













Preview text:
BÀI TIỂU LUẬN MÔN:
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: Phân tích sự hình thành và phát triển nhân cách.
Hãy liên hệ với bản thân.
Giảng viên hướng dẫn
: Nguyễn Hải Thanh
Sinh viên thực hiện
: Trần Thảo Phương MSSV : NNA49C11028
Lớp hành chính : NNA49C1
Lớp tín chỉ : TLHĐC.2_LT Hà Nội 2023 1
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự tiến bộ của nhân loại, nhân cách ngày càng được coi trọng và
đòi hỏi sự phát triển toàn diện. Nó là tiền đề, là cơ sở để nhìn nhận giá trị và đánh
giá bản chất của một con người. Đặc biệt trong thời kì đổi mới, khi nước ta đã
bước vào giai đoạn mở cửa kinh tế, hội nhập toàn cầu và tham gia vào các tổ chức
lớn trên thế giới thì yêu cầu về nhân cách lại được đặt ra một cách cấp thiết, bởi
những giá trị nhân cách trước đây của chúng ta sẽ dần thay đổi theo hướng tích cực
hoặc cũng có thể tiêu cực. Vì thế cần phải ý thức được những nhân tố có thể tác
động và làm thay đổi nhân cách của mỗi cá nhân, có sự hiểu biết thì con người ta
mới có thể dễ dàng định hướng nhân cách của mình, từ đó có sự rèn luyện phù hợp
với yêu cầu của xã hội .
Nhìn chung, nhân cách được hình thành và phát triển trong một quá trình lâu
dài và phức tạp, khi nghiên cứu về nhân cách thì những nhân tố là vấn đề đầu tiên
và then chốt cần phải nhắc đến. Hiểu được vấn đề đó nên tôi đã chọn đề tài “Phân
tích sự hình thành và phát triển nhân cách” với nội dung chính là phân tích những
yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển nhân cách. 2 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 2
NỘI DUNG ......................................................................................................... 3 I.
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
1. Những quan niệm khác nhau về nhân cách… ............................... 4
2. Khái niệm nhân cách trong Tâm lý học ........................................ 4 II.
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. Yếu tố di truyền… ...........................................................................5
2. Yếu tố môi trường… ...................................................................... 7
a. Môi trường tự nhiên ................................................................7
b. Môi trường xã hội .................................................................. 7
3. Yếu tố giáo dục ............................................................................... 8
4. Yếu tố hoạt động… ....................................................................... 10
5. Yếu tố giao tiếp… .......................................................................... 11
6. Yếu tố tập thể ................................................................................ 11 III.
LIÊN HỆ BẢN THÂN ............................................................................ 12
KẾT LUẬN........................................................................................................ 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 14 3
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
1. Những quan niệm khác nhau về nhân cách
Nhân cách là một khái niệm rộng và phức tạp của Tâm lý học. Ở mỗi
góc độ khác nhau, các tác giả có những định nghĩa khác nhau về nhân cách.
a. Một số quan niệm sai lầm về nhân cách:
Có những quan niệm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng trong
nhân cách, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược lại, một số quan điểm
chỉ chú ý tính đơn nhất, có một không hai của nhân cách. Chẳng hạn như
quan niệm sinh vật hóa nhân cách, coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc
điểm hình thể (Krest Chmev), ở góc mặt (C. Lombrozo), ở thể trạng
(Sheldon), ở bản năng vô thức (S. Freud), v.v; hay quan điểm xã hội học hóa
nhân cách, lấy các quan hệ xã hội để thay thế một cách đơn giản, máy móc
các thuộc tính của cá nhân đó.
b. Quan niệm khoa học về nhân cách:
Theo A.G. Kovaliov thì “nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm
một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội
nhất định”. E.V. Sorokhova lại cho rằng “nhân cách là con người với
tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý, quy định
hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội”. Còn với V.S.
Mukhina, “nhân cách là cá thể hóa ý thức xã hội”. Có thể thấy dưới
góc nhìn của các nhà tâm lý học, nhân cách là một phạm trù xã hội, có
bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung
của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội được chuyển vào trong mỗi con người
2. Khái niệm nhân cách trong Tâm lý học
Nhìn chung, nhân cách được định nghĩa là tổ hợp những đặc điểm,
những thuộc tính tâm lý của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội của con người.
