TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Môn học: Đại cương văn hoá Việt Nam
Giảng viên: Phạm Thành m
học phần: 23D1LAW51103802
Sinh viên: Trần Song Tố Uyên
Lớp: LQ001
MSSV: 31211027413
.
ĐỀ BÀI
Bằng những kiến thức đã học về môn Đại cương văn hóa Việt Nam, anh, chị hãy trình
bày, phân tích: Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn hóa Việt
Nam (7đ). Theo anh (chị), hiện nay Việt Nam có cần phải chuyển đổi đặc trưng văn
hóa này không? Tại sao? (3 đ)
BÀI LÀM
I.
Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn a Việt
Nam
PGS.TS Lê Văn Toan đã từng đưa ra một nhận định trong một bài viết của mình
rằng: “Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói
chung và có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù”
1
, ông cũng cho rằng những nét đặc
thù trên đã được tôi luyện, đúc kết, gìn giữ và bảo vệ từ rất nhiều điền kiện như điều
kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị - kinh tế - xã hội Việt Nam. Và mặc dù nhận
được nhiều luồng ý kiến không hoàn toàn đồng nhất với nhau về đặc trưng văn hoá
Việt Nam, nhìn chung những suy nghĩ của các học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành
Việt Nam học, Văn hóa học, Văn hoá Việt Nam đều có một số nét chung tương đổi
khái quát, một trong những khía cạnh thể hiện nhất sự tương đồng này chính
“tính trọng âm”, được biểu hiện bằng các phẩm chất tốt có từ ngàn đời của mỗi người
con đất Việt tính Ưa ổn định; tính Hiếu hoà, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; tính
nhẫn nhịn; thiên hướng thơ ca và lòng hiếu khách.
Như vậy, những phẩm chất này của người Việt ta thể được tìm thấy đâu trong
các lĩnh vực thuộc phàm trù văn hoá, đặc biệt đối với thơ ca, ta thể thấy gần như tất
cả những đặc tính nếu trên đều được cha ông ta mang vào từng nét bút, con chữ.
1.
Tính ưa ổn định:
Đặc tính này vốn dĩ đã được hình thành từ khi nhà nước ta chỉ mới mang tên gọi
Văn Lang, sở dĩ nói như thế là bởi hoạt động nông nghiệp so với du mục hay công
nghiệp thì luôn trong trạng thái “tĩnh”, người làm nông quanh năm chỉ biết bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, không thể di chuyển ra quá xa khỏi ruộng đồng, mà trong
các hoạt động nông nghiệp, hoạt động trồng lúa nước lại là hoạt động mang yếu tố
“tĩnh” nhiều hơn cả, không chỉ bị rằng buộc với các thửa ruộng, người nông dân trồng
lúa nước còn phụ thuộc tương đối nghiêm trọng vào nước, mức độ phụ thuộc càng cao
thì tính âm, tính tĩnh” cũng mạnh lên theo. Mà nhân dân ta từ đời Các Vua Hùng đã
luôn gắn liền với với tập tục trồng lúa nước, chính vì thế có thể nói đặc tính ưa ổn
định được thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động nông nghiệp, hay cụ thể hơn là thông
qua tập tục trồng lúa nước của dân ta.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa đặc tính này chỉ nằm trong hoạt động nông
nghiệp, GS. Trần Ngọc Thêm cho biết trong đời sống người dân Việt Nam ngày nay
cũng thể chỉ ra tính ưa ổn định này, nhỏ thì trong một gia đình một người nhu
1
Tạp chí điện tử luận chính trị , Những đặc trưng của văn h Việt Nam”, PGS.TS n Toan.
nhược, không có chính kiến thì sẽ lệ thuộc vào người còn lại; lớn thì có lịch sử xây
dựng bảo vệ Tổ quốc, trong suốt chiều dài lịch sử ớc Việt Nam ta, hầu như chỉ
toàn lịch sử về gìn giữ đất nước, đối phó với giặc ngoại xâm. Đặc tính ưa ổn định
này không chỉ ngự trị trong đời sống và lịch sử mà trong văn học nghệ thuộc cũng
được ông bà ta khi xưa khéo léo cài cắm vào.
2.
