BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề bài: Phân tích mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh
tế thị trường? sao trong nền kinh tế thị trường phải bo vệ cạnh tranh, hạn
chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn nước ta.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Minh Thức
Lớp: AUM_QTKD30A
sinh viên: 19230653
Nội 2023
Mục lc
Mục lục ...................................................................................................................... 2
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 4
I. CẠNH TRANH GÌ? ................................................................................. 4
1. Khái niệm cạnh tranh ..................................................................................... 4
2. Bản chất của cạnh tranh ................................................................................. 4
II. CẦN DUY TRÌ SỰ CẠNH TRANH VÀ HẠN CHẾ ĐỘC QUYỀN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ........................................................... 5
1. Nền kinh tế luôn cần duy trì sự cạnh tranh .................................................... 5
2. Nền kinh thế cần hạn chế độc quyền ............................................................. 6
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM ..................................................... 7
1. Thực trạng cạnh tranh độc quyền ở Việt Nam trong ngành điện lc ....... 7
1.1. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh ............................................. 7
1.2. Thực trạng độc quyền tại Việt Nam ..................................................... 8
2. Nguyên nhân độc quyền về điện.................................................................... 9
3. Ảnh hưởng của độc quyền trong ngành đin ...............................................10
4. Giải pháp hướng tới duy trì cạnh tranh và hạn chế độc quyền trong ngành
điện Việt Nam .................................................................................................11
KẾT LUẬN .............................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................13
PHẦN MỞ ĐU
Một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường đó
là cạnh tranh. Cạnh tranh thể năng lực phát triển của nền kinh tế thị trường và sự
sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, cạnh tranh vừa lợi
vừa có hại, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh vẫn luôn mang lại nhiều
tác động tích cực.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa, các quốc gia phải chấp nhận những quy luật của nền kinh
tế thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế nhưng bên cạnh
đó, nền kinh tế nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Cạnh
tranh không lành mạnh tình trạng độc quyền vẫn còn lớn hai vấn đề lớn, hiện
hữu trong suốt quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu chính là làm thế
nào để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền hiệu
quả. Vì vậy trong bài tiểu luận này, em sẽ chỉ ra khái niệm niệm về cạnh tranh và
tầm quan trọng của việc duy trì sự cạnh tranh hạn chế độc quyền. Bên cạnh đó,
em cũng sẽ vận dụng thực tiễn đến hai vấn đề chính đã nêu trên của nền kinh tế
Việt Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp mà nhà nước ta có thể áp dụng để cải
thiện tình trạng này trong tương lai và phát triển nền kinh tế thị trường.
PHẦN NỘI DUNG
I. CẠNH TRANH GÌ?
“Nền kinh tếlthị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao và ở đó, mọi quan hệ sản
xuất trao đổi đều được thông qua thị trường chịu sực động, điều tiết
của các quy luật thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều quy
luật kinh tế điều tiết. Mỗi nước có những mô hình kinh tế thị trường khác
nhau phợp với điều kiện của quốc gia đó. Tại Việt Nam thì nền kinh tế
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
vận hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới
từng bước xác lập một hội đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, vă minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam
lãnh đạo.
Trong nền kinh tế thị trường một quy luật đóng vai trò quan trọng đó
là cạnh tranh. Vậy thì cạnh tranh là gì?”
1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh quy luật điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh
đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật
cạnh tranh yêu cầu, khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh
doanh, bên cạnh sự hợp tác, luôn phải chấp nhận cạnh tranh.
Cạnh tranh sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm
được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó thu được
lợi ích tối đa.
2. Bản chất của cạnh tranh
hoạt động giữac chủ thể cạnh tranh xuất hiện trên thị trường đ
giành giật khách hàng: Trong kinh tế học, thị trường nơi diễn ra sự
trao đổi giữa người bán và người mua của một loại hàng hóa và dịch
vụ cụ thể. Người bán luôn muốn bán được nhiều hàng hóa với mức
giá cao nhất để có thể thu lại được nhiều lợi nhuận, trong khi đó thì
người mua lại có tâm lý muốn mua được nhiều số lượng hàng hóa
nhất có thể với giá càng rẻ càng tốt. Xu hướng này là nguồn gốc cho
sự xuất hiện của cạnh tranh, sự ganh đua gay gắt giữa các chủ thể
kinh doanh trên thị trường để thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Là quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ diễn ra trên thị trường: Luôn
xuất hiện sự ganh đua lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh để giành
ưu thế tốt nhất để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh thường
chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp có cùng lợi ích. Ví dụ, những
doanh nghiệpng tìm kiếm thị trường để bán những sản phẩm giống
nhau hay cùng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào giống nhau.
II. CẦN DUY TRÌ SỰ CẠNH TRANH HẠN CHẾ ĐỘC QUYỀN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Nền kinh tế luôn cần duy trì sự cạnh tranh
Cạnh tranh có thể đem lại ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực. Tuy
nhiên, xét dưới góc độ toàn hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực sau:
Đầu tiên, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội . Cạnh
tranh là sự chạy đua kinh tế, mà những người thắng cuộc cũng phải đòi hỏi
phải có sức mạnh và kỹ năng. Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút
về mình ngày càng nhiều khách hàng nên buộc các nhà sản xuất và kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ phải tạo ra được những sản phẩm chất lượng cao
hơn với giá thành ngày càng giảm. Cạnh tranh luôn mang lại kết quả tốt cho
những doanh nghiệp có tiềm lực, có chiến lược kinh doanh đúng đắn, hiệu
quả. Ngược lại, những doanh nghiệp nào không đáp ứng được nhu cầu thị
trường sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc đua. Vì vậy, cạnh tranh là cách hiệu quả để
tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cạnh tranh giúp điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường.
Khi cung của một loại hàng hóa lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa người bán sẽ
làm cho giá cả thị trường giảm, chỉ những cơ sở kinh doanh nào có đủ khả
năng cải tiến công nghệ - kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá sản
phẩm thì mới có thể duy trì và tồn tại. Do đó, cạnh tranh là nhân tố quan
trọng, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất: kích thích ứng dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất và buộc các chủ thể kinh doanh phải
luôn quan tâm đến việc cải thiện nâng cao chất lượng sản phẩm để không
bị các đối thủ trên thị trường đào thải.
Thứ ba, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp cũng như các quốc gia phải sử
dụng các nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhất. Khi
tham gia thị trường có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp phải cân nhắc khi
sử dụng các nguồn lực vào kinh doanh. Họ phải tính toàn để sử dụng các
nguồn lực này sao cho hợp lý và có hiệu quả nhất. Vì vậy, các nguồn lực
được vận động, chu chuyển hợp để phát huy hết khả năng vốn mang lại
năng suất và chất lượng cao.
Cuối cùng, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán cũng mt loại
hàng hoá, dịch vụ dẫn đến giá cả ngày càng giảm và thúc đẩy năng lực thỏa
mãn nhu cầu xã hội. Theo quy luật cung-cầu, cạnh tranh có khả năng thúc
đẩy các doanh nghiệp phải nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng các
nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Sự lựa chọn tiêu dùng của người
mua là thước đo cho yêu cầu về chất lượng, giá cả và độ phù hợp của một
sản phẩm. Cạnh tranh tác động liên tục đến giá cả của sản phẩm trên thị
trường, buộc các doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt để tìm ra phương án
kinh doanh sao cho chi phí nhỏ, hiệu suất cao, chất lượng tốt để đáp ứng
đúng mong muốn của người tiêu dùng. Vì vậy, trong môi trường có cạnh
tranh, người tiêu dùng trở thành trung tâm quyết định sự sống còn của sản
phẩm trên thị trường, khiến các nhà kinh doanh phải thỏa mãn nhu cầu của
họ.
2. Nền kinh thế cần hạn chế độc quyền
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, độc quyền là sự liên minh giữa các doanh
nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất tiêu dùng một loại hàng
hóa, có quyền định giá cả và thu lợi nhuận độc quyền cao. Ngoài ra, trong
kinh tế học, độc quyền còn được coi là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất
một doanh nghiệpn sản xuất ra sản phẩm, không sản phẩm thay thế
gần. Vậy tại sao nền kinh tế phải hạn chế độc quyền?
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại như thế nào cũng
thường gây ra không ít hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế các do sau:
2.1. Độc quyền kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế khoa học - kỹ
thuật.
Vì khi nắm thế độc quyền, người sản xuất sẽ không quan tâm đến cải
tiến, nâng cao kỹ thuật, công nghệ sản xuất hay phương thức quản nhưng
vẫn thu được lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp độc quyền không giảm giá,
mà họ luôn áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua thấp, thực hiện trao đổi
không ngang giá, hạn chế khối lượng hàng hóa… tạo cung cầu giả về hàng
hóa. Do đó, đối với nền kinh tế, độc quyền sẽ dẫn đếnnh thành giá cả độc
quyền, giá cả lũng đoạn cao, do đó làm ảnh hưởng đến lợi ích cho người tiêu
dùng. Bên cạnh đó, về mặt khoa học - kỹ thuật, các hoạt động nghiên cứu,
phát minh, sáng chế ch được thực hiện đến khi vị thế độc quyền của tổ chức
không bị lung lay. Và sau đó, họ không còn tích cực thực hiện các công việc
đó dù có đủ khả năng về nguồn lực tài chính. Qua đó, ta có thể khẳng định:
độc quyền nếu không được hạn chế có thể gây kìm hãm sự tiến bộ khoa học
- kỹ thuật, và kéo theo cả sự phát triển kinh tế - hội đi xuống.
2.2. Độc quyền nhà nước khi bị chi phối bởi một nhóm lợi ích cục bộ muốn
có chung lợi ích và sẽ làm tăng sự phân hóa giàu nghèo.
Với vị trí thống trị nền kinh tế của mình và mục đích nhận lại lợi nhuận
độc quyền cao, các doanh nghiệp độc quyền có thể bành trướng sang các
lĩnh vực chính trị, xã hội để thực hiện mục đích lợi ích riêng; các doanh
nghiệp này có thể liên minh với một số nhân viên chính phủ để đạt được
mục đích nhóm. Ngoài ra, các doanh nghiệp này còn có thể kết hợp với sức
mạnh thao túng, loại bỏ cách doanh nghiệp mới, vừa nhỏ trở thành độc
quyền nhà nước, dẫn đến chi phối cả quan hệ, đường lối đối nội đối ngoại
của quốc gia.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
Thực trạng hiện nay cho thấy cạnh tranh độc quyền trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm
yếu. Sau đây là một số thực trạng và giải pháp mà nhà nước ta có thể áp
dụng nhằm duy trì cạnh tranh lành mạnh và hạn chế độc quyền.
1. Thực trạng cạnh tranh độc quyền Việt Nam trong ngành điện lc
a) Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh
Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) đã nhận
được gần 400 hồ sơ khiếu nại, trong đó hơn 200 vụ đã được điều tra, xử lý
tính đến cuối năm 2018. Các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh thường
diễn ra dưới nhiều hình thức, theo nhiều dạng khác nhau như: Xâm phạm
thông tin bí mật trong kinh doanh; ép giá; cung cấp thông tin không chính
xác về doanh nghiệp khác; Gian lận trong sổ sách ghi chép …Thông qua xử
cácnh viy, các quan quản đã thu về đóng góp cho ngân sách
nhà nước với tổng số tiền phạt chi phí xử đáng kể. Nếu năm 2007, tổng
số tiền phạt là 85 triệu đồng, thì năm 2008, tổng số tiền phạt đã tăng lên gần
gấp 10 lần (tương đương 805 triệu đồng, đến năm 2016 là 2,114 tỷ đồng).
Trong lĩnh vực năng lượng mặc EVN không còn độc quyền phát điện
nhưng EVN các đơn vị thuộc EVN vẫn đang trung tâm chi phối thị
trường ngành năng lượng. Tính đến hết năm 2016, tổng công suất của h
thống điện Việt Nam 42.135 MW, trong đó, công suất nguồn điện do
EVN các tổng công ty phát điện trực thuộc sở hữu 25.884 MW (chiếm
tỷ lệ 61,4% toàn hệ thống), công suất các nguồn ngoài EVN 16.251 MW
(chiếm 38,6%). Một minh chứng điển hình nữa đó vào năm 2020 cho
nhu cầu về điện giảm nhưng giá điện vẫn tăng từ 1720 đồng/kWh lên
1.864,44 đồng/kWh điều đó trái với quy luật cung cầu trên thị trường (cầu
giảm thì giá sẽ giảm). Do đó trong thị trường năng lượng, EVN có thể coi là
đơn vị có sức mạnh thị trường đáng kể.
b) Thực trạng độc quyền tại Việt Nam
Độc quyền kinh doanh Việt Nam được hình thành bởi biện pháp chính
sách của Nhà nước, được trao cho các tổng công ty nhà nước và các tổng
công ty đó thực hiện kinh doanh độc quyền, bất chấp sự lạc hậu không đổi
mới trong công nghệ, chỉ nhờ vào các rào cản hành chính không cho phép
bất kỳ doanh nghiệp nào khác.
Xăng, dầu, điện,… là các mặt hàng thiết yếu nhưng do không có sự cạnh
tranh nên giá bán hoàn toàn được định giá bởi các doanh nghiệp độc quyền,
xét trong kinh tế học là cầu không co giãn theo giá hay nói cách khác thì sức
mua của thị trường không phụ thuộc vào giá điện. Khi giá điện tăng cao thì
người chịu thiệt sẽ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Việt Nam, việc độc
quyền thị trường đã khiến các công ty với quy nhỏ bị chèn ép. Điều này
dẫn đến không ít doanh nghiệp vừa nhỏ phải phá sản tỷ lệ thất nghiệp
của người lao động tăng tạo ra gánh nặng cho xã hội.
một dụ điển hình cho tình trạng độc quyền đang còn lớn trong một
số lĩnh vực then chốt của Việt Nam đó là độc quyền điện:
Việt nam hiện nay, thị trường điện một thị trường độc quyền, chưa
được thiết lập một cơ chế theo quy luật cung cầu của thị trường. Điện một
lĩnh vực quan trọng của đất nước liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia,
không một nền kinh tế nào thể phát triển không điện. Ngành điện
của Việt Nam tuy đang thay đổi nhưng vẫn chưa thực sự mang tính chất thị
trường và vẫn đang tồn tại sự độc quyền.
Ngành điện Việt Nam chủ yếu do EVN cung cấp, sản lượng của EVN
chiếm khoảng trên 50% lượng điện sản xuất, chiếm 100% về truyền tải
trên 90% về phân phối điện.
Trong việc sản xuất điện, EVN hiện tại đang nắm giữ một loạt các nhà
máy điện kể cả nhiệt điện thủy điện như: nhà máy thủy điện Hòa nh
(2400MW) , nhà máy nhiệt điện Phả Lại (2600MW), Phú Mỹ,…. Một số
nhà máy điện do các công ty PVN TKV làm chủ đầu cũng chỉ tham
gia hỗ trợ cung cấp điện. Bên cạnh đó sự độc quyền còn thể hiện việc EVN
phát triển mạng lưới điện không đồng đều dẫn tới việc phải xây dựng mạng
lưới điện quốc gia 500kV từ Bắc vào Nam. Hquả của việc này dẫn tới các
doanh nghiệp nhân muốn phát triển các nhà máy điện nhưng lại sợ không
thể cạnh tranh phân phối với EVN hoặc bị doanh nghiệp này ép giá không
mua điện.
Trong khâu định giá điện cũng thể hiện sự độc quyền chỗ, vào năm
2016 khi EVN lãi 2600 tỷ đồng thế nhưng lại vẫn tăng giá điện. Điều đó làm
cho chỉ số CPI (chỉ số dùng để đánh giá mức lạm phát) trong năm 2017 tăng
0.07%.Việc tăng giá điện không chỉ không đem lại lợi ích cho Việt Nam
tạo còn là gánh nặng đối với nền kinh tế nước nhà. Việc giá điện tăng cao và
ngày càng tăng làm giảm mức sống của dân xuống dưới mức lẽ ra đã
thể đạt được do tổng chi tiêu cho điện tăng lên tương đối so với thu nhập.
2. Nguyên nhân độc quyền về điện
- Yếu tố lịch sử: trước năm 1990, hầu hết tất cả các ngành điện trên thế
giới đều ngành công nghiệp độc quyền bởi một tập đoàn nhà nước (đa số)
hoặc nhân được tổ chức dưới dạng tích hợp dọc, nghĩa tất cả khâu phát
điện, truyền tải, phân phối bán lẻ đều do một đơn vị duy nhất độc quyền
thực hiện. Việt Nam, ngành điện cũng xuất phát thình công ty điện
lực độc quyền nhà nước theo liên kết dọc.
- Do đặc điểm sản phẩm: do điện đặc tính sản xuất ra đến đâu phải
sử dụng đến đấy cho nên hình của các doanh nghiệp làm về điện theo
hình chuyên môn hóa theo hàng dọc. Nghĩa từ khâu sản xuất cho tới
khâu cung ứng ra thị trường đều do doanh nghiệp tự làm. Việc này sẽ giúp
cho các giai đoạn sản xuất điện được diễn ra liên tục các công tác quản lý
kỹ thuật, công tác điều độ, vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng hệ thống điện là
ưu việt bởi cùng chịu sự điều hành, chi phối của một tổ chức.
- Do các chính sách, sự nhúng tay quá sâu của nhà nước: Năm 1994,
đường dây truyền tải điện Bắc - Nam đi vào hoạt động đã kết nối hệ thống
điện các miền của cả nước thành một hệ thống điện thống nhất trên toàn
quốc. Cùng với đó là việc thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam (nay là
Tập đoàn Điện lực Việt Nam) thực hiện tất cả các chức năng sản xuất,
truyền tải, phân phối bán lẻ điện, nghĩa một doanh nghiệp độc quyền
thực hiện tất cả các khâu, công đoạn của ngành điện. Hay nói cách khác, vị
thế độc quyền nhà nước trong ngành điện được trao cho một doanh nghiệp.
3.
Ảnh hưởng của độc quyền trong ngành điện
a) Đối với người tiêu dùng
- Ảnh hưởng tới ngân sách của hộ gia đình: như đã nói trên việc tăng giá
điện thể làm tăng thêm các khoản chi tiêu của hộ gia đình, từ đó làm cho
mức sống của họ bgiảm. Việc tăng giá điện sẽ làm cho khoản tiền các
hộ gia đình thể sử dụng để chi trả cho các hoạt động ăn uống, giải trí khác
của họ bị giảm xuống. Như đã nói trên vào năm 2016 việc tăng giá điện
mặc dù công ty có lãi đã làm cho chỉ số CPI (chỉ số đo lường lạm phát) tăng
lên 0.07%. Hơn thế nữa việc tăng giá điện còn làm tăng chi phí đầu vào của
các mặt hàng trong giỏ hàng của người dân làm cho điều kiện sống của
người dân giảm xuống.
- Ảnh hưởng tới cuộc sống: từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2016 đã diễn ra tình
trạng luân phiên, tình trạngy không phải hiếm thường xuyên việc cắt
điện thường
xuyên làm
cho
cuộc sống
của
người
dân bị
đảo lộn
lộn, chất lượng cuộc sống bị giảm sút, cắt điện trong thời gian nắng
nóng làm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, đặc biệt người già
trẻ nhỏ; cắt điện luân phiên cả ngày lẫn đêm ảnh hưởng tới việc thi cử
củanhiều học sinh, sinh viên, tình trạng cắt điện kéo dài khiến hoạt động tưới
tiêu, giải hạn đồng ruộng bị ngưng trệ, gây thất bát mùa màng đối với người
nông dân…
b) Đối với các ngành sản xuất
- Độc quyền nhà nước được trao cho doanh nghiệp ngành điện ngành
độc quyền cao khi EVN vừa người mua vừa người bán duy nhất trên thị
trường. Mặc EVN không còn đơn vị duy nhất tham gia sản xuất điện
nhưng EVN vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trên thị trường phát điện, đồng thời
vẫn đơn vị mua buôn duy nhất mua từ các nguồn phát điện là đơn vị
duy nhất bán buôn điện cho các Tổng công ty điện lực các đơn vị bán lẻ
điện. EVN giữ vai trò chính trong việc đảm bảo cung cấp điện cho nền kinh
tế. EVN nhiệm vụ quyết định chiến lược, định hướng chiến lược phát
triển ngành điện, phát triển các dự án điện, cân đối nguồn cung nhu cầu
tiêu thụ trong nước. Với vai trò tuyệt đối trong ngành điện, EVN quyền
quyết định gần như tất cả các vấn đề trong ngành như việc mua điện từ đâu,
giá mua điện… điều đó làm cho các doanh nghiệp tư nhân muốn bước chân
vào ngành điện dường như trở nên khó khăn hơn.
- Tăng chi phí sản xuất: giá điện tăng đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất
đầu vào của doanh nghiệp tăng lên làm cho doanh nghiệp phải đứng trước
2 lựa chọn một tăng giá bán sản phẩm, 2 là cắt giảm bớt nguyên liệu trên
mỗi đơn vị sản phẩm. Điều này khiến cho hầu bao của người tiêu dùng
nhanh hết hơn làm cho họ phải chừng trước các quyết định mua hàng.
Việc tăng giá sẽ khiến cho người tiêu dùng mua hàng ít hơn cũng nghĩa
cầu trên thị trường sẽ giảm các doanh nghiệp cũng thu hẹp quy sản
xuất.
- Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất: việc độc quyền trong ngành điện còn
dẫn đến hệ lụy cắt điện bất chợt luôn phiên, việc này ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Thử tưởng tượng
đang trong quá trình làm đông lạnh thủy sản nhưng bcắt điện thì hàng
này sẽ trở thành phân bón đúng nghĩa vì không đảm bảo chất lượng.
4.
Giải pháp hướng tới duy trì cạnh tranh hạn chế độc quyền trong
ngành điện ở Việt Nam
Với xu hướng phát triển theo chiều sâu sự hội nhập toàn cầu thì việc
cải thiện môi trường cạnh tranh một vấn đề cấp bách. Để duy trì cạnh
tranh lành mạnh hạn chế độc quyền chúng ta thể áp dụng một số giải
pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì những đánh giá khách quan về cạnh tranh. Phải
coi cạnh tranh động lực, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
đổi mới công nghệ. Giảm dần độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước,
xóa bỏ dần các rào cản gia nhập của các thành phần kinh tế nhằm tối đa hóa
giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế. Đồng
thời, thu hút đầu nước ngoài, tận dụng được những tiến bộ về công nghệ
thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển giảm gánh nặng cho ngân
sách quốc gia.
Thứ hai xây dựng các quan chuyên môn để kiểm tra, giám sát các
hành vi liên quan đến cạnh tranh độc quyền. soát, cắt giảm lại độc
quyền trong ngành điện. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ hơn nữa các hành
vi lạm dụng của các công ty lớn. Cần sự tham gia giám sát của nhân dân
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Thứ ba đưa ra các chính sách khuyến khích các nhà đầu mới,
khuyến khích ứng dụng công nghệ mới, các thuật mới; phát triển năng
lượng tái tạo,… nhưng bên cạnh đó cũng cần phải bảo vệ môi trường.
Thứ tái cấu lại ngành điện, tách riêng khâu phân phối sản xuất
điện để đảm bảo tính công bằng minh bạch. Tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp mới tham gia vào ngành điện lực, các doanh nghiệp này không nhất
thiết phải kết nối với mạng lưới điện quốc gia hay bán điện cho EVN.
Thứ năm cần phải xây đào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức v thị trường
điện đặc biệt trong điều kiện thị trường điện đang chuyển dần từ thế độc
quyền sang cạnh tranh.
Thứ sáu cần phải thực hiện lộ trình đưa ngành điện của Việt Nam phát
triển theo hướng cạnh tranh tuân theo quyết định 63/2013/QĐ-TTg của thủ
tướng chính phủ.
Thứ bảy công khai giá điện; tổ chức các hiệp hội giám sát hoạt động
cung cấp sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp ngành điện, đặc biệt đối
với EVN cần sự tham gia của các Hiệp hội ngành chuyên gia độc lập
nhằm đảm các hoạt động của doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường luôn tồn tại những quy luật khách quan và
quy luật cạnh tranh là một quy luật tất yếu trong số đó. Việc cạnh tranh tuy
gây ra những lãng phí không đáng có cho xã hội không chỉ là về tiền của,
nhân công,…. nhưng bù lại những ưu việt của nó đã được nhiều nền kinh tế
trên thế giới công nhận và áp dụng. Mặt khác, so với độc quyền thì cạnh
tranh vẫn đem đến nhiều mặt tốt hơn, đem đến nhiều động lực mới hơn cho
hộii sản xuất đổi mới công nghệ. Những đường lối của Đảng Nhà
Nước đã, đang và sẽ tận dụng được những giá trị mà cạnh tranh đem lại và
khắc phục được những tác động tiêu cực do cạnh tranh đem lại.
Tại Việt Nam, thực tế cho thấy tình trạng độc quyền vẫn còn diễn
ra những chủ yếu ở một số ngành như điện, nước, xăng,…. Nhà nước đã
nhiều chính sách để cải thiện môi trường cạnh tranh ở nước ta. Tuy nhiên
chặng đường để cải thiện mô hình cạnh tranh vẫn còn rất dài và còn nhiều
khó khăn. Trước mắt thì nhà nước ta sẽ phải những chính sách nhằm xóa
bỏ độc quyền trong lĩnh vực năng lượng lĩnh vực quan trọng góp mặt trong
cuộc sống hàng ngày của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác nin
2.
Giáo trình kinh tế học tập 1 (trường đại học Kinh tế Quốc n)
3.
Giáo trình quản trị kinh doanh 1 (trường đại học Kinh tế Quốcn)
4.
Báo cáo thường niên của EVN năm 2016
5.
Báo cáo tổng kết thị trường điện năm 2016 của Trung tâm điều độ hệ thống
điện quốc gia

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề bài: Phân tích mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh
tế thị trường? Vì sao trong nền kinh tế thị trường phải bảo vệ cạnh tranh, hạn
chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn nước ta.

Họ tên sinh viên: Nguyễn Minh Thức Lớp: AUM_QTKD30A
Mã sinh viên: 19230653 Hà Nội 2023 Mục lục
Mục lục ...................................................................................................................... 2
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 4
I. CẠNH TRANH LÀ GÌ? ................................................................................. 4
1. Khái niệm cạnh tranh ..................................................................................... 4
2. Bản chất của cạnh tranh ................................................................................. 4
II. CẦN DUY TRÌ SỰ CẠNH TRANH VÀ HẠN CHẾ ĐỘC QUYỀN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
........................................................... 5
1. Nền kinh tế luôn cần duy trì sự cạnh tranh .................................................... 5
2. Nền kinh thế cần hạn chế độc quyền ............................................................. 6
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM ..................................................... 7
1. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam trong ngành điện lực ....... 7
1.1. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh ............................................. 7
1.2. Thực trạng độc quyền tại Việt Nam ..................................................... 8
2. Nguyên nhân độc quyền về điện.................................................................... 9
3. Ảnh hưởng của độc quyền trong ngành điện ...............................................10
4. Giải pháp hướng tới duy trì cạnh tranh và hạn chế độc quyền trong ngành
điện ở Việt Nam .................................................................................................11
KẾT LUẬN .............................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................13 PHẦN MỞ ĐẦU
Một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường đó
là cạnh tranh. Cạnh tranh thể năng lực phát triển của nền kinh tế thị trường và sự
sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, cạnh tranh vừa có lợi và
vừa có hại, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh vẫn luôn mang lại nhiều tác động tích cực.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, các quốc gia phải chấp nhận những quy luật của nền kinh
tế thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế nhưng bên cạnh
đó, nền kinh tế nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Cạnh
tranh không lành mạnh và tình trạng độc quyền vẫn còn lớn là hai vấn đề lớn, hiện
hữu trong suốt quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu chính là làm thế
nào để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền hiệu
quả. Vì vậy trong bài tiểu luận này, em sẽ chỉ ra khái niệm niệm về cạnh tranh và
tầm quan trọng của việc duy trì sự cạnh tranh và hạn chế độc quyền. Bên cạnh đó,
em cũng sẽ vận dụng thực tiễn đến hai vấn đề chính đã nêu trên của nền kinh tế
Việt Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp mà nhà nước ta có thể áp dụng để cải
thiện tình trạng này trong tương lai và phát triển nền kinh tế thị trường. PHẦN NỘI DUNG I. CẠNH TRANH LÀ GÌ?
“Nền kinh tếlthị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao và ở đó, mọi quan hệ sản
xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường và chịu sự tác động, điều tiết
của các quy luật thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều quy
luật kinh tế điều tiết. Mỗi nước có những mô hình kinh tế thị trường khác
nhau phù hợp với điều kiện của quốc gia đó. Tại Việt Nam thì nền kinh tế là
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
vận hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới
từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, vă minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong nền kinh tế thị trường có một quy luật đóng vai trò quan trọng đó
là cạnh tranh. Vậy thì cạnh tranh là gì?”
1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là quy luật điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh
đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật
cạnh tranh yêu cầu, khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh
doanh, bên cạnh sự hợp tác, luôn phải chấp nhận cạnh tranh.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có
được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó thu được lợi ích tối đa.
2. Bản chất của cạnh tranh
• Là hoạt động giữa các chủ thể cạnh tranh xuất hiện trên thị trường để
giành giật khách hàng: Trong kinh tế học, thị trường là nơi diễn ra sự
trao đổi giữa người bán và người mua của một loại hàng hóa và dịch
vụ cụ thể. Người bán luôn muốn bán được nhiều hàng hóa với mức
giá cao nhất để có thể thu lại được nhiều lợi nhuận, trong khi đó thì
người mua lại có tâm lý muốn mua được nhiều số lượng hàng hóa
nhất có thể với giá càng rẻ càng tốt. Xu hướng này là nguồn gốc cho
sự xuất hiện của cạnh tranh, sự ganh đua gay gắt giữa các chủ thể
kinh doanh trên thị trường để thu hút được nhiều khách hàng hơn.
• Là quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ diễn ra trên thị trường: Luôn
xuất hiện sự ganh đua lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh để giành
ưu thế tốt nhất để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh thường
chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp có cùng lợi ích. Ví dụ, những
doanh nghiệp cùng tìm kiếm thị trường để bán những sản phẩm giống
nhau hay cùng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào giống nhau. II.
CẦN DUY TRÌ SỰ CẠNH TRANH VÀ HẠN CHẾ ĐỘC QUYỀN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

1. Nền kinh tế luôn cần duy trì sự cạnh tranh
Cạnh tranh có thể đem lại ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực. Tuy
nhiên, xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực sau:
Đầu tiên, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội . Cạnh
tranh là sự chạy đua kinh tế, mà những người thắng cuộc cũng phải đòi hỏi
phải có sức mạnh và kỹ năng. Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút
về mình ngày càng nhiều khách hàng nên buộc các nhà sản xuất và kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao
hơn với giá thành ngày càng giảm. Cạnh tranh luôn mang lại kết quả tốt cho
những doanh nghiệp có tiềm lực, có chiến lược kinh doanh đúng đắn, hiệu
quả. Ngược lại, những doanh nghiệp nào không đáp ứng được nhu cầu thị
trường sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc đua. Vì vậy, cạnh tranh là cách hiệu quả để
tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cạnh tranh giúp điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường.
Khi cung của một loại hàng hóa lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa người bán sẽ
làm cho giá cả thị trường giảm, chỉ những cơ sở kinh doanh nào có đủ khả
năng cải tiến công nghệ - kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá sản
phẩm thì mới có thể duy trì và tồn tại. Do đó, cạnh tranh là nhân tố quan
trọng, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất: kích thích ứng dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất và buộc các chủ thể kinh doanh phải
luôn quan tâm đến việc cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm để không
bị các đối thủ trên thị trường đào thải.
Thứ ba, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp cũng như các quốc gia phải sử
dụng các nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhất. Khi
tham gia thị trường có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp phải cân nhắc khi
sử dụng các nguồn lực vào kinh doanh. Họ phải tính toàn để sử dụng các
nguồn lực này sao cho hợp lý và có hiệu quả nhất. Vì vậy, các nguồn lực
được vận động, chu chuyển hợp lý để phát huy hết khả năng vốn có mang lại
năng suất và chất lượng cao.
Cuối cùng, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán cũng một loại
hàng hoá, dịch vụ dẫn đến giá cả ngày càng giảm và thúc đẩy năng lực thỏa
mãn nhu cầu xã hội. Theo quy luật cung-cầu, cạnh tranh có khả năng thúc
đẩy các doanh nghiệp phải nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng các
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Sự lựa chọn và tiêu dùng của người
mua là thước đo cho yêu cầu về chất lượng, giá cả và độ phù hợp của một
sản phẩm. Cạnh tranh tác động liên tục đến giá cả của sản phẩm trên thị
trường, buộc các doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt để tìm ra phương án
kinh doanh sao cho chi phí nhỏ, hiệu suất cao, chất lượng tốt để đáp ứng
đúng mong muốn của người tiêu dùng. Vì vậy, trong môi trường có cạnh
tranh, người tiêu dùng trở thành trung tâm quyết định sự sống còn của sản
phẩm trên thị trường, khiến các nhà kinh doanh phải thỏa mãn nhu cầu của họ.
2. Nền kinh thế cần hạn chế độc quyền
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, độc quyền là sự liên minh giữa các doanh
nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu dùng một loại hàng
hóa, có quyền định giá cả và thu lợi nhuận độc quyền cao. Ngoài ra, trong
kinh tế học, độc quyền còn được coi là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất
một doanh nghiệp bán và sản xuất ra sản phẩm, không có sản phẩm thay thế
gần. Vậy tại sao nền kinh tế phải hạn chế độc quyền?
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại như thế nào cũng
thường gây ra không ít hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế vì các lý do sau:
2.1. Độc quyền kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và khoa học - kỹ thuật.
Vì khi nắm thế độc quyền, người sản xuất sẽ không quan tâm đến cải
tiến, nâng cao kỹ thuật, công nghệ sản xuất hay phương thức quản lý nhưng
vẫn thu được lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp độc quyền không giảm giá,
mà họ luôn áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua thấp, thực hiện trao đổi
không ngang giá, hạn chế khối lượng hàng hóa… tạo cung cầu giả về hàng
hóa. Do đó, đối với nền kinh tế, độc quyền sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc
quyền, giá cả lũng đoạn cao, do đó làm ảnh hưởng đến lợi ích cho người tiêu
dùng. Bên cạnh đó, về mặt khoa học - kỹ thuật, các hoạt động nghiên cứu,
phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện đến khi vị thế độc quyền của tổ chức
không bị lung lay. Và sau đó, họ không còn tích cực thực hiện các công việc
đó dù có đủ khả năng về nguồn lực tài chính. Qua đó, ta có thể khẳng định:
độc quyền nếu không được hạn chế có thể gây kìm hãm sự tiến bộ khoa học
- kỹ thuật, và kéo theo cả sự phát triển kinh tế - xã hội đi xuống.
2.2. Độc quyền nhà nước khi bị chi phối bởi một nhóm lợi ích cục bộ muốn
có chung lợi ích và sẽ làm tăng sự phân hóa giàu nghèo.

Với vị trí thống trị nền kinh tế của mình và mục đích nhận lại lợi nhuận
độc quyền cao, các doanh nghiệp độc quyền có thể bành trướng sang các
lĩnh vực chính trị, xã hội để thực hiện mục đích lợi ích riêng; các doanh
nghiệp này có thể liên minh với một số nhân viên chính phủ để đạt được
mục đích nhóm. Ngoài ra, các doanh nghiệp này còn có thể kết hợp với sức
mạnh thao túng, loại bỏ cách doanh nghiệp mới, vừa và nhỏ và trở thành độc
quyền nhà nước, dẫn đến chi phối cả quan hệ, đường lối đối nội và đối ngoại của quốc gia. III.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Thực trạng hiện nay cho thấy cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm
yếu. Sau đây là một số thực trạng và giải pháp mà nhà nước ta có thể áp
dụng nhằm duy trì cạnh tranh lành mạnh và hạn chế độc quyền.
1. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam trong ngành điện lực
a) Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh
Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) đã nhận
được gần 400 hồ sơ khiếu nại, trong đó hơn 200 vụ đã được điều tra, xử lý
tính đến cuối năm 2018. Các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh thường
diễn ra dưới nhiều hình thức, theo nhiều dạng khác nhau như: Xâm phạm
thông tin bí mật trong kinh doanh; ép giá; cung cấp thông tin không chính
xác về doanh nghiệp khác; Gian lận trong sổ sách ghi chép …Thông qua xử
lý các hành vi này, các cơ quan quản lý đã thu về và đóng góp cho ngân sách
nhà nước với tổng số tiền phạt và chi phí xử lý đáng kể. Nếu năm 2007, tổng
số tiền phạt là 85 triệu đồng, thì năm 2008, tổng số tiền phạt đã tăng lên gần
gấp 10 lần (tương đương 805 triệu đồng, đến năm 2016 là 2,114 tỷ đồng).
Trong lĩnh vực năng lượng mặc dù EVN không còn độc quyền phát điện
nhưng EVN và các đơn vị thuộc EVN vẫn đang là trung tâm chi phối thị
trường ngành năng lượng. Tính đến hết năm 2016, tổng công suất của hệ
thống điện Việt Nam là 42.135 MW, trong đó, công suất nguồn điện do
EVN và các tổng công ty phát điện trực thuộc sở hữu là 25.884 MW (chiếm
tỷ lệ 61,4% toàn hệ thống), công suất các nguồn ngoài EVN là 16.251 MW
(chiếm 38,6%). Một minh chứng điển hình nữa đó là vào năm 2020 dù cho
nhu cầu về điện giảm nhưng giá điện vẫn tăng từ 1720 đồng/kWh lên
1.864,44 đồng/kWh điều đó trái với quy luật cung cầu trên thị trường (cầu
giảm thì giá sẽ giảm). Do đó trong thị trường năng lượng, EVN có thể coi là
đơn vị có sức mạnh thị trường đáng kể.
b) Thực trạng độc quyền tại Việt Nam
Độc quyền kinh doanh ở Việt Nam được hình thành bởi biện pháp chính
sách của Nhà nước, được trao cho các tổng công ty nhà nước và các tổng
công ty đó thực hiện kinh doanh độc quyền, bất chấp sự lạc hậu không đổi
mới trong công nghệ, chỉ nhờ vào các rào cản hành chính không cho phép
bất kỳ doanh nghiệp nào khác.
Xăng, dầu, điện,… là các mặt hàng thiết yếu nhưng do không có sự cạnh
tranh nên giá bán hoàn toàn được định giá bởi các doanh nghiệp độc quyền,
xét trong kinh tế học là cầu không co giãn theo giá hay nói cách khác thì sức
mua của thị trường không phụ thuộc vào giá điện. Khi giá điện tăng cao thì
người chịu thiệt sẽ là người tiêu dùng. Bên cạnh đó, ở Việt Nam, việc độc
quyền thị trường đã khiến các công ty với quy mô nhỏ bị chèn ép. Điều này
dẫn đến không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phá sản và tỷ lệ thất nghiệp
của người lao động tăng tạo ra gánh nặng cho xã hội.
Và một ví dụ điển hình cho tình trạng độc quyền đang còn lớn trong một
số lĩnh vực then chốt của Việt Nam đó là độc quyền điện:
Ở Việt nam hiện nay, thị trường điện là một thị trường độc quyền, chưa
được thiết lập một cơ chế theo quy luật cung cầu của thị trường. Điện là một
lĩnh vực quan trọng của đất nước liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia,
không một nền kinh tế nào có thể phát triển mà không có điện. Ngành điện
của Việt Nam tuy đang thay đổi nhưng vẫn chưa thực sự mang tính chất thị
trường và vẫn đang tồn tại sự độc quyền.
Ngành điện Việt Nam chủ yếu do EVN cung cấp, sản lượng của EVN
chiếm khoảng trên 50% lượng điện sản xuất, chiếm 100% về truyền tải và
trên 90% về phân phối điện.
Trong việc sản xuất điện, EVN hiện tại đang nắm giữ một loạt các nhà
máy điện kể cả nhiệt điện và thủy điện như: nhà máy thủy điện Hòa Bình
(2400MW) , nhà máy nhiệt điện Phả Lại (2600MW), Phú Mỹ,…. Một số
nhà máy điện do các công ty PVN và TKV làm chủ đầu tư cũng chỉ là tham
gia hỗ trợ cung cấp điện. Bên cạnh đó sự độc quyền còn thể hiện ở việc EVN
phát triển mạng lưới điện không đồng đều dẫn tới việc phải xây dựng mạng
lưới điện quốc gia 500kV từ Bắc vào Nam. Hệ quả của việc này dẫn tới các
doanh nghiệp tư nhân muốn phát triển các nhà máy điện nhưng lại sợ không
thể cạnh tranh phân phối với EVN hoặc bị doanh nghiệp này ép giá và không mua điện.
Trong khâu định giá điện cũng thể hiện sự độc quyền ở chỗ, vào năm
2016 khi EVN lãi 2600 tỷ đồng thế nhưng lại vẫn tăng giá điện. Điều đó làm
cho chỉ số CPI (chỉ số dùng để đánh giá mức lạm phát) trong năm 2017 tăng
0.07%.Việc tăng giá điện không chỉ không đem lại lợi ích cho Việt Nam mà
tạo còn là gánh nặng đối với nền kinh tế nước nhà. Việc giá điện tăng cao và
ngày càng tăng làm giảm mức sống của dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có
thể đạt được do tổng chi tiêu cho điện tăng lên tương đối so với thu nhập.
2. Nguyên nhân độc quyền về điện
- Yếu tố lịch sử: trước năm 1990, hầu hết tất cả các ngành điện trên thế
giới đều là ngành công nghiệp độc quyền bởi một tập đoàn nhà nước (đa số)
hoặc tư nhân được tổ chức dưới dạng tích hợp dọc, nghĩa là tất cả khâu phát
điện, truyền tải, phân phối và bán lẻ đều do một đơn vị duy nhất độc quyền
thực hiện. Ở Việt Nam, ngành điện cũng xuất phát từ mô hình công ty điện
lực độc quyền nhà nước theo liên kết dọc.
- Do đặc điểm sản phẩm: do điện có đặc tính là sản xuất ra đến đâu phải
sử dụng đến đấy cho nên mô hình của các doanh nghiệp làm về điện là theo
mô hình chuyên môn hóa theo hàng dọc. Nghĩa là từ khâu sản xuất cho tới
khâu cung ứng ra thị trường đều do doanh nghiệp tự làm. Việc này sẽ giúp
cho các giai đoạn sản xuất điện được diễn ra liên tục và các công tác quản lý
kỹ thuật, công tác điều độ, vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng hệ thống điện là
ưu việt bởi cùng chịu sự điều hành, chi phối của một tổ chức.
- Do các chính sách, sự nhúng tay quá sâu của nhà nước: Năm 1994,
đường dây truyền tải điện Bắc - Nam đi vào hoạt động đã kết nối hệ thống
điện các miền của cả nước thành một hệ thống điện thống nhất trên toàn
quốc. Cùng với đó là việc thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam (nay là
Tập đoàn Điện lực Việt Nam) thực hiện tất cả các chức năng sản xuất,
truyền tải, phân phối và bán lẻ điện, nghĩa là một doanh nghiệp độc quyền
thực hiện tất cả các khâu, công đoạn của ngành điện. Hay nói cách khác, vị
thế độc quyền nhà nước trong ngành điện được trao cho một doanh nghiệp.
3. Ảnh hưởng của độc quyền trong ngành điện
a) Đối với người tiêu dùng
- Ảnh hưởng tới ngân sách của hộ gia đình: như đã nói ở trên việc tăng giá
điện có thể làm tăng thêm các khoản chi tiêu của hộ gia đình, từ đó làm cho
mức sống của họ bị giảm. Việc tăng giá điện sẽ làm cho khoản tiền mà các
hộ gia đình có thể sử dụng để chi trả cho các hoạt động ăn uống, giải trí khác
của họ bị giảm xuống. Như đã nói ở trên vào năm 2016 việc tăng giá điện
mặc dù công ty có lãi đã làm cho chỉ số CPI (chỉ số đo lường lạm phát) tăng
lên 0.07%. Hơn thế nữa việc tăng giá điện còn làm tăng chi phí đầu vào của
các mặt hàng trong giỏ hàng của người dân làm cho điều kiện sống của người dân giảm xuống.
- Ảnh hưởng tới cuộc sống: từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2016 đã diễn ra tình
trạng luân phiên, tình trạng này không phải là hiếm và thường xuyên việc cắt
điện thường xuyên làm cho cuộc sống của người dân bị đảo lộn
lộn, chất lượng cuộc sống bị giảm sút, cắt điện trong thời gian nắng
nóng làm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, đặc biệt là người già và
trẻ nhỏ; cắt điện luân phiên cả ngày lẫn đêm ảnh hưởng tới việc thi cử
củanhiều học sinh, sinh viên, tình trạng cắt điện kéo dài khiến hoạt động tưới
tiêu, giải hạn đồng ruộng bị ngưng trệ, gây thất bát mùa màng đối với người nông dân…
b) Đối với các ngành sản xuất
- Độc quyền nhà nước được trao cho doanh nghiệp và ngành điện là ngành
độc quyền cao khi EVN vừa là người mua vừa là người bán duy nhất trên thị
trường. Mặc dù EVN không còn là đơn vị duy nhất tham gia sản xuất điện
nhưng EVN vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trên thị trường phát điện, đồng thời
vẫn là đơn vị mua buôn duy nhất mua từ các nguồn phát điện và là đơn vị
duy nhất bán buôn điện cho các Tổng công ty điện lực và các đơn vị bán lẻ
điện. EVN giữ vai trò chính trong việc đảm bảo cung cấp điện cho nền kinh
tế. EVN có nhiệm vụ quyết định chiến lược, định hướng chiến lược phát
triển ngành điện, phát triển các dự án điện, cân đối nguồn cung và nhu cầu
tiêu thụ trong nước. Với vai trò tuyệt đối trong ngành điện, EVN có quyền
quyết định gần như tất cả các vấn đề trong ngành như việc mua điện từ đâu,
giá mua điện… điều đó làm cho các doanh nghiệp tư nhân muốn bước chân
vào ngành điện dường như trở nên khó khăn hơn.
- Tăng chi phí sản xuất: giá điện tăng đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất
đầu vào của doanh nghiệp tăng lên và làm cho doanh nghiệp phải đứng trước
2 lựa chọn một là tăng giá bán sản phẩm, 2 là cắt giảm bớt nguyên liệu trên
mỗi đơn vị sản phẩm. Điều này khiến cho hầu bao của người tiêu dùng
nhanh hết hơn và làm cho họ phải dè chừng trước các quyết định mua hàng.
Việc tăng giá sẽ khiến cho người tiêu dùng mua hàng ít hơn cũng có nghĩa
cầu trên thị trường sẽ giảm và các doanh nghiệp cũng thu hẹp quy mô sản xuất.
- Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất: việc độc quyền trong ngành điện còn
dẫn đến hệ lụy cắt điện bất chợt và luôn phiên, việc này ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Thử tưởng tượng
đang trong quá trình làm đông lạnh thủy sản nhưng bị cắt điện thì lô hàng
này sẽ trở thành phân bón đúng nghĩa vì không đảm bảo chất lượng.
4. Giải pháp hướng tới duy trì cạnh tranh và hạn chế độc quyền trong
ngành điện ở Việt Nam
Với xu hướng phát triển theo chiều sâu và sự hội nhập toàn cầu thì việc
cải thiện môi trường cạnh tranh là một vấn đề cấp bách. Để duy trì cạnh
tranh lành mạnh và hạn chế độc quyền chúng ta có thể áp dụng một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì những đánh giá khách quan về cạnh tranh. Phải
coi cạnh tranh là động lực, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và
đổi mới công nghệ. Giảm dần độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước,
xóa bỏ dần các rào cản gia nhập của các thành phần kinh tế nhằm tối đa hóa
giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế. Đồng
thời, thu hút đầu tư nước ngoài, tận dụng được những tiến bộ về công nghệ
thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển và giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Thứ hai xây dựng các cơ quan chuyên môn để kiểm tra, giám sát các
hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát, cắt giảm lại độc
quyền trong ngành điện. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ hơn nữa các hành
vi lạm dụng của các công ty lớn. Cần có sự tham gia giám sát của nhân dân
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Thứ ba là đưa ra các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư mới,
khuyến khích ứng dụng công nghệ mới, các kĩ thuật mới; phát triển năng
lượng tái tạo,… nhưng bên cạnh đó cũng cần phải bảo vệ môi trường.
Thứ tư tái cơ cấu lại ngành điện, tách riêng khâu phân phối và sản xuất
điện để đảm bảo tính công bằng minh bạch. Tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp mới tham gia vào ngành điện lực, các doanh nghiệp này không nhất
thiết phải kết nối với mạng lưới điện quốc gia hay bán điện cho EVN.
Thứ năm cần phải xây đào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức về thị trường
điện đặc biệt trong điều kiện thị trường điện đang chuyển dần từ thế độc quyền sang cạnh tranh.
Thứ sáu cần phải thực hiện lộ trình đưa ngành điện của Việt Nam phát
triển theo hướng cạnh tranh tuân theo quyết định 63/2013/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ.
Thứ bảy công khai giá điện; tổ chức các hiệp hội giám sát hoạt động
cung cấp sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp ngành điện, đặc biệt đối
với EVN cần có sự tham gia của các Hiệp hội ngành và chuyên gia độc lập
nhằm đảm các hoạt động của doanh nghiệp. KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường luôn tồn tại những quy luật khách quan và
quy luật cạnh tranh là một quy luật tất yếu trong số đó. Việc cạnh tranh tuy
gây ra những lãng phí không đáng có cho xã hội không chỉ là về tiền của,
nhân công,…. nhưng bù lại những ưu việt của nó đã được nhiều nền kinh tế
trên thế giới công nhận và áp dụng. Mặt khác, so với độc quyền thì cạnh
tranh vẫn đem đến nhiều mặt tốt hơn, đem đến nhiều động lực mới hơn cho
xã hội tái sản xuất và đổi mới công nghệ. Những đường lối của Đảng và Nhà
Nước đã, đang và sẽ tận dụng được những giá trị mà cạnh tranh đem lại và
khắc phục được những tác động tiêu cực do cạnh tranh đem lại.
Tại Việt Nam, thực tế cho thấy tình trạng độc quyền vẫn còn diễn
ra những chủ yếu ở một số ngành như điện, nước, xăng,…. Nhà nước đã có
nhiều chính sách để cải thiện môi trường cạnh tranh ở nước ta. Tuy nhiên
chặng đường để cải thiện mô hình cạnh tranh vẫn còn rất dài và còn nhiều
khó khăn. Trước mắt thì nhà nước ta sẽ phải có những chính sách nhằm xóa
bỏ độc quyền trong lĩnh vực năng lượng – lĩnh vực quan trọng góp mặt trong
cuộc sống hàng ngày của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin
2. Giáo trình kinh tế học tập 1 (trường đại học Kinh tế Quốc dân)
3. Giáo trình quản trị kinh doanh 1 (trường đại học Kinh tế Quốc dân)
4. Báo cáo thường niên của EVN năm 2016
5. Báo cáo tổng kết thị trường điện năm 2016 của Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia