-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tiểu luận môn Nhập môn Logic học đề tài "Vận dụng logic học để chứng minh các luận đề của khoa học xã hội"
Tiểu luận môn Nhập môn Logic học đề tài "Vận dụng logic học để chứng minh các luận đề của khoa học xã hội" của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Nhập môn Logic học
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 37054152
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP.HCM
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ -- --
MÔN HỌC: NHẬP MÔN LOGIC HỌC BÀI TIỂU LUẬN
VẬN DỤNG NHẬP MÔN LOGIC HỌC ĐỂ
CHỨNG MINH CÁC LUẬN ĐỀ CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI
GVHD: PGS. TS. Đoàn Đức Hiếu SVTH: 1 . Trương Ái Ng 2 a 2162027 2. Phạm Thị Trúc Linh 2 2162021 3 . Lê Phương Thảo 2 2162043 4. Huỳnh Duy Hải 1 9142301
Mã lớp học: INLO220405_22_2_08
TP. Hồ Chí Minh , 02/2023 lOMoARcPSD| 37054152 Mục Lục
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................ 2
PHẦN 1: MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Đặt vấn đề ...................................................................................................................... 3
2. Mục đích ........................................................................................................................ 3
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 4
4. Kết cấu bài tiểu luận ..................................................................................................... 4
PHẦN 2: NỘI DUNG (PHỤ)..................................................................................................... 4
1. Logic học là gì ? ................................................................................................................ 4
2. Logic học hình thức? ........................................................................................................ 5
3. Đối tượng của logic học .................................................................................................... 5
4. Logic học và ngôn ngữ ...................................................................................................... 6
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập logic học .............................................................. 7
6. Vai trò của các quy luật hình thức logic trong khoa học và xã hội .............................. 8
6.1 Toán học ....................................................................................................................... 8
6.2 Trí tuệ nhân tạo ........................................................................................................... 8
PHẦN 2: NỘI DUNG (CHÍNH) .............................................................................................. 10
CHƯƠNG 1: CẤU THÀNH CỦA SỰ CHỨNG MINH .................................................. 10
1.1 Chứng minh là gì? ..................................................................................................... 10
1.2 Luận đề: ..................................................................................................................... 11
1.3 Luận cứ ...................................................................................................................... 12
1.4 Luận chứng ................................................................................................................ 13
CHƯƠNG 2 VẬN DỤNG LOGIC ĐỂ CHỨNG MINH LUẬN ĐỀ KHOA HỌC XÃ
HỘI ...................................................................................................................................... 14
2.1 Các phương pháp chứng minh ................................................................................ 14
2.2 Bác bỏ các phương pháp bác bỏ .............................................................................. 15
2.3. Các quy tắc của chứng minh và một số vi phạm khi chứng minh ....................... 17
PHẦN 3: KẾT LUẬN .............................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 21 lOMoARcPSD| 37054152 LỜI CẢM ƠN
“Vận dụng nhập môn logic học để chứng minh các luận đề của
khoa học xã hội.” là một trong những đề tài mà chúng em rất quan tâm
và tâm huyết. Tiểu luận cuối kỳ của chúng em đã được hoàn thành dựa
trên nền tảng cơ sở lý luận và những kiến thức đã được lĩnh hội trong
quá trình học tập và nghiên cứu, được sự hướng dẫn và giảng dạy nhiệt
tình của giảng viên khoa Chính trị và Luật và sự đoàn kết, cộng tác,
giúp đỡ lẫn nhau của tất cả các thành viên trong nhóm.
Đặc biệt chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS, TS.
Đoàn Đức Hiếu, giảng viên môn Nhập môn Logic học - Khoa Chính trị
và Luật, trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM - Người Thầy đã
trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình chỉ bảo, giúp đỡ chúng em
nghiên cứu và thực hiện tiểu luận này. Xin kính chúc Thầy cùng quý
thầy cô trong khoa Chính trị và Luật, cũng như quý thầy cô toàn trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM có thật nhiều sức khỏe và luôn
luôn tận tụy, nhiệt huyết với sự nghiệp trồng người.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, đầu tư công sức, song chắc chắn tiểu
luận này không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự
nhận xét, góp ý của quý thầy cô để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn! lOMoARcPSD| 37054152 PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề
Bất kì các công trình khoa học lớn lao nào với hàng trăm công thức, hàng
trăm trang, hay thậm chí cho đến các tác phẩm khoa học như báo khoa học có
dung lượng ngắn một vài trang. Nếu xét về cấu trúc logic thì chúng luôn luôn
được cấu thành từ các bộ phận chính là: luận đề, luận cứ, luận chứng (lập luận).
Khi mà một người làm nghiên cứu khoa học nếu nắm chắc việc sử dụng thành
thạo cấu trúc logic nói trên thì chắc chắn một điều là sẽ khiến cho tác phẩm khoa
học của mình thuyết phục hơn, chặt chẽ hơn cũng như có điều kiện đi sâu xem
xét bản chất logic của phương pháp nghiên cứu khoa học. Mặc khác, trong đời
sống xã hội khi ta sử dụng thành thạo cấu trúc logic này sẽ đem lại hiệu quả thiết
thực cho ta khi cần đến vai trò của logic để thuyết phục, hay chặt chẽ luận điểm
của mình. Ví dụ như: giảng viên trình bày diễn giả thuyết trình một vấn đề nào
đó trước hội nghị, đại biểu tranh luận trong hội thảo, hay cho đến các sách lược,
chiến lược của các bên công an điều tra phá án, … 2. Mục đích
Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏa những nội dung cơ bản về kết cấu của
một phép chứng minh và vận dụng logic học để chứng minh một luận đề khoa
học xã hội. Trên cơ sở đó tổng kết những thành tựu, những hạn chế, rút ra những
kinh nghiệm về việc áp dụng logic học trong mỗi con người.
Mục đích của nhận thức trong khoa học và thực tiễn là đạt tới tri thức chân
thực khách quan và trên cơ sở khách quan đó, con người lựa chọn và tác động
tích cực vào thế giới xung quanh nhằm cải biên thế giới để phục vụ cho nhu cầu
cuộc sống của con người hay đơn giản là của chính mình. Ngày nay, khoa học
đã chứng minh có hai con đường dẫn con người tới nhận thức đúng đắn về hiện
tượng và sự vật đó là:
Một là: dựa vào cảm tính của các cơ quan thụ cảm đối với các hiện tượng,
sự vật nhìn thấy, sờ được như: trời lạnh, vị ngọt của đường, tiếng động ngoài
đường phố, cảm giác cay nồng của đồ ăn, hay cái nóng của mùa hè, cái se se lạnh của mùa thu, … lOMoARcPSD| 37054152
Hai là: phải chứng minh bằng luận chứng (lập luận) từ những luận điểm
của bản thân con người nêu ra ví dụ như: công trình nghiên cứu khoa học, quyết
định xử phạt, bài báo cáo nghiên cứu, …
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, chứng minh giúp cho con người
hình thành niềm tin dựa trên một hệ thống cơ sở vững chắc. Nếu niềm tin đó lại
được đặt trên nến tảng chân xác của tri thức khoa học thì bản thân cá nhân con
người với sự hiểu biết thực chất công việc của mình làm sẽ quyết đoán đặt ra và
giải quyết những nhiệm vụ của lý luận và thực tiễn một cách triệt để nhất. Niềm
tin khoa học sẽ và chỉ được hình thành, củng cố và phát triển trên cơ sở của
chứng minh và các lập luận có căn cứ chắc chắn. Khác với các khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn không sử dụng các công thức, các phương
trình đã mang tính chính xác mà phải dùng những luận cứ và luận chứng lý
thuyết để chứng minh. Điều này là tương đối khó với những người mới làm
nghiên cứu khoa học, đa số thường dễ mắc lỗi thiếu tính chặt chẽ logic trong giai
đoạn này. Nội dung bài viết dưới đây nhằm đưa ra một số nhận xét và ví dụ về
cách vận dụng logic để giúp cho quá trình luận chứng (chứng minh) chặt chẽ
hơn. Vì vậy ngay bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về “Vận dụng logic học để chứng
minh một luận đề khoa học xã hội”
4. Kết cấu bài tiểu luận
Kết cấu bài tiểu luận được chia làm 3 phần: mở đầu, nội dung (nội dung
chính và nội dung phụ) và kết luận.
Với phần chính là nội dung (chính) được chia làm 2 chương:
Chương 1: Kết cấu của sự chứng minh.
Chương 2: Vận dụng logic học để chứng minh luận đề khoa học xã hội.
PHẦN 2: NỘI DUNG (PHỤ)
1. Logic học là gì ?
Trong tiếng anh Logic học còn gọi là logics. Khi nói đến logic thì ta
thường dùng với hai nghĩa chính:
- Về logic khách quan: dùng để chỉ tính quy luật cụ thể là mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng, hoặc các mối liên hệ bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng lOMoARcPSD| 37054152
của thế giới khách quan. Các khoa học cụ thể như vật lí, hóa học, triết học,
chiêm tinh chủ yếu nghiên cứu ở không gian logic khách quan, dẫn ra việc tìm
được quy luật liên kết, mối liên hệ giữa các sự vật, sự việc trong thế giới khách quan.
- Về logic chủ quan: dùng để chỉ các mối liên kết mang tính tất yếu, có quy luật
giữa các tư tưởng của con người, xem như phản ánh chân thực hiện thực khách quan.
- Về logic học: dùng để chỉ môn khoa học nghiên cứu về tư duy
Tóm lại: Logic học chính là khoa học nghiên cứu những qui luật và hình thức
cấu tạo chính xác của tư duy.
2. Logic học hình thức?
Logic học hình thức còn được biết đến trong toán học như là logic kí
hiệu là ngành khoa học nằm trong miền giao thoa giữa toán học và triết học tự
nhiên. Logic hình thức sử dụng kí hiệu hình thức và các phép toán đại số cùng
với các nguyên tắc nhất định về giá trị chân lý nhằm xác định tính đúng đắn của các lập luận.
Logic hình thức nghiên cứu các quy luật hình thức của tư duy trừu tượng.
Nếu như quá trình nhận thức khoa học là “từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng rồi lại từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn” thì logic hình thức cho ta
các quy luật để suy luận trong giai đoạn tư duy trừu tượng của toàn bộ quá trình
nhận thức đó. Đặc trưng của nhận thức khoa học là khái quát hóa các tri thức
kinh nghiệm để tìm hiểu các quy luật phổ biến, rồi bằng cách tổng hợp các quy
luật phổ biến từ nhiều khía cạnh khác nhau trở lại nhận thức các hiện tượng và sự vật cụ thể.
Logic là khoa học về lý luận đúng đắn. Theo từ điển Webster, lý luận là
“rút ra những luận giải hay kết luận từ các thực tế cho trước hay đã biết".
3. Đối tượng của logic học
Logic học là khoa học nghiên cứu các hình thức, quy luật của tư duy. Tuy
nhiên, tư duy không phải là đối tượng riêng của logic học mà còn là đối tượng
nghiên cứu của một số ngành khoa học khác như triết học, tâm lý học, sinh lý
học thần kinh... Vì vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta phải phân định được ranh
giới của logic học với các khoa học khác cũng nghiên cứu về tư duy. Trước tiên,
cần phải xem xét quá trình nhận thức của con người, đây chính là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua hoạt động thực tiễn. Quá
trình đó gồm hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động); nhận thức
lý tính (tư duy trừu tượng). a/ Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động):
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, giai đoạn này con người sử
dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật để nắm bắt các sự vật ấy. lOMoARcPSD| 37054152
Đặc điểm của nhận thức cảm tính là phản ánh một cách trực tiếp, cụ thể đối
tượng và không cần đến ngôn ngữ. Nhận thức cảm tính bao gồm ba hình thức là
cảm giác, tri giác và biểu tượng.
+ Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng
khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. + Tri giác là
hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào
các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của
nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy
đủ hơn, phong phú hơn về sự vật.
+ Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực
quan sinh động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại
trong bộ óc người về sự vật khi nó không còn trực tiếp tác động vào các giác
quan. b/ Nhận thức lý tính (Tư duy trừu tượng):
Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những
thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Ở giai đoạn này nhận thức
thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra, nắm lấy cái bản chất có tính quy
luật của các sự vật, hiện tượng. và phản ánh qua các hình thức của tư duy như
khái niệm, phán đoán, suy luận. Vì vậy, nhận thức lý tính cần đến ngôn ngữ,
thông qua ngôn ngữ để biểu thị, diễn đạt nội dung phản ánh.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc
tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát,
tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật.
+ Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để
khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
+ Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra tri thức mới. Logic học với tư cách là khoa học nghiên cứu về tư duy nhưng
không nghiên cứu toàn bộ quá trình nhận thức nói chung mà chỉ nghiên cứu
giai đoạn nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng). Vì vậy, xét một cách khái
quát nhất đối tượng của logic học chính là những hình thức của tư duy trừu
tượng, những qui tắc, quy luật chi phối quá trình tư duy để nhận thức đúng
đắn được hiện thực khách quan.
4. Logic học và ngôn ngữ
Logic và ngôn ngữ thống nhất với nhau. Logic chỉ mối quan hệ bên trong
giữa các yếu tố cấu thành của tư duy, nó là nội dung của ngôn ngữ, còn ngôn
ngữ chính là cái vỏ vật chất là hình thức biểu hiện bên ngoài của tư tưởng. Tuy
nhiên giữa logic và ngôn ngữ cũng có những điểm khác biệt:
Thứ nhất: trong logic người ta quan tâm đến phương diện hình thức, đến
cấu trúc bên trong của tư tưởng, cho nên để biểu thị nội dung của một tư tưởng
nhất định, người ta xây dựng, quy ước bằng các biểu thức đơn giản về cấu trúc.
Ngược lại, trong ngôn ngữ có những cách khác nhau để biểu thị, diễn đạt cùng
một nội dung tư tưởng, hay cùng một biểu thức ngôn ngữ nhưng có thể diễn đạt lOMoARcPSD| 37054152
những nội dung khác nhau. Chính vì vậy ngôn ngữ tự nhiên thể hiện nội dung tư
tưởng đa dạng, phong phú, có hiện tượng đa trị về cấu trúc.
Thứ hai: những quy luật, quy tắc của logic là những quy luật, quy tắc hình
thức phổ quát và cố định. Trái lại, những quy luật, quy tắc của ngôn ngữ ngoài
đặc điểm về hình thức còn phụ thuộc và nội dung. Bên cạnh những quy luật phổ
quát, chung cho mọi người, còn có những quy luật, quy tắc này cũng không bất
biến mà thay đổi theo thời gian, không gian nhất định.
Quan điểm của triết học Mác - Ăngghen cho thấy, ngôn ngữ và tư duy đều
hình thành trong quá trình lao động của loài người. Nhờ lao động, con người
tách khỏi giới động vật, hình thành ý thức (trong đó có tư duy) và ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có
hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ thì ý thức nói chung và tư duy nói riêng
không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của
tuy duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người
không thể có ý thức. Ngôn ngữ là hình thức vật chất của các hình thức và quy
luật của tư duy. Con người không thể tư duy nếu không dùng tới ngôn ngữ.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời
là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ, con người mới có thể khái quát hóa, trừu
tượng hóa, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Mặt khác, ý thức, tư
duy không phải là một hiện tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng có
tính chất xã hội, do đó nếu không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn
ngữ thì ý thức, tư duy không thể hình thành và phát triển được. Tư duy lôgic đến
lượt nó lại giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt ngôn ngữ của mỗi người tốt
hơn, có hiệu quả hơn. Điều khác biệt giữa ngôn ngữ và tư duy logic là ở chỗ:
ngôn ngữ có tính cộng đồng, dân tộc, còn tư duy logic không mang tính cộng
đồng, tính dân tộc hay tính giai cấp mà nó mang tính thống nhất trên toàn thế
giới, nghĩa là ai cũng tư duy theo những hình thức, quy tắc, quy luật giống nhau.
Khái niệm, phán đoán, suy luận là các hình thức của tư duy, là các phạm
trù của logic học nhưng chúng được biểu thị thông qua ngôn ngữ: Khái niệm
được biểu thị bằng từ, ngữ; phán đoán được biểu thị bằng câu; suy luận được
biểu thị bằng chuỗi câu, đoạn văn. Cho nên, ngôn ngữ là một công cụ để tư duy.
Tuy nhiên, cần lưu ý là khái niệm không đồng nhất với từ, cụm từ; phán đoán
không đồng nhất với câu; suy luận không đồng nhất với chuỗi câu.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập logic học
Logic học giúp chúng ta chuyển từ tư duy logic tự phát sang tự giác.
Không phải đợi đến khi có khoa học logic con người mới suy nghĩ, lập luận một
cách logic mà con người đã có tư duy logic trước khi logic học ra đời. Những
việc thấu hiểu về logic học tự giác sẽ giúp chúng ta nhanh chóng tiếp cận, xử lý
vấn đề dẫn chúng ta đến con đường chân lý nhanh hơn. Còn giúp cho chúng ta
phát hiện ra sự sai lầm trong lập luận của người khác một cách nhanh chóng và lOMoARcPSD| 37054152
đồng thời ứng biến xử lí vấn đề một cách logic. Nắm vững tri thức logic học
giúp t lập luận, diễn giải cũng như chứng minh, bác bỏ vấn đề có sức thuyết
phục. Nó giúp chúng ta suy nghĩ chín chắn, tỉnh táo, đúng đắn, vững vàng hơn
khi đối mặt với các vấn đề đặc biệt là không gây mâu thuẫn.
Logic còn giúp chúng ta chính xác hóa ngôn ngữ thể hiện ở việc dùng
ngôn ngữ chính xác để miêu tả, trình bày, lập luận chứng minh các vấn đề đời
sống, khoa học và xã hội. Nó rèn luyện kỹ năng xác định những khác biệt trong
những tư tường có cách diễn đạt bằng lời gần giống nhau, ngược lại có những tư
tưởng giống nhau có thể những cách diễn đạt khác nhau.
6. Vai trò của các quy luật hình thức logic trong khoa học và xã hội 6.1 Toán học.
Hơn bất kì ngành khoa học nào khác toán học có đối tượng nghiên cứu là
các quan hệ và cấu trúc dưới dạng trừu tượng và khái quát nhất, nên toán học
cũng là địa hạt mà logic hình thức được ứng dụng một cách đầy đủ và rộng rãi
nhất. Và đến lượt mình toán học cung cấp các kiểu mô hình trừu tượng và các
phương pháp xử lý trong các mô hình trừu tượng đó cho các ngành khoa học
khác trong việc nghiên cứu và phân tích các đối tượng của mình. Logic hình
thức là công cụ của tư duy trừu tượng, do đó nó cũng là công cụ quan trọng của
mọi nhận thức khoa học.
Hệ thống các quy luật của logic hình thức đã được sử dụng ổn định trong
suốt hơn hai nghìn năm nay, và dường như tính đúng đắn của nó đã không còn
gì phải bàn cãi. Với các phương pháp tiền đề hóa và hình thực hóa của đầu thế
kỉ XX, logic hình thức dưới dạng cổ điển của nó, đã được chứng minh là phi
mâu thuẫn và đầy đủ.
Như đã nói ở trên, logic hình thức có hai giá trị, nó đòi hỏi mọi phán đoán
mà nó xét phải có giá trị đúng hoặc sai.
Nhưng trong thực tiễn đời sống, ta thường gặp nhiều phán đoán mà tính
đúng sai khó phân biệt được một cách rõ ràng. Trong trường hợp đó, ta có thể
tiến hành các lập luận logic được không? Nếu ta chỉ dừng lại ở Logic hình thức
cổ điển, có thể mở rộng để có các logic khác trong đó cho phép tiến hành phép
lập luận trên những tri thức mà tính đúng sai không được xác định rõ ràng hoặc
chỉ rõ ràng những mức độ khác nhau? Người ta đã phát triển nhiều lý thuyết
theo hướng đó, như logic nhiều giá trị, logic modal, logic mở, logic xác suất ...
6.2 Trí tuệ nhân tạo
Trong vài chục năm gần đây, việc ứng dụng ngày càng rộng rãi máy tính
điện tử đã thúc đẩy việc nghiên cứu và thực hiện tự động hoá nhiều quá trình
hoạt động từ tuệ về nguyên tắc, cho đến nay máy tính điện tử chỉ có thể thực
hiện được những quá trình mang tính chất thuật toán, nhưng liệu có thể chăng lOMoAR cPSD| 37054152
quy về thuật toán nhiều hoạt động trí tuệ của con người, nhất là khi máy tính có
tốc độ và năng suất tính toán cực lớn? Ngành trí tuệ nhân tạo ra đời, gần đây
được phát triển nhanh chóng, nhưng vẫn phát triển trong những tham vọng và những nghịch lý.
Để cho máy tính có khả năng trí tuệ "nhân tạo", thì phải cấp cho nó tổ
chức và khả năng tập luận, lý giải trên cơ sở tri thức đó như hoặc gần như con
người vốn có. Mà ngoài toán học và những gì liên quan đến toán học ra, thì tri
thức con người vốn có thường không chính xác và không chắc chắn. Không
chính xác vì nhiều khái niệm được sử dụng trong cuộc sống vốn không có nội
dung chính xác, không chắc chắn vì tuỳ sự kiện khách quan có thể chắc nhưng
ta không đủ khả năng để biết chắc, rõ ràng, với loại tri thức này thì logic hình
thức cổ điển hai giá trị không thể thích dụng được. Con người thực chúng ta
hàng ngày đã xử lý chúng như thế nào, ta cũng chưa biết rõ. Phải chăng cần có
những logic khác cho các loại tri thức đó? Và, nếu biết được các logic đó, phải
chăng ta có thể "thuật toán hóa" chúng để rồi cho máy tính bắt chước? Mô tả
tính không chính xác của tri thức bằng khái niệm mở (fuzzy), người ta đã xây
dựng lý thuyết logic mở, mô tả tính không chắc chắn của tri thức bằng một số đó
xác suất hoặc bằng một hàm tin tưởng (belief function), người ta đã phát triển
các lý thuyết logic xác suất và lý thuyết về sự tin tưởng...
Trí tuệ nhân tạo là trí tuệ mà con người gán vào cho máy. Không biết
đến bao giờ thì máy mới có được khả năng trừu tượng hóa như người để có thể
hình dung ra những thứ như "vô hạn", chứ như hiện nay thì dù có khả năng lưu
trữ hàng tỷ bytes, trí nhớ của máy vẫn luôn luôn là hữu hạn. Logic hình thức cổ
điển tự cho mình cái năng lực phổ dụng, bất chấp đối tượng là hữu hạn hay vô
hạn, vì vậy nó có thể không thích hợp với tri thức của máy. Thí dụ, nếu trong bộ
nhớ của máy lưu trữ một danh sách 1000 người toàn đàn ông, thì đối với câu hỏi
“có đàn bà trên thế gian này không” chắc chắn nó sẽ trả lời “không” hay khi lưu
trữ một danh sách 100 con bò trong trang trại và hỏi “có động vật nào khác
trong trang trại không” thì nó cũng sẽ trả lời là “không” . Tính hữu hạn và thiếu
khả năng tưởng tượng của máy buộc phải tìm cho nó những Logic khác, những
Logic này thường có tính chất không đơn điệu, nghĩa là việc mở rộng tri thức
không nhất thiết kéo theo việc mở rộng tập hợp các định lý của nó.
Việc nghiên cứu và phát triển nhiều lý thuyết logic kể trên có làm giảm
vai trò của Logic hình thức (cổ điển) trong tư duy trừu tượng của con người hay
không. Con người, trong hoạt động tư duy trừu tượng của mình vẫn chỉ dùng
Logic hình thức như trước hay đã dùng đồng thời nhiều Logic khác nhau. Có lẽ
câu trả lời thích đáng là: các loại Logic kể trên về thực chất là sự mô phỏng hoạt
động nhận thức của con người trong những tình huống tri thức khác nhau, sự mô
phỏng đó có thể có chút gì tương tự, nhưng không nhất thiết phù hợp với thực tế
nhận thức của con người trong các tình huống đó, điều mà đối với chúng ta vẫn
còn là bí ẩn. Vì vậy, các loại Logic đó cũng chỉ là những đối tượng của nghiên
cứu khoa học, được xem như đối tượng của tư duy chứ không phải là công cụ
của tư duy trừu tượng như Logic hình thức cổ điển. lOMoARcPSD| 37054152
Trên đây là trình bày sơ lược một vài nét phát triển của logic hình thức
và các vấn đề liên quan đến nó trong những năm gần đây. Ngày nay, khi khoa
học đã đạt đến trình độ phát triển cực kỳ rực rỡ thì cũng là lúc con người nhận
thấy rõ ràng rằng nhận thức bằng con đường khoa học không phải là phương
pháp duy nhất của nhận thức nói chung. Con đường khoa học, bằng tư duy trừu
tượng với việc vận dụng Logic hình thức nhằm đạt tới các quy luật phổ biến rồi
từ các quy luật phổ biến trở lại nhận thức cái cụ thể, dẫu là sâu sắc vẫn có tính
chất gián tiếp, và luôn cho ta những chân lý tương đối những sự thật xấp xỉ.
Ta đã từng biết các nhược điểm đó, và ta cũng từng tin rằng dẫu có nhược điểm
nhưng nhận thức không có cách nào khác. Nhưng phải chăng sự thật là thế, phải
chăng, cùng với phương pháp nhận thức khoa học, con người vốn vẫn có những
cách nhận thức khác, hình thức học và trừu tượng, mà là trực tiếp từ cụ thể đến
cụ thể, không nhất thiết trong một kiểu hòa nhập nào đó giữa chủ thể nhận thức
và đối tượng nhận thức? Và có thể chăng, trong bối cảnh đó ta sẽ xác định được
đúng đắn hơn vị trí và sức mạnh của tư duy trừu tượng và Logic hình thức trong
toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.
PHẦN 2: NỘI DUNG (CHÍNH)
CHƯƠNG 1: CẤU THÀNH CỦA SỰ CHỨNG MINH
Chứng minh khoa học và đời sống được sử dụng theo một tư duy logic để
chúng ta có thể chứng minh, các nghiên cứu, các vấn đề hay một sự hoài nghi
đời sống và xã hội là đúng đắn. Như ở đây ta sẽ nói đến vấn đề khoa học, khi
nghiên cứu khoa học thì phép chứng minh là điều không thể thiếu để đạt được sự
công nhận nhờ những lý luận và lập luận chặt chẽ. Nhờ nói như thế, chúng ta có
thể thấy rằng chúng ta không chỉ sử dụng chứng minh là một công cụ mà còn lấy
chứng minh là đối tượng thí nghiệm. Và theo như logic thì chứng minh thực chất
là một thao tác tư duy của con người chịu sự tác động của quy luật tư duy đầy
đủ. Đó chính là việc sử dụng luận cứ để lập luận tính đúng sai và tính chặt chẽ
của bất cứ luận đề nào mà ta đã đặt ra.
1.1 Chứng minh là gì?
Chứng minh là chứng tỏ sự đúng đắn của mệnh đề nào đó bằng cách dựa
vào các tri thức, sự kiện, chứng cứ đã biết, văn chứng minh là dạng đề văn sử
dụng các lí lẽ, chứng cứ xác thực để làm rõ nôi dung được đưa ra. Trong các hệ ̣
thống logic hình thức hóa phép chứng minh được hiểu là một chuỗi các mệnh đề
(công thức) kế tiếp nhau, trong đó mỗi mệnh đề (công thức) hoặc là một tiền đề
của hệ, hoặc là một mệnh đề đã được chứng minh từ trước, hoặc có thể rút ra từ lOMoARcPSD| 37054152
một số mệnh đề (công thức) đứng trước trong chuỗi theo một quy tắc của hệ,
mệnh đề cuối cùng của chuỗi là mệnh đề được chứng minh. Ví dụ:
Chứng minh:”Sinh viên Thảo học giỏi”.
Để chứng minh, nghĩa là lập luận nhằm khẳng định rằng Thảo học giỏi là
hoàn toàn đúng đắn, ta dựa vào các phán đoán mà tính chân thật đã được xác
nhận sau đây làm tiền đề:
+ Sinh viên Thảo được khen thưởng về thành tích học tập.
+ Ai không học giỏi thì không được khen thưởng về thành tích học tập.
Từ các tiền đề trên, chúng ta sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định để rút
ra kết luận điều cần chứng minh:
+ Ai không học giỏi thì không được khen thưởng về thành tích học tập.
+ Sinh viên Thảo được khen thưởng về thành tích học tập.
Chứng tỏ: Sinh viên Thảo học giỏi. 1.2 Luận đề:
Luận đề là là luận điểm đã được định hình, phát biểu rõ ràng bằng ngôn từ,
nhưng tính chân thực của nó còn cần phải được xác minh.Chẳng hạn, trong hình
học luận đề là các định lý khác nhau, cái này được rút ra từ cái khác và tất cả tạo
lên hệ thống khoa học chặt chẽ.Trong nhiều khoa học luận đề thường là giả
thuyết có lý luận và thực tiễn. Luận đề ta có thể hiểu đơn giản theo câu hỏi:
“Cần chứng minh để làm gì?”.
Về mặt logic học thì luận đề là phán đoán mà tính chuẩn xác của nó cần
phải được chứng minh. Mỗi luận đề cần phải được chứng minh, về khách quan
đều là một phán đoán có tính đúng hoặc sai.
Đôi khi để xác định giá trị này thì cũng phải trải qua quá trình nghiên cứu
chứng minh gian khổ, đôi khi nó dẫn ta vào ngõ cụt, đòi hỏi sự kiên trì mà người
nghiên cứu cần phải thực hiện. Luận đề có thể là các luận điểm lý luận nghiên
cứu khoa học như: các định lý trong toán học hay vật lý học… lOMoARcPSD| 37054152
Trong nghiên cứu kinh nghiệm, luận đề có thể là các kết quả khái quát các
dữ kiện cụ thể. Nhiều trường hợp luận đề là các phán đoán về thuộc tính, về
quan hệ hay về nguyên nhân tồn tại của sự vật hiện tượng nào đó.
Luận đề có thể là các luận điểm lý luận khoa học; ví dụ, trong toán học là
các định lí. Trong nghiên cứu kinh nghiệm, luận đề có thể là các kết quả khái
quát các dữ kiện cụ thể. Nhiều trường hợp luận đề là các phán đoán về thuộc
tính, về quan hệ hay về nguyên nhân tồn tại của sự vật và hiện tượng nào đó. Ví
dụ, trong y học trường hợp bác sĩ cần xác định một căn bệnh cụ thể của bệnh
nhân hoặc trường hợp nhà sử học cần nêu ra và chứng minh một sự kiện lịch sử nào đó… 1.3 Luận cứ
Luận cứ là bằng chứng (hiện vật) được đưa ra để chứng minh luận đề. Luận
cứ được xây dựng nhờ những thông tin thu được nhờ đọc tài liệu, quan sát, thí
nghiệm. Luận cứ sẽ trả lời cho câu hỏi: “Bằng chứng đâu?”. Về mặt logic thì
luận cứ là phán đoán mà tính chuẩn xác của nó được công nhận và sẽ trở thành
tiền đề để chứng minh luận đề.
Trong nghiên cứu khoa học có hai luận cứ:
+ Luận cứ lý thuyết luận cứ logic (hay cơ sở lý luận): là các cơ sở lý thuyết khoa
học, luận điểm khoa học, các tiền đề, định lý, định luật, quy luật đã được khoa học xác nhận là đúng.
+ Luận cứ thực tiễn: Là các phán đoán đã được xác nhận, hình thành bởi số liệu,
sự kiện được thu thập từ quá trình quan sát, thí nghiệm hay thực nghiệm.
Trong quá trình chúng ta chứng minh một luận đề nào đó, khi ấy chúng ta
có thể không sử dụng một mà phải sử dụng kết hợp nhiều loại luận chứng bên
trên đã nêu. Một trong những điều quan trọng nhất của chứng minh đó là thực
tiễn, khi mà thực tiễn đã chứng minh được điều đó là một chân thật của một luận
điểm thì không phải chứng minh tiếp nữa.
Hơn thế nữa, các định nghĩa khoa học cũng là nền tảng cho sự chứng minh,
mục đích chỉ ra rõ ràng các mắt xích các sự liên hệ của cả hệ thống khái niệm.
Tất cả các khái niệm đều được định nghĩa, định nghĩa khái niệm khoa học có thể lOMoARcPSD| 37054152
nói chính xác đó là sự phản ánh khách quan nhất đối với các sự vật sự việc hiện
tượng hay một vấn đề khoa học nào đó. Chúng chính là luận cứ vững chắc nhất
trong quá trình chứng minh của các công trình khoa học. 1.4 Luận chứng
Luận chứng là cách thức, quy tắc, phương pháp tổ chức một phép chứng
minh, nhằm vạch rõ mối quan hệ logic giữa các luận cứ và giữa toàn bộ luận cứ
với luận đề. Luận chứng trả lời cho câu hỏi:” Làm sao để chứng minh?”.
Trong nghiên cứu khoa học tồn tại hai luận chứng:
+ Luận chứng logic: Nó chính là một chuỗi suy luận, các sự kiện, vấn đề được
liên kết chặt chẽ lại với nhau theo trật tự và có với nhau các mắt xích (diễn dịch, quy nạp, loại suy).
- Suy luận diễn dịch là hình thức suy luận đi từ cái chung đến cái riêng, còn
suy luận quy nạp là đi từ cái riêng đến cái chung và loại suy đó là hình thức suy
luận đi từ cái riêng đến cái riêng.
+ Luận chứng ngoài logic: Bao gồm việc tiếp cận, thu thập thông tin.
Trong phương pháp tiếp cận thì ta có thể hiểu là nó là việc xem xét sự kiện,
và còn tùy thuộc vào phương pháp tiếp cận mà có thể xem xét sự việc đó một
cách toàn diện hoặc phiến diện.
Phương pháp thu thập thông tin có thể hiểu đơn giản nó là cách thiết lập
luận cứ khoa học, phương pháp thu thập thông tin có vai trò quyết định đến độ
chính xác và tin cậy của luận cứ đó. lOMoARcPSD| 37054152
CHƯƠNG 2 VẬN DỤNG LOGIC ĐỂ CHỨNG MINH LUẬN ĐỀ KHOA HỌC XÃ HỘI
Quá trình nghiên cứu khoa học đó là quá trình tìm kiếm luận cứ để chứng
minh hoặc bác bỏ luận đề khoa học đó nhằm đảm bảo tính chân lý của luận điểm
khoa học đó được đưa ra. Để làm việc này, chúng ta cần phải vận dụng một cách
triệt để tư duy logic để có thể tìm kiếm sai sót, lỗi sai, những điều không hợp lý
của vấn đề. Điều này sẽ kết thúc khi luận đề không còn khả năng bị bác bỏ từ bất
cứ vấn đề nào nữa thì lúc này chúng ta mới được phép công bố công trình khoa
học đến công chúng và toàn thế giới.
2.1 Các phương pháp chứng minh
Có hai phương pháp chứng minh là dùng sự chứng minh trực tiếp hoặc từ các phía gián tiếp.
2.1.1 Chứng minh trực tiếp
Chứng minh trực tiếp Là phép chứng minh trong đó, từ các luận chứng đã
cho, dựa vào các quy tắc suy luận ta suy luận ra luận đề.
Hay nói cách khác, là phép chứng minh mà chúng ta đưa ra những luận cứ
trực tiếp để chứng minh cho tính chân thực của luận đề. (chúng ta thường dùng trong khoa học) *Ví dụ:
Ta cho sơ đồ gọi O là luận đề cần đặt ra, ta có các luận cứ là A, B, C,…
còn E, F, H,… là các phán đoán trực tiếp được rút ra từ các luận cứ A, B, C với
tính chân thực cao. Từ các luận cứ A, B, C với tính chân thực cao. Từ đó ta có
thể thấy rằng khi mà E, F, H được chứng minh chân thật đúng thì chứng tỏ luận
đề O là chân thực là đúng đắn.
2.1.2 chứng minh gián tiếp
Chứng minh gián tiếp là chứng minh trong đó tính chân thực của luận đề
được rút ra trên cơ sở lập luận tính giả dối của phản luận đề. lOMoARcPSD| 37054152
Phản luận đề là phán đoán mâu thuẫn với luận đề. Chứng minh gián tiếp
chúng ta sử dụng khi không có bất cứ cơ sở nào để chứng minh trực tiếp, khi đó
chúng ta căn cứ vào phản luận đề.
Chứng minh gián tiếp được chia làm 2 loại: Chứng minh phản chứng và chứng minh phân liệt.
2.1.2.2 Chứng minh phản chứng
Phép chứng minh phản chứng đó chính là phương pháp chứng minh bằng
cách cho thấy rằng kịch bản ngược lại sẽ dẫn đến các điều vô lý hay một sự mâu
thuẫn. Chúng ta có thể hiểu đơn giản là nếu sự việc xảy ra nó đi theo hướng
ngược lại sẽ cho ra một kết quả vô lý, thì bắt buộc điều xảy ra với sự việc ở hiện
thực là bắt buộc theo hướng này chứng minh không thể theo hướng ngược lại.
2.1.2.2 Chứng minh phân liệt ( loại trừ )
Chứng minh phân liệt là chứng minh bằng cách loại trừ các khả năng và
sẽ chỉ giữ lại khả năng của mệnh đề. *Ví dụ:
Có một vụ cháy trong thành phố. Cơ quan điều tra chứng minh rằng
nguyên nhân gây ra vụ cháy này là bất cẩn khi đun nấu, hoặc do sự cố về điện,
hoặc do có kẻ cố tình đốt. Đó đã xác minh được thêm rằng lúc xảy ra vụ cháy
không hề có sự cố về điện nào, nguyên nhân có kẻ cố tình đốt cũng được loại
trừ, vậy chỉ còn khả năng cháy là do bất cẩn khi đun nấu.
Phương pháp chứng minh trực tiếp và phương pháp chứng minh gián tiếp
là những phương pháp lập luận độc lập, nhưng có thể sử dụng chúng đồng thời
với nhau. Trong quá trình lập luận. Việc sử dụng kết hợp chúng được thực hiện
không chỉ giúp khẳng định luận đề mà còn chỉ ra tính không bền vững của phản
luận đề. Sự kết hợp này không chỉ giúp tăng khả năng chính xác cho luận đề mà
còn khiến cho chúng trở nên đáng tin cậy và thuyết phục.
2.2 Bác bỏ các phương pháp bác bỏ
Lập luận bác bỏ đó chính là phương pháp logic nhằm xác định những lập
luận giả dối không có căn cứ của luận đề đã được nêu ra. Phán đoán cần bác bỏ
gọi là luận đề của bác bỏ. Các phán đoán dùng để bác bỏ gọi là luận cứ. lOMoARcPSD| 37054152
Trong quá trình nghiên cứu một luận đề, thì người nghiên cứu phải đảm
bảo từ luận đề cho đến các luận cứ được đưa ra phải đầy đủ và chính xác. Bởi vì
trong cả quá trình nghiên cứu khi chỉ cần tìm ra các điểm vô lý không logic thì
ngay lập tức giả thuyết đó bị bác bỏ lập tức.
Có 3 loại bác bỏ: Bác bỏ luận đề, luận cứ và cuối cùng là lập luận.
2.2.1 Bác bỏ luận đề
Bác bỏ luận đề thông qua bác bỏ dữ kiện: là cách bác bỏ hiệu quả cao nhất.
Trong cách bác bỏ này, người nghiên cứu cần đưa ra các sự kiện, các hiện
tượng thực tế, các số liệu thống kê, các số liệu khoa học,… Mâu thuẫn với luận
đề và dùng chúng làm căn cứ khoa học vững chắc để bác bỏ luận đề.
Bác bỏ luận đề thông qua chứng minh tính giả dối và kết quả khi rút ra từ
luận đề. Từ luận đề chúng ta có thể nêu ra được kết quả, chỉ cần trong kết quả đó
chúng ta có một trong các điểm vô lý từ kết quả so với thực tế hoặc với các luận
điểm đã chứng minh thì đã đủ để bác bỏ luận đề đó.
2.2.2 Bác bỏ luận cứ
Khi khẳng định tính đúng đắn của một luận đề, bao giờ tác giả đưa ra luận
đề cũng phải sử dụng các luận cứ để chứng minh. Nếu người phản biện chỉ ra
được tính giả dối hay nghi ngờ luận cứ nào đó sẽ làm cho luận đề đó bị bác bỏ
hoặc phải được chứng minh bằng luận cứ khác có cơ sở khoa học hơn. Nếu các
luận cứ điều không chân thật, thì rõ ràng luận đề sẽ không chân thật, khi đó luận đề sẽ bị bác bỏ.
Trong thực tế nhiều khi luận đề nêu ra là đúng đắn mà người nêu ra lại
không biết nêu ra các luận cứ và các lập luận chưa đủ sức thuyết phục thì đòi hỏi
người nêu ra phải lựa chọn các luận cứ hoặc phải bổ sung thêm các luận cứ, phải
xem xét các luận cứ khó khả năng chân thực không, có đủ cơ sở để chứng minh luận đề hay không.
2.2.3 Bác bỏ lập luận ( luận chứng )
Phương pháp này được sử dụng khi phát hiện các lập luận không liên kết
và logic với nhau giữa các luận đề và luận cứ, dùng để chỉ ra sai lầm trong các
hình thức chứng minh. Sai lầm dễ mắc phải nhất đó chính là lựa chọn luận cứ lOMoARcPSD| 37054152
đúng đắn, chân thực nhưng lại không có mối liên kết logic với luận đề để có thể
rút ra được tính đúng đắn của luận đề.
2.3. Các quy tắc của chứng minh và một số vi phạm khi chứng minh
Khi sử dụng phép chứng minh để chứng minh một luận đề khoa học,
người nghiên cứu khoa học phải nắm vững các quy tắc của phép chứng minh, đó
là quy tắc của luận đề, quy tắc của luận cứ, quy tắc của luận chứng.
2.3.1. Quy tắc của luận đề
Luận đề phải xác định và phải đồng nhất với chính nó trong suốt quá
trình chứng minh. + Luận đề phải xác định
Khi tiếp cận với một luận đề, việc đầu tiên của người luận chứng là phải
xác định, tức là phải làm rõ, định rõ luận đề. Để làm được điều này, trước tiên về
khách quan, bản thân luận đề đưa ra phải rõ ràng, tức là phải bảo đảm tính xác
định. Đối với luận đề là phán đoán phức, tính xác định của luận đề đồng nghĩa
với tính xác định về loại của phán đoán làm luận đề. Tuy nhiên, vì luận đề được
thể hiện dưới dạng phán đoán, mà phán đoán lại do các khái niệm liên kết với
nhau tạo thành, nên nói đến tính xác định của một luận đề chủ yếu là nói đến
tính xác định về nội dung của các khái niệm cấu thành nó. Một luận đề mà các
khái niệm cấu thành nó được diễn đạt một cách mơ hồ, hiểu thế nào cũng được
thì cuộc tranh luận sẽ không đạt hiệu quả, và dĩ nhiên là luận đề đó đã vi phạm quy tắc này.
*Ví dụ: Hai quốc gia A và B sau quá trình đàm phán đã ký kết với nhau một
giao ước rằng từ nay về sau, nếu bên này muốn làm gì thì bên kia giúp. Đây là
một giao ước có phạm vi phản ánh rộng đến mức mơ hồ vì cụm từ “muốn làm
gì” có thể được hiểu là “muốn làm bất cứ việc gì, vô điều kiện”. Thế cho nên
nếu như sau đó A muốn đem quân xâm lấn lãnh thổ của B mà B không giúp thì B sẽ phạm ước.
+ Luận đề phải đồng nhất với chính nó trong suốt quá trình chứng minh.
Quy tắc này yêu cầu luận đề đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ trước sau
phải là một. Nếu yêu cầu này không được tuân thủ thì sẽ phạm lỗi logic đánh lOMoAR cPSD| 37054152
tráo luận đề. Trong một phép chứng minh, luận đề có thể bị đánh tráo dưới nhiều
dạng khác nhau. Ở đây xin trình bày ba dạng đánh tráo tiêu biểu.
Một là, đánh tráo điều kiện mà phán đoán làm luận đề được khái quát.
*Ví dụ: Luận đề “Tổng ba góc trong của một tam giác bằng 180 độ” được người
chứng minh đưa ra trong hình học phẳng lại bị người khác bác bỏ vì đánh tráo
vào trong hình học không gian;
Hai là, đánh tráo luận đề với người có liên quan tới luận đề. *Ví dụ:
Để chứng minh cho luận đề “Luận văn của học viên A rất tốt”, thay vì dựa vào
những đóng góp đích thực về mặt khoa học của bài tiểu luận, người chứng
minh lại dựa vào năng lực, phẩm chất của học viên A, đại loại như A là một
học viên giỏi, có tư cách đạo đức tốt…Như vậy ở đây người chứng minh đã
đánh tráo luận đề “Luận văn của học viên A rất tốt” bằng việc chứng minh
luận đề “ A là người rất tốt”;
Ba là, đánh tráo khái niệm cấu thành luận đề.
*Ví dụ: Để chứng minh cho luận đề “Giáo viên này dạy rất hay” người chứng
minh lại chứng minh rằng “ Giáo viên này nói chuyện rất hay”. Nói chuyên rất
hay khác xa với dạy rất hay. Hoặc lúc đầu đưa ra luận đề “Giáo viên này dạy rất
hay”, sau đó lại chứng minh “ Giáo viên này dạy không dở”, (thực tế dạy không
dở chưa hẳn là đã hay mà có khi chỉ ở mức bình thường). So với hai dạng đầu,
dạng thứ ba “đánh tráo khái niệm cấu thành luận đề” là dạng hay bị mắc lỗi hơn.
Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do rất nhiều khi người làm nghiên cứu thiếu
một sự hiểu biết thống nhất chắc chắn về lĩnh vực mà khái niệm cấu thành luận
đề phản ánh. Để hạn chế lỗi này, trong một luận đề, hoặc rộng ra là đầu đề của
bài viết, bài nghiên cứu, nếu có khái niệm nào cơ bản, đặc biệt là khái niệm cơ
bản có nhiều cách hiểu khác nhau, thì phải xác định rõ nội dung của nó theo
nghĩa của bài viết và giữ nguyên nội dung ấy trong suốt quá trình chứng minh.
2.3.2. Quy tắc của luận cứ.
Luận cứ phải đủ để suy ra tính chất đúng đắn của luận đề. Đối lập với luận
cứ đủ là luận cứ thiếu. Nếu như luận cứ đủ liên quan đến luận cứ đúng, luận cứ
rõ ràng, không mâu thuẫn và luận cứ đã được chứng minh, thì luận cứ thiếu lại
liên quan đến luận cứ sai, luận cứ mơ hồ, mâu thuẫn và luận cứ chưa được lOMoAR cPSD| 37054152
chứng minh. Theo quan điểm logic, một luận cứ đúng có khi là chưa đủ, còn một
luận cứ đủ có nghĩa là nội dung của nó đã đảm bảo đúng. Tóm lại, quy tắc “luận
cứ phải đủ” có phạm vi bao quát rất rộng. Nó bao hàm cả các quy tắc “ Luận cứ
không được mơ hồ”, “ Luận cứ không được mâu thuẫn”, “ Luận cứ đã được chứng minh”.
*Ví dụ 1: Sai do nội dung không phù hợp với thực tế.
- A: Này B cậu có vợ rồi hả? - B: Thưa anh, đúng ạ!
- A: Nói bậy, tôi đã xem túi của cậu và thấy túi cậu có tiền.
Trong đối thoại trên, A đã quả quyết rằng B chưa có vợ. Để chứng minh
điều đó A đã dựa vào căn cứ chủ quan của A “ Nếu có vợ thì không có tiền trong
túi vì vợ đã giữ hết tiền” Nhưng B lại có tiền trong túi, chứng tỏ B chưa có vợ.
Phép lập luận này đúng logic nhưng luận đề lại thiếu sức thuyết phục vì sử dụng
luận cứ ngầm ẩn (nếu có vợ thì không có tiền trong túi) là một phán đoán sai do
dựa vào tính chủ quan của A.
*Ví dụ 2: Sai do quan hệ giữa luận cứ với luận cứ không phù hợp với quy luật
của tư duy. C là người bị tình nghi là thủ phạm của một vụ trọng án xảy ra tại
Vũng tàu. Qua điều tra, công an thu thập được một số thông tin trái ngược nhau:
Một thông tin khẳng định trong thời điểm xảy ra vụ án, C có mặt ở Vũng Tàu;
Một thông tin khác lại khẳng định trong thời điểm ấy, C có mặt ở Phan Thiết,
theo quy luật cấm mâu thuẫn, hai thông tin này có ít nhất một cái sai.
*Ví dụ 3. Luận cứ thiếu do mơ hồ.
Để chứng minh một hành vi phòng vệ nào đó là chính đáng, người chứng
minh dựa vào định nghĩa “Phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả tương xứng
với hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng của cá nhân, tập thể, hay của người
khác bị xâm phạm”. Thực sự thì định nghĩa trên rất mơ hồ trong phạm vi áp
dụng vì rất khó xác định được rằng chống trả ở mức độ nào thì được gọi là tương xứng.
*Ví dụ 4. Luận cứ thiếu do chưa được chứng minh. lOMoARcPSD| 37054152
Để chứng minh cho luận đề “Vụ khủng bố tại đảo Bali Indonesia không
liên quan đến Bin Laden” người chứng minh dựa vào luận cứ “Vì Bin Laden đã
chết”. Nhưng ở thời điểm xảy ra chứng minh việc xác định “ Bin Laden đã
chết” lại là một điều đang cần phải chứng minh, do đó, luận cứ dùng là sai.
2.3.3. Quy tắc của luận chứng.
Luận chứng không được dài dòng, luẩn quẩn, luận chứng phải tuân theo
các quy luật, quy tắc của tư duy. Sự dài dòng sinh ra có thể là do trong quá trình
chứng minh người thực hiện đã sử dụng những luận cứ sai, nhưng cũng có khi là
do không biết tổ chức, sắp xếp luận cứ, không nắm vững quy tắc của loại suy
luận mà mình sử dụng Tóm lại, nói đến luận chứng là nói đến nghệ thuật của lập
luận. Nhiệm vụ của lập luận là tổ chức, sắp xếp, liên kết luận cứ, sao cho từ đó,
bằng con đường ngắn nhất xác định được mối liên hệ logic giữa luận cứ và luận
đề. Cơ sở để xác lập mối liên hệ này là các quy tắc, quy luật của tư duy. Vì thế,
trong một phép chứng minh, chỉ cần một mối liên hệ nào đó giữa luận cứ và luận
đề không phù hợp với những quy tắc, quy luật này thì người chứng minh sẽ
phạm sai lầm về luận chứng và luận đề cần chứng minh không mang tính thuyết phục. PHẦN 3: KẾT LUẬN
Logic hình thức góp phần điều chỉnh tư duy, nhận thức, tìm ra con đường
đúng đắn đi tới chân lý, phát hiện và loại trừ sai lầm trong tư duy lí luận. Do đó,
với mỗi người làm khoa học, sự hiểu biết về logic hình thức là rất cần thiết. Nắm
vững và tự giác tuân theo các quy luật và quy tắc của logic chúng ta sẽ xây dựng
được thói quen tư duy chính xác, sẽ có năng lực phân tích một cách logic những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Bất kỳ tri thức
khoa học nào cũng phải được thực tiễn kiểm nghiệm. Không được thực tiễn lOMoARcPSD| 37054152
kiểm nghiệm thì bất cứ một luận điểm nào, dù đã được chứng minh chặt chẽ về
mặt lý luận cũng chưa được công nhận là luận điểm khoa học đáng tin cậy.
Trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội, một mặt, phải rút ra kết
luận khoa học trên cơ sở của các tri thức chân thực đã biết theo các quy luật và
quy tắc của tư duy. Mặt khác, phải dùng thực tiễn để kiểm nghiệm lại lý luận.
Hai mặt lý luận và thực tiễn phải gắn liền, liên kết chặt chẽ, hữu cơ với nhau.
Bởi vậy, muốn đạt kết quả cao trong nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn
thì trước hết phải nắm vững logic hình thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vương Tất Đạt (2001), Logic học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội.
2. Phan Trọng Hòa (2003), Logic học, Nhà xuất bản Thuận Hóa.
3. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản
khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
4. Lê Tử Thành (1996), Logic học & phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản Trẻ.
5. Bài giảng môn Logic học tháng 5/2005 của GS.TS. Bùi Thanh Quất.