Tiểu luận môn Nhập môn Logic đề tài "So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa logic hình thức và logic biện chứng"

Tiểu luận môn Nhập môn Logic đề tài "So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa logic hình thức và logic biện chứng" của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|37054152
lOMoARcPSD|37054152
Mc Lc
Phần 1 ............................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1.1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 1
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
1.4. Bố cục đề tài ........................................................................................................ 2
Chương 1........................................................................................................................ 2
SỰ GIỐNG NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC V LOGIC BIỆN
CHỨNG2.1.1. Logic hình thức và logic biện chứng đều phản ánh thế giới khách
quan ............................................................................................................................... 2
nhưng với góc độ và thứ bặc khác nhau ................................................................. 2
2.1.2. Logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau ............................... 4
Chương 2........................................................................................................................ 4
SỰ KHC NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC V LOGIC BIỆN CHỨNG ...... 4
2.2.1. Về đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 4
2.2.2. Về các quy luật ................................................................................................ 5
2.2.3. Về các phương pháp nghiên cứu.................................................................... 6
2.2.4. Về khách thể nghiên cứu ................................................................................ 8
2.2.5. Về nhiệm vụ của nhà logic học ....................................................................... 8
2.2.6. Về vai trò của công cụ logic ............................................................................ 9
2.2.7. Về phạm vi ứng dụng .................................................................................... 10
2.2.8 Về ý nghĩa phương pháp luận ....................................................................... 10
Chương 3...................................................................................................................... 11
ỨNG DNG THỰC TẾ V LIÊN HỆ THỰC TIỄN LOGIC HỌC TRÊN ........ 11
THẾ GIỚI V Ở VIỆT NAM ................................................................................... 11
2.3.1 Ứng dụng thực tế của logic học ..................................................................... 11
2.3.1.1. Logic toán và cơ sở toán học ......................................................................... 11
2.3.1.2. Logic hỗn hợp trong kinh doanh đầu tư ...................................................... 12
2.3.2. Thực tiễn logic học trên thế giới .................................................................. 13
2.3.3. Thực tiễn logic học tại việt nam ................................................................... 14
2.3.3.1 Logic học và các cột móc lịch sử tại Việt Nam ............................................. 14
2.3.3.2. Logic học trên giảng đường Việt Nam ......................................................... 14
lOMoARcPSD|37054152
DANH MC TI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 16
lOMoARcPSD|37054152
Phần 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển toàn diện, sự phát triển về một con
người về một nhân thức và tư duy cũ ngày công hoàn thiên làm Tư duy am người ngày
càng được mở rộng vùng chắc làm Nhiều chuyên gia mới cáu logic học ra đời: logic
kiến thiết, logic đa tri, logic me, logic hình thái, vv... Sự phát triển đó tâm cho logic học
ngày càng thêm phong phú, mở ra những khnăng mới trong việc ứng dụng logic học
vào các ngành khoa học và đời sống.
Cũng như mọi ngành khoa học khác, logic học lịch sử phần ngành hợp ngành
Trong bối cảnh hiện đại, logic học được thành hai lĩnh vực chính, đó logic học hình
thức logic học biện chứng Cả hai môn logic này đối nghiên cứu về quy luật, hình
thức phương pháp của duy, nhưng mỗi môn học lại nghiên cứu những mặt khác
nhau với những góc độ và phương thức khác nhau.
Nếu như logic hình thức nghiên cứu những hình thức và quy luật tư duy phản ảnh sự
vật trong trạng thái tĩnh, trong sự ổn định tương đối của chúng, thì logic hiện chúng lại
nghiên cứu những hình thức và quy luật của tư duy phản ánh sự vận động và phát triển
của thế giới khách quan.
Chúng ta thấy tầm quan trọng của logic trong cuộc sống như thế nào? Nhưng đừng
nhầm lẫn giữa hai môn logic đã đề cập ở trên dẫn đến sự vận dụng các quy luật vào cuộc
sống trở nên khó khăn vậy, trong đề tài So sánh sự giống nhau khác nhau giữa
logic hình thức logic biện chứng sau đây sẽ giúp các bạn hiểu sử dụng hiệu
quả logic học.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: m hiểu và góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về đối tượng và
đặc điểm, quá trình vận dụng vào thực tiễn của logic hình thức logic biện chứng.
Trên sở so sánh sự giống nhau, khác nhau để đối chiếu, tổng kết những thành tựu,
những hạn chế, rút ra những kinh nghiệm về áp dụng logic học trong mỗi người.
lOMoARcPSD|37054152
Nhiệm vụ: Để đạt được những mục tiêu trên tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ
cụ thể như sau:
Trình bày có hệ thống nhận thức, quan điểm đúng đắn nội dung, đặc điểm của
hai hình thức logic.
Tổng hợp, đánh giá, so sánh những thành tựu những hạn chế của yếu tố con
người trong quá trình áp dụng logic trong cuộc sống hiện nay.
Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn cuộc sống về phát triển những kỹ năng
sử dụng đến logic trong thời đại hiện nay.
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm hiểu, phân tích và tổng hợp.
1.4. Bố cục đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia
thành 3 chương.
Chương 1
SỰ GIỐNG NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG.
Chương 2
SỰ KHÁC NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG.
Chương 3
VẬN DỤNG LOGIC HỌC VÀO THỰC TIỄN.
Phần 2 NỘI DUNG
Chương 1
SỰ GIỐNG NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC V LOGIC BIỆN CHỨNG
2.1.1. Logic hình thức và logic biện chứng đều phản ánh thế giới khách quan
nhưng với góc độ và thứ bặc khác nhau
Logic hình thức logic biện chứng đều nhằm mục đích phản ánh thế giới khách
quan và giúp ta đưa ra các luận điểm và kết luận hợp lý. Tuy nhiên, chúng có góc độ và
thứ bậc khác nhau.
lOMoARcPSD| 37054152
Logic hình thức (formal logic) là hệ thống các quy tắc và nguyên tắc cơ bản để đánh
giá tính chính xác của các luận điểm, dù đó có liên quan đến thực tế hay không. Nó giúp
xác định tính đúng đắn của các biểu thức logic bằng cách phân tích cấu trúc hình thức
của chúng, không cần phải quan tâm đến nội dung hay ý nghĩa của chúng. dụ,
nếu chúng ta biết rằng "tất cả con chó đều bốn chân" "Milu một con chó", thì
chúng ta thể kết luận rằng "Milu bốn chân" đó một kết quả hợp lệ của các
quy tắc hình thức.
Logic biện chứng (dialectical logic), đối với đa số các trường hợp, tập trung vào việc
áp dụng các quy tắc và nguyên tắc logic vào các vấn đề có liên quan đến thực tế, để tìm
ra các giải pháp luận điểm hợp lý. tập trung vào quá trình tranh luận chứng
minh, tạo ra một hệ thống nhận thức phản ánh tính khách quan của thế giới.
dụ, khi tranh luận về việc có nên hay không nên tăng thuế VAT, các luận điểm và chứng
cứ sẽ được sử dụng để đưa ra kết luận hợp lý về chủ đề này.
vậy, mặc cả hai hệ thống đều nhằm mục đích phản ánh thế giới khách quan,
chúng có góc độ và thứ bậc khác nhau. Logic hình thức tập trung vào tính chính xác của
các biểu thức logic, trong khi logic biện chứng tập trung vào việc áp dụng các quy tắc
và nguyên tắc logic vào các vấn đề thực tế để đưa ra các kết luận hợp lý.
Về góc độ, logic hình thức tập trung vào cấu trúc logic của một luận điểm, bao gồm
các quy tắc, nguyên tắc luật suy ra. đánh giá tính đúng đắn của một luận điểm
dựa trên cấu trúc logic của nó, không cần quan tâm đến các bằng chứng cụ thể để
chứng minh tính đúng đắn đó. dụ, nếu một luận điểm được sắp xếp theo cấu trúc
logic đúng, nhưng lại dựa trên các giả định sai, thì nó vẫn thể được coi là đúng theo
quan điểm của logic hình thức.
Trong khi đó, logic biện chứng tập trung vào các bằng chứng cụ thể để chứng minh
tính đúng đắn của một luận điểm. Nó yêu cầu các luận điểm phải được chứng minh bằng
các bằng chứng hợp lý và khả thi, các luận điểm này phải liên kết hợp với các
luận điểm khác. dụ, một luận điểm có thể được coi là sai nếu nó dựa trên các giả định
sai hoặc không có bằng chứng hợp để chứng minh tính đúng đắn của nó.
Về thứ bậc, logic biện chứng được coi một hệ thống luận cao hơn so với logic
hình thức.yêu cầu các luận điểm phải có tính khả thi và hợp lý, cũng như các bằng
chứng hợp để chứng minh tính đúng đắn của chúng. Điều y giúp tạo ra một hệ
lOMoARcPSD|37054152
thống luận toàn diện hơn, đảm bảo tính khả thi hợp của các luận điểm. Trong
khi đó, logic hình thức tập trung vào cấu trúc logic của một luận điểm và tính chất
chủ yếu thuật toán. được sử dụng rộng i trong toán học khoa học y tính,
và thường được xem là một phần của logic biện chứng.
2.1.2. Logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau
Logic hình thức cung cấp cho chúng ta một cách tiếp cận tập trung vào cấu trúc logic
của các luận điểm. đánh giá tính đúng đắn của một luận điểm bằng cách kiểm tra
tính hợp logic của cấu trúc đó. Nhưng logic hình thức không đánh giá tính đúng
đắn của các giả định hay bằng chứng cụ thể một luận điểm dựa trên. Logic biện
chứng cung cấp cho chúng ta một phương pháp đánh giá tính đúng đắn của các luận
điểm dựa trên các bằng chứng cụ thể và liên kết giữa các luận điểm. yêu cầu các luận
điểm phải tính khả thi hợp được chứng minh bằng các bằng chứng hợp lý.
Tuy nhiên, logic biện chứng có thể bỏ sót các giả định logic của các luận điểm.
Vì vậy, khi sử dụng cả hai phương pháp này, chúng ta có thể đánh giá tính đúng đắn
của một luận điểm từ các góc độ khác nhau. Logic hình thức có thể giúp chúng ta kiểm
tra tính logic của một luận điểm, trong khi logic biện chứng giúp chúng ta xác định tính
khả thi và hợp của nó. Khi kết hợp cả hai phương pháp, chúng ta có thể đánh giá tính
đúng đắn của một luận điểm một cách toàn diện hơn và chính xác hơn.
Chương 2
SỰ KHC NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC V LOGIC BIỆN CHỨNG
2.2.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của logic học là những hình thức, những quy tắc, quy luật chi
phối duy trong quá trình phản ánh hiện thực. Hình thức luôn gắn liền với nội dung
hay nói cách khác không hình thức nào lại không nội dung. Hình thức của
tư duy cũng không ngoại lệ, tuy nhiên cái đặc thù ở hình thức của tư duy là nó không
nội dung tự thân khai thác nội dung từ bên ngoài (phản ánh thế giới khách quan);
nói cách khác, đối tượng phản ánh (thế giới khách quan) quy định nội dung của hình
thức của duy. Duyên nghiệp nào thì nghiệp quả vậy. Gắn với môi trường sống
năng lực phản ánh khác nhau thì sự tinh tế trong nội dung phản ánh cũng như sự chặt
chẽ trong kết cấu của tư duy mỗi người có sự khác nhau nhất định. Thậm chí với tư duy
lOMoARcPSD|37054152
của hai người bất kỳ nào thì ta cũng có thể nhận thấy sự khác biệt nhất định về các hình
thức (ý niệm, khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận) và quy tắc tư duy. Bởi vậy nói
như Ayn Rand (1905-1982): “Sự khác biệt giữa trạng thái tinh thần của một đứa
của bạn nằm số lượng những thể hợp nhất khái niệm trí óc của bạn thể thực
hiện được” hay nói như nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn (1947): “Hãy cho
tôi biết bạn suy nghĩ bằng những phạm trù nào, tôi sẽ nói bạn là người như thế nào”.
