Tiểu luận ''Phân tích sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức. Ứng dụng của nó trong hoạt động học tập của sinh viên''
Tiểu luận môn Tâm lý học đại cương với đề tài: Phân tích sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức. Ứng dụng của nó trong hoạt động học tập của sinh viên của Học viện Báo chí và Tuyên truyền giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: tâm lí học đại cương
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của tiểu luận
Trong quá trình hoạt động, con người nhận thức thế giới xung quanh
và bản thân, trên cơ sở đó con người bày tỏ thái độ, tình cảm và hành động.
Nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thân
con người thông qua các giác quan và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bản thân.
Việc nhận thức thế giới có thể đạt tới những mức độ khác nhau: từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Mức độ thấp là nhận thức cảm tính,
mức độ cao hơn là nhận thức lý tính.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt nhận thức cảm tính, nhận
thức lý tính đối với cuộc sống và thế giới quan của con người cũng như
muốn làm rõ ràng về khái niệm, chỉ ra mối quan hệ giữa nhận thức cảm
tính, lý tính và vai trò của chúng trong đời sống sinh viên, em đã quyết
định chọn đề tài: “Phân tích sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ
giữa nhận thức cảm tính và nhận thức. Ứng dụng của nó trong hoạt động
học tập của sinh viên” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích
Bài tiểu luận nghiên cứu và phân tích các cơ sở lý luận, khái niệm chính
xác về nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Từ đó, chỉ rõ sự giống nhau, khác
nhau giữa hai loại nhận thức này cũng như làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính. Dựa trên các cơ sở lý luận đã chỉ ra, đưa ra
những ứng dụng thực tế trong việc học tập của sinh viên. 2.2. Nhiệm vụ
Đưa ra những cơ sở lý luận, khái niệm chính xác về nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Chỉ ra sự giống nhau, khác nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nêu mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Đưa ra những ứng dụng thực tế cho việc học tập của sinh viên sau khi
hiểu rõ về nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. 3. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tiểu luận gồm 04 chương và 06 tiết 1
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM NHẬN THỨC CẢM TÍNH VÀ NHẬN THỨC LÝ TÍNH
1. Nhận thức là gì?
Nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thân
con người thông qua các giác quan và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bản thân.
Nói một cách đơn giản, nhận thức là việc con người thu thập thông tin từ
thế giới xung quanh con người dựa trên những giác quan cũng như kinh nghiệm
của mình. Ví dụ như khi thấy bầu trời âm u, nhiều mây đen kéo về, kèm theo đó
là sấm chớp, bằng mắt, bằng tai, con người có thể thấy, cảm nhận được điều đó
và bằng kinh nghiệm của mình, con người biết rằng trời chuẩn bị mưa.
Việc nhận thức thế giới có thể đạt tới những mức độ khác nhau: từ đơn
giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Mức độ thấp là nhận thức cảm tính, mức độ
cao hơn là nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ
chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt
động nhận thức thống nhất của con người.
2. Hoạt động nhận thức cảm tính
Hoạt động nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên, thấp nhất
của con người. Trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên ngoài,
những cái đang trực tiếp tác động đến giác quan của họ. Hoạt động nhận thức
cảm tính bao gồm: cảm giác và tri giác. 2.1 Cảm giác
2.1.1 Khái niệm cảm giác
Cảm giác là hiện tượng tâm lý đơn giản nhất mở đầu cho hoạt động
nhận thức và cũng mở đầu cho đời sống tâm lý của con người.
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề
ngoài của sự vật, hiện tượng và trạng thái bên trong của cơ thể khi chúng
đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
2.1.2. Đặc điểm của cảm giác
Cảm giác có các đặc điểm cơ bản sau đây: -
Cảm giác là quá trình nhận thức, nghĩa là có nảy sinh, diễn biến và
kết thúc. Kích thích gây ra cảm giác là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan và các trạng thái tâm sinh lý của bản thân ta. -
Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện
tượng, những thuộc tính này không liên kết với nhau. 2 -
Cảm giác không chỉ phản ánh thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện
tượng mà còn phản ánh những trạng thái bên trong của cơ thể. Ví dụ: cảm giác đói, tim đập nhanh. -
Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. Nghĩa
là cảm giác phản ánh những sự vật, hiện tượng đang tác động vào các giác quan
của ta. Ví dụ: khi ta ngửi thấy mùi gì thì mùi đó phải đang tác động vào mũi ta. -
Cảm giác con người mang bản chất xã hội, lịch sử. Bản chất xã hội,
lịch sử được thể hiện:
+ Đối tượng phản ánh của cảm giác ở người không chỉ những thuộc tính
của sự vật, hiện tượng sẵn có trong tự nhiên mà còn bao gồm cả những thuộc
tính của sự vật, hiện tượng là sản phẩm do lao động của con người sáng tạo ra.
+ Ở con người, cơ chế sinh lý của cảm giác không chỉ phụ thuộc vào hoạt
động của hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn chịu h hưởng bởi hoạt động của hệ
thống tín hiệu thứ hai.
+ Bản thân các giác quan của con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội, lịch sử.
2.1.3. Vai trò của cảm giác
Là mức độ nhận thức đơn giản nhất mở đầu cho hoạt động nhận thức, cảm
giác đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như trong toàn
bộ đời sống tâm lý của con người. Vai trò cảm giác được biểu hiện:
- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người trong môi
trường xung quanh. Các giác quan là cửa ngõ để con người liên hệ với thế giới
chung quanh. Sự tiếp xúc đầu tiên của con người với sự vật hiện tượng của thế
giới bên ngoài là cảm giác về màu sắc, âm thanh, hình thù, mùi vị của nó.
Những thuộc tính ấy của sự vật tác động vào các giác quan tạo nên cảm giác.
Cũng nhờ cảm giác mà chúng ta biết được những biến chuyển xảy ra trong cơ
thể, biết được tình hình các cơ quan nội tạng, sự vận động và vị trí của thân thể.
- Cảm giác là nguồn cung cấp những nguyên vật liệu cho chính các hình thức
nhận thức cao hơn. V.I.Lênin viết: "Tất cả các hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh
nghiệm, từ cảm giác, tri giác". “Nếu không có cảm giác thì chúng ta không thể
biết gì hết về những hình thức của vật chất, cũng như về những hình thức của
vận động”. Không có cảm giác thì không thể có tri giác, không thể có tâm lý nói chung.
- Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ
não, nhờ đó đảm bảo hoạt động tinh thần của con người được bình thường.
2.1.4. Phân loại cảm giác
Cảm giác bao gồm các loại: cảm giác nhìn, cảm giác nghe, cảm giác ngửi,
cảm giác nếm, cảm giác da. 3
Cảm giác nhìn (thị giác) nảy sinh do sự tác động của các sóng ánh sáng
phát ra từ các sự vật, tác động vào mắt. Cảm giác nhìn là cơ sở của tri giác nhìn.
Cảm giác nghe (thính giác) nảy sinh do chuyển động của sóng âm thanh
có bước sóng từ 16 đến 2000 hec tác động vào màng tai.
Cảm giác ngửi (khứu giác) nảy sinh do các thuộc tính hoá học của các
chất hòa lẫn trong không khí tác động vào các tế bào của bộ máy thụ cảm khứu giác.
Cảm giác nếm (vị giác) nảy sinh do các thuộc tính hoá học của các chất
hòa tan trong nước bọt tác động vào bộ máy thụ cảm vị giác.
Cảm giác da (xúc giác) do những kích thích cơ học và nhiệt học tác động
lên da tạo nên. Xúc giác bao gồm bốn loại: cảm giác cơ học, cảm giác nhiệt độ,
cảm giác tư thế cơ thể, cảm giác đau. 2.2 Tri giác 2.2.1 Khái niệm tri giác
Trong đời sống thực tế rất ít khi ta có cảm giác về thuộc tính riêng lẻ nào
đó của sự vật, hiện tượng mà thông thường não bộ phản ánh hiện tượng, sự vật
với toàn bộ những thuộc tính của chúng một cách trọn vẹn. Khác với cảm giác,
tri giác không phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng mà phản
ánh sự vật nói chung, sự vật trong tổng hòa các thuộc tính của nó. Nhưng không
có nghĩa tri giác là tổng số của cảm giác riêng lẻ, mà là một quá trình nhận thức
cao hơn và phức tạp hơn cảm giác.
Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
2.2.2. Đặc điểm của tri giác
Tri giác có đặc điểm cơ bản sau đây:
- Tri giác là một quá trình nhận thức tức là có nảy sinh, diễn biến và kết
thúc. Kích thích gây ra tri giác chính là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
- Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn. Nghĩa là nó đem
lại cho ta một hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng. Ví dụ như khi ta
nhìn một cô gái, ta không chỉ nhìn tay, chỉ nhìn chân hay chỉ nhìn mặt mà
là toàn bộ ngoại hình của cô gái đó.
- Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp nghĩa là sự vật
hiện tượng phải đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta.
Ví dụ: khi ta bị vật nhọn đâm vào cơ thể thì tri giác đang phản ánh đúng
hiện tượng đó một cách khách quan và trực tiếp hành động bị vật nhọn đâm đang diễn ra.
- Tri giác của con người mang bản chất xã hội, lịch sử. 4
- Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính nhất là ở con người trưởng thành.
2.2.3 Vai trò của tri giác
Ở mức độ nhận thức cảm tính cao hơn cảm giác, tri giác đóng vai trò quan
trọng trong đời sống tâm lý của con người. Vai trò của tri giác được biểu hiện như sau:
- Trên cơ sở phản ánh thế giới một cách trọn vẹn và đầy đủ hơn cảm giác
mà tri giác giúp cho con người định hướng nhanh chóng và chính xác hơn
trong môi trường xung quanh.
- Hình ảnh tri giác với sự tham gia của vốn kinh nghiệm sống của các chức
năng tâm lý hành vi và hoạt động của con người trong thế giới, giúp cho
con người phản ánh thế giới có lựa chọn và mang tính ý nghĩa.
- Ở trình độ phát triển cao của tri giác có mục đích, có kế hoạch, có biện
pháp và đạt tới mức phản ánh đối tượng tốt nhất thì tri giác trở thành hoạt
động quan sát của con người. 2.2.4 Phân loại tri giác
Tri giác bao gồm các loại: tri giác không gian, tri giác thời gian, tri giác vận
động, tri giác con người bởi con người.
Tri giác không gian là sự phản ánh không gian tồn tại một cách khách
quan, bao gồm hình dáng, độ lớn và vị trí của các sự vật với nhau, hình nổi, độ
xa và phương hướng của chúng.
Tri giác thời gian là sự phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách
quan của các hiện tượng trong hiện thực. Việc tri giác độ dài thời gian phụ thuộc
vào: Lứa tuổi, nội dung hoạt động của con người và tâm thế của cá nhân.
Tri giác vận động là sự phản ánh những biến đổi về vị trí của sự vật trong không gian.
Tri giác con người bởi con người là một quá trình nhận thức lẫn nhau của
con người trong điều kiện giao tiếp trực tiếp. Qua quá trình tri giác này sẽ hình
thành nên những biểu tượng con người về nhau, như kỹ năng xác định các nét
tính cách, năng lực, hứng thú, các đặc điểm cảm xúc, nghề nghiệp của người khác.
3. Hoạt động nhận thức lý tính
Hoạt động nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao ở con người, trong
đó con người phản ánh những thuộc tính bên trong, những mối quan hệ có tính
quy luật của hiện thực khách quan một cách gián tiếp. Nhận thức lý tính bao
gồm: tư duy và tưởng tượng. 3.1. Tư duy
3.1.1 Khái niệm tư duy
Muốn nhận thức và cải tạo thế giới khách quan có hiệu quả, con người
không thể dừng lại ở các quá trình cảm giác, tri giác, mà phải chuyển qua một 5
mức độ nhận thức cao hơn, đó là tư duy. Bởi vì chỉ có tư duy trừu tượng mới
giúp con người hiểu được các thuộc tính, các quan hệ bên trong, mới nắm được
bản chất, quy luật phát triển của sự vật. Từ đó mới có phương hướng, biện pháp
đúng đắn cải tạo thế giới khách quan.
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật và hiện
tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. -
Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn, từ khi cá nhân gặp những tình
huống có vấn đề và nhận thức được vấn đề, đến khi vấn đề đó được giải quyết.
Đó là các giai đoạn: xác định vấn đề và biểu đạt; xuất hiện các liên tưởng; sàng
lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết; kiểm tra giả thuyết, giải quyết nhiệm vụ tư duy. -
Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác và tri giác.
Nếu cảm giác và tri giác mới chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài,
những mối liên hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng thì tư duy phản ánh thuộc
tính bên trong, bản chất của sự vật hiện tượng. -
Tư duy phản ánh những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính chất quy
luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan. 3.1.2 Vai trò của tư duy
Tư duy có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động thực tiễn cũng như
đối với hoạt động nhận thức của con người. -
Tư duy giúp cho con người nhận thức được quy luật khách quan, trên cơ
sở đó có thể chủ động dự kiến một cách khoa học xu hướng phát triển của sự
vật, hiện tượng và có kế hoạch, biện pháp cải tạo hiện thực khách quan. -
Trong quá trình phát triển của mình, con người không chỉ tư duy nhằm
giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra mà con người còn tiến hành
tư duy nhằm lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành và phát triển nhân cách
của mình, trên cơ sở đó đóng góp những kết quả hoạt động của mình vào kho
tàng văn hóa xã hội của loài người.
3.1.3 Các đặc điểm của tư duy
Tư duy có các đặc điểm cơ bản: tính vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và
tính khái quát hóa, tư duy gắn liền với ngôn ngữ, tư duy liên hệ với nhận thức cảm tính.
3.1.3.1 Tính “có vấn đề” của tư duy.
Tư duy chỉ nảy sinh khi chúng ta gặp tình huống “có vấn đề”. Tình huống
“có vấn đề” là tình huống chưa có đáp số nhưng đáp số đã tiềm tàng bên trong,
tình huống chứa điều kiện giúp ta tìm ra đáp số đó. Nhưng không phải tình
huống có vấn đề nào cũng kích thích được hoạt động tư duy. Muốn kích thích ta
tư duy thì tình huống có vấn đề phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được 6
Chuyện thành nhiệm vụ tư duy của cá nhân. Nghĩa là cá nhân xác định được cái
gì đã biết, đã cho và cái gì chưa biết, cần phải tìm và có nhu cầu tìm kiếm nó.
3.1.3.2 Tính gián tiếp của tư duy
Tư duy của con người mang tính gián tiếp. Điều đó thể hiện ở chỗ, trong
quá trình tư duy con người sử dụng các phương tiện công cụ khác nhau để nhận
thức sự vật, hiện tượng mà không thể trực tiếp tri giác. Ví dụ: muốn biết nhiệt độ
của nước, chúng ta có thể dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ. Sở dĩ có thể nhận thức
được gián tiếp vì giữa các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ mang tính quy luật.
Mặt khác tư duy được phản ánh bằng ngôn ngữ nên tư duy phản ánh gián
tiếp. Đây là một loại phương tiện nhận thức đặc thù của con người. Ví dụ: hệ
thống ký hiệu, phạm trù, khái niệm.
3.1.3.3. Tính trừu tượng và khái quát hoá của tư duy
Tư duy không chỉ hướng vào cái riêng mà còn hướng vào cái chung cơ
bản, mối liên hệ, quan hệ mang tính quy luật của sự vật hiện tượng.
Tư duy phản ánh khái quát có nghĩa là phản ánh bằng khái niệm, bằng quy
luật, bằng những nguyên lý, nguyên tắc chung, phạm trù…
Tính trừu tượng và khái quát hoá gắn liền với các thao tác tư duy: So
sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận... Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật,
hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt chỉ giữ lại những
thuộc tính bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật, hiện tượng rồi trên cơ sở đó
mà khái quát các sự vật, hiện tượng riêng lẻ khác nhau nhưng có chung những
thuộc tính bản chất thành một nhóm, một loại, một phạm trù.
3.1.3.4 Tư duy gắn liền với ngôn ngữ.
Đây là một trong những đặc điểm khác biệt cơ bản giữa tâm lý người và
tâm lý động vật. Tâm lý động vật bao giờ cũng dừng lại ở tư duy hành động trực
quan, không có khả năng vượt ra khỏi phạm vi đó. Ngôn ngữ đã làm cho tư duy
người mang tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát.
Mối liên hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối liên hệ biện chứng. Tư duy
không thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào khác ngoài ngôn ngữ. Bất kỳ ý
nghĩa, tư tưởng nào cũng đều nảy sinh, phát triển gắn liền với ngôn ngữ. Đó là
mối liên hệ giữa nội dung và hình thức.
3.1.3.5 Tư duy liên hệ với hoạt động nhận thức cảm tính.
Tư duy bao giờ cũng liên hệ mật thiết với hoạt động nhận thức cảm tính
tức là với cảm giác, tri giác, biểu tượng. Hoạt động nhận thức cảm tính là “cửa
ngõ” là kênh duy nhất, qua đó tư duy liên hệ với thế giới bên ngoài. Tư duy
thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy
sinh tình huống “có vấn đề”. Ngược lại, tư duy cũng ảnh hưởng đến nhận thức
cảm tính, đó là làm cho khả năng cảm giác của con người tinh vi, nhạy cảm hơn
và làm cho tri giác của con người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa. 3.1.4 Các thao tác tư duy 7
Với tư cách là một hành động tư duy được thực hiện bằng những thao tác tư duy: - Phân tích - tổng hợp - So sánh
- Trừu tượng hóa - khái quát hóa. 3.1.5 Các loại tư duy
3.1.5.1 Xét theo lịch sử hình thành và mức độ phát triển của tư duy thì người
ta chia tư duy làm ba loại:
- Tư duy trực quan - hành động
- Tư duy trực quan - hình ảnh - Tư duy trừu tượng
3.1.5.2 Căn cứ theo hình thức biểu hiện của nhiệm vụ cụ thể và phương thức
giải quyết người ta chia ra ba loại tư duy ở người trưởng thành: - Tư duy thực hành
- Tư duy hình ảnh cụ thể - Tư duy lý luận 3.2 Tưởng tượng
3.2.1 Khái niệm tưởng tượng
Trong quá trình lao động sáng tạo, con người không những chỉ nhận thức
thế giới khách quan qua cảm giác, tri giác, tư duy mà còn vẽ lên trong óc mình
những hình ảnh mới, những con người và sự vật mới chưa từng được trực tiếp tri
giác hoặc chưa có trong hiện thực. Con người đặt kế hoạch cho các hoạt động
mà mình đang hoặc sắp tiến hành, nhìn thấy được thuận lợi, dự kiến trước những
khó khăn và hình dung trước những kết quả sẽ đạt được. Quá trình đó được gọi là tưởng tượng.
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng hình ảnh mới trên cơ sở
những biểu tượng đã có.
3.2.2 Vai trò của tưởng tượng
Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong đời sống của con người. Vai trò của
tưởng tượng được biểu hiện:
- Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ một hoạt động nào của con người. Sự
khác nhau cơ bản giữa lao động của con người với hoạt động bản năng
của con vật chính là ở cái biểu tượng và kết quả mong đợi do tưởng tượng tạo ra.
- Tưởng tượng cho phép ta hình dung được kết quả lao động trước khi bắt
đầu lao động, hình dung được không chỉ cái kết quả cuối cùng, mà cả
những kết quả trung gian của lao động nữa. 8
- Nhờ có tưởng tượng, con người có thể vẽ lên trong đầu mình viễn cảnh
của xã hội tương lai, lấy đó làm phương hướng, mục tiêu phấn đấu, hoạt
động để biến nó thành hiện thực.
- Tưởng tượng nảy sinh và phát triển trong hoạt động và gắn chặt với thực tiễn cuộc sống.
3.2.3. Các loại tưởng tượng
Căn cứ vào mức độ tích cực và tính hiệu lực của tưởng tượng mà
người ta có thể chia tưởng tượng thành: tưởng tượng tích cực và tiêu cực, ước mơ và lý tưởng.
3.2.3.1. Tưởng tượng tích cực và tưởng tượng tiêu cực
Tưởng tượng tích cực là loại tưởng tượng tạo ra các hình ảnh mới nhằm
đáp ứng nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người.
Tưởng tượng tích cực gồm hai loại: tưởng tượng tái tại và tưởng tượng sáng tạo.
Tưởng tượng tái tạo là quá trình tạo ra những hình ảnh mới đối với cá
nhân tưởng tượng, bằng cách sử dụng những tài liệu, kinh nghiệm đã có của xã
hội loài người, của những người khác.
Tưởng tượng sáng tạo là hình thức cao hơn và phức tạp hơn tưởng tượng
tái tạo. Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng những hình ảnh mới đối với
cá nhân cũng như với xã hội.
Tưởng tượng tiêu cực là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không
được thể hiện trong cuộc sống và vạch ra những chương trình hành vi và không thực hiện được.
3.2.3.2 Ước mơ và lý tưởng
Ước mơ là một loại tưởng tượng tổng quát hướng về tương lai, biểu hiện
những mong muốn, ước ao, gắn liền với nhu cầu của con người.
Lý tưởng là một hình ảnh mẫu mực, rực sáng mà con người muốn vươn
tới. Nó là một động cơ mạnh mẽ thôi thúc con người vươn tới tương lai.
CHƯƠNG II. SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA NHẬN THỨC
CẢM TÍNH VÀ NHẬN THỨC LÝ TÍNH. 1. Giống nhau
Hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt động nhận thức lý tính có
những nét giống nhau sau đây:
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là các giai đoạn nhận thức của con người.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là quá trình tâm lý,
diễn ra bên trong con người.
- Cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều phản ánh hiện thực
khách quan xung quanh con người.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều mang tính chủ thể. 9
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều mang bản chất xã hội.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là nguồn động lực,
thúc đẩy nhu cầu của con người. 2. Khác nhau
Bên cạnh những điểm giống nhau, hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt
động nhận thức lý tính cũng mang những điểm khác nhau được liệt kê dưới bảng sau:
Tiêu chí Nhận thức cảm tính phản ánh
Nhận thức lý tính Khái niệm
Nhận thức cảm tính là giai đoạn
Nhận thức lý tính là giai đoạn
nhận thức đầu tiên và là giai đoạn nhận thức tiếp theo và cao hơn nhận thức thấp.
về chất so với nhận thức cảm tính.
Các mức độ Bao gồm có cảm giác và tri giác
Bao gồm có tư duy và tưởng tượng Nội dung
Phản ánh thuộc tính bên ngoài, cụ Phản ánh thuộc tính bản chất thể(nặng, nhẹ, cao,
bên trong mối quan hệ có tính
thấp,xanh,đỏ…), mối quan hệ về
quy luật của sự vật, hiện tượng( mặt không gian và thời
tốt, xấu, trung thực, giỏi giang, gian(nhanh,chậm) bền) Phương
Phản ánh cái đang trực tiếp tác Phản ánh gián tiếp sự vật, hiện thức
động vào giác quan của con
tượng thông qua ngôn ngữ, giúp người, đây là một hạn chế của
con người không chỉ nhận thức nhận thức cảm tính thế
giới mà còn cải tạo thế giới. Tính chất Phản ánh cái hiện tại
Phản ánh cái mới, cái con
người phải tìm kiếm và xây dựng nên Sản phẩm
Sản phẩm là hình tượng Sản
phẩm là khái niệm, phán đoán, biểu tượng 10
CHƯƠNG III: MỐI QUAN HỆ GIỮA NHẬN THỨC CẢM TÍNH VÀ
NHẬN THỨC LÝ TÍNH
Có thể thấy giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có một mối quan
hệ qua lại không thể tách rời.
- Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính
- Nhận thức cảm tính cũng là một khâu của nhận thức lý tính
- Cùng với đó, Nhận thức lý tính làm cho nhận thức cảm tính diễn ra nhanh hơn
- Nhận thức lý tính cũng làm cho nhận thức lý tính trở nên chính xác hơn.
Ví dụ: Khi ta đi mua một ngôi nhà, nhận thức cảm tính của ta về ngôi nhà
là về kích cỡ, hình dạng, màu sắc… rõ ràng lúc này nhận thức cảm tính chính là
nguồn cung cấp dữ liệu cho nhận thức lý tính là những tính toán, tưởng tượng của
người đi mua nhà. Ngược lại, khi đã có nhận thức lý tính là những tưởng tượng,
điều này làm cho những ước lượng, những cảm quan về ngôi nhà diễn ra nhanh hơn, chính xác hơn.
CHƯƠNG IV: ỨNG DỤNG THỰC TẾ
Sau khi nắm bắt một cách rõ ràng về hoạt động nhận thức cảm tính và
hoạt động nhận thức lý tính, bản thân em đã có được những đúc kết cũng như
bài học kinh nghiệm cho bản thân để áp dụng vào việc học tập như sau: - 11
Trước hết, sau bài tiểu luận, em đã nắm chắc về các cơ sở lý luận, khái niệm
của hoạt động nhận thức cảm tính, hoạt động nhận thức lý tính, phân biệt được
sự giống và khác nhau giữa hai hoạt động
nhận thức này và chỉ ra được mối quan hệ giữa chúng. Từ đó, có
một nền tảng lý luận vững chắc để áp dụng vào cuộc sống học tập và làm việc.
- Trong việc học tập và làm việc cần phải đánh giá toàn diện, sử dụng
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính để phân tích vấn đề. Nếu
chỉ sử dụng nhận thức cảm tính sẽ dẫn đến sự phiến diện trong việc phân tích vấn đề.
- Để phát triển xa hơn trong cuộc sống cũng như học tập cần phải rèn
luyện và phát triển nhận thức lý tính, trong đó có tư duy. Tư duy
giúp con người nhận thức được quy luật khách quan, giúp con
người chủ động dự kiến một cách khoa học xu hướng phát triển của
sự vật hiện tượng và có kế hoạch, biện pháp cải tạo hiện thực khách
quan. Chính vì vậy, rèn luyện và phát triển tư duy là một nhu cầu
thiết yếu của mỗi cá nhân, đặc biệt với sinh viên.
- Bên cạnh việc phát triển về nhận thức lý tính nói chung và tư duy,
tưởng tượng nói riêng, chúng ta cũng cần chú ý phát triển, nhạy cảm
hơn với hoạt động nhận thức cảm tính, những cảm giác trực tiếp
bằng các giác quan, tránh sự chai lì. Vì khi nhận thức cảm tính kém,
nhận thức lý tính sẽ thiếu đi nguồn tài liệu để phân tích. KẾT LUẬN
Nhìn chung, hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt động nhận thức lý tính
đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nhận thức của con người cũng như là
một phần không thể thiếu trong việc phản ánh, cải tạo thế giới khách quan của con người.
Chính vì vậy, việc nắm bắt rõ ràng khái niệm, sự khác biệt cũng như mối liên
hệ giữa hai hoạt động nhận thức này là điều vô cùng quan trọng với mỗi cá nhân để
có thể cải thiện cũng như phát triển bản thân.
Bên cạnh đó, sau khi nắm rõ những cơ sở lý luận, chúng ta còn có thể áp dụng
những kiến thức đó vào đời sống thực tế để giúp bản thân phát triển theo hướng tích
cực hơn, tránh sa đà hay lạc hướng trong cuộc sống. 12