thứ ba, việc đề xuất áp dụng thuế tối thiểu cho các tập đoàn đa quốc gia trên toàn
cầu nhằm ngăn chặn các chiến lược trốn thuế như chuyển lợi nhuận và xói mòn cơ sở
thuế có thể tác động tiêu cực đến dòng vốn FDI. Mức thuế tối thiểu toàn cầu có thể thay
đổi tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các quốc gia, nhưng mục tiêu chung yêu cầu các tập
đoàn đa quốc gia phải nộp thuế tối thiểu ở mọi khu vực mà họ hoạt động.
Thứ tư, các quốc gia láng giềng như Thái Lan và Malaysia, với nguồn lực mạnh
mẽ hơn, đang tích cực thu hút FDI bằng cách giảm thuế hỗ trợ nhiều hơn cho các nhà
đầu tư nước ngoài, khiến Việt Nam trở thành điểm đến kém hấp dẫn hơn. Việc thu hút
FDI chỉ qua lao động giá rẻ không còn là giải pháp hiệu quả cho việc thu hút các dự án
FDI chất lượng. Thay vào đó, sự hấp dẫn cần được xây dựng dựa trên các yếu tố khác
như cơ sở hạ tầng tốt, lao động có tay nghề cao và các yếu tố phi thuế khác.
Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 2025 - 2030
sẽ tập trung vào các dự án công nghệ cao, công nghệ mới, quản trị hiện đại, giá trị gia
tăng cao tác động lan tỏa tích cực, đồng thời kết nối với chuỗi sản xuấtcung ứng
toàn cầu.
Mặc dù đối diện với một số thách thức, Việt Nam vẫn có triển vọng thu hút FDI
vào năm 2024, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, khi nhiều tập đoàn quốc tế đang tìm cách
dịch chuyển khỏi Trung Quốc. Dự báo rằng khoảng 80% vốn FDI vào Việt Nam sẽ đổ
vào ngành sản xuất công nghiệp, bao gồm các dự án nhà xưởng và các công trình hỗ trợ
như nhà máy điện và cơ sở hạ tầng kho vận. Ngành sản xuất sẽ tiếp tục thu hút phần lớn
dòng vốn FDI vì một số lý do:
Thứ nhất, Việt Nam thể áp dụng hình Phát triển Đông Á (EADM), các
nền kinh tế châu Á phát triển đều áp dụng. hình này chú trọng vào sản xuất sản phẩm
xuất khẩu như điện thoại, thiết bị điện tử gia dụng và quần áo, giúp đóng góp của ngành
sản xuất vào GDP các nước trong khu vực đạt trên 30% ở mức cao nhất. Việt Nam cũng
đang trở thành đối tác quan trọng trong việc bảo đảm chuỗi cung ng bán dẫn đa dạng
linh hoạt.
Thứ hai, tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất vào GDP của Việt Nam hiện vẫn thấp,
dưới 25%, điều này cho thấy tiềm năng phát triển lớn trong tương lai. Việt Nam hiện
đang là điểm đến hấp dẫn đối với các tập đoàn công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực sản
xuất. Cùng với Thái Lan và Indonesia, Việt Nam đang chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ
tỷ trọng FDI từ Trung Quốc vào lĩnh vực sản xuất. Đặc biệt, tập đoàn Apple đã công bố
kế hoạch chuyển một phần sản xuất iPad sang Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam có hai lợi thế quan trọng trong việc thu hút FDI vào ngành sản
xuất: (i) nguồn lao động chất lượng cao với chi phí cạnh tranh, (ii) Mỹ, thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam, đang mở rộng cánh cửa cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam. Các tập đoàn đầu tư xây dựng nhà máy tại Việt Nam có thể xuất khẩu sản
phẩm sang Mỹ mà không gặp phải các rào cản thương mại.
Thứ tư, dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ hưởng lợi từ sự tăng trưởng mạnh mẽ
trong nhu cầu tiêu dùng nội địa. Tầng lớp trung lưu tại Việt Nam đang phát triển nhanh
chóng, với dự báo 4 triệu người gia nhập tầng lớp này trong năm 2024, đứng thứ 5 trong
số 9 quốc gia châu Á có số người gia nhập lớp trung lưu lớn nhất.
