









Preview text:
lOMoAR cPSD| 59092960
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH & CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
----------------- ----------------- TIỂU LUẬN LUẬT KINH TẾ 3
Đề tài: “Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh”
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiệ n : Mã sinh viên : Lớp : lOMoAR cPSD| 59092960 MỤC LỤC
A. LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 3
B. NỘI DUNG .......................................................................................................................... 3
I. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh..................................................... 3
1. Khái niệm cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh ................................................... 3
2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh ................................................................. 4
3. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................................................... 5
II. Thực tiễn áp dụng quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 6
1. Thực trạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam ................................... 6
2. Quy định của pháp luật về xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................ 8
3. Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................................... 9
C. KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 9 lOMoAR cPSD| 59092960 A. LỜI NÓI ĐẦU
Cạnh tranh trong kinh doanh là một hoạt động tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hoạt
động này thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như xã hội. Tuy nhiên, hoạt động cạnh
tranh bao giờ cũng gây rất nhiều áp lực đối với các doanh nghiệp trên thương trường. Với
mục đích duy trì sự tồn tại, mở rộng thị phần cũng như đạt lợi nhuận tối đa thì hoạt động cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp càng trở nên khốc liệt hơn. Do đó, không ít doanh nghiệp đã
dùng những thủ đoạn để cạnh tranh một cách không lành mạnh. Từ đó, yêu cầu có quy định
của pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành là tất yếu, nhằm tạo môi trường cạnh
tranh bình đẳng, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cho doanh nghiệp,
đồng thời, xử phạt nghiêm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, em xin chọn chủ đề “Thực tiễn áp dụng quy định của pháp
luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh” làm đề tài tiểu luận của mình. Qua đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Cạnh tranh cũng như giảm thiểu các
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong nhóm hành vi “Cạnh tranh không lành mạnh”. B. NỘI DUNG
I. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1. Khái niệm cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh Theo từ điển tiếng Việt, “Cạnh tranh là sự cố gắng giành phần hơn, phần
thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm lợi ích như nhau”. Đây là
khái niệm chung cho “Cạnh tranh” trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Cạnh tranh là một
hoạt động thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Theo đó có thể hiểu Cạnh tranh kinh tế
là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối
trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại
khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Về bản chất cạnh tranh kinh tế là sự chạy đua giữa các “doanh nghiệp” trên thị trường
nhằm không ngừng tung ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất với giá cả thấp nhất
nhằm thu hút, lôi kéo khách hàng về phía mình, cùng với mục định tối ưu hóa lợi nhuận có
thể đạt được của doanh nghiệp. Vì thế nhiều doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh theo
nhiều hình thái khác nhau, và một trong số đó là hình thái “Cạnh tranh không lành mạnh”. lOMoAR cPSD| 59092960
Dựa trên tính chất của các hành vi cạnh tranh, có thể chia cạnh tranh thành hai hình
thái là: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là các
hành vi cạnh tranh thực hiện tuân theo các nguyên tắc của pháp luật, tập quán kinh tế hay các
chuẩn mực khác của kinh doanh. Cạnh tranh không lành mạnh là một hình thái đối lập với
cạnh tranh lành mạnh về tính chất của hành vi. Khi các doanh nghiệp thực hiện các hành vi
cạnh tranh mà trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán kinh tế hay các chuẩn mực
khác trong kinh doanh dẫn đến việc gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho quyền,
lợi của các doanh nghiệp khác, thì đây được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh
Dựa trên khái niệm đã trình bày có thể thấy rõ ba đặc điểm cơ bản thể hiện bản chất
của hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
Thứ nhất, Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Đặc điểm
này thể hiện quy định về đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo đó, chủ thể thực hiện
hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp theo nghĩa rộng, thuộc mọi thành phần kinh
tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các
hiệp hội ngành nghề. Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của
người tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế… không là đối tượng áp
dụng các quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Nhưng trên thực tế vẫn có
những trường hợp một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền thông, … thực hiện những
hành vi xâm phạm đến quyền cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp, Ví dụ: việc đưa tin sai
sự thật về doanh nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ…. của các đơn vị truyền thông. Với quy định
trên, chủ thể thực hiện hành vi bị hạn chế nên pháp luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý
những tình huống trên. Mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định hành vi cạnh tranh không
lành mạnh xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công
đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh được áp
dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế. Nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp
dụng cho bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương
mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh. Đây là căn cứ để xác định tính không lành
mạnh của hành vi cạnh tranh, phân biệt giữa cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành lOMoAR cPSD| 59092960
mạnh. Khi một hành vi cạnh tranh đi ngược với nguyên tắc thiện chí, trung thực hay tập quán
tương mại hay các chuẩn mực khác trong kinh doanh thì đó được xem là một hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Theo sự phát triển của nên kinh tế thị trường thì các nguyên tắc cũng
như chuẩn mực này sẽ thay đổi phụ thuộc theo sự phát triển đó. Do đó, dựa trên căn cứ này
thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ biến đổi cũng như thay đổi không ngừng trên thực
tế mà khó có thể định hình rõ ràng và đầy đủ về những hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác. Một hành vi cạnh tranh khi thực hiện gây ra thiệt hại thực tế hoặc có
khả năng gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác. Theo Luật
Chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hòa liên bang của Đức, cấm “các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh có thể gây ảnh hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn hại đến đối thủ
cạnh tranh, người tiêu dùng và các chủ thể tham gia thị trường khác”. Luật Cạnh tranh thương
mại của Vương quốc Thái Lan cũng có quy định tương tự: “Thương nhân không được tiến
hành các hoạt động cạnh tranh không tự do và không bình đẳng, không được tiến hành các
hoạt động gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế đối với những hoạt động của những thương nhân khác…”.
3. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Dưới góc độ kinh tế, bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các hành vi
chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi
huỷ hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
Dựa trên bản chất đó có thể phân nhóm cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thành ba nhóm:
Nhóm 1: Nhóm các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệo khác. Nhóm
này được coi là nhóm các hành vi cạnh tranh điển hình nhất. Nó được thể hiện dưới nhiều
dạng thức khác nhau như gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ, lợi dụng thành quả
đầu tư của người khác, xâm phạm bí mật kinh doanh … Bản chất của hành vi này là việc
chiếm đoạt sử ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp. Dạng hành
vi này được coi là phổ biến, điển hình của cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định hiện lOMoAR cPSD| 59092960
hành của pháp luật Việt Nam ghi nhận nhóm này có thể bao gồm hành vi chỉ dẫn gây nhầm
lẫn hay hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh. “Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn” thường xâm
phạm đến tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa
lý... được in trên sản phẩm hàng hóa, hay dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Nhóm 2: Nhóm các hành vi hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Nhóm
hành vi này có chung bản chất là công kích vào các đối thủ cạnh tranh. Có thể là hành vi để
triệt tiêu, hành vi làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh. Hành vi
nhóm này thường được thực hiện dưới các hình thức rất đa dạng, nó phụ thuộc vào mục đích
công kích. Hành vi này có thể là đưa thông tin sai sự thật nhằm là giảm uy tín của đối thủ
cạnh tranh hay lôi kéo, ép buộc khác hàng hay các đối tác của đối thủ cạnh tranh. Hành vi ép
buộc trong kinh doanh; hành vi gièm pha doanh nghiệp khác; hành vi gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác đây là các hành vi được ghi nhận trong pháp luật cạnh tranh
Việt Nam được ghi nhận nằm trong nhóm hành vi này.
Nhóm 3: Nhóm các hành vi tạo ưu thế cạnh tranh giả tạo. Bản chất của nhóm hành vi
này là tạo ra lợi thế cạnh tranh giả tạo nhằm lối kéo khác hàng. Khác hàng là đối tượng bị tác
động trực tiếp trong nhóm hành vi này, về phía các doanh nghiệp khác chịu tác động trực tiếp
hoặc tác động gián tiếp khi bị mất đi nguồn khách hàng. Pháp luật hiện hành của Việt Nam
ghi nhận các hành vi thuộc nhóm này là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh và bán hàng đa cấp bất chính. “Hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh” có thể hiểu hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi quảng cáo trái pháp luật, trái với hiện thực, thực chất của hàng hóa, dịch
vụ được thực hiện bằng cách quảng cáo theo kiểu so sánh hàng hóa, dịch vụ, bắt chước sản
phẩm quảng cáo khác, đưa thông tin gian dối cho khách hàng... Đây là hành vi cạnh tranh
xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
II. Thực tiễn áp dụng quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1. Thực trạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, thì các hoạt động cạnh tranh đang diễn
ra một cách khốc liệt, mang lại sự phát triển cả về mặt kinh tế lẫn các mặt khác của đời sống
xã hội. Nhưng một số doanh nghiệp vì muốn chiếm ưu thế cạnh tranh để tăng lợi nhuận đã
không thực hiện các hoạt động cạnh tranh một cách lành mạnh mà sử dụng những phương lOMoAR cPSD| 59092960
thức thủ đoạn khác nhau thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà pháp luật quy định cấm thực hiện.
Hơn thế nữa, hiện nay những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã có
những tác động không hề nhỏ đến tình hình chung của mọi mặt đời sống xã hội mà còn tác
động đến hoạt động cạnh tranh. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng những thành tựu đó, đặc
biệt là các thành tựu trong công nghệ thông tin và Internet để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong năm 2020, Cục Cạnh tranh & Bảo vệ người tiêu dùng tiếp tục nhận được nhiều
phản ánh của các bên liên quan về các hành vi có dấu hiệu vi phạm quy định về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trên thị trường. Cục đã tiếp nhận 11 vụ việc trong năm 2020 liên quan đến các lĩnh vực:
o Thực phẩm, sản xuất bia (03 vụ) liên quan đến hành vi lôi kéo khách hàng bất chính
(Điều 45.5 - Luật Cạnh tranh 2018); Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh
nghiệp khác (Điều 45.2 - Luật Cạnh tranh 2018).
o Sản xuất thiết bị điện, liên quan đến hành vi cung cấp thông tin không trung thực (Điều
45.3 - Luật Cạnh tranh 2018) và gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác (Điều 45.4 - Luật Cạnh tranh 2018).
o Môi giới bất động sản, lôi kéo khách hàng bất chính (Điều 45.5- Luật Cạnh tranh
2018); o Dịch vụ làm đẹp, liên quan đến hành vi lôi kéo khách hàng bất chính (Điều
45,5 Luật Cạnh tranh 2018); Kinh doanh online, liên quan đến hành vi lôi kéo khách hàng
bất chính (Điều 45.5- Luật Cạnh tranh 2018).
o Mỹ phẩm, liên quan đến hành vi lôi kéo khách hàng bất chính (Điều 45.5 -Luật Cạnh tranh 2018).
o Thức ăn chăn nuôi, liên quan đến hành vi Cung cấp thông tin không trung thực về
doanh nghiệp khác (Điều 45.3- Luật Cạnh tranh 2018); Chế tạo máy (02 vụ), liên quan
hành vi xâm phạm thông tin bí mật kinh doanh (Điều 45.1 - Luật Cạnh tranh 2018), lôi
kéo khách hàng bất chính (Điều 45,5 - Luật Cạnh tranh 2018).
Một ví dụ liên quan đến vụ việc của công ty thuốc bảo vệ thực vật Bayer diễn ra trong năm 2020: o Các bên liên quan: lOMoAR cPSD| 59092960 Công ty TNHH Hiệp Thanh;
Công ty TNHH Bayer Việt Nam; o Nội dung vụ việc:
Tháng 7 năm 2020, Công ty TNHH Hiệp Thanh đã có văn bản phản ánh về việc
công ty Bayer Việt Nam có hành vi phân biệt đối xử khi thực hiện chính sách
chiết khấu khác nhau đối với các đại lý (đại lý tại An Giang được hưởng các mức
chiết khấu lớn hơn so với các đại lý khác).
Công ty TNHH Hiệp Thanh là đại lý phân phối kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật
ở tỉnh Bến Tre do Công ty TNHH Bayer Việt Nam cung cấp. Tại thời điểm phản
ánh, Công ty Bayer Việt Nam có chương trình chiết khấu riêng ưu đãi lớn hơn
cho các đại lý tại tỉnh An Giang (hơn 20%) so với các đại lý khác ở miền Nam.
Điều này đã tạo một môi trường cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến thiệt hại cho các đại lý.
Công ty TNHH Hiệp Thanh đại diện cho nhóm các đại lý phân phối thuốc bảo vệ
thực vật tại các tỉnh phía Nam đề nghị công ty Bayer Việt Nam phản hồi và tạo dựng môi
trường cạnh tranh lành mạnh. o Kết quả xử lý: Từ các thông tin phản ánh, Cục CT &
BVNTD bước đầu yêu cầu các bên cung cấp thông tin giải trình về vụ việc. Qua kiểm tra,
đánh giá công ty Bayer Việt Nam cũng đã nhận thức được hành vi của mình làm mất cân
bằng ổn định đến môi trường kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật ở các tỉnh phía Nam. Công
ty Bayer Việt Nam đã hủy bỏ chính sách ưu đãi trên.
2. Quy định của pháp luật về xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật quy định các biện pháp chế tài phù hợp để áp dụng đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nhằm đảm bảo tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng.
Căn cứ xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
o Phải có hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Hành vi cạnh tranh có bản chất là hành
vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác
một cách bất hợp pháp. lOMoAR cPSD| 59092960
o Phải có thiệt hại hoặc khả năng thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh. Thiệt hại
là một đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là điểm phân biệt
giữa cạnh tranh không lành mạnh với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
o Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp, không
phải là sự suy diễn chủ quan.
3. Kiến nghị hoàn thiện
Hoàn thiện các quy định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh:
o Xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hanh cho Luật cạnh tranh 2018 một cách cụ thể.
o Bổ sung một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh mới vào luật cạnh tranh Việt Nam.
o Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghệ trong
luật cạnh tranh 2018 chỉ mang tính liệt kê song vẫn chưa bao quát hết được các trường hợp trong thực tế.
Về thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
o Về năng lực và thẩm quyền của các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như những quy
định của Luật Cạnh Tranh còn nhiều hạn chế.
o Mặc dù số lượng hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng gia tăng với tính chất
ngày càng phức tạp song số vụ được các cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp còn hạn
chế, chưa tương xứng nhu cầu. C. KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu về thực tiễn áp dụng quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
ý nghĩa trong công cuộc đấu tranh phòng chống hành vi vi phạm pháp luật Cạnh tranh. Từ
đó, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, công cuộc lập pháp luôn nắm vai trò
quan trọng và thiết yếu trọng sự phát triển của kinh tế - xã hội. Để có được một môi trường
kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, công bằng, đảm bảo phát huy mọi tiềm năng kinh tế của
đất nước và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì Việt Nam cần có một hệ thống pháp
luật đồng bộ, thống nhất và hoàn thiện, có cơ chế đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước lOMoAR cPSD| 59092960
phát huy mọi nội lực, tăng sức cạnh tranh trên thương trường, đảm bảo cho các doanh nghiệp
nước ngoài một môi trường kinh doanh công bằng, thuận lợi.
Để công tác đấu tranh phòng, chống cạnh tranh không lành mạnh phát huy hiệu quả
trong thực tế thì bên cạnh việc nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền nói chung và hiệu lực thực thi nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh nói riêng
thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cũng rất cần được quan tâm trong cộng đồng để
nâng cao khả năng tự bảo vệ của các đối tượng có liên quan, đưa pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh đến gần với các chủ thể kinh doanh để nâng cao khả năng tự vệ, hình
thành thói quen, xây dựng đạo đức kinh doanh nhằm đảm bảo cho pháp luật về chế tài đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có hiệu quả trên thực tế.