Xét các đối ợng trong không-thời gian rộng hơn thì ta sẽ thấy hai loại hình
duy (tư duy hình thức và duy biện chứng) và giữa chúng có sự khác biệt sâu sắc trong
kết cấu duy. “Bồ t sợ nhân, chúng sinh squả“. Khi nghiên cứu cấu trúc duy
phổ biến (tư duy hình thức) của chúng sinh thì tất yếu ta sẽ khái quát nên những hình
thức (như khái niệm, phán đoán, suy luận) cùng với những quy tắc, quy luật liên kết
giữa chúng (đối tượng nghiên cứu của logic hình thức). Khi nghiên cứu cấu trúc tư duy
của những người minh triết, những người tạo ra bước ngoặt tư tưởng thúc đẩy văn minh
nhân loại (như Lão Tử, Heraclitus, Socrates, Plato, Kant, Hegel, Marx,…) thì ta sẽ khái
quát lên được những hình thức (như phạm trù, mâu thuẫn, chuyển hóa…) cùng với
những quy tắc, quy luật biện chứng về sự hình thành, biến đổi, phát triển của chúng (đối
tượng nghiên cứu của logic biện chứng). Tạo Hóa vốn không phân biệt giữa cái gọi
Bồ Tát và chúng sinh; đó vốn chỉ là lý lẽ của con người trong quá trình định vị bản thân
trên đường đời (đồng hành). Do đó, hai loại nh tư duy này đều tồn tại ở trong mỗi con
người, chẳng qua mỗi người thường thiên về kiểu duy nào n. Trong quá trình
định vị, người coi trọng “quả” sẽ thiên về duy hình thức; người coi trọng “nhân” sẽ
thiên về tư duy biện chứng khi phản ánh mối liên hệ nhân quả định vị của bản thân ta.
2.2.2. Về các quy luật
Các quy luật bản của logic hình thức là quy luật đồng nhất , quy luật cấm mâu
thuẫn, quy luật bài chung quy luật lý do đầy đủ. Bốn quy luật phản ánh những mối
liên hệ xác định của các vật, hiện tượng trong thế giới khách quan có ý nghĩa phổ biến
đối với mọi suy nghĩ của con người, thể hiện những yêu cầu về tính chính xác của
hình thức duy. Nếu không tuân theo những yêu cầu, quy tắc, quy luật đó, duy sẽ
phạm lỗi logic không thể đạt tới tri thức chủ thực. Đồng thời, giúp con người nâng
cao trình độ duy, n luyện khả năng duylogic, bảo đảm cho duy đạt độ chính
xác, chặt chẽ, nhất quán, có căn cứ và không mâu thuẫn.
lOMoARcPSD|37054152
Những quy luật logic học hiện chứng đó là quy luật những sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập,
quy luật phủ định của phủ định. Đây là những quy luật phát triển của tư duy từ cái bên
ngoài đi vào cái bên trong, từ hiện tượng đi tới cái bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến
bản chất sâu sắc hơn, từ trực tiếp đến gián tiếp, từ trừu tượng đến cụ thể, từ chân
tương đối đến chân lý tuyệt đối.
2.2.3. Về các phương pháp nghiên cứu
Logic hình thức chỉ nghiên cứu khía cạnh ổn định về chất (tính đồng nhất trừu tượng)
của tư tưởng, bỏ qua sự biến đổi và phát triển của các hình thức tư duy. Logic hình thức
không chú ý tới nội dung phản ánh cụ thể mà trừu tượng hóa chúng, nghiên cứu tưởng
như những cái cô lập nằm cạnh nhau theo một trật tự logic.
Ví dụ như Định lí Pitago thể hiện mối quan hệ giữa 3 cạnh của một tam giác vuông,
định lý phát biểu rằng: “Bình phương của cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh
góc vuông” (a2 = b2 + c2).
Trong Định lý này ta thấy một số điểm sau:
Thứ nhất, ta không thể biết tam giác vuông được nói tới đây cụ thể tam giác
nào, kích thước cụ thể ra m sao phản ánh vật cụ thể trong thế giới khách
quan này.
Thứ hai, mối liên hệ biến đổi thể hiện đây chỉ sự biến đổi về mặt lượng giữa
cạnh huyền với hai cạnh còn lại chứ bản thân tam giác thì vẫn “ổn định về chất” là tam
giác vuông. Khi tam giác vẫn tam giác vuông thì cạnh huyền vẫn cạnh huyền, hai
cạnh còn lại vẫn là hai cạnh góc vuông dù cho kích thước của chúng có thay đổi như thế
nào đi chăng nữa (logic hình thức không quan tâm tới những sự biến đổi đó). Theo
GS.TS.Tô Duy Hợp (1942): “Logic học hình thức chuyên khảo cứu logic của bản thân
duy ới dạng thuần túy. Nghĩa là, đây sử dụng phép trừu tượng hóa khỏi nội
dung cụ thể của thực tại khách quan trừu tượng hóa khỏi nguồn gốc sở thực
tiễn của quá trình tư duy đạt tới chân lý khách quan“.
Trong khi đó, logic biện chứng nghiên cứu tưởng một cách toàn diện (tính đồng
nhất cụ thể), tức nghiên cứu sự thống nhất chuyển hóa giữa các hình thức duy.
lOMoARcPSD| 37054152
Trong đó bao gồm cả việc nghiên cứu khía cạnh ổn định về chất của tưởng, bởi
logic biện chứng xem trạng thái ổn định tương đối (đứng im) một trường hợp riêng
của sự vận động. Theo GS.TS.Duy Hợp: “Logic biện chứng chú trọng tập trung
khảo cứu logic của bản thân duy ới dạng không thuần túy: nghĩa xem xét
trong mối liên hệ hữu với logic của hoạt động nhận thức nói chung, của hoạt động
thực tiễn với logic của bản thân tồn tại. n nói như Friedrich Engels (1820-1895):
“Logic học biện chứng, trái lại, suy từ hình thức y ra hình thức khác; xác định mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng, chứ không phối hợp chúng với nhau, phát
triển những hình thức cao từ những hình thức thấp“. Để dễ hiểu, ta có thể lấy một ví dụ
gần với dụ trên như sau: Dựa o sự hiểu biết về mối liên hệ giữa các loài (cá)
thực tiễn sản xuất, yêu cầu lựa chọn 3 loài cá nuôi trong một cái hồ để mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất? Giải quyết được yêu cầu này đòi hỏi phải tuân thủ nhiều nguyên tắc
chung nguyên tắc đặc thù tương ứng với môi trường cụ thể. Các nguyên tắc chung
chẳng hạn: giữa chúng phải sống ở không gian hay tầng nước khác nhau để tránh xung
đột, thậm chí phải khác nguồn thức ăn; kích thước lúc thả tương đối đồng đều nhau,
thậm chí sự phát triển cũng tương đồng, giá cả nhu cầu thị trường gần bằng nhau
nhằm mục đích thuận tiện khâu đánh bắt, đầu ra và nuôi lứa tiếp theo sau này.
Ngoài ra còn có nhiều các nguyên tắc kinh nghiệm cụ thể khác đáp ứng với yêu cầu
tự nhiên, thời tiết khí hậu, thậm chí phải quan tâm tới sự phát triển ca loài này đối
với sự phát triển của loài cá kia khi nuôi cùng. Trongdụ này ta thấy một số điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng được nói tới cụ thể (cá, nuôi trong hồ mang lại hiệu quả
kinh tế).
Thứ hai, mối liên hệ tác động giữa chúng là cái chất – thay đổi sự hiệu quả kinh tế
ngay trong lần nuôi đầu tiên, cũng như những lần tiếp theo y thuộc vào việc tuân thủ
các nguyên tắc.
Thứ ba, bản thân các nguyên tắc nuôi trồng y cũng thay đổi theo thời gian phụ
thuộc vào kinh nghiệm và các yếu tố biến đổi khác của môi trường.
lOMoARcPSD|37054152
Thứ tư: tính ổn định tương đối về chất (đứng im) được phản ánh ở đây là ta không
cần quan tâm xem việc nuôi cá đó của nhà ai, cá đó cụ thể là loài nào...
2.2.4. Về khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của logic học là tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng của con
người lại được phân thành hai loại hình cơ bản: tư duy hình thức (khách thể nghiên cứu
của logic hình thức) và tư tuy biện chứng (khách thể nghiên cứu của logic biện chứng).
Tư duy hình thức khác gì so với tư duy biện chứng? Việc xây dựng nên các nguyên tắc
duy cũng là một dạng tác nghiệp (tác niệm). Với ý đồ xây dựng khác nhau thì ý tưởng
xây dựng sẽ khác nhau. Ý đồ của tư duy hình thức là nhằm phản ánh đối tượng tồn tại ở
những phẩm chất xác định về chất, không tính tới sự phản ánh quá trình chuyển hoá của
chất phản ánh thế giới ở trạng thái đứng im tương đối. Do đó, ý tưởng của tư duy hình
thức là tư duy đồng nhất trừu tượng với những hình thức cố định cùng với một hệ thống
tri thức đã được định hình. Trong khi đó, ý đồ của tư duy biện chứng là nhằm phản ánh
sự vật trong một chỉnh thể có sự vận động, phát triển gắn với những mâu thuẫn, những
biến đổi và chuyển hóa về chất của chúng. Do đó, ý tưởng của duy biện chứng
duy đồng nhất cụ thể với những phạm trù biến đổi theo hướng phản ánh ngày một sâu
sắc cùng với một hệ thống tri thức có quá trình hình thành và phát triển.
2.2.5. Về nhiệm vụ của nhà logic học
Nhiệm vụ (ý tưởng) của nhà khoa học về logic khám pnghiên cứu các cấu
logic khác nhau của tưởng, từ đó vạch ra các nguyên tắc, quy luật kết hợp các hình
thức của tưởng đồ) để chúng đạt tới sự phản ánh đúng đắn hoặc chân thực hiện
thực khách quan. Tuy nhiên sự khác biệt nhiệm vụ giữa hai phân ngành logic: Nhiệm
vụ của các nhà logic hình thức tìm ra các hình thức của duy vốn không phụ thuộc
vào nội dung cụ thể nghiên cứu phương thức (quy luật, quy tắc) liên kết giữa chúng
nhằm đảm bảo tính đúng đắn của duy, bao gồm việc đảm bảo tính xác định, nhất
quán, phi mâu thuẫn, liên tục và có cơ sở thuyết phục trong suốt quá trình tư duy. Trong
khi đó, nhiệm vụ nghiên cứu của logic biện chứng nghiên cứu tính biện chứng của
lOMoARcPSD|37054152
các phạm trù chỉ ra bản chất vận động của duy, từ đó rút ra các nguyên tắc logic
đảm bảo tư duy đạt tới chân lý.