Nói thuộc tính tâm lý là nói hiện tượng tâm lý có tính ổn định vì nó
không thay đổi một cách đột ngột nhưng có thể thay đổi trong quá trình phát
triển của con người, nó có tính quy luật chứ không phải xuất hiện một cách
ngẫu nhiên. Dùng từ “tổ hợp” bởi lẽ những thuộc tính tâm lý có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và tạo thành một hệ thống thống nhất.
“Bản sắc” là những cái chung của xã hội, giai cấp, gia đình trở thành cái
riêng, cái khác biệt của mỗi người, không trùng lặp với các tổ hợp khác của 4
bất kì người nào khác. “Giá trị xã hội” mang ý là những thuộc tính đó thể
hiện qua cách ứng xử, hành vi, hành động thường xuyên của con người và
được xã hội đánh giá.
Như vậy nhân cách là sự tổng hòa không phải các đặc điểm cá thể của
con người, mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành
viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý – xã hội, giá trị và cốt cách làm người
của mỗi cá nhân. Những thuộc tính tâm lý tạo thành nhân cách thường biểu
hiện trên ba cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ
biểu hiện ra bằng hoạt động và các sản phẩm của nó.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Con người sinh ra không phải đã có sẵn nhân cách và nhân cách cũng
không được bộc lộ dần từ các bản năng nguyên thủy. Nhân cách của con
người được tạo nên trong quá trình sống, học tập, làm việc, vui chơi, giao
tiếp với xã hội. Sự hình thành nhân cách là một quá trình lâu dài và chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố: bẩm sinh - di truyền, môi trường tự nhiên và hoàn
cảnh xã hội, giáo dục, hoạt động cá nhân, v.v. Trong sự hình thành và phát
triển nhân cách con người thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể có vai trò quyết định
1. Yếu tố di truyền
Theo sinh vật học hiện đại, di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể
sống, đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật
đối với thế hệ trước. Nói cách khác, di truyền là quá trình truyền đạt các đặc
điểm từ cha mẹ sang con cái. Những đặc điểm này có thể là về hình thái, cấu trúc, chức năng,v.v.
Trong khi đó, bẩm sinh là những đặc điểm cơ thể được hình thành từ
khi còn trong bụng mẹ, không phụ thuộc vào môi trường sống. Bẩm sinh bao
gồm cả những đặc điểm di truyền và những đặc điểm hình thành do sự phát
triển của cá thể trong môi trường bào thai.
Ví dụ, một đứa trẻ sinh ra có đôi mắt màu xanh là do gen di truyền từ
cha mẹ. Tuy nhiên, kích thước và hình dáng của mắt lại là do sự phát triển
của cá thể trong môi trường bào thai.
Bẩm sinh - di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần
kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Mỗi cá nhân khi sinh ra đều có một
số đặc điểm, bao gồm các đặc điểm cấu trúc và chức năng của các giác quan 5
và não. Các đặc điểm của hoạt động thần kinh ở mức độ cao (cường độ, sự
cân bằng và tính linh hoạt của các quá trình thần kinh) được biểu hiện ngay
từ những ngày đầu tiên trong cuộc đời của mỗi cá nhân.
Bất cứ một chức năng tâm lý nào mang bản chất con người của nhân
cách chỉ có thể phát triển trong hoạt động của cá nhân đó và trong xã hội loài
người. Cùng một kiểu hệ thần kinh nhưng nhiều loại năng lực, nhiều loại
tính cách có thể được hình thành và ngược lại, phụ thuộc vào môi trường,
nhu cầu và sự rèn luyện. Ví dụ, một bạn học sinh có thể được thừa hưởng
khả năng chơi piano từ mẹ, nhưng nếu không có điều kiện học tập và rèn
luyện thì bạn học sinh đó cũng không thể trở thành một người chơi piano giỏi.
Mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh
thần của mình. Hoạt động tâm - sinh lý của con người còn có khả năng bù
trừ, khi thiếu hụt một giác quan này thì một giác quan khác có thể tăng độ
nhạy cảm (một người bị mù thì thính giác của họ rất phát triển), cũng như
một chức năng tâm lý bị hủy hoại có thể được khôi phục bằng cách luyện tập
để thiết lập một hệ thống chức năng trên vỏ não ứng với chức năng tâm lý
đó. Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát
triển lứa tuổi và đối với từng hoạt động cụ thể là khác nhau.
Ngoài những vai trò trên, yếu tố di truyền còn có thể ảnh hưởng đến
sự hình thành và phát triển nhân cách của con người theo một số cách thức
khác. Chẳng hạn, yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng đến khả năng thích ứng
của con người với môi trường sống. Những người có gen di truyền tốt về thể
chất và tinh thần sẽ có khả năng thích ứng với môi trường sống tốt hơn, từ
đó có cơ hội phát triển nhân cách một cách toàn diện hơn.
Bên cạnh đó, yếu tố di truyền cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng
tiếp thu và lĩnh hội tri thức của con người. Những người có gen di truyền tốt
về trí tuệ sẽ có khả năng tiếp thu và lĩnh hội tri thức tốt hơn, từ đó có cơ hội
phát triển nhân cách một cách toàn diện hơn.
Tóm lại, yếu tố di truyền đóng là yếu tố cơ sở, nền tảng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách của con người. Tuy nhiên, cần hiểu rằng
di truyền không hoàn toàn quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách
của con người mà cần phải đi kèm với yếu tố sinh học.
2. Yếu tố môi trường
Môi trường là tổng thể các yếu tố tự nhiên và xã hội tác động đến đời 6
sống con người và sinh vật. Môi trường bao gồm yếu tố tự nhiên (khí hậu,
đất, nước,v.v) và yếu tố xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục,v.v)
a. Môi trường tự nhiên:
Mỗi vùng đất - nơi mỗi dân tộc sinh sống và phát triển đều có những
đặc điểm địa lý độc đáo như khí hậu, đất đai, khoáng sản, v.v, phục vụ cho
đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Và những điều kiện ấy đã ảnh
hưởng đến đặc thù của các ngành nghề, những phương thức hoạt động của
con người trong tự nhiên và những nét riêng trong sáng tạo nghệ thuật. Nói
cách khác, nhiều phong tục tập quán có nguồn gốc từ hoàn cảnh tự nhiên,
tâm lý con người ở đó cũng có thể chịu ảnh hưởng từ đó. Nhân cách như là
một thành viên trong xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông
qua những giá trị vật chất và tinh thần, những bản sắc văn hóa và nghề
nghiệp của người bản địa.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến trái chiều giữa một số nhà tâm lý
học hiện đại và một số tác giả của tâm lý học phương Tây về vai trò của
hoàn cảnh tự nhiên. Trong khi những nhà tâm lý học hiện đại đấy cho rằng
điều kiện tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định trong sự phát
triển tâm lý nhân cách thì nửa kia lại đề cao vai trò của điều kiện sống tự nhiên. b. Môi trường xã hội:
Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ xã hội tác động đến đời
sống con người và sinh vật. Một cá thể chỉ có thể trở thành con người và có
nhân cách khi người đó được sinh ra và lớn lên, tiếp xúc với xã hội loài
người. Nhân cách là một sản phẩm của xã hội, có nghĩa là một đứa trẻ phải
được tiếp xúc với con người, học hỏi những điều trong cuộc sống của con
người thì mới có thể phát triển nhân cách.
Điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển nhân cách con người. Kinh tế càng phát triển thì nhân cách con
người càng được coi trọng và đòi hỏi phát triển nhiều hơn. Con người phải
trở thành những người có đức, có tài như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói
“Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó”, họ phải là những người có trách nhiệm, dám nghĩ, dám
làm. Bởi vậy, có thể nói điều kiện kinh tế - xã hội tác động trực tiếp đến mục
tiêu và định hướng giá trị cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. 7
Tâm lý nhân cách còn phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật.
Quan hệ chính trị là cơ sở để hình thành hệ thống giá trị của con người.
Trong xã hội có giai cấp, hệ thống giá trị thường được chia thành hệ thống
giá trị của giai cấp thống trị và hệ thống giá trị của giai cấp bị trị. Vị trí của
giai cấp cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở các mức độ khác nhau
trong xã hội. Ý thức chính trị là một bộ phận quan trọng của nhân cách, nó
thể hiện thái độ, quan điểm của con người đối với các vấn đề chính trị - xã
hội. Quan hệ chính trị tác động đến việc hình thành ý thức chính trị của con
người thông qua việc giáo dục, tuyên truyền,v.v, của nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong tất cả những mối quan hệ xã hội được nêu ở trên, nhân cách
không chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể. Cá nhân là một tồn tại có
ý thức, nó có thể lựa chọn phương thức sống của mình và lựa chọn những
phản ứng khác nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội.
Trong môi trường xã hội, nhân cách của cá nhân có thể bị ảnh hưởng
bởi tâm lý của xã hội. Các hành vi của cá nhân được đánh giá bởi nhiều
người, được gọi là dư luận và tâm trạng chung. Điều này có thể mang đến
tích cực hay tiêu cực trong cuộc sống đều phụ thuộc vào sự bịa đặt hay sự
thật. Nó nảy sinh, phát triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng trở lại
tâm trạng đó. Tâm trạng chung là trạng thái cảm xúc chung của một nhóm
người, cho dù là lạc quan hay bi quan thì mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng
bởi bầu không khí đấy. Ví dụ toàn dân Việt Nam hướng về ngày kỷ niệm
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong không khí tưng bừng, phấn khởi.
3. Yếu tố giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của xã hội, là quá trình tác động
tự giác, chủ động đến con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách
con người theo yêu cầu của xã hội.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà
trường, xã hội, bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác đến con
người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như là quá trình tác động đến tư
tưởng, đạo đức hành vi của con người.
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục đóng vai
trò chủ đạo, điều đó được thể hiện qua những điều sau đây: 8
Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách. Giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định, hình thành một
mẫu người cụ thể cho xã hội - một mô hình nhân cách phát triển đáp ứng
những yêu cầu của cuộc sống.
Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi
phối sự hình thành và phát triển nhân cách, đồng thời mang lại những cái
khác mà yếu tố bẩm sinh - di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem
lại được. Chẳng hạn, một đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật và phát triển
bình thường thì đến một giai đoạn nào đó sẽ biết nói nhưng để có thể đọc
sách thì đứa trẻ đó phải học.
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do bệnh tật gây nên.
Ví dụ, nhờ phương pháp dạy chữ nổi mà những người bị khiếm thị có thể
phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.
Với mục đích hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục tác động
tới con người một cách hiệu quả nhất vì nó dựa trên các thành tựu của
nghiên cứu: các quy luật nhận thức, quy luật tâm lý xã hội, v.v.
Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau lĩnh hội,
tiếp thu nền văn hóa xã hội – lịch sử để tạo nên nhân cách của mình (qua các
mặt nội dung giáo dục). Giáo dục đưa con người, đưa thế hệ trẻ vào “vùng
phát triển gần nhất”, vươn tới những cái mà thế hệ trẻ sẽ có, tạo cho thế hệ
trẻ một sự phát triển nhanh, mạnh, hướng về tương lai.
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động tự
phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều
hướng mong muốn của xã hội. Ví dụ như công tác giáo dục trẻ em hư, cải
tạo lao động đối với người phạm pháp.
Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã
hội chỉ ảnh hưởng tới cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Chẳng hạn, mục tiêu
giáo dục của chúng ta là xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa.
Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã
chứng minh rằng sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách
tốt đẹp trong điều kiện của sự dạy học và giáo dục.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo quyết định sự hình thành và phát triển
nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục. Giáo dục
không phải là vạn năng, cần phải tiến hành giáo dục trong mối quan hệ hữu
cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng 9
nhau trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ nhóm và tập thể. Giáo dục
không tách rời với tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
4. Yếu tố hoạt động
Mọi tác động của giáo dục đều là vô nghĩa nếu thiếu hoạt động của cá
nhân. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định
trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là
hoạt động có mục đích, mang tính xã hội. mang tính cộng đồng, được thực
hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Vì vậy,
mỗi loại hoạt động đều yêu cầu con người có những phẩm chất và năng lực
nhất định. Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành và
phát triển những phẩm chất và năng lực đó. Từ đó, nhân cách của con người
cũng được hình thành và phát triển.
Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động
mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã
hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách. Mặt khác,
cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm “lực lượng bản chất” (sức
mạnh của thần kinh, cơ bắp, trí tuệ, năng lực) vào xã hội, “tạo nên sự đại
diện nhân cách của mình” ở người khác trong xã hội.
Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi người phụ thuộc vào hoạt
động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách, con
người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau, trong đó đặc biệt
chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn, tổ chức và
hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với
việc hình thành và phát triển nhân cách. Việc đánh giá hoạt động là rất quan
trọng trong việc hình thành nhân cách. Việc đánh giá sẽ chuyển dần thành tự
đánh giá, giúp con người thấm nhuần những chuẩn mực, những biểu giá trị
xã hội, trở thành lương tâm của con người.
Khác với động vật, hoạt động của con người là hoạt động có mục
đích, có ý thức. Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng
với sự hình thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức.
Hoạt động của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của
con người với sự vật mà cả trong mối quan hệ với người khác.
5. Yếu tố giao tiếp
Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chính thể tâm lý 10
sống động, những nhân cách hoàn chỉnh.
Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển sự tiếp xúc giữa các cá
nhân xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động.
Giao tiếp là hiện tượng xã hội, mang tính xã hội. Hoạt động này xác
lập và vận hành các quan hệ người - người. Giao tiếp làm nảy sinh quan hệ
liên nhân cách và chỉ được thực hiện qua các liên hệ nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của các cá nhân và xã hội loài người.
Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm
nhất ở con người. C. Mác đã chỉ ra rằng: “Sự phát triển của một cá nhân
được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp
một cách trực tiếp và gián tiếp với họ”. Chính con người làm xuất hiện, duy
trì, phát triển giao tiếp và trở thành sản phẩm của giao tiếp.
Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, “tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành
bản chất con người, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài
lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức về người khác, về xã
hội mà còn nhận thức về chính bản thân mình, tự đối chiếu với người khác,
với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân như một nhân cách, để hình
thành một thái độ giá trị – cảm xúc nhất định đối với bản thân. Hay nói khác
đi, qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
Có thể nói, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người –
người, là một nhân tố cơ bản của việc hình thành, phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách. Song hoạt động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn ra
trong cộng đồng, trong nhóm và tập thể.
6. Yếu tố tập thể
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường
xã hội. Song con người lớn lên và trở thành nhân cách không phải là trong
môi trường xã hội trừu tượng, chung chung, mà trong môi trường xã hội cụ
thể: gia đình, làng xóm, quê hương, khu phố, là các nhóm, cộng đồng và tập
thể mà nó là thành viên. Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nôi đầu tiên mà nhân
cách con người được hình thành từ ấu thơ. Con người là thành viên của các
nhóm nhỏ: nhóm chính thức, nhóm không chính thức, nhóm thực và nhóm
quy ước. Các nhóm nhỏ như gia đình, nhóm bạn thân, lớp học, tổ công tác…
có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Các nhóm 11
có thể đạt tới trình độ phát triển cao được gọi là tập thể. Tập thể là một nhóm
người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung,
phục tùng các mục đích của xã hội.
Nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển
nhân cách. Trong nhóm và tập thể diễn ra các hình thức hoạt động đa dạng,
phong phú (vui chơi, học tập, lao động, hoạt động xã hội) và các mối quan
hệ giao tiếp giữa các cá nhân và cá nhân, cá nhân với nhóm, nhóm với nhóm
ảnh hưởng của xã hội, các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm và tác
động đến từng người. Ngược lại mỗi cá nhân tác động đến cộng đồng, tới xã
hội, tới cá nhân khác cũng thông qua các tổ chức nhóm và tập thể mà nó là
thành viên. Tác động của tập thể đến nhân cách thông qua hoạt động cùng
nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lý tập thể.
Vì thế trong giáo dục thường vận dụng nguyên tắc giáo dục bằng tập thể và trong tập thể.
III. LIÊN HỆ BẢN THÂN
Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có sự phát triển nhân cách của riêng
mình và sự tác động của các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển
của nhân cách cũng khác nhau nhưng bất kì thời đại nào, đất nước nào đều
có những nhân cách lớn. Nhân loại xưa tự hào vì có nhà bác học Darwin với
câu nói nổi tiếng: “Bác học không có nghĩa là ngừng học”. Nhân dân Việt
Nam tự hào vì lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Và thế hệ trẻ nước ta ngày nay
phải vươn tới sự hoàn thiện về nhân cách để đưa đất nước chuyển mình,
ngày càng phát triển và hội nhập toàn cầu. Nhận thức được vai trò của các
yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, kết hợp với những kiến
thức về thực tế, xã hội, bản thân mỗi người có thể xác định phương thức
phát triển nhân cách cho phù hợp.
Chúng ta đang sống trong một môi trường năng động, một nền kinh tế
thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa, có rất nhiều điều kiện để thúc đẩy
quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Hoàn cảnh sống như thế cũng
đòi hỏi con người phải có năng lực, có đủ đức và tài, dám tiên phong đi đầu, đổi mới sáng tạo.
Bản thân là một sinh viên, tôi luôn nhận thức được tầm quan trọng của
việc học tập và rèn luyện, luôn cố gắng học hỏi và hoàn thiện bản thân để có
một nhân cách tốt đẹp. Trước hết là về chuyên ngành tôi đang theo học, tôi 12
không ngừng cố gắng học hỏi và nâng cao kiến thức của bản thân. Bên cạnh
đó, tôi cũng hăng hái tham gia các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa
học,v.v, để mở rộng kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Tích cực giao tiếp với
thầy cô, bạn bè, mở rộng mối quan hệ với mọi người xung quanh cũng là
cách giúp tôi phát triển nhân cách một cách toàn diện. Bên cạnh việc học
trên lớp, tôi còn thường xuyên tham gia các hoạt động tập thể, giao lưu văn
hóa để có thêm kĩ năng sống. Cuối cùng, tôi luôn tự nhìn nhận, đánh giá bản
thân với những việc đã làm để rút ra kinh nghiệm và giảm bớt những hành vi
sai lệch, từ đó có thể đặt ra những mục tiêu mới, phát triển bản thân tốt hơn. KẾT LUẬN
Tóm lại, năm yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển và hình thành của
nhân cách là di truyền, môi trường sống, giáo dục, hoạt động cá nhân, giao
tiếp, theo một nghiên cứu khác còn có thêm yếu tố tập thể. Mỗi yếu tố có
những hướng tác động khác nhau tới sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Theo quan điểm của Tâm lý học Macxit, yếu tố di truyền giữ vai trò
tiền đề, yếu tố hoàn cảnh sống giữ vai trò quyết định, yếu tố giáo dục có vai
trò chủ đạo, yếu tố hoạt động và giao tiếp của cá nhân có vai trò trực tiếp đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người.
Có thể thấy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì sự hình
thành và phát triển nhân cách đã trở thành chủ đề được xã hội đặc biệt quan
tâm. Vì vậy, việc phân tích, tìm hiểu vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến sự
hình thành và phát triển nhân cách có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ
về mặt lý luận, nghiên cứu tâm lý học mà cả trong thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
1. GS.TS Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), TS. Nguyễn Văn Lũy, TS.
Đinh Văn Vang - Giáo trình Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Sư phạm, 2007.
2. PGS.TS Đặng Thanh Nga - Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an Nhân dân, 2019.
3. TS. Nguyễn Xuân Thức - Giáo trình Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Sư phạm, 2010. 14
Document Outline
- Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện MSSV
- LỜI MỞ ĐẦU
- MỤC LỤC
- I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
- 1. Những quan niệm khác nhau về nhân cách
- 2. Khái niệm nhân cách trong Tâm lý học
- II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
- 1. Yếu tố di truyền
- 2. Yếu tố môi trường
- 3. Yếu tố giáo dục
- 4. Yếu tố hoạt động
- 5. Yếu tố giao tiếp
- III. LIÊN HỆ BẢN THÂN
- KẾT LUẬN
- TÀI LIỆU THAM KHẢO