Tuy có nhiều cơ hội trong phát triển hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn, Việt Nam
hiện đang thiếu hụt lực lượng kỹ sư có kỹ năng cho ngành công nghiệp bán dẫn quy mô
lớn. Ngoài ra, lo ngại về tác động của "Thuế tối thiểu toàn cầu" (GMT) thể ảnh hưởng
đến khả năng thu hút FDI, do các ưu đãi thuế cho nhà đầu tư FDI có thể bị hạn chế. Tuy
nhiên, thuế không phải là yếu tố quyết định duy nhất mà các tập đoàn quốc tế cân nhắc
khi quyết định đầu tư, mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác như chi phí và chất lượng
lao động, hạ tầng và môi trường kinh doanh. Việt Nam cũng đang nghiên cứu các giải
pháp hỗ trợ tài chính cho nhà đầu tư FDI.
Để tăng cường khả năng thu hút FDI trong những năm tới, Việt Nam cần tiếp tục
đầu tư vào phát triển hạ tầng, đặc biệt là giao thông và kho vận, đồng thời cải thiện môi
trường kinh doanh, giảm thiểu thủ tục nh chính phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư trong quá trình xin cấp phép. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng đào tạo
và giáo dục nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao là rất quan trọng.
Tóm lại, đầu yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, góp
phần tạo ra năng lực sản xuất mới và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Việt Nam cần tập
trung thu hút các khoản đầu tư tạo giá trị gia tăng cao, đồng thời nâng cao năng lực trong
lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D). Với nhiều cơ hội, Việt Nam có tiềm năng trở
thành trung tâm của chuỗi cung ứng toàn cầu. Cộng đồng quốc tế đánh giá cao vai trò của
Việt Nam trong thúc đẩy thương mại toàn cầu, và các nhà đầu tư nước ngoài cam kết tiếp
tục mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cải thiện môi
trường đầu tư để thu hút thêm dòng vốn FDI trong tương lai. Triển vọng vĩ mô ổn định
cùng với tiềm năng tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối
với các nhà đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Theo lý luận của Mác - Lênin, xuất khẩu tư bản là sự mở rộng của chủ nghĩa tư
bản ra ngoài biên giới quốc gia, gắn liền với sự khai thác nguồn tài nguyên và thị trường
lao động ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận cho các
tập đoàn bản. Xuất khẩu bản không chỉ một quá trình kinh tế còn những tác
động sâu rộng về chính trị và xã hội, với sự gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia
các tầng lớp xã hội.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam, chúng ta thể nhận thấy nhiều dấu hiệu của sự
xuất khẩu tư bản trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tếtrong các quan hệ đầu tư nước
ngoài. Việt Nam, với vị trí chiến lược và thị trường lao động dồi dào, đã trở thành một
điểm đến hấp dẫn cho các dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ các quốc gia tư bản
phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra những thách
thức về việc kiểm soát và định hướng các dòng vốn này sao cho có lợi cho phát triển bền
vững, tránh tình trạng Việt Nam trở thành nơi khai thác lao động giá rẻ và tài nguyên
thiên nhiên, mà không thực sự gia tăng giá trị nội tại cho nền kinh tế.
Nhìn chung, lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xuất khẩu tư bản vẫn có giá trị
tham chiếu quan trọng trong phân tích các hình phát triển kinh tế toàn cầu sự phân
chia lợi ích giữa các quốc gia. Việt Nam, trong quá trình đẩy mạnh thu hút đầu tư nước
ngoài, cần xây dựng các chính sách và cơ chế để không chỉ tận dụng nguồn lực từ FDI
còn đảm bảo sự phát triển bền vững, nâng cao năng lực sản xuất trong nướctạo ra
các giá trị gia tăng thực sự cho nền kinh tế. Điều này đòi hỏi sự sáng suốt trong việc lựa
chọn các loại hình đầu tư, đồng thời tăng cường sự chủ động và kiểm soát của Nhà nước
trong việc điều tiết các dòng vốn, nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và người
lao động Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Kinh tế chính trị” (dành cho bậc đại học không chuyên luận chính trị),
Nxb. Bộ Giáo dục và Đạo tạo, 2021
2. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2023, Tổng cục Thống kê, 2023
(https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thu-hut-dau-tu-
nuoc-ngoai-nam-2023/#)
3. luận xuất khẩu bản (https://luanvan.net.vn/luan-van/ly-luan-xuat-khau-tu-ban-
41784/)
4. Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/solieudautunuocngoai.aspx?nam=2023)
5. Báo cáo thường niên FDI năm 2023: Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng 32,1%;
Nguyễn Hòa, Hiệp hội Doanh nghiệp đầu nước ngoài (https://vafie.org.vn/fdi/bao-cao-
thuong-nien-fdi-nam-2023-dau-tu-nuoc-ngoai-vao-viet-nam-tang-321-1372)
6. Thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam một số khuyến nghị, Bài đăng
trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 7/2023 (https://tapchitaichinh.vn/thu-hut-von-dau-
tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-va-mot-so-khuyen-nghi.html)

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về xuất khẩu tư bản
và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.

Họ và tên sinh viên: Cao Tuấn Việt Mã SV: 11231150
Lớp TÍN CHỈ: Kinh tế chính trị Mác – Lênin (124) _CLC_13 Số thứ tự: 46

Hà Nội, tháng 11 năm 2024 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 4
I. Lý luận về xuất khẩu tư bản ...................................................................................... 4
1. Khái niệm xuất khẩu tư bản .................................................................................. 4
2. Bản chất của xuất khẩu tư bản .............................................................................. 4
3. Các hình thức của xuất khẩu tư bản ..................................................................... 4
4. Ý nghĩa của xuất khẩu tư bản ................................................................................ 5
5. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện
nay
................................................................................................................................ 6
II. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2023 và những
thách thức, triển vọng về FDI trong năm 2024
............................................................ 8
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ...................................................... 8
2. Đặc điểm của nguồn vốn FDI tại Việt Nam .......................................................... 9
3. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023 ........................ 9
4. Một số thách thức và triển vọng thu hút FDI năm 2024 của Việt Nam ........... 13
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 17 LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu hiện nay, xuất khẩu tư
bản đã và đang trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia. Từ góc độ lịch sử, xuất khẩu tư bản không phải là hiện
tượng mới, nó đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, gắn liền với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
xuất khẩu tư bản đã có những biến đổi sâu sắc cả về quy mô, hình thức và tính chất.
C.Mác và V.I.Lênin - những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã có
những đóng góp to lớn trong việc phân tích và làm sáng tỏ bản chất, động lực và các hình
thức của hoạt động xuất khẩu tư bản. Đặc biệt, trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản", V.I.Lênin đã chỉ ra rằng xuất khẩu tư bản là một
trong năm đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Những luận điểm này không
chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc mà còn có giá trị thực tiễn to lớn trong việc lý giải và định
hướng cho hoạt động đầu tư quốc tế hiện nay.
Đối với Việt Nam, một quốc gia đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc nghiên cứu và vận dụng những luận điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về xuất khẩu tư bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ khi
thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tích cực thu hút đầu tư
nước ngoài và bước đầu có những thành công đáng kể trong việc đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xuất nhập khẩu tư bản
của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức. Việc nghiên cứu một cách có hệ
thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xuất khẩu tư bản và đối chiếu với thực tiễn
Việt Nam sẽ giúp chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện hơn, từ đó đề xuất được
những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới. NỘI DUNG
I. Lý luận về xuất khẩu tư bản
1. Khái niệm xuất khẩu tư bản
Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngoài) nhằm mục đích bóc lột, chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở
các nước nhập khẩu tư bản.
Ngoài ra, xuất khẩu tư bản chính là quá trình ăn bám bình phương. Sở dĩ có thể
nói xuất khẩu tư bản là quá trình ăn bám bình phương vì tư bản được xem như là công cụ
bóc lột công nhân bản địa (chính quốc) nay được xuất khẩu ra nước ngoài theo hìnhthức
cho vay hoặc đầu tư nên bóc lột luôn cả công nhân nước ngoài (thuộc địa)
2. Bản chất của xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là hình thức bóc lột nhiều tầng của chủ nghĩa tư bản.
Tư bản mà các nhà tư bản xuất khẩu ra nước ngoài vốn là một bộ phận giá trị
thặng dư, lao động quá khứ của người công dân chính quốc bị nhà tư bản bóc lột được
biến thành phương tiện để tiếp tục bóc lột giai cấp công nhân ở các nước nhập khẩu tư bản.
Khi tiếp nhận đầu tư, các quốc gia nhập khẩu tư bản phải tạo môi trường đầu tư
thuận lợi với nhiều ưu đãi về thuế, sử dụng đất, mua công nghệ, chuyển lợi nhuận và hồi hướng vốn.
Tuy nhiên, dòng xuất khẩu tư bản chứa đựng nhiều yếu tố tạo tiền đề cần thiết cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý sản xuất,... Hầu hết các quốc gia đang phát triển chấp nhận bóc lột của xuất khẩu tư bản.