2.2.6. Về vai trò của công cụ logic
Logic học công cụ duy cho việc nhận thức thế giới khách quan. Công cụ logic
hình thức giúp cho việc nhận thức thế giới trong một điều kiện nhất định, khi đối
tượng tồn tại trạng thái “hiện tượng đồng nhất với bản chất”, tức là đối tượng mang
một phẩm chất xác định, chưa biến đổi đối tượng “đã, đang vẫn còn nó”
(trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng). Những trường hợp được nhận thức
này khạn chế so với những đối tượng của thế giới vô thường, vốn luôn trong
trạng thái “là không còn nó”, cái trạng thái i như Heraclitus (535475TCN)
rằng:”Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Logic hình thức phản ánh thế giới
thông qua những kết cấu hình thức bền vững của nó. Những kết cấu hình thức (hình ảnh
chủ quan) y khả năng phản ánh được thế giới khách quan bởi thế giới hiện
tượng tính thống nhất trong đa dạng. Tính thống nhất của thế giới hiện tượng đã được
các “kết cấu hình thức” của công cụ logic hình thức “chụp lại”. Chính bởi vậy công cụ
logic hình thức chỉ giúp cho sự phán đoán trong một phạm vi hẹp của những hiện tượng
giản đơn (đối tượng trong trạng thái tĩnh, lập, tách rời khỏi mối quan hệ với đối tượng
khác). Theo Friedrich Engels (1820-1895), công cụ logic hình thức giúp: “Chúng ta nói
về những phạm vi nhỏ bé hay quãng thời gian ngắn, giới hạn tác dụng của cũng khác
nhau đối với từng trường hợp y theo bản chất của đối ợng”. Để nhận thức được
những hiện tượng trong một hệ phức tạp đòi hỏi phải cần tới công cụ logic biện chứng.
do những hiện tượng phức tạp y không thể nhận thức bởi sự lượng hóa (cô
đặc). Nhận thức đối tượng thông qua lượng hóa chỉ ý nghĩa khi mà hiện tượng và bản
chất của đối tượng đồng nhất với nhau. Trong trường hợp của những hiện ợng phức
tạp thì bản chất của chúng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố biến đổi (mối liên hệ tất
nhiên, ổn định, bên trong). ng cụ logic biện chứng với những nh thức, quy luật
nguyên tắc đặc thù của mình cho phép phản ánh xem xét mối liên hệ chuyển hóa,
biến đổi giữa những trạng thái tương đối ổn định, thậm chí xem xét cả cái sở (điều
kiện) dẫn đến trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
lOMoARcPSD|37054152
2.2.7. Về phạm vi ứng dụng
Logic học công cụ duy cho việc nhận thức thế giới khách quan. Công cụ logic
hình thức giúp cho việc nhận thức thế giới trong một điều kiện nhất định, khi đối
tượng tồn tại trạng thái “hiện tượng đồng nhất với bản chất”, tức đối tượng mang
một phẩm chất xác định, chưa biến đổi đối tượng “đã, đang vẫn còn nó”
(trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng). Những trường hợp được nhận thức
này khạn chế so với những đối tượng của thế giới thường, vốn luôn trong
trạng thái “là không còn nó”, cái trạng thái i như Heraclitus (535475TCN)
rằng:”Không ai tắm hai lần trên một dòng ng“. Logic hình thức phản ánh thế giới
thông qua những kết cấu hình thức bền vững của nó. Những kết cấu hình thức (hình ảnh
chủ quan) y khả năng phản ánh được thế giới khách quan bởi thế giới hiện
tượng tính thống nhất trong đa dạng. Tính thống nhất của thế giới hiện tượng đã được
các “kết cấu hình thức” của công cụ logic hình thức “chụp lại”. Chính bởi vậy công cụ
logic hình thức chỉ giúp cho sự phán đoán trong một phạm vi hẹp của những hiện tượng
giản đơn (đối tượng trong trạng thái tĩnh, lập, tách rời khỏi mối quan hệ với đối tượng
khác). Theo Friedrich Engels (1820-1895), công cụ logic hình thức giúp: “chúng ta nói
về những phạm vi nhỏ bé hay quãng thời gian ngắn, giới hạn tác dụng của cũng khác
nhau đối với từng trường hợp y theo bản chất của đối tượng“. Để nhận thức được
những hiện tượng trong một hệ phức tạp đòi hỏi phải cần tới công cụ logic biện chứng.
do những hiện tượng phức tạp y không thể nhận thức bởi sự lượng hóa (cô
đặc). Nhận thức đối tượng thông qua ợng hóa chỉ ý nghĩa khi mà hiện ợng và bản
chất của đối tượng đồng nhất với nhau. Trong trường hợp của những hiện tượng phức
tạp thì bản chất của chúng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố biến đổi (mối liên hệ tất
nhiên, ổn định, bên trong). ng cụ logic biện chứng với những hình thức, quy luật và
nguyên tắc đặc thù của mình cho phép phản ánh xem xét mối liên hệ chuyển hóa,
biến đổi giữa những trạng thái tương đối ổn định, thậm chí xem xét cả cái sở (điều
kiện) dẫn đến trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
2.2.8 Về ý nghĩa phương pháp luận
Logic hình thức lý luận về duy đúng đắn luận giúp điều phối những mối
liên kết ởng trong quá trình duy; Yêu cầu duy tuân theo các quy tắc logic đã
được đúc kết để rút ra các tri thức chân thực mới từ những tri thức sẵn; Vạch ra các
lOMoARcPSD|37054152
thao tác chứng minh hay bác bỏ một cách thuyết phục, đáng tin cậy; Tiến tới y dựng
nên phương pháp hình thức hóa (phương pháp hình, đồ hóa) đặc điểm ngắn
gọn, chặt chẽ, chính xác dễ vận dụng. Trong khi đó, logic biện chứng luận về
duy chân thực luận giúp xác lập các phạm trù trong tưởng; ợt qua các phán
đoán và suy luận hạn hẹp, riêng rẽ để xây dựng nên các lý thuyết khoa học phản ánh đầy
đủ và sâu sắc về đối tượng hiện thực; Xây dựng nên phương pháp biện chứng (nguyên
tắc tư duy biện chứng) có đặc điểm là mềm dẻo, linh hoạt, xác thực.
Chương 3
ỨNG DNG THỰC TẾ V LIÊN HỆ THỰC TIỄN LOGIC HỌC TRÊN
THẾ GIỚI V Ở VIỆT NAM
2.3.1 Ứng dụng thực tế của logic học
2.3.1.1. Logic toán và cơ sở toán học
Ta biết rằng Toán Học một ngành khoa học thuyết được phát triển trên sở
tuân thủ nghiêm ngặt các qui luật của tư duy logic hình thức.
Các quy luật cơ bản của logic hình thức đã được phát triển từ thời Aristote (384 322
trước Công Nguyên) và hệ tiên đề đầu tiên của hình học đã được xây dựng bởi Euclid
cũng vào khoảng 300 năm trước Công Nguyên. Sau thời kì rực rỡ đó của nền văn minh
cổ Hy Lạp, phải trải qua một giai đoạn ngưng trệ hàng nghìn năm, mãi cho đến thế kỉ
16,17 các ngành khoa học đặc biệt là Toán Học mới tìm lại được sự phát triển tiếp tục.
Cho đến cuối thế kỉ XIX bước sang đầu thế kỉ XX thuyết tập hợp của Cantor ra đời
đã đưa đến cho Toán Học niềm hy vọng giải quyết được cuộc "khủng hoảng" về sở
lý luận đó. Cái cốt lõi của lý thuyết tập hợp Cantor là sự hợp thức hóa phép trừu tượng
về "vô hạn thực tại", xem rằng trong Toán Học thể hình dung mọi tập hợp bất dưới
dạng hoàn chỉnh, trong đó các phần tử tồn tại đồng thời, độc lập bình đẳng với
duy. Và cùng với việc thừa nhận quan niệm "thực tại" đó về các tập hợp vô hạn, người
ta cũng đồng thời tuyệt đối hóa tính hợp lý của các qui luật logic hình thức: các qui luật
của logic hình thức thể đã được hình thành cho các suy luận trên cái hữu hạn t
này có thể dùng được cho cả các suy luận trên các tập hữu hạn hoặc vô hạn, không cần
phân biệt.
lOMoARcPSD|37054152
Logic toán cở sở toán học - với nội dung như vừa được điểm lại đã được hình
thành phát triển chủ yếu vào cuối thế kỉ XIX nừa đầu thế kỉ XX, trong một giai
đoạn bùng phát nhiều ý tưởng kết quả nghiên cứu đặc sắc theo hướng m kiếm và
xây dựng một nền móng "vững chắc" cho lâu đài Toán Học.
2.3.1.2. Logic hỗn hợp trong kinh doanh đầu tư
Kinh doanh và đầu tư giá trị có gì giống nhau? Đó chính là việc phân bổ vốn sao cho
hiệu quả mang lại lợi ích cho các bên liên quan. Nhiều nhà quản thường mong
muốn sở hữu những công ty tốt mà họ không nên mua, hoặc nắm giữ những mảng kinh
doanh mà họ nên bán. Có ba loại logic kinh doanh và đầu tư sẽ hữu ích cho suy nghĩ khi
phân bổ vốn đầu tư của người kinh doanh.
Những nhà quản lý thường ra các quyết định liên quan đến danh mục các mảng kinh
doanh của công ty dựa trên một loạt các lẽ logic khác nhau. Lựa chọn đầu tư, cắt
giảm, thâu m, hoặc thoái vốn tưởng nhất thể được quyết định dựa trên: Logic
kinh doanh: Sức mạnh của mức độ hấp dẫn mang tính cạnh tranh của công ty quyết định.
Logic tạo thêm giá trị: Tiềm năng cải thiện công ty, hoặc tạo ra cộng ởng
(synergy) với những công ty khác.
Logic thị trường vốn: Tình hình của thị trường vốn liệu thị trường có đang đánh
giá công ty tương đối đắt, rẻ so với giá trị hiện tại ròng (NPV) của các dòng tiền tương
lai mà công ty có thể tạo ra.
Cả ba kiểu lập luận logic y đều quan trọng trong việc ra quyết định tốt liên quan
đến danh mục kinh doanh của công ty. Mọi quyết định đều dễ dàng, nếu cả ba kiểulẽ
này đều cùng hướng về một đích. Tuy nhiên, khi chúng mâu thuẫn với nhau, quyết định
trở nên khó khăn và phức tạp. Lấy ví dụ, nếu một công ty có khả năng bán với mức giá
cao hơn giá trthật của nó, khả năng nó bị thâu tóm khó, nhưng ban lãnh đạo sẵn sàng
bán hoàn toàn thể, trừ khi công ty có thhoạt động tốt hơn nhiều nếu người kinh
doanh sở hữu nó, hoặc thể tạo thêm giá trị đến các mảng kinh doanh khác
người kinh doanh hiện đang sở hữu. Nếu một công ty vcấu trúc kém hấp dẫn
hoạt động trong một ngành biên lợi nhuận thấp, thiếu lợi thế cạnh tranh đáng kể,
khả năng muốn bán ng ty hoặc đóng cửa nó sẽ cao hơn, miễn mức giá nhận được
cao hơn giá trị mà người kinh doanh có thể tạo ra nếu tiếp tục sở hữu nó.
lOMoARcPSD|37054152
2.3.2. Thực tiễn logic học trên thế giới
Qua bao thời kỳ phát triển, logic đã được ứng dụng rộng rãi, trở thành một hệ thống
vai trò ng quan trọng cả phương đông phương y. Nhân loại hai hệ
thống lôgic chính yếu quan trọng nhất: một của Aristote hai của Đức Phật.
Tại phương y thì nguyên logic của Aristote (Aristotle, Aristotélès) đã bao trùm
toàn bộ nền tưởng của thế giới Tây phương từ thời cđại cho đến nay ngoại trừ các
trào lưu tín ngưỡng độc thần, các nền tín ngưỡng y không hàm chứa một nguyên
tắc lôgic nào cả. Các tác phẩm chính của Aristotle về logic gồm có: Categories, On
Interpretation, Prior Analytics và Posterior Analytics. Trong đó, ông có thảo luận về hệ
thống luận hệ thống phát triển các lập luận âm thanh của mình. thể nói rằng
nền tưởng Tây phương các trào lưu tín ngưỡng đã phát triển song hành đối
nghịch nhau từ thời trung cổ mà hậu quả mang lại là tình trạng xã hội Tây phương ngày
nay.
Tại phương Đông, Phật giáo đưa ra một hthống biện luận cùng đặc thù độc
đáo và đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong nền tư tưởng Á châu. Khổng giáo chỉ là một nền
triết học đạo đức, Lão giáo thể xem một nền triết học siêu nh, nhưng cả hai không
đưa ra được một nguyên tắc lôgic nào cả. Các tôn giáo của Ấn độ như Vệ-đà, -la-
môn, Ấn giáo chỉ dựa vào nghi lễ hiến dâng và cầu xin hơn đưa ra một hệ thống suy
luận để m hiểu sự thực. Để đối đầu với logic học của Phật giáo, các trào lưu tưởng
triết học Ấn độ cũng có đề nghị một số luận lý logic nhưng hoàn toàn không vững chắc.
Logic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm m. Hệ
thống logic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn,
do đó không nhất thiết phải có cùng những quy tắc Aristote đã đưa ra. Logic học
Phật giáo không phải một ngành học riêng biệt thể gọi đấy những kthuật
hay những ứng dụng trực tiếp góp phần vào sự tu tập. Những kỹ thuật hay ứng dụng ấy
là gì? Mục đích trước hết là để chứng minh một số khái niệm trong Đạo Pháp, sau đó là
để tìm hiểu bản 20 thể đích thực của thế giới này. Đối với Phật giáo, thế giới mà chúng
ta đang sống vừa "thật" một cách cụ thể, tức thể nhìn thấy nó, sờ được va
chạm vào nó, nhưng thế giới đó cũng vừa "không thật" vì tất cả mọi hiện tượng kể cả tư
duy của con người chỉ "thật" một cách tương đối thôi chúng biến động không
ngừng, tức "hiện ra" "biến đi" liên tục giống như những "ảo giác". Do đó Phật giáo
lOMoARcPSD|37054152
chủ trương thế giới hiện ợng hàm chứa hai sự thực khác nhau: sự thực tương đối
sự thực tuyệt đối. Logic của Phật giáo được căn cứ y dựng trên cả hai sự thực y
vì thế nên hoàn toàn khác biệt với logic của Aristote. Nếu logic Aristote hướng vào việc
tìm kiếm sự thực thì mục đích của logic Phật giáo là giúp cho con người tránh khỏi được
mọi sai lầm và ảo giác. Để thực hiện mục đích đó Phật giáo đã đưa ra một kỹ thuật giúp
chúng ta nhìn thấy phía sau sự biến động của mọi hiện tượng còn một thứ khác
nữa, đó là bản chất tối hậu của hiện thức, cái bản chất tối hậu y Phật giáo gọi Tánh
không.
2.3.3. Thực tiễn logic học tại việt nam
2.3.3.1 Logic học và các cột móc lịch sử tại Việt Nam
Cách đây hàng nghìn năm, người Việt cổ đã biết hướng duy vào thực tiễn. Các họa
tiết người, chim, hươu nhảy chạy bay y quanh mặt trời theo hướng ngược chiều kim
đồng hồ chứng tỏ người Việt cổ đã phần nào nắm được tính chu kỳ, qui luật tuần hoàn
của bốn mùa. Hình khối cân xứng, hài hoà của trống đồng, sự phân bố đều đặn các điểm
trang trí giữa các đường tròn đồng tâm trên mặt trống tuân theo chặt chẽ những luật đối
xứng.Những điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng chủ nhân trống đồng đã
những khái niệm về hình học và số học ở một trình độ nhất định. Sau hơn 1000 năm
Bắc thuộc, trí tuệ Việt Nam đã được khẳng định bằng một trường phái toán học Đại Việt
độc đáo, uyên sâu với những tên tuổi lớn như Trạng Nguyên Mạc Hiển Tích, Mạc Đĩnh
Chi, ơng Thế Vinh… Thế k20, dù đi qua biết bao biến cố, thử thách lớn lao của lịch
sử, trí tuệ Việt Nam vẫn tiếp tục tỏa sáng, thăng hoa bằng những kỳ tích khiến nhân loại
phải ngả kính phục. Không một dân tộc nào trong một thế k lại đánh bại hai
ờng quốc mạnh nhất thế giới. Dân tộc ấy tiếp tục đóng góp cho thế giới nhiều nhà
khoa học lớn trong các lĩnh vực toán học, vật lý, triết học… trong những điều kiện khó
khăn nhất về hoàn cảnh sống cũng như môi trường nghiên cứu. Một số trắc nghiệm về
IQ, EQ, những thành tích của trí tuệ Việt Nam trong các cuộc tranh tài với thế giới
xưa và nay đều có những tấm gương đủ sức thuyết phục.
2.3.3.2. Logic học trên giảng đường Việt Nam
Hiện nay môn Logic học được giảng dạy nhiều trường đại học (ĐH) cao đẳng
(CĐ) nước ta, đặc biệt các trường thuộc khối ngành khoa học hội nhân văn,
bao gồm cả kinh tế, luật.Trên thực tế, sinh viên các ngành y, đặc biệt những sinh
lOMoARcPSD| 37054152
viên thi đại học khối C (không thi môn toán) gặp rất nhiều khó khăn khi học môn Logic,
và kết quả học tập của họ chưa cao và không đáp ứng được yêu cầu của họ, hậu quả
sinh viên không yêu thích và học môn học này một cách thụ động. Nội dung môn Logic
học hiện nay tập trung chủ yếu vào các phần: (1) các quy luật bản của tư duy, (2) tam
đoạn luận đơn, (3) chứng minh, bác bỏ và ngụy biện. Trong ba phần nêu trên, phần thứ
ba được dành thời lượng rất ít, và chủ yếu là học lí thuyết. Các nội dung Logic học hiện
đại được nghiên cứu từ cuối thế kỉ XIX, được ứng dụng rộng i trong các ngành khoa
học trong đời sống như đại số mệnh đề, hsuy luận tự nhiên, Logic học vị từ, hợp
giải (mệnh đề vị từ), suy luận xác suất… gần như hoàn toàn không được đề cập trong
chương trình môn Logic học của chúng ta. Lí do 3: Phương pháp giảng dạy môn Logic
học của đa số các giảng viên hiện nay thuyết giảng. Thời gian dành cho sinh viên
thuyết trình, tranh luận, giải bài tập… còn rất ít. Một số giảng viên cho sinh viên thuyết
trình một số nội dung thay cho việc giảng dạy các nội dung đó. Việc làm y rất dễ dẫn
đến việc thay giảng viên bằng sinh viên, không lôi cuốn được sinh viên. Các phần mềm
giúp giảng Logic học, các trò chơi logic… cũng rất ít được sử dụng. Phương pháp dạy
này không phát huy được tính tích cực của sinh viên. Thay được rèn luyện năng
suy luận, kĩ năng chứng minh, bác bỏ, tranh luận… sinh viên trong trường hợp tốt nhất
chỉ có được tri thức lí thuyết về các nội dung trên. Để có kết quả giảng dạy và học tập
môn Logic học tốt hơn, chúng ta phải khắc phục được ít nhất là các do 2 và 3.
Nhiều góp ý xác đáng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy nghiên cứu môn Logic
học đã được đề xuất bởi các chuyên gia:
Theo Th.S.Phạm Thu Trang, viện Thông tin khoa học hội (Viện Khoa học
hội Việt Nam), đã suy nghĩ theo đúng logic sự vật trình độ duy trừu tượng, nhận
thức trí quả thực không dễ dàng bởi phần nhiều trái ngược với những hiểu biết
thông thường đã m rễ sâu sắc trong ý thức của tuyệt đại đa số người học từ thuở ấu
thơ.
Theo giải của Giảng viên n Cảnh trường ĐHSP (Đại Học Thái Nguyên)
thì ngoài trừu tượng cao, đây môn học phần lớn học sinh phổ thông chưa từng
được tiếp xúc. n nữa lại được btrí giảng dạy vào học I thứ nhất nên học sinh
càng bỡ ngỡ do chưa có quen với môi trường, phương pháp học ở ĐH, khả năng duy.
Theo TS. Phạm Quỳnh – NXB Giảo dục VN, mặc dù logic đã được đưa vào nghiên cứu
lOMoARcPSD|37054152
và giảng dạy ở nước ta từ khá sớm, từ khoảng những năm 50 thế kỉ XX. Nhưng dường
như từ đó đến nay, khung chương trình dạy đại cương vẫn không thay đổi. Nhiều giáo
trình mới đã được xuất bản nhưng vẫn chưa một sự thống nhất các hiểu các thuật ngữ
cơ bản. Logic học trên thế giới đã có những bước tiến khá xa về phương diện lý thuyết.
Đưa ra một số điểm chưa thống nhất trong các tài liệu Logic học, Th.S. Nguyễn Thi
Lan đề nghị, nên một hội nghị khoa học thống nhất những nội dung trên, từ đó
một bộ giáo trình Logic học tương đối chuẩn trong phạm vi quốc gia; đồng thời kiến
nghị Bộ GD&ĐT nên đưa môn học y thành môn học bắt buộc trong các trường chuyên
nghiệp nhằm nâng cao năng lực duy logic cho Sinh Viên, từ đó ng sức cạnh tranh
của nguồn nhân lực Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa.
DANH MC TI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thúy Vân, Nguyễn Anh Tuấn, Logic học đại cương, NXB ĐHQG HN, 2009.
2. Tô Duy Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Logic học, NXB Đồng Nai, 1997
3. Các quy luật logic hình thức bản Logic học đại cương Nguyễn Tuấn Anh:
https://hoctap24h.vn/cac-quy-luat-loguc-hinh-thuc-cobanlogic-hoc-dai-cuong-
nguyen-tuan-anh.
4. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn logic học, Nxb. Đại học quốc gia Tp.
Hồ Chí Minh, 2008.
