















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE oOo BÀI TẬP LỚN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN ĐỀ BÀI
Đề 1 Lượng giá trị hàng hóa gồm những bộ phận nào? Vì sao lượng giá trị hàng
hóa gồm những bộ phận đó?
Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.
Đề 2 Phân tích 2 phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư. Vì sao nói giá trị
thặng dư siêu ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị thặng dư tương đối?
Làm rõ hai phương pháp này có ý nghĩa thế nào đối với các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta?
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Anh Thư MSV : 11230913 STT : 39 Lớp tín chỉ : LLNL1106(223)CLC Giảng viên : PGS.TS Trần Việt Tiến HÀ NỘI – 2024 2 MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................. 2
NỘI DUNG ........................................................................................................... 4
A. ĐỀ 1 .................................................................................................................. 4 I.
LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ HÀNG HÓA ...................................................... 4 1.
Hàng hóa và thuộc tính của hàng hóa .................................................... 4 1.1.
Khái niệm hàng hóa ....................................................................... 4 1.2.
Thuộc tính của hàng hóa ............................................................... 4
1.2.1. Giá trị sử dụng của hàng hóa .................................................... 4
1.2.2. Giá trị của hàng hóa .................................................................. 4 2.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa ....................................... 5 2.1.
Lao động cụ thể ............................................................................. 5 2.2.
Lao động trừu tượng ...................................................................... 5
II. LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA ............................................................... 6 1.
Khái niệm lượng giá trị hàng hóa .......................................................... 6 2.
Cấu thành lượng giá trị hàng hóa .......................................................... 6 III.
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA ...... 7 1.
Năng suất lao động ................................................................................ 7 2.
Cường độ lao động ................................................................................ 8 3.
Mức độ phức tạp của lao động .............................................................. 8
B. ĐỀ 2 .................................................................................................................. 9 I.
LÝ LUẬN VỀ 2 PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 9 1.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư ........................................................ 9 2.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ........................................... 9
2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ............................ 10
2.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối ........................... 11 3.
Vì sao nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị
thặng dư tương đối? ..................................................................................... 11 3.1.
Khái niệm giá trị thặng dư siêu ngạch ......................................... 11 3.2.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị thặng
dư tương đối ............................................................................................ 11 3.3.
Ý nghĩa của giá trị thặng dư siêu ngạch ...................................... 12 3
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU 2 PHƯƠNG PHÁP NÀY ĐỐI
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT NƯỚC TA .................................. 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 17 4 NỘI DUNG A. ĐỀ 1 I.
LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ HÀNG HÓA
1. Hàng hóa và thuộc tính của hàng hóa 1.1. Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa là phạm trù lịch sử; sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái
hàng hóa khi được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Hàng hóa có thể sử dụng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu cho sản xuất.
Khi sử dụng cho tiêu dùng cá nhân gọi là hàng tiêu dùng; khi tiêu dùng cho sản
xuất gọi là tư liệu sản xuất. Hàng hóa khi có những thuộc tính, chức năng đặc
biệt thì được gọi là hàng hóa đặc biệt. Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể
hữu hình (hàng hóa thông thường) hoặc ở dạng phi vật thể (hàng hóa dịch vụ).
Bất cứ hàng hóa nào cũng bao gồm hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. 1.2.
Thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
1.2.1. Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất.
Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền
sản xuất càng phát triển, khoa học – công nghệ càng hiện đại, càng giúp con
người phát hiện thêm các giá trị sử dụng của sản phẩm.
1.2.2. Giá trị của hàng hóa 5
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất,
trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi
hàng hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi. Khi trao
đổi người ta ngầm so sánh lao động đã hao phí ẩn giấu trong hàng hóa với nhau.
2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động
sản xuất hàng hóa, C.Mác phát hiện ra rằng, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là
do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt trừu
tượng của lao động. 2.1. Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương
pháp lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử
dụng khác nhau. Tất cả lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động
xã hội. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì xã hội càng nhiều ngành
nghề khác nhau, do đó có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, là điều kiện sản xuất không thể
thiếu của bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào. Khoa học kỹ thuật, phân công lao
động càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng.
2.2. Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa
không kể đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung
của người sản xuất hàng hóa về cơ bắp, thần kinh, trí óc. 6
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử, chỉ có trong sản xuất và trao đổi
hàng hóa bởi vì, chỉ trong sản xuất và trao đổi hàng hóa mới cần quy các lao
động khác nhau thành lao động chung, đồng nhất làm cơ sở để so sánh, trao đổi
các giá trị sử dụng khác nhau. II.
LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA
1. Khái niệm lượng giá trị hàng hóa
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra
hàng hóa đó quyết định. C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết,
hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới
quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy". Như vậy, lượng lao động đã
tiêu hao đó được đo bằng thời gian lao động, nhưng không đo bằng thời gian lao
động cá biệt mà đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động cá biệt là thời gian sản xuất ra một đơn vị hàng hóa
của từng người sản xuất cá biệt. Do điều kiện sản xuất của mỗi người sản xuất là
khác nhau nên thời gian lao động cá biệt cũng khác nhau.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra một hàng hóa với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động
trung bình trong những điều kiện bình thường của xã hội. Hao phí lao động xã
hội cần thiết chính là mức hao phí lao động trung bình trong xã hội để sản xuất
ra một sản phẩm. Trên thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
một hàng hóa thường trùng hợp với mức hao phí lao động cá biệt của những
người sản xuất và cung cấp đại bội phận sản phẩm đó trên thị trường. Vì vậy,
người nào đưa ra thị trường nhiều sản phẩm nhất sẽ là người quyết định giá mua bán của sản phẩm.
2. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa
Hao phí lao động để sản xuất hàng hóa gồm hao phí về lao động vật hóa
dưới dạng nhà xưởng, máy móc, công cụ lao động, nguyên nhiên vật liệu... và
hao phí lao động sống. Trong quá trình sản xuất, hao phí lao động vật hóa được
chuyển sang sản phẩm dưới dạng khấu hao về máy móc, nhà xưởng, công cụ lao 7
động, chi phí về nguyên, nhiên vật liệu, ký hiệu c; còn hao phí về lao động sống
của người lao động tạo ra giá trị mới, được kết tinh trong hàng hóa, ký hiệu (v +
m). Như vậy, giá trị của hàng hóa bao gồm hao phí lao động quá khứ (c) cộng
với hao phí lao động sống hay giá trị mới được tạo ra (v+m). Lượng giá trị của
hàng hóa được biểu hiện bằng c + v + m. III.
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA
Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, cho nên, về nguyên tắc, những
nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của đơn vị hàng hóa. Có
những nhân tố chủ yếu sau: 1. Năng suất lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng
thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng
ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản
phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số
lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy,
muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm: i) trình độ khéo léo
trung bình của người lao động; ii) mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp
dụng khoa học vào quy trình công nghệ; iii) sự kết hợp xã hội của quá trình sản
xuất; iv) quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; v) các điều kiện tự nhiên. . 8 2. Cường độ lao động
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao
động trong sản xuất. Cường độ lao động được đo bằng mức độ hao phí lao động
trong một đơn vị thời gian, hay hao phí lao động sống trong một đơn vị thời gian.
Hao phí lao động là hao phí về sức lực, sức cơ bắp, sức thần kinh của
người lao động trong quá trình sản xuất; thường được đo bằng số calo (đơn vị đo
năng lượng) hao phí trong một thời gian nhất định. Cường độ lao động nói lên
mức độ khẩn trương, nặng nhọc, căng thẳng của lao động. Do đó, tăng cường độ
lao động là tăng mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Xét về bản
chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động. Cường độ
lao động có tác động tỷ lệ thuận với tổng giá trị hàng hóa được sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian nhất định. Khi cường độ lao động tăng, hao phí lao động
cũng tăng lên, khối lượng hàng hóa cũng tăng tương ứng. Vì vậy, hao phí lao
động để làm ra một sản phẩm không đổi nhưng tổng giá trị hàng hóa tăng lên.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm
lý, trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao
động… Nếu giải quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác
nhanh hơn, thuần thục hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều sản phẩm hơn.
3. Mức độ phức tạp của lao động
Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động giản
đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một
cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một
quá trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. 9
Trong cùng một đơn vị thời gian, một lao động phức tạp sẽ phải vận dụng
các kỹ năng về thể chất và tinh thần nhiều hơn so với một lao động giản đơn nên
mức độ hao phí lao động sẽ nhiều hơn. Vì vậy trong cùng một đơn vị thời gian,
một lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn một lao động giản đơn. Sản
phẩm của lao động phức tạp vì vậy sẽ có giá trị cao hơn sản phẩm của lao động giản đơn. B. ĐỀ 2 I.
LÝ LUẬN VỀ 2 PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất của quá trình tạo ra
và làm tăng giá trị. Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất xã hội cần đạt đến
trình độ mà ở đó người lao động chỉ phải hao phí một phần thời gian lao động là
có thể khỏa lấp được giá trị hàng hóa sức lao động, đây gọi là thời gian lao động
tất yếu. Ngoài ra, người lao động phải làm việc trong sự quản lý của nhà tư bản
và sản phẩm của người công nhân tạo ra thuộc về nhà tư bản, thời gian đó là thời
gian lao động thặng dư.
Giá trị thặng dư là một phần của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động không công của công nhân
cho nhà tư bản. Vì vậy bản chất của giá trị thặng dư là quan hệ bóc lột. Kí hiệu
của giá trị thặng dư là m.
C. Mác viết: "Bí quyết của sự tự tăng thêm giá tri ̣của tư bản qui lại là ở
chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác".
Giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành lên thu nhập của các nhà tư bản
và giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.
2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng C.
Mác đã chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là
sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Mỗi 10
một phương pháp mang một đặc điểm, tính chất riêng, đặc trưng đại diện cho
một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như từng giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp kéo dài
ngày lao động một cách tuyệt đối vượt quá thời gian lao động cần thiết trong
điều kiện năng suất lao động không đổi, thời gian lao động cần thiết không đổi.
Ví dụ, nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Giả định nhà tư
bản kéo dài ngày lao động ra 12 giờ với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng
dư tuyệt đối sẽ tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’= 8 giờ/ 4 giờ * 100%= 200%
Phương pháp trên được sử dụng phổ biến trong giai đoạn đầu chủ nghĩa tư
bản. Đây là thời điểm lao động còn ở trình độ thủ công, năng suất lao động còn
thấp. Với lòng tham vô hạn, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao
động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư
bản. Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày
lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Ngoài thời gian
người công nhân làm việc, họ cần có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái
sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, ngoài yếu tố vật chất, người lao động cần có
thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình.
Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai
cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới của ngày
lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động
thăng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời
gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới
tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối. 11
2.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp rút
ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không
đổi, nhờ đó kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động cần thiết là 4 giờ và thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Khi máy móc
thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động tất yếu của người
công nhân chỉ còn lại 2 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng lên là 6 giờ, vì
vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 300%.
Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết phải giảm giá trị sức lao động.
Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết của công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản
xuất ra những tư liệu tiêu dùng hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản
xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
3. Vì sao nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị thặng dư tương đối?
3.1. Khái niệm giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá tri ̣cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị thị truờ̛ ng của nó. Như vậy, xí nghiệp chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn
các xí nghiệp khác mà vẫn bán được với giá như các xí nghiệp khác, từ đó sẽ thu
được một số giá trị thặng dư vượt trội so với xí nghiệp khác.
Giá trị thặng dư siêu ngạch = giá trị xã hội của hàng hóa – giá trị cá biệt của hàng hóa.
Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm
thời, nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo
phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên.
3.2. Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị thặng dư tương đối 12
Cả hai đều là giá trị thặng dư, đều là kết quả bóc lột lao động không công
của công nhân làm thuê, đặc biệt chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
Tăng năng suất lao động nghĩa là trong cùng một thời gian lao động như
trước nhưng tổng sản phẩm tăng lên, nhưng tổng chi phí không tăng (hoặc tăng
ít) sao cho giá trị một đơn vị sản phẩm giảm xuống.
Với giá trị thặng dư siêu ngạch:
- Được tạo ra do tăng năng suất lao động cá biệt.
- Do nhà tư bán cá biệt thu được.
- Là phần giá trị thặng dư dôi thêm do doanh nghiệp áp dụng khoa học
công nghệ vào trong sản xuất, hỗ trợ người lao động giúp cho người lao
động tạo ra năng suất lao động.
- Biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân với nhà tư bản và giữa các nhà tư bản với nhau.
Còn đối với giá trị thặng dư tương đối thì:
- Do doanh nghiệp do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện
thời gian lao động của ngày lao động không đổi, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư.
- Để tạo ra giá trị thặng dư tương đối thì phải hạ thấp giá trị sức lao động
bằng cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao động.
- Biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân với tư bản.
3.3. Ý nghĩa của giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phương thức tối ưu hóa việc tạo ra giá trị
thặng dư. Việc áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất hàng hóa cũ giúp
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng năng suất, sản xuất nhiều hàng
hóa hơn và tạo ra giá trị mới cho sản phẩm. Nhờ đó, doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn.
Áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất giúp người công nhân
Giảm bớt sức lao động cho người công nhân, giúp họ tiết kiệm thời gian và công 13
sức trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa với việc người
công nhân luôn phải học hỏi và thích nghi với công nghệ mới, họ có thể đối mặt
với nguy cơ bị đào thải nếu không đáp ứng được yêu cầu. Công nghệ phát triển
cũng dẫn đến việc doanh nghiệp chỉ cần đội ngũ nhân công chất lượng cao,
mang đến nguy cơ thất nghiệp cho các công nhân tay nghề thấp.
Giá tri ̣thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư
bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh. II.
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU 2 PHƯƠNG PHÁP NÀY ĐỐI
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT NƯỚC TA
1.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất
của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch
có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất,
tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý,
tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương
thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất
phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để
các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần
phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao
động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 phương pháp với các doanh nghiệp sản xuất nước ta
Tại Hội thảo “Vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam” (Hà Nội, ngày 31/3/2015) các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Việt
Nam cần ưu tiên phát triển nền kinh tế tri thức như một điều kiện sống còn trong 14
thế giới đang vận động rất mau lẹ. Kinh tế tri thức còn là điều kiện để Việt Nam
tồn tại, cạnh tranh và thoát khỏi cái rốn nghèo của khu vực vốn đeo đuổi bấy
lâu. Việt Nam chưa có nền kinh tế tri thức hay cụ thể hơn là chỉ một vài doanh
nghiệp, ngành đã và đang đi sâu vào kinh tế tri thức bằng cách đi tắt đón đầu và
ngang bằng với trình độ của thế giới, như: điện tử viễn thông, hóa dược và vật liệu xây dựng”.
Học thuyết giá trị thặng dư có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử phản ánh mâu
thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong chủ nghĩa tư bản, vạch
rõ tính tất yếu của sự ra đời một xã hội mới thay thế cho chủ nghĩa tư bản. Ở
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, học thuyết này có
ý nghĩa hiện thực to lớn cho quá trình phát triển kinh tế hướng đến nền kinh tế
tri thức. Cần vận dụng học thuyết một cách thông minh, sáng tạo nhưng đảm bảo
tính khoa học phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là chú ý đến
việc thực hiện giá trị thặng dư, theo lý luận giá trị thặng dư của Mác
- Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động trong
nước, có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Phát triển thị trường lao
động với tư cách là một yếu tốđầu vào quan trọng của quá trình sản xuất,
theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu vềlao động cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững định hướng XHCN.
Trong học thuyết của C. Mác, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương
thức tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt
quá thời gian lao độngtất yếu trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi) không được sử dụng, thời
gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần theo
điều 68 của bộ Luật Lao Động. 15
Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp dụng phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối (tạo ra do rút ngắn thời gian lao động
tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao
động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ) và
biến tấu của nó – giá trị thặng dư siêu ngạch (phần giá trị thặng dư thu được do
tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị thị trường của nó) vào nền kinh tế nước ta.
Các doanh nghiệp trong nước cần có cố gắng hơn nữa trong việc thay đổi
công nghệ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với
các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh
nghiệp nước ngoài làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong nước, vừa
tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có được những công nghệ tiên tiến
để phát triển sản xuất.
Vấn đề nguồn lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới.
Việc nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và
thực tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có cung như hiện nay.
Phần giá trị thặng dư phải được phân chia hợp lí. Trước hết, doanh nghiệp
ở bất kì quốc gia nào đều có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước. Tiếp theo, phần
lớn doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân sẽ chia một phần
giá trị thặng dư cho các quỹ (quỹ nghiên cứu khoa học, quỹ phúc lợi, quỹ tái sản
xuất) hoặc nếu khôngtheo mô hình này thì giá trị thặng dư sẽ được chia để trả
công cho người quản lí, cho tái sản xuất và mở rộng sản xuất, cho chủ doanh
nghiệp … và một số phần khác.
Hiểu rõ hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng
giúp doanh nghiệp lựa chọn phương pháp phù hợp để tăng lợi nhuận, nâng cao
năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Lưu ý: Doanh nghiệp cần sử dụng các phương pháp này một cách hợp lý,
đảm bảo lợi ích cho cả doanh nghiệp và người lao động, đồng thời tuân thủ luật
lao động và các quy định của pháp luật. 16 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
2. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật (1995). C. Mác và Ph.Ăngghen toàn
tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
3. Nguyễn Thị Thọ, Vương Minh Hoài, Phan Thanh Hoài (2021). Ý nghĩa học
thuyết giá trị thặng dư đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 57, 161-164.