3. Các hình thức của xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu tư thì có đầu
tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới
hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi
nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn
hợp song phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài
Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Thông
qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và quốc gia, tư nhân hoặc
các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định khác nhau để đầu tư vào
các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua
trái khoán hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập khẩu tư bản
Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân:
Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy
từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay
không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu
hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận
đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài
Về quân sự, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phục thuộc vào
các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước
khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí
Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực
hiện. Ngày nay hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua
hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường
được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc
quyền cao. Xất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu
hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của
thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỉ này
nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu
4. Ý nghĩa của xuất khẩu tư bản
Đối với nước nhập khẩu tư bản:
Mặt tích cực xuất khẩu tư bản làm cho quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển
và lan rộng khắp thế giới, góp phần đẩy mạnh quá trình phân công lao động, hội nhập về
kinh tế của nhiều quốc gia, là nhân tổ quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở các nước nhập khẩu tư bản
Về mặt tiêu cực, xuất khẩu tư bản cũng để lại các quốc gia nhập khẩu tư bản
những hậu quả nặng nề như nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chống
chất do bị bóc lột nặng nề
Vì vậy, các nước nhập khẩu tư bản cần phải biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo
nguyên tắc cùng có lợi, tận dung được hết mặt tích cực của xuất khẩu tư bản, lựa chọn
nhà đầu tư uy tín để có thể khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả
Đối với các nước xuất khẩu tư bản:
Đối với tư bản tài chính, các nguồn nguyên liệu khai thác được ở các nước nhập
khẩu tư bản rất quan trọng, do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh thổ
kinh tế và thậm chí cả lãnh thổ nói chung. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nhu cầu
nguyên liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh giành giật thuộc địa
giữa chúng càng quyết liệt
Trước kia lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm
chiếm nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại
trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ
5. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện nay
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luông tư
bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm
tỷ trọng trên 70%). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua
lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm
tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản và
Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước
đang phát triển giảm mạnh.
Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn
là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột nước nghèo. Theo họ, xuất
khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong
mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với
nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm
Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy
vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều
ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như: ngành công
nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và
đại dương… Những ngành này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít
nguyên liệu, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra
sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự
xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu
nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước
tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu, không phù
hợp, tình hình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư
không còn cao như trước. Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các
trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng
hình thành các khối kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng
chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh
của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan
nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không
làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi, mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng
của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có
hàm lượng khoa học – công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến
cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đố tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là
không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công
nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất
trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát
triển, những tư liệu sản xuất này rất có hữu ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhẳm mục
đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang
các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa
đế quốc tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát
triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra
sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một
thời kỳ dài hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà
tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước
đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên
Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công
ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI. Trong
thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát
triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với
những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty
xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp, chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu
thành của khối kinh tế mới như EU, NAFTA nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo
luật bảo hộ. Nhật Bản và Tây Âu đã tham gia đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách này.
Tuy nhiên, một loạt các công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan… đã vượt qua cả lệnh
cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ đầu tư thăm dò và
khai thác dầu khó ở Việt Nam – đó là bằng chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng trên.
Sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những kim loại quý hiếm vẫn đang là” gót
chân Asin” của nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư
bản và xuất khẩu hàng hóa tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những
hình thức mới như BOT, BT… sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn
bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần
và nguyên tắc cùng có lợi được để cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho
các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp
phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế
của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào
làm cho quá trình công nghiệp hóa và tái công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước nhập
khẩu tư bản phát triển nhanh chóng. Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại những
hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do
bị bóc lột quá nặng nề. Song điều này tùy thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của
nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản, nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu từ để
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa ở nước mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng
mềm dẻo, linh hoạt, nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác
nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
II. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2023 và
những thách thức, triển vọng về FDI trong năm 2024

1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI (Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư do đầu tư nước ngoài bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ
vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy luật này và các
quy định khác có liên quan.
Theo luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ sung hoàn
thiện sau ba lần sửa đổi “Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài
trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính
phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
2. Đặc điểm của nguồn vốn FDI tại Việt Nam
Thứ nhất, các chủ đầu tư phải đóng góp một khối lượng vốn tối thiểu theo quy
định của từng quốc gia. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước
ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thứ hai, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ
đóng góp vốn. Nếu đóng góp 10% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước
ngoàiđiều hành và quản lý.
Thứ ba, lợi nhuận của các chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh
và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn sau khi nộp thuế và trả lợi tức cổ phần.
Thứ tư, FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại
toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Thứ năm, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển
giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới
cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Thứ sáu, FDI hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
3. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023
Trong gần 4 thập kỷ kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được Việt Nam thông qua
vào năm 1987, tổng vốn FDI đổ vào nước ta đã đạt gần 438,7 tỷ USD. Nguồn vốn này đã
góp phần đáng kể vào sự phát triển của đất nước, không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả xã
hội, đồng thời giúp nâng tầm hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Đáng
chú ý, dù tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 chỉ đạt 5,05%, giảm đáng kể so với mức 8%
của năm 2022 do tác động từ tình hình kinh tế thế giới bất ổn, Việt Nam vẫn duy trì được
sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc Đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đã ghi dấu
ấn đặc biệt trên bản đồ đầu tư toàn cầu khi trở thành điểm đến hấp dẫn cho dòng vốn FDI
và là một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng sản xuất quốc tế. Hành trình
phát triển của Việt Nam thể hiện rõ qua sự chuyển dịch từ việc thu hút đầu tư vào các
ngành có giá trị gia tăng thấp như dệt may và giày dép, đến việc vươn lên trở thành trung
tâm sản xuất và lắp ráp điện tử quan trọng của khu vực. Đặc biệt, trong bối cảnh căng
thẳng thương mại toàn cầu, Việt Nam vẫn khẳng định được vị thế của mình khi tiếp tục
dẫn đầu trong việc thu hút FDI chất lượng cao, với khu vực sản xuất chiếm tỷ trọng áp
đảo lên tới 85% trong tổng vốn đầu tư mới.
Năm 2023 đánh dấu một cột mốc đáng tự hào trong hành trình thu hút FDI của
Việt Nam, với tổng vốn đăng ký hơn 36,6 tỷ USD (số liệu tính đến ngày 20/12/2023).
Đặc biệt, mức giải ngân đạt 23,183 tỷ USD - một con số kỷ lục trong giai đoạn 2019-
2023, tăng mạnh 32,1% so với cùng kỳ. Thành tích này bao gồm cả vốn đăng ký mới,
vốn điều chỉnh và hoạt động góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Điểm sáng
nổi bật là sự gia tăng mạnh mẽ của số dự án mới, với 3.188 dự án được cấp phép, tăng
66,2% - một tốc độ tăng trưởng ấn tượng vượt xa mức tăng của tổng vốn đầu tư mới
(43,6%). Xu hướng này cho thấy sự quan tâm và niềm tin ngày càng lớn của các nhà đầu
tư quy mô vừa và nhỏ đối với môi trường đầu tư Việt Nam.
Hình 1: Vốn đầu tư nước ngoài các năm 2019-2023
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Về cơ cấu ngành nghề, các nhà đầu tư nước ngoài đã thể hiện sự đa dạng trong lựa
chọn khi đầu tư vào 18 trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu với tổng vốn đầu tư ấn tượng đạt hơn 23,5 tỷ
USD, chiếm 64,2% tổng vốn đầu tư đăng ký và ghi nhận mức tăng trưởng 39,9% so với
cùng kỳ. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành này mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp
trong nước trong việc tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa
quốc gia. Tiếp theo là ngành kinh doanh bất động sản với tổng vốn đầu tư gần 4,67 tỷ
USD, chiếm 12,7% và tăng 4,8% so với cùng kỳ. Các vị trí tiếp theo thuộc về ngành sản
xuất, phân phối điện với hơn 2,37 tỷ USD (tăng 4,9%) và ngành tài chính - ngân hàng với
gần 1,56 tỷ USD (tăng gấp gần 27 lần so với cùng kỳ).
Hình 2: Đầu tư nước ngoài năm 2023 theo ngành kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2023 còn ghi nhận một điểm sáng đặc biệt khi dòng vốn FDI mới đổ vào lĩnh
vực sản xuất tăng mạnh, bất chấp những khó khăn của nền kinh tế toàn cầu và những hậu
quả còn tồn đọng sau đại dịch Covid-19. Trong bối cảnh xu hướng đa dạng hóa chuỗi
cung ứng toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, vốn FDI được ví như "cơn gió thuận" đối với
nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù vẫn còn những thách thức cần khắc phục, đặc biệt là vấn
đề chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam vẫn được đánh giá cao về môi trường đầu tư
nhờ những ưu thế vượt trội và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng hấp dẫn.
Những con số và thành tựu này không chỉ phản ánh sự thành công trong chiến
lược thu hút FDI của Việt Nam mà còn khẳng định vị thế của đất nước như một điểm đến
đầu tư an toàn, tin cậy và đầy tiềm năng trong mắt cộng đồng đầu tư quốc tế. Đây chính
là nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục phát triển và hội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế toàn cầu trong những năm tới.
Về địa bàn đầu tư, vốn FDI tiếp tục tập trung vào các tỉnh, thành phố có lợi thế về
cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, cải cách thủ tục và hoạt động xúc tiến đầu tư như
TP.HCM, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Hà Nội, Bắc Ninh, Nghệ An,
Bình Dương và Đồng Nai. Nhóm 10 địa phương này đã chiếm tới 78,6% số dự án mới và
74,4% tổng vốn FDI trong năm 2023. Riêng TP.HCM dẫn đầu cả nước về số dự án mới
(38,2%), số dự án điều chỉnh (23%) và góp vốn mua cổ phần (66,3%), với tổng vốn đăng
ký đạt hơn 5,85 tỷ USD, chiếm 16% tổng vốn FDI và tăng 48,5% so với 2022. Quảng
Ninh cũng ghi nhận sự vượt trội khi thu hút hơn 3 tỷ USD vốn FDI, vươn lên vị trí thứ ba cả nước.
Hình 3: Đầu tư nước ngoài năm 2023 theo địa phương
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Về đối tác đầu tư, Việt Nam đã thu hút vốn FDI từ 111 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Các nhà đầu tư châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt là Singapore, Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. Tổng số vốn từ 6 quốc gia này đã chiếm 78,8%
tổng vốn FDI tại Việt Nam. Cụ thể, Singapore dẫn đầu với hơn 6,8 tỷ USD, tăng 5,4% và
chiếm 18,6% tổng vốn. Nhật Bản xếp thứ 2 với gần 6,57 tỷ USD, tăng 37,3% và chiếm
17,9%. Hồng Kông đứng thứ 3 với hơn 4,68 tỷ USD, gấp 2,1 lần và chiếm 12,8% tổng vốn.
Trong năm 2023, Trung Quốc dẫn đầu về số dự án mới với 22,2%, tập trung vào
ngành điện tử. Hàn Quốc lại dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (25,9%) và góp vốn, mua
cổ phần (27,8%). Các dự án mới từ Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước công nghiệp hóa
cao khác đều hướng tới công nghệ sản xuất tiên tiến và quản lý hiện đại. Mỹ hiện có
1.286 dự án đầu tư tại Việt Nam với 11,7 tỷ USD, xếp thứ 11. Các nhà đầu tư Mỹ mong
muốn trở thành nhà đầu tư số 1, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao - lĩnh vực mà Việt
Nam đang hướng tới thu hút FDI. Thành công của Samsung ở Việt Nam cũng thu hút các
"ông lớn" công nghệ khác như Apple mở rộng đầu tư.
Hình 4: Đầu tư nước ngoài năm 2023 theo đối tác
Nguồn: Tổng cục Thống kê
4. Một số thách thức và triển vọng thu hút FDI năm 2024 của Việt Nam
Năm 2024, việc thu hút FDI của Việt Nam đối mặt với một số khó khăn, bao gồm:
Thứ nhất, sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu đã làm chậm quá trình phục hồi kinh
tế. Sự gia tăng giá lương thực và năng lượng do cuộc xung đột Nga - Ukraine kéo dài đã
làm gián đoạn quá trình phục hồi toàn cầu. Dự báo rằng các nền kinh tế lớn như Mỹ và
Trung Quốc, những đối tác thương mại và nhà đầu tư FDI chủ chốt của Việt Nam, sẽ tăng
trưởng chậm trong những năm tới.
Thứ hai, xu hướng đầu tư gần (nearshoring) được nhiều quốc gia, đặc biệt là Hàn
Quốc và Nhật Bản, theo đuổi sau đại dịch Covid-19. Trong khi đó, Mỹ và một số quốc
gia EU đang cố gắng hạn chế đầu tư ra ngoài bằng cách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
và đưa ra các ưu đãi đầu tư trong nước để khuyến khích vốn quay trở lại. Những xu
hướng này đang tạo thêm khó khăn cho Việt Nam trong việc thu hút FDI.
Thứ ba, việc đề xuất áp dụng thuế tối thiểu cho các tập đoàn đa quốc gia trên toàn
cầu nhằm ngăn chặn các chiến lược trốn thuế như chuyển lợi nhuận và xói mòn cơ sở
thuế có thể tác động tiêu cực đến dòng vốn FDI. Mức thuế tối thiểu toàn cầu có thể thay
đổi tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các quốc gia, nhưng mục tiêu chung là yêu cầu các tập
đoàn đa quốc gia phải nộp thuế tối thiểu ở mọi khu vực mà họ hoạt động.
Thứ tư, các quốc gia láng giềng như Thái Lan và Malaysia, với nguồn lực mạnh
mẽ hơn, đang tích cực thu hút FDI bằng cách giảm thuế và hỗ trợ nhiều hơn cho các nhà
đầu tư nước ngoài, khiến Việt Nam trở thành điểm đến kém hấp dẫn hơn. Việc thu hút
FDI chỉ qua lao động giá rẻ không còn là giải pháp hiệu quả cho việc thu hút các dự án
FDI chất lượng. Thay vào đó, sự hấp dẫn cần được xây dựng dựa trên các yếu tố khác
như cơ sở hạ tầng tốt, lao động có tay nghề cao và các yếu tố phi thuế khác.
Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 2025 - 2030
sẽ tập trung vào các dự án công nghệ cao, công nghệ mới, quản trị hiện đại, giá trị gia
tăng cao và có tác động lan tỏa tích cực, đồng thời kết nối với chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Mặc dù đối diện với một số thách thức, Việt Nam vẫn có triển vọng thu hút FDI
vào năm 2024, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, khi nhiều tập đoàn quốc tế đang tìm cách
dịch chuyển khỏi Trung Quốc. Dự báo rằng khoảng 80% vốn FDI vào Việt Nam sẽ đổ
vào ngành sản xuất công nghiệp, bao gồm các dự án nhà xưởng và các công trình hỗ trợ
như nhà máy điện và cơ sở hạ tầng kho vận. Ngành sản xuất sẽ tiếp tục thu hút phần lớn
dòng vốn FDI vì một số lý do:
Thứ nhất, Việt Nam có thể áp dụng Mô hình Phát triển Đông Á (EADM), mà các
nền kinh tế châu Á phát triển đều áp dụng. Mô hình này chú trọng vào sản xuất sản phẩm
xuất khẩu như điện thoại, thiết bị điện tử gia dụng và quần áo, giúp đóng góp của ngành
sản xuất vào GDP các nước trong khu vực đạt trên 30% ở mức cao nhất. Việt Nam cũng
đang trở thành đối tác quan trọng trong việc bảo đảm chuỗi cung ứng bán dẫn đa dạng và linh hoạt.
Thứ hai, tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất vào GDP của Việt Nam hiện vẫn thấp,
dưới 25%, điều này cho thấy tiềm năng phát triển lớn trong tương lai. Việt Nam hiện
đang là điểm đến hấp dẫn đối với các tập đoàn công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực sản
xuất. Cùng với Thái Lan và Indonesia, Việt Nam đang chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ
tỷ trọng FDI từ Trung Quốc vào lĩnh vực sản xuất. Đặc biệt, tập đoàn Apple đã công bố
kế hoạch chuyển một phần sản xuất iPad sang Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam có hai lợi thế quan trọng trong việc thu hút FDI vào ngành sản
xuất: (i) nguồn lao động chất lượng cao với chi phí cạnh tranh, và (ii) Mỹ, thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam, đang mở rộng cánh cửa cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam. Các tập đoàn đầu tư xây dựng nhà máy tại Việt Nam có thể xuất khẩu sản
phẩm sang Mỹ mà không gặp phải các rào cản thương mại.
Thứ tư, dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ hưởng lợi từ sự tăng trưởng mạnh mẽ
trong nhu cầu tiêu dùng nội địa. Tầng lớp trung lưu tại Việt Nam đang phát triển nhanh
chóng, với dự báo 4 triệu người gia nhập tầng lớp này trong năm 2024, đứng thứ 5 trong
số 9 quốc gia châu Á có số người gia nhập lớp trung lưu lớn nhất.
Tuy có nhiều cơ hội trong phát triển hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn, Việt Nam
hiện đang thiếu hụt lực lượng kỹ sư có kỹ năng cho ngành công nghiệp bán dẫn quy mô
lớn. Ngoài ra, lo ngại về tác động của "Thuế tối thiểu toàn cầu" (GMT) có thể ảnh hưởng
đến khả năng thu hút FDI, do các ưu đãi thuế cho nhà đầu tư FDI có thể bị hạn chế. Tuy
nhiên, thuế không phải là yếu tố quyết định duy nhất mà các tập đoàn quốc tế cân nhắc
khi quyết định đầu tư, mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác như chi phí và chất lượng
lao động, hạ tầng và môi trường kinh doanh. Việt Nam cũng đang nghiên cứu các giải
pháp hỗ trợ tài chính cho nhà đầu tư FDI.
Để tăng cường khả năng thu hút FDI trong những năm tới, Việt Nam cần tiếp tục
đầu tư vào phát triển hạ tầng, đặc biệt là giao thông và kho vận, đồng thời cải thiện môi
trường kinh doanh, giảm thiểu thủ tục hành chính phức tạp, và tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư trong quá trình xin cấp phép. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng đào tạo
và giáo dục nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao là rất quan trọng.
Tóm lại, đầu tư là yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, góp
phần tạo ra năng lực sản xuất mới và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Việt Nam cần tập
trung thu hút các khoản đầu tư tạo giá trị gia tăng cao, đồng thời nâng cao năng lực trong
lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D). Với nhiều cơ hội, Việt Nam có tiềm năng trở
thành trung tâm của chuỗi cung ứng toàn cầu. Cộng đồng quốc tế đánh giá cao vai trò của
Việt Nam trong thúc đẩy thương mại toàn cầu, và các nhà đầu tư nước ngoài cam kết tiếp
tục mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cải thiện môi
trường đầu tư để thu hút thêm dòng vốn FDI trong tương lai. Triển vọng vĩ mô ổn định
cùng với tiềm năng tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN
Theo lý luận của Mác - Lênin, xuất khẩu tư bản là sự mở rộng của chủ nghĩa tư
bản ra ngoài biên giới quốc gia, gắn liền với sự khai thác nguồn tài nguyên và thị trường
lao động ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận cho các
tập đoàn tư bản. Xuất khẩu tư bản không chỉ là một quá trình kinh tế mà còn có những tác
động sâu rộng về chính trị và xã hội, với sự gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia và các tầng lớp xã hội.
Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy nhiều dấu hiệu của sự
xuất khẩu tư bản trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và trong các quan hệ đầu tư nước
ngoài. Việt Nam, với vị trí chiến lược và thị trường lao động dồi dào, đã trở thành một
điểm đến hấp dẫn cho các dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ các quốc gia tư bản
phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra những thách
thức về việc kiểm soát và định hướng các dòng vốn này sao cho có lợi cho phát triển bền
vững, tránh tình trạng Việt Nam trở thành nơi khai thác lao động giá rẻ và tài nguyên
thiên nhiên, mà không thực sự gia tăng giá trị nội tại cho nền kinh tế.
Nhìn chung, lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xuất khẩu tư bản vẫn có giá trị
tham chiếu quan trọng trong phân tích các mô hình phát triển kinh tế toàn cầu và sự phân
chia lợi ích giữa các quốc gia. Việt Nam, trong quá trình đẩy mạnh thu hút đầu tư nước
ngoài, cần xây dựng các chính sách và cơ chế để không chỉ tận dụng nguồn lực từ FDI
mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững, nâng cao năng lực sản xuất trong nước và tạo ra
các giá trị gia tăng thực sự cho nền kinh tế. Điều này đòi hỏi sự sáng suốt trong việc lựa
chọn các loại hình đầu tư, đồng thời tăng cường sự chủ động và kiểm soát của Nhà nước
trong việc điều tiết các dòng vốn, nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và người lao động Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Kinh tế chính trị” (dành cho bậc đại học – không chuyên lý luận chính trị),
Nxb. Bộ Giáo dục và Đạo tạo, 2021
2. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2023, Tổng cục Thống kê, 2023
(https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thu-hut-dau-tu- nuoc-ngoai-nam-2023/#)
3. Lý luận xuất khẩu tư bản (https://luanvan.net.vn/luan-van/ly-luan-xuat-khau-tu-ban- 41784/)
4. Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/solieudautunuocngoai.aspx?nam=2023)
5. Báo cáo thường niên FDI năm 2023: Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng 32,1%;
Nguyễn Hòa, Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (https://vafie.org.vn/fdi/bao-cao-
thuong-nien-fdi-nam-2023-dau-tu-nuoc-ngoai-vao-viet-nam-tang-321-1372)
6. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và một số khuyến nghị, Bài đăng
trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 7/2023 (https://tapchitaichinh.vn/thu-hut-von-dau-
tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-va-mot-so-khuyen-nghi.html)