Tính hiếu hoà, bao dung tính nhẫn nhịn:
Cảm hứng khoan dung trong mỗi người con đất Việt có nguồn gốc từ tình mẹ
trong Đạo Mẫu, từ quan niệm từ bi hỷ xả của Phật giáo và từ thái độ sống phóng
khoáng, tự do, không bị lễ giáo trói buộc, áp đặt. Đặc tính này của tính trọng Âm
trong văn hoá người Việt được tìm thấy rõ nhất trong đời sống, lối sống hoà hợp với
hàng xóm láng giềng với nhau, vì lẽ đó có thể nói khoan dung, hiếu hoà mang bản
chất văn hoá gia đình. Thứ dễ nhận thấy nhất chính các chủ nhà người Việt luôn nói
với khách: “Cứ tự nhiên như ở nhà”, với câu nói này, gia chủ đã biến khách thành
người thân trong gia đình một cách tự nhiên, thoải mái, thể hiện một thái độ sống thân
tình, đượm yêu thương, không câu nệ các nghi thức ứng xử xã hội rườm rà, khắc khe.
Không chỉ riêng giữa người Việt với nhau, đặc tính này còn giúp biến những dân
tộc khác quan hệ với người Việt ta trở thành “anh em cật ruột” trong nhà, được đối
đãi, tiếp đón như một thành viên trong gia đình. Tất nhiên, trong kho tàng văn học
nghệ thuật nước nhà ta cũng không thể thiếu những lời dạy, lời răn của ông bà xưa
mong muốn con cháu thế hệ sau này thể lưu truyền mãi đặc tính đáng trân quý này
như “Chị ngã em nâng”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn”.
Trong cuộc sống thường ngày, sự khoan dung của người Việt cũng có thể được
nhận thấy ch không trông mặt bắt hình dong”, cũng không chấp nệ quá khứ đã
qua. Trong đời sống chính trị, hội, người Việt Nam ta thể hiện văn hoá khoan dung
cách nhìn vào gtrị, ý nghĩa cốt lõi bên trong của một vật, một việc, một người chứ
không đặt nặng vấn đề hình thức. Không phải ngẫu nhiên mà trong các truyện cổ tích
ngày xưa luôn thấy Ông Bụt biến thành người ăn xin, thành những kkhác người để
thử lòng người khác, chỉ khi một người chịu nhìn vào tâm thức đối phương, không
chấp hình tướng bề ngoài thì mới được Ông Bụt giúp đỡ, cũng không phải vô tình mà
ông bà luôn răn dạy con cháu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Thái độ không chấp hình
thức bề ngoài còn được tìm thấy cả trong đời sống pháp lý khi đặt sự tin tưởng con
người, lời thề, lời hứa, lời dặn dò, lời làm chứng cao hơn con chữ và cho rằng những
lời nói ấy, sự tin tưởng ấy là thiêng liêngn, bền vững và đáng tin hơn. Vậy còn
không chấp nệ quá khứ thì thế nào, nhà nước ta hiện nay đang thực hiện theo chủ
trương “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước”, chỉ riêng câu nói này thôi cũng
đủ để thấy tinh thần khoan dung của con người Việt Nam, Việt Nam không ghi thù
ôm hận với các quốc gia đã từng xâm chiếm, đàn áp, đô hộ nhân dân Việt Nam, người
Việt Nam sẵn sàng trở thành bạn của tất cả các nước trên thế giới không màng đến
lịch sử trước đây.
Bên cạnh đó, một lối sống khác thường thấy đi kèm với đặc tính hiếu hoà bao
dung tính nhẫn nhịn. Từ xa xưa khi đất nước ta bị phương Bắc xâm lược, ta đã chủ
động mong muốn được hoà bình, cho đến sau này trong các cuộc kháng chiến chống
thực dân, đế quốc, nhân dân ta cũng mong muốn có thể ngồi vào vòng đàm phán,
thương lượng, sử dụng sức mạnh chính trị để quyết định sự độc lập, tự chủ của Tổ
quốc thay vì phải đổ máu.
3.