5. Thạc Trần Hoàng, Giáo trình Logic học nhập môn, NXB Trườngđại học phạm
Tp. HCM.
| 1/19

Preview text:

lOMoARcPSD| 37054152 lOMoARcPSD| 37054152 Mục Lục
Phần 1 ............................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1.1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 1
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
1.4. Bố cục đề tài ........................................................................................................ 2
Chương 1........................................................................................................................ 2
SỰ GIỐNG NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN
CHỨNG2.1.1. Logic hình thức và logic biện chứng đều phản ánh thế giới khách
quan ............................................................................................................................... 2

nhưng với góc độ và thứ bặc khác nhau ................................................................. 2
2.1.2. Logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau ............................... 4
Chương 2........................................................................................................................ 4
SỰ KHÁC NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG ...... 4
2.2.1. Về đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 4
2.2.2. Về các quy luật ................................................................................................ 5
2.2.3. Về các phương pháp nghiên cứu.................................................................... 6
2.2.4. Về khách thể nghiên cứu ................................................................................ 8
2.2.5. Về nhiệm vụ của nhà logic học ....................................................................... 8
2.2.6. Về vai trò của công cụ logic ............................................................................ 9
2.2.7. Về phạm vi ứng dụng .................................................................................... 10
2.2.8 Về ý nghĩa phương pháp luận ....................................................................... 10
Chương 3...................................................................................................................... 11
ỨNG DỤNG THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN LOGIC HỌC TRÊN ........ 11
THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM ................................................................................... 11
2.3.1 Ứng dụng thực tế của logic học ..................................................................... 11
2.3.1.1. Logic toán và cơ sở toán học ......................................................................... 11
2.3.1.2. Logic hỗn hợp trong kinh doanh đầu tư ...................................................... 12
2.3.2. Thực tiễn logic học trên thế giới .................................................................. 13
2.3.3. Thực tiễn logic học tại việt nam ................................................................... 14
2.3.3.1 Logic học và các cột móc lịch sử tại Việt Nam ............................................. 14
2.3.3.2. Logic học trên giảng đường Việt Nam ......................................................... 14 lOMoARcPSD| 37054152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 16 lOMoARcPSD| 37054152 Phần 1 PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển toàn diện, sự phát triển về một con
người về một nhân thức và tư duy cũ ngày công hoàn thiên làm Tư duy am người ngày
càng được mở rộng vùng chắc làm Nhiều chuyên gia mới cáu logic học ra đời: logic
kiến thiết, logic đa tri, logic me, logic hình thái, vv... Sự phát triển đó tâm cho logic học
ngày càng thêm phong phú, mở ra những khả năng mới trong việc ứng dụng logic học
vào các ngành khoa học và đời sống.
Cũng như mọi ngành khoa học khác, logic học có lịch sử phần ngành và hợp ngành
Trong bối cảnh hiện đại, logic học được thành hai lĩnh vực chính, đó là logic học hình
thức và logic học biện chứng Cả hai môn logic này đối nghiên cứu về quy luật, hình
thức và phương pháp của tư duy, nhưng mỗi môn học lại nghiên cứu những mặt khác
nhau với những góc độ và phương thức khác nhau.
Nếu như logic hình thức nghiên cứu những hình thức và quy luật tư duy phản ảnh sự
vật trong trạng thái tĩnh, trong sự ổn định tương đối của chúng, thì logic hiện chúng lại
nghiên cứu những hình thức và quy luật của tư duy phản ánh sự vận động và phát triển
của thế giới khách quan.
Chúng ta thấy tầm quan trọng của logic trong cuộc sống như thế nào? Nhưng đừng
nhầm lẫn giữa hai môn logic đã đề cập ở trên dẫn đến sự vận dụng các quy luật vào cuộc
sống trở nên khó khăn Vì vậy, trong đề tài “ So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa
logic hình thức và logic biện chứng “ sau đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ và sử dụng hiệu quả logic học.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về đối tượng và
đặc điểm, quá trình vận dụng vào thực tiễn của logic hình thức và logic biện chứng.
Trên cơ sở so sánh sự giống nhau, khác nhau để đối chiếu, tổng kết những thành tựu,
những hạn chế, rút ra những kinh nghiệm về áp dụng logic học trong mỗi người. lOMoARcPSD| 37054152
Nhiệm vụ: Để đạt được những mục tiêu trên tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
Trình bày có hệ thống nhận thức, quan điểm đúng đắn và nội dung, đặc điểm của hai hình thức logic.
Tổng hợp, đánh giá, so sánh những thành tựu và những hạn chế của yếu tố con
người trong quá trình áp dụng logic trong cuộc sống hiện nay.
Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn cuộc sống về phát triển những kỹ năng có
sử dụng đến logic trong thời đại hiện nay.
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm hiểu, phân tích và tổng hợp.
1.4. Bố cục đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia thành 3 chương. Chương 1
SỰ GIỐNG NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG. Chương 2
SỰ KHÁC NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG. Chương 3
VẬN DỤNG LOGIC HỌC VÀO THỰC TIỄN. Phần 2 NỘI DUNG Chương 1
SỰ GIỐNG NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG
2.1.1. Logic hình thức và logic biện chứng đều phản ánh thế giới khách quan
nhưng với góc độ và thứ bặc khác nhau
Logic hình thức và logic biện chứng đều nhằm mục đích phản ánh thế giới khách
quan và giúp ta đưa ra các luận điểm và kết luận hợp lý. Tuy nhiên, chúng có góc độ và thứ bậc khác nhau. lOMoAR cPSD| 37054152
Logic hình thức (formal logic) là hệ thống các quy tắc và nguyên tắc cơ bản để đánh
giá tính chính xác của các luận điểm, dù đó có liên quan đến thực tế hay không. Nó giúp
xác định tính đúng đắn của các biểu thức logic bằng cách phân tích cấu trúc và hình thức
của chúng, mà không cần phải quan tâm đến nội dung hay ý nghĩa của chúng. Ví dụ,
nếu chúng ta biết rằng "tất cả con chó đều có bốn chân" và "Milu là một con chó", thì
chúng ta có thể kết luận rằng "Milu có bốn chân" vì đó là một kết quả hợp lệ của các quy tắc hình thức.
Logic biện chứng (dialectical logic), đối với đa số các trường hợp, tập trung vào việc
áp dụng các quy tắc và nguyên tắc logic vào các vấn đề có liên quan đến thực tế, để tìm
ra các giải pháp và luận điểm hợp lý. Nó tập trung vào quá trình tranh luận và chứng
minh, và tạo ra một hệ thống nhận thức phản ánh tính khách quan của thế giới. Ví
dụ, khi tranh luận về việc có nên hay không nên tăng thuế VAT, các luận điểm và chứng
cứ sẽ được sử dụng để đưa ra kết luận hợp lý về chủ đề này.
Vì vậy, mặc dù cả hai hệ thống đều nhằm mục đích phản ánh thế giới khách quan,
chúng có góc độ và thứ bậc khác nhau. Logic hình thức tập trung vào tính chính xác của
các biểu thức logic, trong khi logic biện chứng tập trung vào việc áp dụng các quy tắc
và nguyên tắc logic vào các vấn đề thực tế để đưa ra các kết luận hợp lý.
Về góc độ, logic hình thức tập trung vào cấu trúc logic của một luận điểm, bao gồm
các quy tắc, nguyên tắc và luật suy ra. Nó đánh giá tính đúng đắn của một luận điểm
dựa trên cấu trúc logic của nó, mà không cần quan tâm đến các bằng chứng cụ thể để
chứng minh tính đúng đắn đó. Ví dụ, nếu một luận điểm được sắp xếp theo cấu trúc
logic đúng, nhưng lại dựa trên các giả định sai, thì nó vẫn có thể được coi là đúng theo
quan điểm của logic hình thức.
Trong khi đó, logic biện chứng tập trung vào các bằng chứng cụ thể để chứng minh
tính đúng đắn của một luận điểm. Nó yêu cầu các luận điểm phải được chứng minh bằng
các bằng chứng hợp lý và khả thi, và các luận điểm này phải có liên kết hợp lý với các
luận điểm khác. Ví dụ, một luận điểm có thể được coi là sai nếu nó dựa trên các giả định
sai hoặc không có bằng chứng hợp lý để chứng minh tính đúng đắn của nó.
Về thứ bậc, logic biện chứng được coi là một hệ thống lý luận cao hơn so với logic
hình thức. Nó yêu cầu các luận điểm phải có tính khả thi và hợp lý, cũng như các bằng
chứng hợp lý để chứng minh tính đúng đắn của chúng. Điều này giúp tạo ra một hệ lOMoARcPSD| 37054152
thống luận lý toàn diện hơn, đảm bảo tính khả thi và hợp lý của các luận điểm. Trong
khi đó, logic hình thức tập trung vào cấu trúc logic của một luận điểm và có tính chất
chủ yếu là thuật toán. Nó được sử dụng rộng rãi trong toán học và khoa học máy tính,
và thường được xem là một phần của logic biện chứng.
2.1.2. Logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau
Logic hình thức cung cấp cho chúng ta một cách tiếp cận tập trung vào cấu trúc logic
của các luận điểm. Nó đánh giá tính đúng đắn của một luận điểm bằng cách kiểm tra
tính hợp lý và logic của cấu trúc đó. Nhưng logic hình thức không đánh giá tính đúng
đắn của các giả định hay bằng chứng cụ thể mà một luận điểm dựa trên. Logic biện
chứng cung cấp cho chúng ta một phương pháp đánh giá tính đúng đắn của các luận
điểm dựa trên các bằng chứng cụ thể và liên kết giữa các luận điểm. Nó yêu cầu các luận
điểm phải có tính khả thi và hợp lý và được chứng minh bằng các bằng chứng hợp lý.
Tuy nhiên, logic biện chứng có thể bỏ sót các giả định logic của các luận điểm.
Vì vậy, khi sử dụng cả hai phương pháp này, chúng ta có thể đánh giá tính đúng đắn
của một luận điểm từ các góc độ khác nhau. Logic hình thức có thể giúp chúng ta kiểm
tra tính logic của một luận điểm, trong khi logic biện chứng giúp chúng ta xác định tính
khả thi và hợp lý của nó. Khi kết hợp cả hai phương pháp, chúng ta có thể đánh giá tính
đúng đắn của một luận điểm một cách toàn diện hơn và chính xác hơn. Chương 2
SỰ KHÁC NHAU GIỮA LOGIC HÌNH THỨC VÀ LOGIC BIỆN CHỨNG
2.2.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của logic học là những hình thức, những quy tắc, quy luật chi
phối tư duy trong quá trình phản ánh hiện thực. Hình thức luôn gắn liền với nội dung
hay nói cách khác là không có hình thức nào mà lại không có nội dung. Hình thức của
tư duy cũng không ngoại lệ, tuy nhiên cái đặc thù ở hình thức của tư duy là nó không có
nội dung tự thân mà khai thác nội dung từ bên ngoài (phản ánh thế giới khách quan);
nói cách khác, đối tượng phản ánh (thế giới khách quan) quy định nội dung của hình
thức của tư duy. Duyên nghiệp nào thì nghiệp quả vậy. Gắn với môi trường sống và
năng lực phản ánh khác nhau thì sự tinh tế trong nội dung phản ánh cũng như sự chặt
chẽ trong kết cấu của tư duy mỗi người có sự khác nhau nhất định. Thậm chí với tư duy lOMoARcPSD| 37054152
của hai người bất kỳ nào thì ta cũng có thể nhận thấy sự khác biệt nhất định về các hình
thức (ý niệm, khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận) và quy tắc tư duy. Bởi vậy nói
như Ayn Rand (1905-1982): “Sự khác biệt giữa trạng thái tinh thần của một đứa bé và
của bạn nằm ở số lượng những thể hợp nhất khái niệm mà trí óc của bạn có thể thực
hiện được” hay nói như nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn (1947): “Hãy cho
tôi biết bạn suy nghĩ bằng những phạm trù nào, tôi sẽ nói bạn là người như thế nào”.
Xét các đối tượng trong không-thời gian rộng hơn thì ta sẽ thấy có hai loại hình tư
duy (tư duy hình thức và tư duy biện chứng) và giữa chúng có sự khác biệt sâu sắc trong
kết cấu tư duy. “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả“. Khi nghiên cứu cấu trúc tư duy
phổ biến (tư duy hình thức) của chúng sinh thì tất yếu ta sẽ khái quát nên những hình
thức (như khái niệm, phán đoán, suy luận) cùng với những quy tắc, quy luật liên kết
giữa chúng (đối tượng nghiên cứu của logic hình thức). Khi nghiên cứu cấu trúc tư duy
của những người minh triết, những người tạo ra bước ngoặt tư tưởng thúc đẩy văn minh
nhân loại (như Lão Tử, Heraclitus, Socrates, Plato, Kant, Hegel, Marx,…) thì ta sẽ khái
quát lên được những hình thức (như phạm trù, mâu thuẫn, chuyển hóa…) cùng với
những quy tắc, quy luật biện chứng về sự hình thành, biến đổi, phát triển của chúng (đối
tượng nghiên cứu của logic biện chứng). Tạo Hóa vốn không phân biệt giữa cái gọi là
Bồ Tát và chúng sinh; đó vốn chỉ là lý lẽ của con người trong quá trình định vị bản thân
trên đường đời (đồng hành). Do đó, hai loại hình tư duy này đều tồn tại ở trong mỗi con
người, chẳng qua là mỗi người thường thiên về kiểu tư duy nào hơn. Trong quá trình
định vị, người coi trọng “quả” sẽ thiên về tư duy hình thức; người coi trọng “nhân” sẽ
thiên về tư duy biện chứng khi phản ánh mối liên hệ nhân quả định vị của bản thân ta.
2.2.2. Về các quy luật
Các quy luật cơ bản của logic hình thức là quy luật đồng nhất , quy luật cấm mâu
thuẫn, quy luật bài chung và quy luật lý do đầy đủ. Bốn quy luật phản ánh những mối
liên hệ xác định của các vật, hiện tượng trong thế giới khách quan có ý nghĩa phổ biến
đối với mọi suy nghĩ của con người, thể hiện rõ những yêu cầu về tính chính xác của
hình thức tư duy. Nếu không tuân theo những yêu cầu, quy tắc, quy luật đó, tư duy sẽ
phạm lỗi logic và không thể đạt tới tri thức chủ thực. Đồng thời, giúp con người nâng
cao trình độ tư duy, rèn luyện khả năng tư duylogic, bảo đảm cho tư duy đạt độ chính
xác, chặt chẽ, nhất quán, có căn cứ và không mâu thuẫn. lOMoARcPSD| 37054152
Những quy luật logic học hiện chứng đó là quy luật những sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập,
quy luật phủ định của phủ định. Đây là những quy luật phát triển của tư duy từ cái bên
ngoài đi vào cái bên trong, từ hiện tượng đi tới cái bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến
bản chất sâu sắc hơn, từ trực tiếp đến gián tiếp, từ trừu tượng đến cụ thể, từ chân lý
tương đối đến chân lý tuyệt đối.
2.2.3. Về các phương pháp nghiên cứu
Logic hình thức chỉ nghiên cứu khía cạnh ổn định về chất (tính đồng nhất trừu tượng)
của tư tưởng, bỏ qua sự biến đổi và phát triển của các hình thức tư duy. Logic hình thức
không chú ý tới nội dung phản ánh cụ thể mà trừu tượng hóa chúng, nghiên cứu tư tưởng
như những cái cô lập nằm cạnh nhau theo một trật tự logic.
Ví dụ như Định lí Pitago thể hiện mối quan hệ giữa 3 cạnh của một tam giác vuông,
định lý phát biểu rằng: “Bình phương của cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh
góc vuông” (a2 = b2 + c2).
Trong Định lý này ta thấy một số điểm sau:
Thứ nhất, ta không thể biết tam giác vuông được nói tới ở đây cụ thể là tam giác
nào, có kích thước cụ thể ra làm sao và nó phản ánh vật gì cụ thể trong thế giới khách quan này.
Thứ hai, mối liên hệ biến đổi thể hiện ở đây chỉ là sự biến đổi về mặt lượng giữa
cạnh huyền với hai cạnh còn lại chứ bản thân tam giác thì vẫn “ổn định về chất” là tam
giác vuông. Khi tam giác vẫn là tam giác vuông thì cạnh huyền vẫn là cạnh huyền, hai
cạnh còn lại vẫn là hai cạnh góc vuông dù cho kích thước của chúng có thay đổi như thế
nào đi chăng nữa (logic hình thức không quan tâm tới những sự biến đổi đó). Theo
GS.TS.Tô Duy Hợp (1942): “Logic học hình thức chuyên khảo cứu logic của bản thân
tư duy dưới dạng thuần túy. Nghĩa là, ở đây nó sử dụng phép trừu tượng hóa khỏi nội
dung cụ thể của thực tại khách quan và trừu tượng hóa khỏi nguồn gốc và cơ sở thực
tiễn của quá trình tư duy đạt tới chân lý khách quan“.
Trong khi đó, logic biện chứng nghiên cứu tư tưởng một cách toàn diện (tính đồng
nhất cụ thể), tức là nghiên cứu sự thống nhất và chuyển hóa giữa các hình thức tư duy. lOMoAR cPSD| 37054152
Trong đó bao gồm cả việc nghiên cứu khía cạnh ổn định về chất của tư tưởng, bởi vì
logic biện chứng xem trạng thái ổn định tương đối (đứng im) là một trường hợp riêng
của sự vận động. Theo GS.TS.Tô Duy Hợp: “Logic biện chứng chú trọng và tập trung
khảo cứu logic của bản thân tư duy dưới dạng không thuần túy: nghĩa là xem xét nó
trong mối liên hệ hữu cơ với logic của hoạt động nhận thức nói chung, của hoạt động
thực tiễn và với logic của bản thân tồn tại. Còn nói như Friedrich Engels (1820-1895):
“Logic học biện chứng, trái lại, suy từ hình thức này ra hình thức khác; xác định mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng, chứ không phối hợp chúng với nhau, nó phát
triển những hình thức cao từ những hình thức thấp“. Để dễ hiểu, ta có thể lấy một ví dụ
gần với ví dụ trên như sau: Dựa vào sự hiểu biết về mối liên hệ giữa các loài (cá) và
thực tiễn sản xuất, yêu cầu lựa chọn 3 loài cá nuôi trong một cái hồ để mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất? Giải quyết được yêu cầu này đòi hỏi phải tuân thủ nhiều nguyên tắc
chung và nguyên tắc đặc thù tương ứng với môi trường cụ thể. Các nguyên tắc chung
chẳng hạn: giữa chúng phải sống ở không gian hay tầng nước khác nhau để tránh xung
đột, thậm chí phải khác nguồn thức ăn; kích thước lúc thả tương đối đồng đều nhau,
thậm chí sự phát triển cũng tương đồng, giá cả và nhu cầu thị trường gần bằng nhau
nhằm mục đích thuận tiện khâu đánh bắt, đầu ra và nuôi lứa tiếp theo sau này.
Ngoài ra còn có nhiều các nguyên tắc kinh nghiệm cụ thể khác đáp ứng với yêu cầu
tự nhiên, thời tiết khí hậu, thậm chí phải quan tâm tới sự phát triển của loài cá này đối
với sự phát triển của loài cá kia khi nuôi cùng. Trong ví dụ này ta thấy một số điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng được nói tới là cụ thể (cá, nuôi cá trong hồ mang lại hiệu quả kinh tế).
Thứ hai, mối liên hệ tác động giữa chúng là cái chất – thay đổi sự hiệu quả kinh tế
ngay trong lần nuôi đầu tiên, cũng như những lần tiếp theo tùy thuộc vào việc tuân thủ các nguyên tắc.
Thứ ba, bản thân các nguyên tắc nuôi trồng này cũng thay đổi theo thời gian phụ
thuộc vào kinh nghiệm và các yếu tố biến đổi khác của môi trường. lOMoARcPSD| 37054152
Thứ tư: tính ổn định tương đối về chất (đứng im) được phản ánh ở đây là ta không
cần quan tâm xem việc nuôi cá đó của nhà ai, cá đó cụ thể là loài nào...
2.2.4. Về khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của logic học là tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng của con
người lại được phân thành hai loại hình cơ bản: tư duy hình thức (khách thể nghiên cứu
của logic hình thức) và tư tuy biện chứng (khách thể nghiên cứu của logic biện chứng).
Tư duy hình thức khác gì so với tư duy biện chứng? Việc xây dựng nên các nguyên tắc
tư duy cũng là một dạng tác nghiệp (tác niệm). Với ý đồ xây dựng khác nhau thì ý tưởng
xây dựng sẽ khác nhau. Ý đồ của tư duy hình thức là nhằm phản ánh đối tượng tồn tại ở
những phẩm chất xác định về chất, không tính tới sự phản ánh quá trình chuyển hoá của
chất – phản ánh thế giới ở trạng thái đứng im tương đối. Do đó, ý tưởng của tư duy hình
thức là tư duy đồng nhất trừu tượng với những hình thức cố định cùng với một hệ thống
tri thức đã được định hình. Trong khi đó, ý đồ của tư duy biện chứng là nhằm phản ánh
sự vật trong một chỉnh thể có sự vận động, phát triển gắn với những mâu thuẫn, những
biến đổi và chuyển hóa về chất của chúng. Do đó, ý tưởng của tư duy biện chứng là tư
duy đồng nhất cụ thể với những phạm trù biến đổi theo hướng phản ánh ngày một sâu
sắc cùng với một hệ thống tri thức có quá trình hình thành và phát triển.
2.2.5. Về nhiệm vụ của nhà logic học
Nhiệm vụ (ý tưởng) của nhà khoa học về logic là khám phá và nghiên cứu các cơ cấu
logic khác nhau của tư tưởng, từ đó vạch ra các nguyên tắc, quy luật kết hợp các hình
thức của tư tưởng (ý đồ) để chúng đạt tới sự phản ánh đúng đắn hoặc chân thực hiện
thực khách quan. Tuy nhiên có sự khác biệt nhiệm vụ giữa hai phân ngành logic: Nhiệm
vụ của các nhà logic hình thức là tìm ra các hình thức của tư duy vốn không phụ thuộc
vào nội dung cụ thể và nghiên cứu phương thức (quy luật, quy tắc) liên kết giữa chúng
nhằm đảm bảo tính đúng đắn của tư duy, bao gồm việc đảm bảo tính xác định, nhất
quán, phi mâu thuẫn, liên tục và có cơ sở thuyết phục trong suốt quá trình tư duy. Trong
khi đó, nhiệm vụ nghiên cứu của logic biện chứng là nghiên cứu tính biện chứng của lOMoARcPSD| 37054152
các phạm trù và chỉ ra bản chất vận động của tư duy, từ đó rút ra các nguyên tắc logic
đảm bảo tư duy đạt tới chân lý.
2.2.6. Về vai trò của công cụ logic
Logic học là công cụ tư duy cho việc nhận thức thế giới khách quan. Công cụ logic
hình thức giúp cho việc nhận thức thế giới trong một điều kiện nhất định, khi mà đối
tượng tồn tại ở trạng thái “hiện tượng đồng nhất với bản chất”, tức là đối tượng mang
một phẩm chất xác định, chưa biến đổi – đối tượng “đã, đang là nó và vẫn còn là nó”
(trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng). Những trường hợp được nhận thức
này là khá hạn chế so với những đối tượng của thế giới vô thường, vốn luôn ở trong
trạng thái “là nó mà không còn là nó”, cái trạng thái mà nói như Heraclitus (535475TCN)
rằng:”Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Logic hình thức phản ánh thế giới
thông qua những kết cấu hình thức bền vững của nó. Những kết cấu hình thức (hình ảnh
chủ quan) này có khả năng phản ánh được thế giới khách quan là bởi vì thế giới hiện
tượng có tính thống nhất trong đa dạng. Tính thống nhất của thế giới hiện tượng đã được
các “kết cấu hình thức” của công cụ logic hình thức “chụp lại”. Chính bởi vậy công cụ
logic hình thức chỉ giúp cho sự phán đoán trong một phạm vi hẹp của những hiện tượng
giản đơn (đối tượng trong trạng thái tĩnh, cô lập, tách rời khỏi mối quan hệ với đối tượng
khác). Theo Friedrich Engels (1820-1895), công cụ logic hình thức giúp: “Chúng ta nói
về những phạm vi nhỏ bé hay quãng thời gian ngắn, giới hạn tác dụng của nó cũng khác
nhau đối với từng trường hợp và tùy theo bản chất của đối tượng”. Để nhận thức được
những hiện tượng trong một hệ phức tạp đòi hỏi phải cần tới công cụ logic biện chứng.
Lý do là vì những hiện tượng phức tạp này không thể nhận thức bởi sự lượng hóa (cô
đặc). Nhận thức đối tượng thông qua lượng hóa chỉ có ý nghĩa khi mà hiện tượng và bản
chất của đối tượng đồng nhất với nhau. Trong trường hợp của những hiện tượng phức
tạp thì bản chất của chúng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố biến đổi (mối liên hệ tất
nhiên, ổn định, bên trong). Công cụ logic biện chứng với những hình thức, quy luật và
nguyên tắc đặc thù của mình cho phép phản ánh và xem xét mối liên hệ chuyển hóa,
biến đổi giữa những trạng thái tương đối ổn định, thậm chí xem xét cả cái cơ sở (điều
kiện) dẫn đến trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng. lOMoARcPSD| 37054152
2.2.7. Về phạm vi ứng dụng
Logic học là công cụ tư duy cho việc nhận thức thế giới khách quan. Công cụ logic
hình thức giúp cho việc nhận thức thế giới trong một điều kiện nhất định, khi mà đối
tượng tồn tại ở trạng thái “hiện tượng đồng nhất với bản chất”, tức là đối tượng mang
một phẩm chất xác định, chưa biến đổi – đối tượng “đã, đang là nó và vẫn còn là nó”
(trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng). Những trường hợp được nhận thức
này là khá hạn chế so với những đối tượng của thế giới vô thường, vốn luôn ở trong
trạng thái “là nó mà không còn là nó”, cái trạng thái mà nói như Heraclitus (535475TCN)
rằng:”Không ai tắm hai lần trên một dòng sông“. Logic hình thức phản ánh thế giới
thông qua những kết cấu hình thức bền vững của nó. Những kết cấu hình thức (hình ảnh
chủ quan) này có khả năng phản ánh được thế giới khách quan là bởi vì thế giới hiện
tượng có tính thống nhất trong đa dạng. Tính thống nhất của thế giới hiện tượng đã được
các “kết cấu hình thức” của công cụ logic hình thức “chụp lại”. Chính bởi vậy công cụ
logic hình thức chỉ giúp cho sự phán đoán trong một phạm vi hẹp của những hiện tượng
giản đơn (đối tượng trong trạng thái tĩnh, cô lập, tách rời khỏi mối quan hệ với đối tượng
khác). Theo Friedrich Engels (1820-1895), công cụ logic hình thức giúp: “chúng ta nói
về những phạm vi nhỏ bé hay quãng thời gian ngắn, giới hạn tác dụng của nó cũng khác
nhau đối với từng trường hợp và tùy theo bản chất của đối tượng“. Để nhận thức được
những hiện tượng trong một hệ phức tạp đòi hỏi phải cần tới công cụ logic biện chứng.
Lý do là vì những hiện tượng phức tạp này không thể nhận thức bởi sự lượng hóa (cô
đặc). Nhận thức đối tượng thông qua lượng hóa chỉ có ý nghĩa khi mà hiện tượng và bản
chất của đối tượng đồng nhất với nhau. Trong trường hợp của những hiện tượng phức
tạp thì bản chất của chúng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố biến đổi (mối liên hệ tất
nhiên, ổn định, bên trong). Công cụ logic biện chứng với những hình thức, quy luật và
nguyên tắc đặc thù của mình cho phép phản ánh và xem xét mối liên hệ chuyển hóa,
biến đổi giữa những trạng thái tương đối ổn định, thậm chí xem xét cả cái cơ sở (điều
kiện) dẫn đến trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
2.2.8 Về ý nghĩa phương pháp luận
Logic hình thức là lý luận về tư duy đúng đắn – lý luận giúp điều phối những mối
liên kết tư tưởng trong quá trình tư duy; Yêu cầu tư duy tuân theo các quy tắc logic đã
được đúc kết để rút ra các tri thức chân thực mới từ những tri thức có sẵn; Vạch ra các lOMoARcPSD| 37054152
thao tác chứng minh hay bác bỏ một cách thuyết phục, đáng tin cậy; Tiến tới xây dựng
nên phương pháp hình thức hóa (phương pháp mô hình, sơ đồ hóa) có đặc điểm ngắn
gọn, chặt chẽ, chính xác dễ vận dụng. Trong khi đó, logic biện chứng là lý luận về tư
duy chân thực – lý luận giúp xác lập các phạm trù trong tư tưởng; Vượt qua các phán
đoán và suy luận hạn hẹp, riêng rẽ để xây dựng nên các lý thuyết khoa học phản ánh đầy
đủ và sâu sắc về đối tượng hiện thực; Xây dựng nên phương pháp biện chứng (nguyên
tắc tư duy biện chứng) có đặc điểm là mềm dẻo, linh hoạt, xác thực. Chương 3
ỨNG DỤNG THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN LOGIC HỌC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.3.1 Ứng dụng thực tế của logic học
2.3.1.1. Logic toán và cơ sở toán học
Ta biết rằng Toán Học là một ngành khoa học lý thuyết được phát triển trên cơ sở
tuân thủ nghiêm ngặt các qui luật của tư duy logic hình thức.
Các quy luật cơ bản của logic hình thức đã được phát triển từ thời Aristote (384 322
trước Công Nguyên) và hệ tiên đề đầu tiên của hình học đã được xây dựng bởi Euclid
cũng vào khoảng 300 năm trước Công Nguyên. Sau thời kì rực rỡ đó của nền văn minh
cổ Hy Lạp, phải trải qua một giai đoạn ngưng trệ hàng nghìn năm, mãi cho đến thế kỉ
16,17 các ngành khoa học đặc biệt là Toán Học mới tìm lại được sự phát triển tiếp tục.
Cho đến cuối thế kỉ XIX bước sang đầu thế kỉ XX lý thuyết tập hợp của Cantor ra đời
đã đưa đến cho Toán Học niềm hy vọng giải quyết được cuộc "khủng hoảng" về cơ sở
lý luận đó. Cái cốt lõi của lý thuyết tập hợp Cantor là sự hợp thức hóa phép trừu tượng
về "vô hạn thực tại", xem rằng trong Toán Học có thể hình dung mọi tập hợp bất kì dưới
dạng hoàn chỉnh, trong đó các phần tử tồn tại đồng thời, độc lập và bình đẳng với tư
duy. Và cùng với việc thừa nhận quan niệm "thực tại" đó về các tập hợp vô hạn, người
ta cũng đồng thời tuyệt đối hóa tính hợp lý của các qui luật logic hình thức: các qui luật
của logic hình thức dù có thể đã được hình thành cho các suy luận trên cái hữu hạn thì
này có thể dùng được cho cả các suy luận trên các tập hữu hạn hoặc vô hạn, không cần phân biệt. lOMoARcPSD| 37054152
Logic toán và cở sở toán học - với nội dung như vừa được điểm lại – đã được hình
thành và phát triển chủ yếu vào cuối thế kỉ XIX và nừa đầu thế kỉ XX, trong một giai
đoạn bùng phát nhiều ý tưởng và kết quả nghiên cứu đặc sắc theo hướng tìm kiếm và
xây dựng một nền móng "vững chắc" cho lâu đài Toán Học.
2.3.1.2. Logic hỗn hợp trong kinh doanh đầu tư
Kinh doanh và đầu tư giá trị có gì giống nhau? Đó chính là việc phân bổ vốn sao cho
hiệu quả và mang lại lợi ích cho các bên liên quan. Nhiều nhà quản lý thường mong
muốn sở hữu những công ty tốt mà họ không nên mua, hoặc nắm giữ những mảng kinh
doanh mà họ nên bán. Có ba loại logic kinh doanh và đầu tư sẽ hữu ích cho suy nghĩ khi
phân bổ vốn đầu tư của người kinh doanh.
Những nhà quản lý thường ra các quyết định liên quan đến danh mục các mảng kinh
doanh của công ty dựa trên một loạt các lý lẽ logic khác nhau. Lựa chọn đầu tư, cắt
giảm, thâu tóm, hoặc thoái vốn lý tưởng nhất có thể được quyết định dựa trên: Logic
kinh doanh: Sức mạnh của mức độ hấp dẫn mang tính cạnh tranh của công ty quyết định.
Logic tạo thêm giá trị: Tiềm năng cải thiện công ty, hoặc tạo ra cộng hưởng
(synergy) với những công ty khác.
Logic thị trường vốn: Tình hình của thị trường vốn – liệu thị trường có đang đánh
giá công ty tương đối đắt, rẻ so với giá trị hiện tại ròng (NPV) của các dòng tiền tương
lai mà công ty có thể tạo ra.
Cả ba kiểu lập luận logic này đều quan trọng trong việc ra quyết định tốt liên quan
đến danh mục kinh doanh của công ty. Mọi quyết định đều dễ dàng, nếu cả ba kiểu lý lẽ
này đều cùng hướng về một đích. Tuy nhiên, khi chúng mâu thuẫn với nhau, quyết định
trở nên khó khăn và phức tạp. Lấy ví dụ, nếu một công ty có khả năng bán với mức giá
cao hơn giá trị thật của nó, khả năng nó bị thâu tóm là khó, nhưng ban lãnh đạo sẵn sàng
bán là hoàn toàn có thể, trừ khi công ty có thể hoạt động tốt hơn nhiều nếu người kinh
doanh sở hữu nó, hoặc nó có thể tạo thêm giá trị đến các mảng kinh doanh khác mà
người kinh doanh hiện đang sở hữu. Nếu một công ty về cấu trúc kém hấp dẫn vì nó
hoạt động trong một ngành có biên lợi nhuận thấp, và thiếu lợi thế cạnh tranh đáng kể,
khả năng muốn bán công ty hoặc đóng cửa nó sẽ cao hơn, miễn là mức giá nhận được
cao hơn giá trị mà người kinh doanh có thể tạo ra nếu tiếp tục sở hữu nó. lOMoARcPSD| 37054152
2.3.2. Thực tiễn logic học trên thế giới
Qua bao thời kỳ phát triển, logic đã được ứng dụng rộng rãi, trở thành một hệ thống
có vai trò vô cùng quan trọng ở cả phương đông và phương tây. Nhân loại có hai hệ
thống lôgic chính yếu và quan trọng nhất: một là của Aristote và hai là của Đức Phật.
Tại phương Tây thì nguyên lý logic của Aristote (Aristotle, Aristotélès) đã bao trùm
toàn bộ nền tư tưởng của thế giới Tây phương từ thời cổ đại cho đến nay ngoại trừ các
trào lưu tín ngưỡng độc thần, vì các nền tín ngưỡng này không hàm chứa một nguyên
tắc lôgic nào cả. Các tác phẩm chính của Aristotle về logic gồm có: Categories, On
Interpretation, Prior Analytics và Posterior Analytics. Trong đó, ông có thảo luận về hệ
thống lý luận và hệ thống phát triển các lập luận âm thanh của mình. Có thể nói rằng
nền tư tưởng Tây phương và các trào lưu tín ngưỡng đã phát triển song hành và đối
nghịch nhau từ thời trung cổ mà hậu quả mang lại là tình trạng xã hội Tây phương ngày nay.
Tại phương Đông, Phật giáo đưa ra một hệ thống biện luận vô cùng đặc thù và độc
đáo và đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong nền tư tưởng Á châu. Khổng giáo chỉ là một nền
triết học đạo đức, Lão giáo có thể xem là một nền triết học siêu hình, nhưng cả hai không
đưa ra được một nguyên tắc lôgic nào cả. Các tôn giáo của Ấn độ như Vệ-đà, Bà-la-
môn, Ấn giáo chỉ dựa vào nghi lễ hiến dâng và cầu xin hơn là đưa ra một hệ thống suy
luận để tìm hiểu sự thực. Để đối đầu với logic học của Phật giáo, các trào lưu tư tưởng
triết học Ấn độ cũng có đề nghị một số luận lý logic nhưng hoàn toàn không vững chắc.
Logic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ
thống logic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn,
do đó không nhất thiết phải có cùng những quy tắc mà Aristote đã đưa ra. Logic học
Phật giáo không phải là một ngành học riêng biệt mà có thể gọi đấy là những kỹ thuật
hay những ứng dụng trực tiếp góp phần vào sự tu tập. Những kỹ thuật hay ứng dụng ấy
là gì? Mục đích trước hết là để chứng minh một số khái niệm trong Đạo Pháp, sau đó là
để tìm hiểu bản 20 thể đích thực của thế giới này. Đối với Phật giáo, thế giới mà chúng
ta đang sống vừa "thật" một cách cụ thể, tức có thể nhìn thấy nó, sờ mó được nó và va
chạm vào nó, nhưng thế giới đó cũng vừa "không thật" vì tất cả mọi hiện tượng kể cả tư
duy của con người chỉ "thật" một cách tương đối mà thôi vì chúng biến động không
ngừng, tức "hiện ra" và "biến đi" liên tục giống như những "ảo giác". Do đó Phật giáo lOMoARcPSD| 37054152
chủ trương thế giới hiện tượng hàm chứa hai sự thực khác nhau: sự thực tương đối và
sự thực tuyệt đối. Logic của Phật giáo được căn cứ và xây dựng trên cả hai sự thực ấy
vì thế nên hoàn toàn khác biệt với logic của Aristote. Nếu logic Aristote hướng vào việc
tìm kiếm sự thực thì mục đích của logic Phật giáo là giúp cho con người tránh khỏi được
mọi sai lầm và ảo giác. Để thực hiện mục đích đó Phật giáo đã đưa ra một kỹ thuật giúp
chúng ta nhìn thấy phía sau sự biến động của mọi hiện tượng còn có một thứ gì khác
nữa, đó là bản chất tối hậu của hiện thức, cái bản chất tối hậu ấy Phật giáo gọi là Tánh không.
2.3.3. Thực tiễn logic học tại việt nam
2.3.3.1 Logic học và các cột móc lịch sử tại Việt Nam
Cách đây hàng nghìn năm, người Việt cổ đã biết hướng tư duy vào thực tiễn. Các họa
tiết người, chim, hươu nhảy chạy bay vây quanh mặt trời theo hướng ngược chiều kim
đồng hồ chứng tỏ người Việt cổ đã phần nào nắm được tính chu kỳ, qui luật tuần hoàn
của bốn mùa. Hình khối cân xứng, hài hoà của trống đồng, sự phân bố đều đặn các điểm
trang trí giữa các đường tròn đồng tâm trên mặt trống tuân theo chặt chẽ những luật đối
xứng.Những điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng chủ nhân trống đồng đã có
những khái niệm về hình học và số học ở một trình độ nhất định. Sau hơn 1000 năm
Bắc thuộc, trí tuệ Việt Nam đã được khẳng định bằng một trường phái toán học Đại Việt
độc đáo, uyên sâu với những tên tuổi lớn như Trạng Nguyên Mạc Hiển Tích, Mạc Đĩnh
Chi, Lương Thế Vinh… Thế kỷ 20, dù đi qua biết bao biến cố, thử thách lớn lao của lịch
sử, trí tuệ Việt Nam vẫn tiếp tục tỏa sáng, thăng hoa bằng những kỳ tích khiến nhân loại
phải ngả mũ kính phục. Không có một dân tộc nào trong một thế kỷ lại đánh bại hai
cường quốc mạnh nhất thế giới. Dân tộc ấy tiếp tục đóng góp cho thế giới nhiều nhà
khoa học lớn trong các lĩnh vực toán học, vật lý, triết học… trong những điều kiện khó
khăn nhất về hoàn cảnh sống cũng như môi trường nghiên cứu. Một số trắc nghiệm về
IQ, EQ, và những thành tích của trí tuệ Việt Nam trong các cuộc tranh tài với thế giới
xưa và nay đều có những tấm gương đủ sức thuyết phục.
2.3.3.2. Logic học trên giảng đường Việt Nam
Hiện nay môn Logic học được giảng dạy ở nhiều trường đại học (ĐH) và cao đẳng
(CĐ) nước ta, đặc biệt là ở các trường thuộc khối ngành khoa học xã hội và nhân văn,
bao gồm cả kinh tế, luật.Trên thực tế, sinh viên các ngành này, đặc biệt là những sinh lOMoAR cPSD| 37054152
viên thi đại học khối C (không thi môn toán) gặp rất nhiều khó khăn khi học môn Logic,
và kết quả học tập của họ chưa cao và không đáp ứng được yêu cầu của họ, hậu quả là
sinh viên không yêu thích và học môn học này một cách thụ động. Nội dung môn Logic
học hiện nay tập trung chủ yếu vào các phần: (1) các quy luật cơ bản của tư duy, (2) tam
đoạn luận đơn, (3) chứng minh, bác bỏ và ngụy biện. Trong ba phần nêu trên, phần thứ
ba được dành thời lượng rất ít, và chủ yếu là học lí thuyết. Các nội dung Logic học hiện
đại được nghiên cứu từ cuối thế kỉ XIX, được ứng dụng rộng rãi trong các ngành khoa
học và trong đời sống như đại số mệnh đề, hệ suy luận tự nhiên, Logic học vị từ, hợp
giải (mệnh đề và vị từ), suy luận xác suất… gần như hoàn toàn không được đề cập trong
chương trình môn Logic học của chúng ta. Lí do 3: Phương pháp giảng dạy môn Logic
học của đa số các giảng viên hiện nay là thuyết giảng. Thời gian dành cho sinh viên
thuyết trình, tranh luận, giải bài tập… còn rất ít. Một số giảng viên cho sinh viên thuyết
trình một số nội dung thay cho việc giảng dạy các nội dung đó. Việc làm này rất dễ dẫn
đến việc thay giảng viên bằng sinh viên, không lôi cuốn được sinh viên. Các phần mềm
giúp giảng Logic học, các trò chơi logic… cũng rất ít được sử dụng. Phương pháp dạy
này không phát huy được tính tích cực của sinh viên. Thay vì được rèn luyện kĩ năng
suy luận, kĩ năng chứng minh, bác bỏ, tranh luận… sinh viên – trong trường hợp tốt nhất
– chỉ có được tri thức lí thuyết về các nội dung trên. Để có kết quả giảng dạy và học tập
môn Logic học tốt hơn, chúng ta phải khắc phục được ít nhất là các lí do 2 và 3.
Nhiều góp ý xác đáng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy nghiên cứu môn Logic
học đã được đề xuất bởi các chuyên gia:
Theo Th.S.Phạm Thu Trang, viện Thông tin khoa học xã hội (Viện Khoa học xã
hội Việt Nam), đã suy nghĩ theo đúng logic sự vật ở trình độ tư duy trừu tượng, nhận
thức lý trí quả thực không dễ dàng bởi nó phần nhiều trái ngược với những hiểu biết
thông thường đã bám rễ sâu sắc trong ý thức của tuyệt đại đa số người học từ thuở ấu thơ.
Theo lý giải của Giảng viên Vũ Văn Cảnh – trường ĐHSP (Đại Học Thái Nguyên)
thì ngoài trừu tượng cao, đây là môn học mà phần lớn học sinh phổ thông chưa từng
được tiếp xúc. Hơn nữa lại được bố trí giảng dạy vào học ký I thứ nhất nên học sinh
càng bỡ ngỡ do chưa có quen với môi trường, phương pháp học ở ĐH, khả năng tư duy.
Theo TS. Phạm Quỳnh – NXB Giảo dục VN, mặc dù logic đã được đưa vào nghiên cứu lOMoARcPSD| 37054152
và giảng dạy ở nước ta từ khá sớm, từ khoảng những năm 50 thế kỉ XX. Nhưng dường
như từ đó đến nay, khung chương trình dạy đại cương vẫn không thay đổi. Nhiều giáo
trình mới đã được xuất bản nhưng vẫn chưa có một sự thống nhất các hiểu các thuật ngữ
cơ bản. Logic học trên thế giới đã có những bước tiến khá xa về phương diện lý thuyết.
Đưa ra một số điểm chưa thống nhất trong các tài liệu Logic học, Th.S. Nguyễn Thi
Lan đề nghị, nên có một hội nghị khoa học thống nhất những nội dung trên, từ đó có
một bộ giáo trình Logic học tương đối chuẩn trong phạm vi quốc gia; đồng thời kiến
nghị Bộ GD&ĐT nên đưa môn học này thành môn học bắt buộc trong các trường chuyên
nghiệp nhằm nâng cao năng lực tư duy logic cho Sinh Viên, từ đó tăng sức cạnh tranh
của nguồn nhân lực Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thúy Vân, Nguyễn Anh Tuấn, Logic học đại cương, NXB ĐHQG HN, 2009.
2. Tô Duy Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Logic học, NXB Đồng Nai, 1997
3. Các quy luật logic hình thức cơ bản – Logic học đại cương – Nguyễn Tuấn Anh:
https://hoctap24h.vn/cac-quy-luat-loguc-hinh-thuc-cobanlogic-hoc-dai-cuong- nguyen-tuan-anh.
4. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn logic học, Nxb. Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2008.
5. Thạc sĩ Trần Hoàng, Giáo trình Logic học nhập môn, NXB Trườngđại học Sư phạm Tp. HCM.