Tính trọng tình, đa cảm; nh hiếu khách:
Việt Nam nguồn gốc một nước nông nghiệp với tập tục trồng lúa nước mang
tính thời vụ, chính vì thế nên đời sống người dân Việt Nam gần như phải phụ thuộc
lẫn nhau. Do vậy người Việt Nam rất xem trọng việc giữ gìn các mối quan hệ trong
phạm vi cộng đồng của mình. Từ đặc điểm trọng tình trong văn hoá và mối quan hệ
nên người Việt luôn đặt tình cảm thành nguyên tắc trong ứng xử, họ dặn dò con cháu
và truyền lại ngàn đời sau bằng những câu ca dao, thành ngữ như “Lời chào cao hơn
mâm cỗ”; “lời nói chẳng mất tiền mua/lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,…mặc dù
chúng ta thiên về đối xử với nhau bằng tình cảm nhiều hơn nhưng thế không nghĩa
ta không cần đến lý trí trong gia tiếp hằng ngày. Một trong những tính cách tiêu biểu
nhất giúp người Việt ta từ trước đến nay thể duy trì các mối quan hệ không cần
đến các thiết bị liên lạc như hiện nay chính là tính hiếu khách, bên cạnh đó còn có sự
hỗ trợ của văn hoá thích thăm viếng nhau.
Đối với tính thích thăm viếng, đứng từ góc nhìn chủ thể giao tiếp, khác với
phương Tây xem những cuộc thăm viếng nhau chủ yếu là vì nhu cầu công việc,
“người Việt ta đã thân với nhau thì gặp nhau hằng ngày cũng không ngần ngại đến
thăm nhau mỗi lúc rảnh rỗi, khi ấy, sự viếng thăm này đã không còn gói gọn trong
phạm vi công việc nữa lan rộng ra trở thành biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa hai
bên dành cho nhau”
2
. Với người nhà, bạn bè làm việc, sinh sống xa thì lại càng thể
hiện rõ nét tính cách này đặc biệt là trong những dịp lễ Tết.
Đối với tính hiếu khách, người Việt Nam khi có khách đến nhà thì cho dù quen
hay lạ, thân hay không, cho dù gia chủ nghèo khó thế nào cũng cố gắng dành mọi
thứ tốt đẹp nhất để tiếp đãi thật chu đáo bởi lẽ “đói năm không ai đói bữa…”
Mặt khác, trong cách xưng hô của người Việt cũng thể hiện rõ tính trọng tình
nghĩa khi hệ thống xưng hô của chúng ta vô cùng phong phú và phức tạp, bên cạnh
các đại từ nhân xưng còn có một số lượng lớn đại từ chỉ quan hệ họ hàng và còn phụ
thuộc rất nhiều vào độ tuổi, vai vế hay thậm chí là ngữ cảnh mà có cách xưng hô khác
nhau. Cách xưng tác động tương đối mạnh mẽ đến hiệu quả giao tiếp giữa người
Việt với nhau bởi lẽ mỗi khi phát ngôn, cách xưng hô sẽ phản ánh phần nào mối quan
hệ giữa người nói với người nghe.
Không chỉ trong giao tiếp hằng ngày giữa người với người, sự trọng tình, trọng
nghĩa, đa cảm của người Việt còn được thể hiện trong nghệ thuật ngôn từ đất Việt. Về
mặt ngôn từ, tiếng Việt rất giàu tình cảm, đây là một sản phẩm tất yếu của nền văn
hoá trọng chữ tình, chữ nghĩa như Việt Nam, cụ thể sự tình cảm, đa sắc thái trong
tiếng Việt được tìm thấy ở các từ với sắc thái nghĩa biểu cảm, những từ láy âm, láy
vần mà được những nhà văn, nhà thơ sử dụng vô cùng thường xuyên. Nghệ thuật
thanh sắc và hình khối cũng chịu ảnh hưởngu sắc của lối sống trọng tình nghĩa này.
Âm nhạc các n điệu dân ca của người Việt như quan họ Bắc Ninh,Huế, dân ca
Nam bộ… đều mang một “chất trữ tình với tốc độ, âm sắc rất riêng, tập trung chủ yếu
vào luyến láy các vần để gọi nhớ một nỗi niềm tha thiết khôn nguôi nào đó”, về sau
2
PGS. Viện Trần Ngọc Thêm, sở n hoá Việt Nam (1999), Nhà xuất bản giáo dục, tr.155
khi đất nước dần đổi mới và đi lên, những làn điệu dân ca này vẫn còn được gìn giữ
mãi để thể hiện rằng chocuộc sống thế nào thì lối sống trọng chữ tình chữ nghĩa
của người Việt Nam vẫn còn mãi. Với hình khối, cũng như văn chương sử dụng ngôn
từ mãnh liệt, dữ dội để miêu tả sự tàn khốc của chiến tranh, tranh tượng cũng thế. Do
bản tính đa cảm, hiếu hoà, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tìm thấy một tác phẩm
nghệ thuật nào chứ hình ảnh máu chảy đầu rơi để miêu tả sự khốc liệt trên chiến
trường.
II.
Hiện nay Việt Nam cần phải chuyển đổi đặc trưng n hóa này
không?
Đi cùng với những ưu điểm của tính trọng âm nêu trên tất không thể thiếu những
khiếm khuyết, ví dụ tính cộng đồng làng xã làm nảy sinh một căn bệnh gọi là bệnh
thích tán dóc, bóc phét, thích khoe khoang. Căn bệnh này thậm chí còn lây lan sang
các nền tảng mạng xã hội trong đời sống hiện đại ngày nay như Facebook hay
TikTok, người Việt Nam thấy ai nói gì hay liền học theo, ai không giống họ sẽ ngay
lập tức ném đá, cũng có thể hiểu là bản lĩnh của mỗi người không được tốt, không
chịu tự suy nghĩ mà dễ dàng để môi trường, xã hội “mm” suy nghĩ. Tương tự, tính
cộng đồng làng xã trong quá khứ là một giá trị có ý nghĩa rất lớn đối với văn hoá và
con người Việt Nam, nó gốc sinh ra nhiều đức tính tốt đẹp của những người con đất
Việt, tuy nhiên cũng là cái nôi của những tính xấu trong thời kì hiện đại ngày nay như
thói sĩ diện hay thói “hơn thua” không muốn ai hơn mình.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm nhận xét: chất âm của mình rất có lợi trong những giai
đoạn cần ổn định, cần bảo tồn, cần khép kín với hạt nhân văn hoá là nông thôn”
3
. Tuy
nhiên, đối với một thế giới đang từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đô thị hoá như hiện nay, thứ nước ta cần nhất để không bị tụt lại phía sau so với các
quốc gia khác chính là vai trò của đô thị, hay nói cách khác, phải thay thế hạt nhân
văn hoá từ nông thôn sang đô th thì mới khả năng phát triển bắt kịp các nước khác.
Như vậy, cần phải có những thay đổi gì, và phải bắt đầu từ đâu để khắc chế được
những căn bệnh ấy bám lấy con người Việt Nam? Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng
nguyên tắc để xác định bệnh nào tệ hại nhất và thứ tự “chữa bệnh” là phải xem xem
nguyên nhân gì đã dẫn đến bệnh đó rồi làm ngược lại với nó là được. Ví dụ căn bệnh
thích tán dóc nói trên được hình thành từ sự thiếu hụt bản lĩnh nhân, lười động não,
lười suy nghĩ, chấp nhận để người khác “mớm” suy nghĩ cho mình thì cách chữa là
phải khuyến khích mỗi người tự do sáng tạo, tự do suy nghĩ để phát triển cái tôi của
bản thân, từ đó mới cải thiện được bản lĩnh của chính mình. Từ đó mới thể dần dần
khắc phục những khiếm khuyết của tính trọng âm này rồi kết hợp với tính ưa hài hoà
để tạo thành một đặc tính Hài hoà thiên về dương tính”
4
phù hợp với xã hội Việt
Nam đang trong giai đoạn phát triển, đi lên ng nghiệp hoá, hiện đại hoá như ngày
nay. Bên cạnh đó, chính vì “đô thị” và phát triển” đều mang thuộc tính dương mà
Việt Nam ta ngày nay mong muốn thể dựa vào vai trò tầm quan trọng của đô thị
để phát triển, nên mới phải đồng thời thay đổi một số khiếm khuyết trong tính trọng
3
“Giáo Trần Ngọc Thêm: n hoá ổn định rất khác với văn hoá phát trin”, Ngô Kinh Luân, Công an nhân
dân online, số ngày 9/3/2015.
4
“Những đặc trưng của văn hoá Việt Nam”, PGS.TS. n Toan, Tạp chí điện tử Luận Chính Trị, số ngày
16/3/2016
âm kết hợp với tính ưa hài hoà để thúc đẩy, tạo thời thuận lợi cho quá trình phát
triển của đất nước.

Preview text:


TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN Môn học:
Đại cương văn hoá Việt Nam Giảng viên:
Phạm Thành Tâm
học phần: 23D1LAW51103802 Sinh viên:
Trần Song Tố Uyên Lớp: LQ001 MSSV: 31211027413 . ĐỀ BÀI
Bằng những kiến thức đã học về môn Đại cương văn hóa Việt Nam, anh, chị hãy trình
bày, phân tích: Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn hóa Việt
Nam (7đ). Theo anh (chị), hiện nay Việt Nam có cần phải chuyển đổi đặc trưng văn
hóa này không? Tại sao? (3 đ) BÀI LÀM I.
Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn hóa Việt Nam
PGS.TS Lê Văn Toan đã từng đưa ra một nhận định trong một bài viết của mình
rằng: “Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói
chung và có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù”1, ông cũng cho rằng những nét đặc
thù trên đã được tôi luyện, đúc kết, gìn giữ và bảo vệ từ rất nhiều điền kiện như điều
kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị - kinh tế - xã hội Việt Nam. Và mặc dù nhận
được nhiều luồng ý kiến không hoàn toàn đồng nhất với nhau về đặc trưng văn hoá
Việt Nam, nhìn chung những suy nghĩ của các học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành
Việt Nam học, Văn hóa học, Văn hoá Việt Nam đều có một số nét chung tương đổi
khái quát, và một trong những khía cạnh thể hiện rõ nhất sự tương đồng này chính là ở
“tính trọng âm”, được biểu hiện bằng các phẩm chất tốt có từ ngàn đời của mỗi người
con đất Việt là tính Ưa ổn định; tính Hiếu hoà, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; tính
nhẫn nhịn; thiên hướng thơ ca và lòng hiếu khách.
Như vậy, những phẩm chất này của người Việt ta có thể được tìm thấy ở đâu trong
các lĩnh vực thuộc phàm trù văn hoá, đặc biệt đối với thơ ca, ta có thể thấy gần như tất
cả những đặc tính nếu trên đều được cha ông ta mang vào từng nét bút, con chữ.
1. Tính ưa ổn định:
Đặc tính này vốn dĩ đã được hình thành từ khi nhà nước ta chỉ mới mang tên gọi
Văn Lang, sở dĩ nói như thế là bởi hoạt động nông nghiệp so với du mục hay công
nghiệp thì luôn trong trạng thái “tĩnh”, người làm nông quanh năm chỉ biết bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, không thể di chuyển ra quá xa khỏi ruộng đồng, mà trong
các hoạt động nông nghiệp, hoạt động trồng lúa nước lại là hoạt động mang yếu tố
“tĩnh” nhiều hơn cả, không chỉ bị rằng buộc với các thửa ruộng, người nông dân trồng
lúa nước còn phụ thuộc tương đối nghiêm trọng vào nước, mức độ phụ thuộc càng cao
thì tính âm, tính “tĩnh” cũng mạnh lên theo. Mà nhân dân ta từ đời Các Vua Hùng đã
luôn gắn liền với với tập tục trồng lúa nước, chính vì thế có thể nói đặc tính ưa ổn
định được thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động nông nghiệp, hay cụ thể hơn là thông
qua tập tục trồng lúa nước của dân ta.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa đặc tính này chỉ nằm trong hoạt động nông
nghiệp, GS. Trần Ngọc Thêm cho biết trong đời sống người dân Việt Nam ngày nay
cũng có thể chỉ ra tính ưa ổn định này, nhỏ thì trong một gia đình mà một người nhu
1 Tạp chí điện tử Lý luận chính trị , “Những đặc trưng của văn hoá Việt Nam”, PGS.TS Lê Văn Toan.
nhược, không có chính kiến thì sẽ lệ thuộc vào người còn lại; lớn thì có lịch sử xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong suốt chiều dài lịch sử nước Việt Nam ta, hầu như chỉ
toàn là lịch sử về gìn giữ đất nước, đối phó với giặc ngoại xâm. Đặc tính ưa ổn định
này không chỉ ngự trị trong đời sống và lịch sử mà trong văn học nghệ thuộc cũng
được ông bà ta khi xưa khéo léo cài cắm vào.
2. Tính hiếu hoà, bao dung tính nhẫn nhịn:
Cảm hứng khoan dung trong mỗi người con đất Việt có nguồn gốc từ tình mẹ
trong Đạo Mẫu, từ quan niệm từ bi hỷ xả của Phật giáo và từ thái độ sống phóng
khoáng, tự do, không bị lễ giáo trói buộc, áp đặt. Đặc tính này của tính trọng Âm
trong văn hoá người Việt được tìm thấy rõ nhất trong đời sống, lối sống hoà hợp với
hàng xóm láng giềng với nhau, vì lẽ đó có thể nói khoan dung, hiếu hoà mang bản
chất văn hoá gia đình. Thứ dễ nhận thấy nhất chính là các chủ nhà người Việt luôn nói
với khách: “Cứ tự nhiên như ở nhà”, với câu nói này, gia chủ đã biến khách thành
người thân trong gia đình một cách tự nhiên, thoải mái, thể hiện một thái độ sống thân
tình, đượm yêu thương, không câu nệ các nghi thức ứng xử xã hội rườm rà, khắc khe.
Không chỉ riêng giữa người Việt với nhau, đặc tính này còn giúp biến những dân
tộc khác có quan hệ với người Việt ta trở thành “anh em cật ruột” trong nhà, được đối
đãi, tiếp đón như một thành viên trong gia đình. Tất nhiên, trong kho tàng văn học
nghệ thuật nước nhà ta cũng không thể thiếu những lời dạy, lời răn của ông bà xưa
mong muốn con cháu thế hệ sau này có thể lưu truyền mãi đặc tính đáng trân quý này
như “Chị ngã em nâng”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Trong cuộc sống thường ngày, sự khoan dung của người Việt cũng có thể được
nhận thấy ở chỗ không “trông mặt mà bắt hình dong”, cũng không chấp nệ quá khứ đã
qua. Trong đời sống chính trị, xã hội, người Việt Nam ta thể hiện văn hoá khoan dung
ở cách nhìn vào giá trị, ý nghĩa cốt lõi bên trong của một vật, một việc, một người chứ
không đặt nặng vấn đề hình thức. Không phải ngẫu nhiên mà trong các truyện cổ tích
ngày xưa luôn thấy Ông Bụt biến thành người ăn xin, thành những kẻ khác người để
thử lòng người khác, chỉ khi một người chịu nhìn vào tâm thức đối phương, không
chấp hình tướng bề ngoài thì mới được Ông Bụt giúp đỡ, cũng không phải vô tình mà
ông bà luôn răn dạy con cháu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Thái độ không chấp hình
thức bề ngoài còn được tìm thấy cả trong đời sống pháp lý khi đặt sự tin tưởng con
người, lời thề, lời hứa, lời dặn dò, lời làm chứng cao hơn con chữ và cho rằng những
lời nói ấy, sự tin tưởng ấy là thiêng liêng hơn, bền vững và đáng tin hơn. Vậy còn
không chấp nệ quá khứ thì thế nào, nhà nước ta hiện nay đang thực hiện theo chủ
trương “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước”, chỉ riêng câu nói này thôi cũng
đủ để thấy tinh thần khoan dung của con người Việt Nam, Việt Nam không ghi thù
ôm hận với các quốc gia đã từng xâm chiếm, đàn áp, đô hộ nhân dân Việt Nam, người
Việt Nam sẵn sàng trở thành bạn của tất cả các nước trên thế giới không màng đến lịch sử trước đây.
Bên cạnh đó, một lối sống khác thường thấy đi kèm với đặc tính hiếu hoà bao
dung là tính nhẫn nhịn. Từ xa xưa khi đất nước ta bị phương Bắc xâm lược, ta đã chủ
động mong muốn được hoà bình, cho đến sau này trong các cuộc kháng chiến chống
thực dân, đế quốc, nhân dân ta cũng mong muốn có thể ngồi vào vòng đàm phán,
thương lượng, sử dụng sức mạnh chính trị để quyết định sự độc lập, tự chủ của Tổ
quốc thay vì phải đổ máu.
3. Tính trọng tình, đa cảm; tính hiếu khách:
Việt Nam có nguồn gốc là một nước nông nghiệp với tập tục trồng lúa nước mang
tính thời vụ, chính vì thế nên đời sống người dân Việt Nam gần như phải phụ thuộc
lẫn nhau. Do vậy người Việt Nam rất xem trọng việc giữ gìn các mối quan hệ trong
phạm vi cộng đồng của mình. Từ đặc điểm trọng tình trong văn hoá và mối quan hệ
nên người Việt luôn đặt tình cảm thành nguyên tắc trong ứng xử, họ dặn dò con cháu
và truyền lại ngàn đời sau bằng những câu ca dao, thành ngữ như “Lời chào cao hơn
mâm cỗ”; “lời nói chẳng mất tiền mua/lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,…mặc dù
chúng ta thiên về đối xử với nhau bằng tình cảm nhiều hơn nhưng thế không có nghĩa
ta không cần đến lý trí trong gia tiếp hằng ngày. Một trong những tính cách tiêu biểu
nhất giúp người Việt ta từ trước đến nay có thể duy trì các mối quan hệ mà không cần
đến các thiết bị liên lạc như hiện nay chính là tính hiếu khách, bên cạnh đó còn có sự
hỗ trợ của văn hoá thích thăm viếng nhau.
Đối với tính thích thăm viếng, đứng từ góc nhìn chủ thể giao tiếp, khác với
phương Tây xem những cuộc thăm viếng nhau chủ yếu là vì nhu cầu công việc,
“người Việt ta đã thân với nhau thì có gặp nhau hằng ngày cũng không ngần ngại đến
thăm nhau mỗi lúc rảnh rỗi, khi ấy, sự viếng thăm này đã không còn gói gọn trong
phạm vi công việc nữa mà lan rộng ra trở thành biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa hai
bên dành cho nhau”2. Với người nhà, bạn bè làm việc, sinh sống ở xa thì lại càng thể
hiện rõ nét tính cách này đặc biệt là trong những dịp lễ Tết.
Đối với tính hiếu khách, người Việt Nam khi có khách đến nhà thì cho dù quen
hay lạ, thân hay không, cho dù gia chủ có nghèo khó thế nào cũng cố gắng dành mọi
thứ tốt đẹp nhất để tiếp đãi thật chu đáo bởi lẽ “đói năm không ai đói bữa…”
Mặt khác, trong cách xưng hô của người Việt cũng thể hiện rõ tính trọng tình
nghĩa khi hệ thống xưng hô của chúng ta vô cùng phong phú và phức tạp, bên cạnh
các đại từ nhân xưng còn có một số lượng lớn đại từ chỉ quan hệ họ hàng và còn phụ
thuộc rất nhiều vào độ tuổi, vai vế hay thậm chí là ngữ cảnh mà có cách xưng hô khác
nhau. Cách xưng hô có tác động tương đối mạnh mẽ đến hiệu quả giao tiếp giữa người
Việt với nhau bởi lẽ mỗi khi phát ngôn, cách xưng hô sẽ phản ánh phần nào mối quan
hệ giữa người nói với người nghe.
Không chỉ trong giao tiếp hằng ngày giữa người với người, sự trọng tình, trọng
nghĩa, đa cảm của người Việt còn được thể hiện trong nghệ thuật ngôn từ đất Việt. Về
mặt ngôn từ, tiếng Việt rất giàu tình cảm, đây là một sản phẩm tất yếu của nền văn
hoá trọng chữ tình, chữ nghĩa như Việt Nam, cụ thể sự tình cảm, đa sắc thái trong
tiếng Việt được tìm thấy ở các từ với sắc thái nghĩa biểu cảm, những từ láy âm, láy
vần mà được những nhà văn, nhà thơ sử dụng vô cùng thường xuyên. Nghệ thuật
thanh sắc và hình khối cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của lối sống trọng tình nghĩa này.
Âm nhạc và các làn điệu dân ca của người Việt như quan họ Bắc Ninh, hò Huế, dân ca
Nam bộ… đều mang một “chất trữ tình với tốc độ, âm sắc rất riêng, tập trung chủ yếu
vào luyến láy các vần để gọi nhớ một nỗi niềm tha thiết khôn nguôi nào đó”, về sau
2 PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam (1999), Nhà xuất bản giáo dục, tr.155
khi đất nước dần đổi mới và đi lên, những làn điệu dân ca này vẫn còn được gìn giữ
mãi để thể hiện rằng cho dù cuộc sống có thế nào thì lối sống trọng chữ tình chữ nghĩa
của người Việt Nam vẫn còn mãi. Với hình khối, cũng như văn chương sử dụng ngôn
từ mãnh liệt, dữ dội để miêu tả sự tàn khốc của chiến tranh, tranh tượng cũng thế. Do
bản tính đa cảm, hiếu hoà, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tìm thấy một tác phẩm
nghệ thuật nào chứ hình ảnh máu chảy đầu rơi để miêu tả sự khốc liệt trên chiến trường. II.
Hiện nay Việt Nam cần phải chuyển đổi đặc trưng văn hóa này không?
Đi cùng với những ưu điểm của tính trọng âm nêu trên tất không thể thiếu những
khiếm khuyết, ví dụ tính cộng đồng làng xã làm nảy sinh một căn bệnh gọi là bệnh
thích tán dóc, bóc phét, thích khoe khoang. Căn bệnh này thậm chí còn lây lan sang
các nền tảng mạng xã hội trong đời sống hiện đại ngày nay như Facebook hay
TikTok, người Việt Nam thấy ai nói gì hay liền học theo, ai không giống họ sẽ ngay
lập tức ném đá, cũng có thể hiểu là bản lĩnh của mỗi người không được tốt, không
chịu tự suy nghĩ mà dễ dàng để môi trường, xã hội “mớm” suy nghĩ. Tương tự, tính
cộng đồng làng xã trong quá khứ là một giá trị có ý nghĩa rất lớn đối với văn hoá và
con người Việt Nam, nó là gốc sinh ra nhiều đức tính tốt đẹp của những người con đất
Việt, tuy nhiên cũng là cái nôi của những tính xấu trong thời kì hiện đại ngày nay như
thói sĩ diện hay thói “hơn thua” không muốn ai hơn mình.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm nhận xét: “chất âm của mình rất có lợi trong những giai
đoạn cần ổn định, cần bảo tồn, cần khép kín với hạt nhân văn hoá là nông thôn”3. Tuy
nhiên, đối với một thế giới đang từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đô thị hoá như hiện nay, thứ nước ta cần nhất để không bị tụt lại phía sau so với các
quốc gia khác chính là vai trò của đô thị, hay nói cách khác, phải thay thế hạt nhân
văn hoá từ nông thôn sang đô thị thì mới có khả năng phát triển bắt kịp các nước khác.
Như vậy, cần phải có những thay đổi gì, và phải bắt đầu từ đâu để khắc chế được
những căn bệnh ấy bám lấy con người Việt Nam? Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng
nguyên tắc để xác định bệnh nào tệ hại nhất và thứ tự “chữa bệnh” là phải xem xem
nguyên nhân gì đã dẫn đến bệnh đó rồi làm ngược lại với nó là được. Ví dụ căn bệnh
thích tán dóc nói trên được hình thành từ sự thiếu hụt bản lĩnh cá nhân, lười động não,
lười suy nghĩ, chấp nhận để người khác “mớm” suy nghĩ cho mình thì cách chữa là
phải khuyến khích mỗi người tự do sáng tạo, tự do suy nghĩ để phát triển cái tôi của
bản thân, từ đó mới cải thiện được bản lĩnh của chính mình. Từ đó mới có thể dần dần
khắc phục những khiếm khuyết của tính trọng âm này rồi kết hợp với tính ưa hài hoà
để tạo thành một đặc tính “Hài hoà thiên về dương tính”4 phù hợp với xã hội Việt
Nam đang trong giai đoạn phát triển, đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá như ngày
nay. Bên cạnh đó, chính vì “đô thị” và “phát triển” đều mang thuộc tính dương mà
Việt Nam ta ngày nay mong muốn có thể dựa vào vai trò và tầm quan trọng của đô thị
để phát triển, nên mới phải đồng thời thay đổi một số khiếm khuyết trong tính trọng
3 “Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Văn hoá ổn định rất khác với văn hoá phát triển”, Ngô Kinh Luân, Công an nhân
dân online, số ngày 9/3/2015.
4 “Những đặc trưng của văn hoá Việt Nam”, PGS.TS. Lê Văn Toan, Tạp chí điện tử Lý Luận Chính Trị, số ngày 16/3/2016
âm và kết hợp với tính ưa hài hoà để thúc đẩy, tạo thời cơ thuận lợi cho quá trình phát triển của đất nước.
Document Outline

  • .
    • ĐỀ BÀI
    • BÀI LÀM
      • 1. Tính ưa ổn định:
      • 2. Tính hiếu hoà, bao dung và tính nhẫn nhịn:
      • 3. Tính trọng tình, đa cảm; tính hiếu khách: