Tiểu luận "Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay"

Đề tài: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việcphân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện na

lOMoARcPSD|36006477
TIỀU LUẬN
Đề tài "
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc
phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay”
lOMoARcPSD|36006477
Mục Lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
I.Cơ sở lý luận ................................................................................................... 3
II.Tính tất yếu và mâu thuẫn bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 8
II.1.tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam .... 8
II.2.Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ......... 12
II.3.Thực trạng và phương hướng giải quyết những mâu thuẫn ..................... 20
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 23
MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế của thời đại thế giới thì việc chuyển sang nền kinh
tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80
của thế kỷ XX , khi những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài
tình trạng này . Trước tình hình này , Đảng Nhà nước ta đã quyết định chuyển
nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986).
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều
mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ,
nước ta không tránh khỏi những khó khăn . Theo quan đIển triết học duy vật
biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong
những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế
thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn
. Trong giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện
cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung
, quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng
tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính t
phát của sphát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa bản) với định hướng
lOMoARcPSD|36006477
xã hội chủ nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường…
Những mâu thuẫn này đang hiện diện tác động mạnh mẽ tới qtrình
phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức vấn đề này giải quyết
chúng ý nghĩa cùng quan trọng đthúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này bằng những kiến
thức thu được trong năm học vừa qua tôi chọn đề tài:
"Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc phân tích
hệ thống c mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường Việt Nam
hiện nay.
I.Cơ sở lý luận.
I.1.Lịch sử những tưởng triết học chủ nghĩa duy vật trước Mác về mâu thuẫn
.
Trải qua quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá
trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm về mâu
thuẫn khác nhau cũng thay đổi. Mỗi thời đại , mỗi trường phái lại có những lý
giải khác nhau về mâu thuẫn , về các mặt đối lập , vì triết học luôn phát sinh t
những bối cảnh lịch sử nhất định . Thứ nhất triết học thời cổ đại điển hình
là ba nền triết hc lớn đó là Trung Hoa , Hy Lạp và ấn Độ .
Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thế kỷ thứ II trước
công nguyên. Tuy nhiên , phải đến cuối thời Xuân thu _ Chién quốc , các hệ
thống triết học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện . Những quan điểm biện
chứng về mâu thuẫn thời kỳ này xuất hiện tuy còn khai. dnhư trường
phái Âm Dương . phái Âm – Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong
tính đồng nhất tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể
tương đồng . Trái lại tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập gọi là s
thống nhất Âm Dương. Quy luật nay thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần
biện chứng trong cái mặt đối lập kia ít nhất cũng trạng thái tiềm năng
sinh thành. Triết học ấn Độ thì đưa ra phạm trù vô ngả”, “vô thường”(ca
trương phái Phật Quốc ). “Một tồn tại nào đó chẳng phải là “tổng
lOMoARcPSD| 36006477
hợp”, “hội họp” của những cái không phảI là nó mà nhờ hội đủ nhân duyên .
Không tồn tại nào độc lập tuyệt đối với tồn tại khác Nhưng đã như vậy thì
tất yếu phải đi đến một khẳng định về lẽ thường . thường chẳng
“thường hằng” , “thường hằng cái bất biến, chẳng bất biến biến động ,
biến tức biến động . thể nói , cùng với sự phát triển của các hình thức
kinh tế – xã hội các tư tưởng về mâu thuẫn cũng ngày càng rõ nét.
Hêraclit nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của
thì phỏng đoán rằng: mâu thuẫn tồn tại trong mọi svật của thế giới . Theo ông
, các mặt đối lập gắn bó , quy định , ràng buộc với nhau. Heraclit còn khẳng
định trụ một thể thống nhất nhưng trong lòng luôn diễn ra các cuộc
đấu tranh của các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ tr tồn tại và vận động . Vì thế
đấu tranh là “cha đẻ của tất cả , là ông hoàng của tất cả”.
Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ , nền triết học thời kỳ này
chủ yếu triết học linh viện tập trung vào cái chung cái riêng . Sang đến
triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành tựu về khoa
học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm triết học duy vật cũng
diễn ra hết sức gay gắt . Nhưng các quan đIểm thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào
siêu hình , máy móc .Tới triết hc cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư
tưởng triết học tiến bộ . Cách mạng và khoa học . Triết học cổ diển Đức đã đạt
được trình độ khái quát duy trừu tượng rất cao với những hệ thống kết
cấu chặt chẽ , thể hiện một trình độ duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực
quan , siêu hình của nền triết học Anh Pháp thế kỷ XVII XVIII, do vậy
các tưởng triết học về mâu thuẫn đã những ớc tiến đáng kĐại biểu
đặc trưng của triết học cổ điển Đức là Hêghen .
I.2.Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn.
Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu
thành bởi các mặt đối lập , các thuộc tính , các khuynh hướng phát triển ngược
chiều nhau , đối lập nhau
*Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập .
Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn skhái quát các mặt
, các khuynh hướng , các thuộc tính trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm
lOMoARcPSD| 36006477
n sự vật , hiện tượng . Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập . Nhưng không
phải hai mặt đối lập bất kỳ của một mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn
. Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể quan hệ khăng khít với
nhau , tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫm một
chỉnh thể , trong đó các mặt đối lập vừa đấu tranh , vừa thống nhất với nhau .
Trong một mâu thuẫn , hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn nghĩa hai mặt đối lập
liên hệ với nhau, ràng buộc nhau , quy định nhau ,mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại của mình . Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật
thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật . Bởi vậy sự thống nhất của các mặt
đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật , hiện
tượng nào và ngược lại . dụ :trong sinh vật hai mặt đối lập đồng hoá dị
hoá thống nhất với nhau , nếu chỉ là mt quá trình thì sinh vật sẽ bị chết .Trong
hội bản , giai cấp sản giai cấp sản hai mặt đối lập thống nhất
với nhau , nếu không giai cấp sản với cách giai cấp bán sức lao động
cho giai cấp tư sản , thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một
giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư…
Tuy nhiên , khai niệm “thống nhất “y chỉ mang tính tương đối . Bản
thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó .
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời
sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng . Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trọng
cùng một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên
bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhâu tạo thành động lực phát triển của
bản thân svật . Sự đấu tranh chuyển hoá , bài trừ , phủ định lẫn nhau giữa các
mặt đối lập trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
.
dụ : lực lượng sản xuất quan hệ sản xuẩt trong hội đối kháng
giai cấp , mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc
hậu kìm hãm diễn ra rất quyết liệt gay gắt . Chỉ thể thông qua các cuộc
cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết
mâu thuẫn một cách căn bản.
lOMoARcPSD| 36006477
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn .
Thông thường khi mới xuất hiện , hai mặt đối lập chưa thể hiện xung khắc
gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau . Tất nhiên không phải bất kỳ sự
khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn . Chỉ những sự khác nhau nào cùng
tồn tại trong cùng một sự vật liên hệ hữu với nhau , phát triển ngược chiều
nhau , tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập đó mới
hình thành bước đầu của một mâu thuẫn . Khi hai mặt đối lập của một mâu
thuẫn phát triển đến xung đột gay gắt , nó biến thành độc lập . Sự vật cũ mất đi
, sự vật mới hình thành . Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của
hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới , hai
mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn .Mâu thuẫn được
giải quyết , svật mới xuất hiện . Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập
làm cho svật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao . Chính vậy Lênin
khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập “.
Khi bàn vmối quan hệ giữa sự thống nhất đấu tranh của các mặt
đối lập , Lênin chỉ ra rằng :’Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại
với ý nghĩa là chính nó nhờ có sự thống nhất ca các mặt đối lập chúng ta
nhận biết được sự vật , sự vật tồn tại trong thế giới khách quan . Song bản thân
sự thống nhất chỉ là tạm thời . Đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối .
Nó diễn ra thường xuyên , liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật . Kể
cả trong trạng thái ổn định , cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất . Lênin
viết :”sự thống nhất (phù hợp , đồng nhất ,tác dụng ngang nhau )của các mặt
đối lập điều kiên , tạm thời , thoang qua trong tương đối . Sự đấu tranh
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhautuyệt đối cũng như sphát triển , sự vận
động tuyệt đối”.
*Chuyển hóa ca các mặt đối lập .
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn tới sự
chuyển hoá giữa chúng . Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến
một trình đ nhất định , hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá
, bài trừ , phủ định lẫn nhau . Trong giới tự nhiên , chuyển hoá của các mặt đối
lOMoARcPSD| 36006477
lập thường diễn ra một cách tự phát , còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt
đối lập diễn ra nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người
Do đó , không nên hiểu sự chuyển hoá của các mặt đối lập chỉ sự
hoán đổi vị trí một cách đơn giản , máy móc . Thông thường thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phương thức :
+Phương thức thứ nhất :Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập
kia nhưng ở một trình độ cao hơn xét về phương diện chất ca sự vật .
Ví dụ :Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến
đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới trình độ
cao hơn.
+Phương thức thứ hai:Cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá lẫn nhau để
tạo thành hai mặt đối lập hoàn toàn mới .
dụ :Nền kinh tế Việt Nam chuyển hoá từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung , quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường có squản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Từ mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới thực , bất kỳ sự vật , hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong những mặt những thuộc tính khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối
lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn là hiện tượng khách
quan , phổ biến của thế giới . Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự
vật mới hình thành . Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới
.
Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau dể tạo
thành sự vật mới hơn . Cứ như vậy các sự vật , hiên tượng trong thế giới khách
quan thường xuyên biến đổi phát triển không ngừng . vậy mâu thuẫn
nguồn gốc và động lực phát triển của mọi quá trình phát triển.
lOMoARcPSD|36006477
II.Tính tất yếu và mâu thuẫn bản chất của nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
II.1.tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
* Chuyển sang nền kinh tế thị trường một tất yếu khách quan trong quắ trình
phát triển nền kinh tế đất nước .
Như đã biết ,kinh tế thị trường một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh
trình độ phát triển nhất của văn minh nhân loại .Từ trước đến nay nó tồn tại và
phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa bản. Ngày nay , kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa đã phát triển tới trình độ khá cao phồn thịnh các nước bản
phát triển
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó còn mặt trái , khuyết tật từ trong bản chất của
do chế độ shữu bản nhân về liệu sản xuất chi phối. Cùng với s
phát triển của lực lượng sản xuất , càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa bản
càng bộc lộ sâu sắc , không giải quyết được các vấn đề hội , làm tăng thêm
bất công bất ổn của hội , đào sâu thên hố ngăn cách giữa người giàu
người nghèo. Chính vì thế mà , như C.Mác đã phân tích và dự báo , chủ nghĩa
tư bản tất yếu phải được thay thế bởi một phương thức sản xuất và chế độ mới
văn minh hơn , nhân đạo hơn. Chủ nghĩa bản , mặc đã đang tìm mọi
cách để tự điều chỉnh tự thích nghi, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất
của nó , chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được , chăng chỉ tạm
thời xoa du được chừng nào mâu thuẫn mà thôi . Nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá
để chuyển sang một giai đoạn hậu công nghiệp , theo xu hướng xã hội hoá .
Đây là tất yếu khách quan , là quy luật phát triển của xã hội . Nhân loại muốn
tiến lên , hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa .
hình chủ nghĩa hội kiểu Viết một kiểu tổ chức hội , tổ
chức kinh tế muốn sớm khắc phục khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh
chóng xây dựng một hội tốt đẹp hơn , một phương thức sản xuất văn minh
lOMoARcPSD| 36006477
hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản . Nhưng có lẽ , do nôn nóng , làm trái quy luật ,
không năng động , kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cục đã không
thành công . Liên Xô khắc phục sự nóng vội bằn cách đưa ra thực hiện “chính
sách kinh tế mới “(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển
kinh tế hàng hoá, chấp nhận mức đnhất định chế thị trường Muốn thế ,
Nga cần phải sử dụng quan hệ tiền tệ hàng hoá và phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần , đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển
lực lượng sản xuất . Tuy chỉ mới thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng
NEP đã đem lại những kế quả tích cực cho nước Nga:hồi phục phát triển
kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều nghành kinh tế hoạt động năng động , nhộn
nhịp hơn . Tiếc rằng , tư tuởng của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với
chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau đó .
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những khuyết tật của mô hình
kinh tế Viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo ,
quản lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chnghĩa hi ở Liên
các nước Đông Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng trì trệ . Một số nhà lãnh
đạo chủ chốt của Đảng Nhà nước Liên lúc đó muốn thay đổi tình hình
bằng công cuộc cải cách , cải tổ nhưng với một “ tư duy” chính trị mới , họ đã
mắc sai lầm nghiêm trọng cực đoan , phiến diện đãn tới sự tancủa Liên Xô
sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới , đã làm lộ những khuyết
tật của mô hình kinh tế cứng nhắc , phi thị trường , mặc dù những khuyết tật đó
không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn tới sự sụp đổ .
Việt nam là một nước nghèo , kinh tế kỹ thuật lạc hâu , trình độ xã hội
còn thấp , bị chiến tranh tàn phá nặng nề , di lên chủ nghĩa hội mục tiêu
tưởng của những người cộng sản nhân dân Việt Nam , là khát vọng thiêng
liêng ngàn đời của nhân dân Việt Nam . Nhưng đi lên chủ nghĩa hội bằng
cách nào? Đó câu hỏi lớn cực kỳ hệ trọng , muốn trả lời thật không đơn
giản . Chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết , mô hình
kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp . Mô hình này đã thu được những
kết quả quan trọng , nhất đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước chiến
tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm ;và trong công tác
lOMoARcPSD| 36006477
chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai
lầm đó bệnh giáo điều , chủ quan , duy ý chí . Lối suy nghĩ hành động đơn
giản , nóng vội không tôn trong quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa
xã hội không đúng với thực tế ở Việt Nam .
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam , Đại hội VI của Đảng cộng
sản Việt Nam(tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước nhằm thực hiện hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội .
Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường , phương pháp xây dựng
chủ nghĩa hội , đặc biệt quan niệm vcông nghiệp hoá hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ , vcấu kinh tế , thừa nhận sự tồn tại khách quan của
sản xuất hành hoá và thị trường . Phê phán triệt để cơ chế tập trung , quan liêu
, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI là
một mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản
Việt Nam về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam
.
*.Bản chất những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không
phải kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa , cũng không phải kinh
tế bao cấp quản theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp cũng chưa hoàn toàn
kinh tế thị trường hội chủ nghĩa ,bởi Việt Nam đang trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội , vừa có vừa chưa có các yếu tố của chủ nghĩa xã hội .
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại , phát huy vai trò tích
cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy sức sản xuất , hội hoá lao động
, cả tiến kỹ thuật – công nghệ , nâng cao chất lượng sản phẩm , tạo ra nhiều của
cải , góp phần làm giàu cho hội cải thiện đời sống nhân dân : đồng thời
phải những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường . Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên
lOMoARcPSD| 36006477
cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lênin nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận
dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam .
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phát
triển lực lượng sản xuất , phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chấtkỹ thuật
của chủ nghĩa hội , nâng cao đời sống nhân dân .Phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn liền với phát triển quan hệ sản xuất mới , tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu ,, nhiều thành phần kinh tế , trong dó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
: kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước , Nhà nước hội chủ nghĩa quản nền kinh tế bằng chiến lược , quy
hoạch , kế hoạch , chính sách , pháp luật , bằng cả sức mạnh vật chất của
kinh tế nhà nước : đồng thời sử dụng cơ chế thị trường , áp dụng các hình thức
kinh tế phương pháp quản của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất ,
giải phóng sức sản xuất , phát huy mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực của
chế thị trường , bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động , của toàn thể nhân dân .
Kinh tế thị rường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối ch
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn các nguồn lực khác vào sản xuất , kinh doanh thông qua
phúc lợi hội . Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ công bằng
hội ngay trong từng bước phát triển . Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hoá và giáo dục , xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà
bản sắc dân tc , nâng cao dân trí , giáo dục và đào tạo con người , xây dựng
phát triển nguồn nhân lực đất nước .
C.Mác khẳng định rằng:”…sản xuất hàng hoá lưu thông hàng hoá
những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau,
tuy rằng quy tầm quan trọng của chúng không giống nhau…Chúng ta
hoàn toàn chưa biết về những đặc điểm riêng của những phương thức sản
xuất ấy chúng ta chưa thể nói về những phương thức sản xuất ấy, nếu
lOMoARcPSD|36006477
chúng ta chỉ những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hoá , những
phạm trù chung của tất cả các phương thức ấy”.
Lựa chọn hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường chủ nghĩa hội , là
sự nắm bắt vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại hiện nay . Đảng cộng sản Việt nam trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự khái quát đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh
tế thị trường thế giới , đặc biệt tthực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội Trung
Quốc và Việt Nam , để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa , nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu
từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội . Kinh tế thị trường đnh hướng xã hội chủ
nghĩa là hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hi . Đây là một
kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường .
II.2.Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam .
*Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Trong công cuộc xây dựng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước , theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay , vấn đề lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp , mâu thuẫn giữa hai lực lượng
này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết hc MacLênin , theo
đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của
sự vật , lực lượng sản xuất yếu tố quyết định quan hệ sản xuất , lực lượng
sản xuất yếu tố động , luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến
một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp na trở
thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Để mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển , cần thay thế quan hệ sản xuất băng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với tính chất trình đphát triển của lực lượng sản xuất
.Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để để phù hợp với lực lượng sản xuất ,
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , đó
là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của xã hội .
lOMoARcPSD| 36006477
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm hãm diễn ra gay gắt , quyết liệt và cần được giải quyết .
Nhưng giải quyết bằng cách nào ? Đó chính các cuộc cách mạng hội
,các cuộc chuyển đổi kinh tế mà các cuộc chuỷên đổi kinh tế ở nước ta một
ví dụ . Khi một mục tiêu , một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng , thể hiện tính chất
cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xã hội công bằng ,
dân chủ , văn minh .
Công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước là chủ trương , biện pháp vừa
mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa hội .
Nói đến công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất
tiên tiến đó chính lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , nói đến khoa
học , đến sanh minh của trí tuệ nói đến một phương thức tối ưu để thoát
khỏi tình trạng sản xuất nhỏ , nông nghiệp lạc hậu , tạo điều kiện sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội được xây dựng phát triển. Không thể
ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm ng cộng sản để kiến thiết
chủ nghĩa xã hội , chuyển sang nền kinh tế thtrường . Khẳng định cái mới ,
đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phủ định , gạt bỏ cả quan niệm
sai lầm về điều kiện xây dựng chủ nghĩa hội nước ta . Trước đây , chúng
ta thiếu quan tâm tới vai trò của trí tuệ , khoa học đến việc tạo lập sở vật chất
–kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội . Bằng chứng một thời chúng ta coi trọng
không đúng mức tầng lớp trí thức khoa học trong môi trường tương quan
với đội ngũ những người lao động khác . Do thế , hậu qutất yếu sảy ra là khoa
học nước ta chậm hoặc không điều kiện phát triển , đất nước không thoá
khỏi nền sản xuất nhỏ , nông nghiệp lạc hậu cũng không thể nói tới công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
*Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường .
Trước đây , người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa
xã hội là: sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể . Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi
hoàn cảnh lịch skhi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội
lOMoARcPSD| 36006477
chủ nghĩa . Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai
hình thức sở hữu nhân khác nhau: sở hữu nhân bản chủ nghĩa sở hữu
nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải
thái độ giải quyết khác nhau. Đối vơí hình thức sở hữu tư nhân bản chủ
nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để đưa thẳng lên sở hữu toàn dân ,
còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ thì không
thể dùng những biện pháp như trên , mà pỉai kiên trì giáo dục , thuyết phục tổ
chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng việc hợp tác h
hai hình thức . Sở hữu đó đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp
công và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây trong thời kỳ quá độ chuyển sang
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa nước
ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới , của chính sách đa dạng
hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo toàn dân thực hiện
. Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao
gồm nhiều hình thức sở hữu , chứ không phải chỉ bao gồm hai hình thức shữu
là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây .
Trong giai đoạn hiện nay , nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đang xây dựng phát triển bao gm
nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân , sở hữu tập thể , sở hữu nhà nước
, sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp . Trong các hình thức sở hữu này , khái quát
lại chỉ hai hình thức sở hữu đó : công hữu hữu , còn các hình thức
sở hữu khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp . ở đây mi hình
thức sở hữu lại nhiều hình thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau.
Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình đ
phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý .
Về sở hữu toàn dân.
Trước đây , người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu nhà
nước . Nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên bao gôm nhiều hình thức sở
hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt liên kết hỗ trợ các thành
lOMoARcPSD| 36006477
phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh . Nhà nước
quản kinh tế với cách quan quỳên lực đại diện cho lợi ích của
nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu toàn dân .
ở nước ta hiện nay , như hiến pháp và luật đất đai quy định rõ :”Xét và
mặt kinh tế , đất đai phương tiện tồn tại của cả một cộng đồng hội . Xét
về mặt xã hội , đất đâi là nơI trú của một cộng đồng . Thế nhưng khi xét trên
cả hai phương diện có thể nói đất đai không thể là sở hữu của riêng ai .
Tuy nhiên , suy cho cùng , đất đai là tư liệu sản xuất , hay nói chính xác hơn đó
một bộ phận quan trọng của sản xuất . Bởi thế , đặc biệt thì trong nền
kinh tế hàng hoá , vẫn phảI hoạt động theo quy luật của thị trường chịu
sự điều tiết của quy luật đó .Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhà nước là
người đại diện , thống nhất quản không hề mâu thuẫn với việc trao quyền
cho các hộ nông dân , kể cả quyền chuyển nhượng , quyền sử dụng đất đai nếu
biết giải quyết các vấn đề sở hữu , biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng .
Chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân nhưngngười nông
dân quyền sử dụng ổn định lâu dài thì thđem lại một sức bật cho sphát
triển của lực lượng sản xuất vừa tăng cường của nền kinh tế nói chung. Văn
kiện đại i VII của Đảng ta đã chỉ rõ:”Trên cơ sở chế độ shữu toàn dân về đất
đai ,đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài . Nhà nước quy định
bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế , chuyển quyền sử dụng đất…” (Đảng
cộng sản Việt Nam-văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ VII-Nhà xuất
bản sự thật-nội 1991).Như vậy hình thức shữu toàn dân nước ta hiện
nay đã được xác định theo nội dung mới , nhiều khả năng đthực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế .
Về sở hữu nhà nước .
Trong thời kỳ bao cấp trước đây , không chỉ nước ta còn các
nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đông nhất sở hữu
nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy trong một thời gian
khá dài , người ta thường bỏ qua sở hữu nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt tới sở
hữu toàn dân với chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân sở hữu
tập thể. cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với khu vực kinh tế quốc doanh
lOMoARcPSD| 36006477
chúng ta ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niền tin cho rằng chỉ như
vậy mới chnghĩa hội nhiều hơn. Thực ra , với quan niệm đó, sở hữu
toàn dân không trở thành sở hữu của một chủ thể cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều
kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức shữu
nhà nước xét về tổng thể , mới chỉ kết cấu bên ngoài của sở hữu . Còn kết
cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở
hữu đó , ở khu vực kinh tế quốc doanh , khu vực các doanh nghiệp nhà nước .
Về sở hữu tập thể .
ở nước ta trước đây , sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp
tác (gồm cả hợp tác nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp ) với nội dung
cả giá trị và giá trị sử dụng đều của chung các viên chủ sở hữu
chính . Vì vậy, với hình thức sở hữu này , quyền mua bán hoặcchuyển nhượng
liệu sản xuất , trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở nước ta đã diễn
ra hêt sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế , song
đôi khi lại tình trạng lạm quyền. Sự không xác định , sự nhập nhằng giữa
quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũnghiện tượng phổ biến
. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện
naycần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối
với các tập thể sản xuất kinh doanh .Chỉ có như vậy , sở hữư tập thể mới có thể
trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta biết , hợp tác không phải hình thức riêng đặc trưng
cho chủ nghĩa xã hội , nhưng một hình thức sỏ hữu kinh tế tiến bộ trong
thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa xã hi . Vì vậy , chúng ta phải duy trì phát triển
hơn nữa khi xây dựng chủ nghĩa hội như V.I.Lênin đã khẳng định :”chế dộ
của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa “.
Hợp tác nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình , của nền
sản xuất hàng hoá . Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp
nhỏ phát triển đến một trình độ nhất định , sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác .
Trong đIều kiện của nề kinh tế hàng hoá các nhu cầu về vốn , cung ứng vật tư,
tiêu thụ sản phẩm…đòi hỏi các hsản xuất phải liên kết với nhau mới có khả
lOMoARcPSD| 36006477
năng cạnh tranh phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao
động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tế cho thấy ,
nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu
tồn tại phá triển của chế thị trường “hợp tác được tổ chức trên sở
đóng góp cổ phần và sự tham gia trực tiếp của xã viên , phân phối theo kết quả
lao động và cổ phần đóng góp, mỗi xã viên quyền như nhau đối với công
việc chung”(Đảng cộng sản Việt Nam –Văn kiện đại hi đại biểu toàn quốc làn
thứ VIII-nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội –1996) . ĐIều này cho thấy kết
cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở
nước ta hiện nay.
*Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con ngườihội ch
nghĩa .
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng :muốn xây dựng chủ nghĩa hội trước
hết phải con người hội chủ nghĩa . Yếu tố con người giữ vai tcực kỳ
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng , bởi con người chủ thể của mọi
sáng tạo , của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá . Con người phát triển cao
về trí tuệ , cường tráng về thể chất , phong phú về tinh thần , trong sáng về đạo
đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới , là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội . Chúng ta phải lấy con người làm điểm xuất phát .
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ
giữa con người với con người đều thông qua thị trường , tức là thông qua việc
mua bán , trao đổi hàng hoá tiền ttrên thị trường . Trong kinh tế hàng hoá ,
quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển , mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực , có ý
nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng . Do nảy sinh phát
triển trong một đIều kiện lịch sử nhất định , kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ
trình độ văn minh và phát triển là nhân tố phát triển sức sản xuất , tăng trưởng
kinh tế , thúc đảy hội phát triển . Tuy nhiên , kinh tế thị trường cũng
những khuyết đIểm của như cạnh tranh lạnh lùng , tính tphát quáng
dẫn đến sự phá sản , thất nghiệp , khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây , chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước
ta hiện nay , không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu t kinh
lOMoARcPSD| 36006477
tế thị trường . Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh , của nền kinh tế kém phát
triển , của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế nước ta đã tụt hậu rất
xa so với khu vực và thế giới . Trong tình hình đó thì kinh tế thị trường là nhân
tố rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảngvà phát triển
phục hồi sản xuất , đẩy mạnh tốc độ phát triển, bắt kịp bước bước tiến của thời
đại.
Trên sở đó đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao , những
nhu cầu sinh hoạt vật chất bản hàng ngày được đáp ứng đầy đủ nhanh
chóng . Con người không thể thkhoẻ mạnh nếu thiếu ăn , thiếu mặc,
thiếu các điều kiện chăm sóc sức khoẻ hiện đại . Con người không thể trí tuệ
minh mẫn , phát triển các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập ,
nghiên cứu khoa học không được đáp ứng . Việc xây dựng , củng cố hoàn thiện
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất bản đthực hiện chiến
lược xây dựng con người cho thế kỷ XXI.
Trong năm qua , kinh tế thị trương ở nước ta đã được nhân dân hưởng
ứng rộng rãi đi vào cuộc sống rất nhanh chóng , góp phần khơi dậy nhiều
tiềm năng sáng tạo , làm cho nền kinh tế sống động hơn . Đây là những kết quả
rất đáng mừng , đáng được phát huy . thể hiện sự phát hiện vận dụng
đúng đắn các quy luật khách quan ca xã hội . Quá trình biện chứng đi lên chủ
nghĩa hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy toàn
xã hội .
Bên cạnh đó , có một khía cạnh khác cần đề cập tới : kinh tế thị trường
nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng , phát huy
nguồn lực con người còn tạo ra môi trường thuận lợi cho con người phát
triển hoàn toàn , toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra
sự chạy đua , cạnh tranh quyết liệt . Điều đó buộc con người phải năng động ,
sáng tạo , linh hoạt , có tác phong nhanh nhạy , có đầu óc phân tích , tổng hợp
để thích nghi hành động hiệu quả. Từ đó nâng cao năng lực hoạt động
thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi tính trì trệ và chậm chạp vốn có
của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời con nời Việt Nam.
lOMoARcPSD| 36006477
Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các
quan hệ mua bán , giao lưu , từ đó hình thành những chuẩn mực văn hoá , đạo
đức theo tiêu chí của thị trường như chữ tín trong chất lượng giao dịch…Đây
cũng là một hướng tốt đẹp đắp những thiếu hụt trong hgiải trí của con
người Việt Nam.
Tuy nhiên , cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng kinh tế thị
trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người . Có những
lúc , những nơi , kinh tế thị trường không những làm cho con người ta năng
động hơn , tốt đẹp hơn mà ngược lại , còn làm tha hoá bản chất con người biến
con người trở thành lệ sùng bái đồng tiền hoặc đạo đức giả chỉ biết tôn
trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân , sẵn sàng chà đạp lê nhân phẩm , đạo đức ,
luân lý… Bên cạnh những tác động tích cực , kinh tế thị trường nhiều khuyết
tật ,hạn chế gây ra những tác động xấu .
Nhưng phân tích trên đây cho thấy , kinh tế thị trường mục tiêu xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn
ở nước ta hiện nay .
Đây chính hai mặt đối lập của một mâu thuẫn hội . Giữa kinh tế thị trường
quá trình xây dựng con người vừa sự thống nhất , vừa sự đấu tranh .
Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện xây dựng , phát huy những nguồn
lực của con người , vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại con người . Việc giải
quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản . Đối với nước
ta , mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường quá trình xây dựng con người được
giải quýêt bằng vai trò lãnh đạo của Đảng , bằng sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa . Đảng ta xác định :”sản xuất hàng hoá không đối
lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại
, tồn tại khách quan , cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội cả khi chủ
nghĩa hội đã được xây dựng “.Như vậy , Đảng ta đã vạch sự thống nhất
giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội . Việc áp dụng
chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao ng lực quản tầm của Nhà
nước , đồng thời phải xác nhận đầy đủ quyền tự chcủa các đơn vị sản xuất
khinh doanh . Thực hiện tốt những vấn đề này sẽ phát huy được những tác động
lOMoARcPSD|36006477
to lớn cũng như ngăn ngừa những hạn chế , khắc phục được những tiêu cực ,
khiếm khuyết của kinh tế thị trường . Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải
hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến
hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền ,
bất chấp đạo lý , coi thường các giá trị nhân văn , phải ra sức phát huy các giá
trị tinh thần nhân đạo , thẩm m, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như
nội dung của Nghị quyết trung ương V đã nêu. Đây chính là công cụ , phương
tiện quan trọng để tác động , góp phần giải quyết các mâu thuẫn đã nêu trên
*Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới.
Trải qua mt thời gian dài nền kinh tế được điều khiển bằng cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp , nền kinh tế hoạt động theo mênh lệnh bắt buc … đã
tạo ra một phong cách làm việc trì tr, thiếu trách nhiệm , sản xuất đình đốn .
Chính vì vậy, khi chuyển sang nền kinh ttế thị trường , nền kinh tế mở đã khiến
nền kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Các hoạt động kinh tế vẫn còn mang nặng tính tập trung quan liêu bao
cấp . Các hoạt động thông qua các quan trung gian nhà nước vẫn còn đầy
dẫy những thủ tục phiền gây tốn thời gian ích , cán bộ quan liêu cửa
quyền dẫn đến hạn chế sự phát triển của nền kinh tế . Hoạt động của các
quan nhà nước khi chuyển sang kinh tế thị trường không bắt kịp nhịp độ sản
xuất do máy móc .
II.3.Thực trạng và phương hướng giải quyết những mâu
thuẫn trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Mác : các quy luật khách quan đều tồn tại và phát huy tác
dụng một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí của con người .
vậy , con người không thể sáng tạo thêm quy luật và con người cũng không có
khả năng thủ tiêu các quy luật khách quan . Vận dụng vào nền kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam , chúng ta một lần nữa khẳng định
những mâu thuẫn của nền kinh tế tồn tại một cách khách quan và tuân theo quy
luật của phép biện chứng duy vật . Do vậy , muốn giải quyết mâu thuẫn ở Việt
Nam hiện nay chúng ta phải dựa vào quy luật đấu tranh thống nhất của các
mặt đối lập . Trong phạm vi bài tiểu luận , tôi xin mạn phép đưa ra hướng giải
lOMoARcPSD| 36006477
quyết cụ thể cho một mâu thuẫn đó là :mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế
công bằng xã hội .
Khi đề cập tới mâu thuẫn này chúng ta phải khẳng định đây là nội dung
chủ yếu của các học thuyết kinh tế , của các chiến lược , chính sách phát triển
kinh tế của các nước đang phát triển . Một mục tiêu chiến lược CNHHĐH
nước ta là tăng trưởng kinh tế cao , liên tục , lâu dài, đi kèm với tiến bộ và công
bằng xã hi . Đại hội VIII đã chỉ rõ bài học cũng như phương hướng phát triển
lau dài “tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng hội “. giới nghiên
cứu nước ngoài tương đối thống nhất khẳng định phương hướng đó giai
đoạn đầu của sự phát triển , đối với nước nông nghiệp đi theo con đường công
nghiệp hoá , điều cần thiết là gia tăng đáng kể về thu nhập do tăng trưởng kinh
tế được thúc đẩy bởi việc bộ phận lao động được thu hút vào một s nghành
năng xuất lao động cao đi liền với sự giảm sút tỷ lệ thu nhập 20 , 40 hoặc
60% dân số ở phía dưới . Vấn đề đặt ra gây nhiều tranh cãi là phải chăng sự bất
bình đẳng cùng với quá trình phát triển là không tránh khỏi , hay là một vấn đ
lựa chọn chính sách . Cần phải thấy trong luận điểm mới về bất bình đẳng nói
riêng trong qua trình tăng trưởng kinh tế bất bình đẳng rất phu thuộc vào
hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia gồm những lực lượng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế chi phối bất bình đẳng cả chiến lược phát triển kinh tế của
nước đó. Ngày nay, trong giới nước ngoài cho rằng :”Không mâu thuẫn
,giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng hội . Nhận thức này tính tiến bộ
bởi : nhiều nước trong quá trình phát triển kinh tế của mình đạt được tăng
trưởng kinh tế cao và công bằng xã hi luôn luôn được cải thiên như: Đài Loan
, Hàn Quốc ,hay như một số nước ASEAN sau này .Mặc vậy ,còn nhiều
nước đang phát triển “loay hoay”giải quyết tăng trưởng kinh tế , công bằng xã
hội hoặc chưa gắn liền phảt triển kinh tế với công bằng xã hội . Hay cái gọi
tăng trưởng kinh tế công bằng xã hội lại gắn liền với khủng hoảng kinh tế
theo chu kỳ. các nước tư bản thực chất biểu hiện ra bên ngoài sự mất cân
đối của các mục tiêu tăng trưởng kinh tế công bằng xã hội như cuộc khủng
hoảng kinh tế thừa khách quan nhất đó là hệ quả của việc tập trung quá mức tài
sản , vốn liếng trong tay một số người giữ vai trò làm “cung” cho nền kinh tế ,
lOMoARcPSD| 36006477
trong khi người tiêu dùng với quy mô thu nhập thấp hơn nhiều và với nhu cầu
có khả năng thanh toán còn hạn chế của họ –cái quyết định quy thực sự của
thị trường đóng vai trò là người thực hiện “cầu” . Mất cân bằng cung-cầu
không thể tránh khỏi và đó là căn bệnh nan y của chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn khách quan khẳng định ,với bdày kinh nghiệm lãnh đạo
cách mạng hơn 70 năm , bản lĩnh chính trị vững vàng , nhân quan chính trị sâu
sắc , sự nhạy cảm trước thời cuộc , Đảng ta đã xác định hướng đi đúng đắn ,
tiến bộ và cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta
trong thế kỷ XXI gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ hội . Để thực
hiện thành công mc tiêu này , trước hết cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo
bao chùm: kiên định con đường phát triển theo con đường xã hi chủ nghĩa ,
mục tiêu dân giàu nước mạnh , xa hội công bằng , dân chủ ,văn minh .Đây vừa
là mục tiêu , vừa phương tiện đthực hiện gắn keo sơn giữa giai cấp công
nhân , nông dân lực lượng tri thức . Nói khác đi , căn cứ liên kết giai cấp ,
tránh phân hoá giai cấp là nội dung cốt lõi tăng trưởng kinh tế gắn liền với
công bằng xã hội ở Việt Nam . Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công
bằng xã hội thực hiện liên tưởng chỉ đạo của quá trình chỉ đạo đổi mới
nước ta được khởi xướng tại Đại hôI VI , ln tục khẳng định tại Đại hội VII,
VIII .Đó là đổi mới kinh tế là trọng tâm , từng bước đi mới chính trị . Từ quan
điểm chỉ đạo của nước ta toàn diẹn, đồng bộ , cần tiếp tục đẩy nhanh quá
trình hoàn thiện thể chế phát triển nước ta , trong đó tiếp tục hoàn thiện
chế thị trường đi đôi nâng cao tăng trưởng , nâng cao năng lực quản của
bộ máy nnước then chốt . Việc hoạch định chính sách kinh tế hội
trong thực tiễn phải hợp lý đó là : khi thực hiện phương hướng chính sách kinh
tế và chính sách xã hội hoà quỵên với nhau như là điều kiện quyết định để đảm
bảo phát triển kinh tế gắn liền với công bằng xã hội . Trên cơ sở lấy con người
làm trọng tâm , không ngừng phát huy , bồi dưỡng, nâng cao nguồn vốn con
người ; cân nhắc thực hiện hạn chế dần các chính sách kinh tế , thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trước mặt nhưng không có hại cho công bằng xã hội về lâu dài.
Sử dụng hợp lý chính sách xã hội , căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế – tài chính đất
nước , phù hợp với truyền thống nhân nghĩa , đạo tốt đẹp của dân tộc , tinh
lOMoARcPSD|36006477
thần bao dung nhân ái của nhân dân , của Chủ tịch Hồ Chí Minh ; kiên quyết
thực hiện các chính sách kinh tế không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hại cho
công bằn g xã hội .
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước tanhưng bước đầu đã
vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua do nên kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp để lại thu được những thành tựu đáng phấn khích
trong nền kinh tế. Tạo niền tin trong nhân dân vào snghiệp đổi mới , kiên định
đi theo con đường chủ nghĩa hội Đảng Nhà nước đã lựa chọn . Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực do nền kinht tế thị trường mang lại chúng
ta cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn của . mới bước
đầu hội nhập với nền kinh tế thị trường , do vậy việc nhận thức các mặt đối lập
, những quy luật của nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết đối với chúng ta
để có những biện phấp cần thiết giải quyết những mâu thuẫn này góp phần đưa
đất nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới , ổn định
kinh tế , xã hội tiến lên xã hội chủ nghĩa .
| 1/23

Preview text:

lOMoARcPSD| 36006477 TIỀU LUẬN
Đề tài " Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc
phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay” lOMoARcPSD| 36006477 Mục Lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
I.Cơ sở lý luận ................................................................................................... 3
II.Tính tất yếu và mâu thuẫn bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 8
II.1.tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam .... 8
II.2.Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ......... 12
II.3.Thực trạng và phương hướng giải quyết những mâu thuẫn ..................... 20
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 23 MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh
tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80
của thế kỷ XX , khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài
tình trạng này . Trước tình hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển
nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986).
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều
mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ,
nước ta không tránh khỏi những khó khăn . Theo quan đIển triết học duy vật
biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó
những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế
thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn
. Trong giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện
cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung
, quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng
tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính tự
phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng lOMoARcPSD| 36006477
xã hội chủ nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường…
Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình
phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết
chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bằng những kiến
thức thu được trong năm học vừa qua tôi chọn đề tài:
"Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc phân tích
hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. I.Cơ sở lý luận.
I.1.Lịch sử những tư tưởng triết học chủ nghĩa duy vật trước Mác về mâu thuẫn .
Trải qua quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá
trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm về mâu
thuẫn khác nhau cũng thay đổi. Mỗi thời đại , mỗi trường phái lại có những lý
giải khác nhau về mâu thuẫn , về các mặt đối lập , vì triết học luôn phát sinh từ
những bối cảnh lịch sử nhất định . Thứ nhất là triết học thời cổ đại mà điển hình
là ba nền triết học lớn đó là Trung Hoa , Hy Lạp và ấn Độ .
Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thế kỷ thứ II trước
công nguyên. Tuy nhiên , phải đến cuối thời Xuân thu _ Chién quốc , các hệ
thống triết học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện . Những quan điểm biện
chứng về mâu thuẫn thời kỳ này xuất hiện tuy còn sơ khai. Ví dụ như trường
phái Âm – Dương . phái Âm – Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong
tính đồng nhất tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể
tương đồng . Trái lại tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập gọi là sự
thống nhất Âm – Dương. Quy luật nay thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần
biện chứng là trong cái mặt đối lập kia – ít nhất cũng ở trạng thái tiềm năng
sinh thành. Triết học ấn Độ thì đưa ra phạm trù “vô ngả”, “vô thường”(của
trương phái Phật Quốc ). “Một tồn tại “ nào đó chẳng phải là nó mà là “tổng lOMoAR cPSD| 36006477
hợp”, “hội họp” của những cái không phảI là nó mà nhờ hội đủ nhân – duyên .
Không có tồn tại nào độc lập tuyệt đối với tồn tại khác Nhưng đã như vậy thì
tất yếu phải đi đến một khẳng định về lẽ vô thường . Vô thường là chẳng
“thường hằng” , “thường hằng “ là cái bất biến, chẳng bất biến là biến động ,
biến tức là biến động . Có thể nói , cùng với sự phát triển của các hình thức
kinh tế – xã hội các tư tưởng về mâu thuẫn cũng ngày càng rõ nét.
Hêraclit – nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của nó
thì phỏng đoán rằng: mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của thế giới . Theo ông
, các mặt đối lập gắn bó , quy định , ràng buộc với nhau. Heraclit còn khẳng
định vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc
đấu tranh của các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động . Vì thế
đấu tranh là “cha đẻ của tất cả , là ông hoàng của tất cả”.
Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ , nền triết học thời kỳ này
chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và cái riêng . Sang đến
triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành tựu về khoa
học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm và triết học duy vật cũng
diễn ra hết sức gay gắt . Nhưng các quan đIểm thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào
siêu hình , máy móc .Tới triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư
tưởng triết học tiến bộ . Cách mạng và khoa học . Triết học cổ diển Đức đã đạt
được trình độ khái quát và tư duy trừu tượng rất cao với những hệ thống kết
cấu chặt chẽ , thể hiện một trình độ tư duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực
quan , siêu hình của nền triết học Anh – Pháp ở thế kỷ XVII – XVIII, do vậy
các tư tưởng triết học về mâu thuẫn đã có những bước tiến đáng kể Đại biểu
đặc trưng của triết học cổ điển Đức là Hêghen .
I.2.Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn.
Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu
thành bởi các mặt đối lập , các thuộc tính , các khuynh hướng phát triển ngược
chiều nhau , đối lập nhau…
*Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập .
Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát các mặt
, các khuynh hướng , các thuộc tính trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm lOMoAR cPSD| 36006477
nên sự vật , hiện tượng . Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập . Nhưng không
phải hai mặt đối lập bất kỳ của một mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn
. Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có quan hệ khăng khít với
nhau , tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫm là một
chỉnh thể , trong đó các mặt đối lập vừa đấu tranh , vừa thống nhất với nhau .
Trong một mâu thuẫn , hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập
liên hệ với nhau, ràng buộc nhau , quy định nhau ,mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại của mình . Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật
thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật . Bởi vậy sự thống nhất của các mặt
đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật , hiện
tượng nào và ngược lại . Ví dụ :trong sinh vật hai mặt đối lập đồng hoá và dị
hoá thống nhất với nhau , nếu chỉ là một quá trình thì sinh vật sẽ bị chết .Trong
xã hội tư bản , giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là hai mặt đối lập thống nhất
với nhau , nếu không có giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp bán sức lao động
cho giai cấp tư sản , thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một
giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư…
Tuy nhiên , khai niệm “thống nhất “ này chỉ mang tính tương đối . Bản
thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó .
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời
sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng . Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trọng
cùng một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên
bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhâu tạo thành động lực phát triển của
bản thân sự vật . Sự đấu tranh chuyển hoá , bài trừ , phủ định lẫn nhau giữa các
mặt đối lập trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau .
Ví dụ : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuẩt trong xã hội có đối kháng
giai cấp , mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc
hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt . Chỉ có thể thông qua các cuộc
cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết
mâu thuẫn một cách căn bản. lOMoAR cPSD| 36006477
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn .
Thông thường khi nó mới xuất hiện , hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc
gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau . Tất nhiên không phải bất kỳ sự
khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn . Chỉ những sự khác nhau nào cùng
tồn tại trong cùng một sự vật có liên hệ hữu cơ với nhau , phát triển ngược chiều
nhau , tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập đó mới
hình thành bước đầu của một mâu thuẫn . Khi hai mặt đối lập của một mâu
thuẫn phát triển đến xung đột gay gắt , nó biến thành độc lập . Sự vật cũ mất đi
, sự vật mới hình thành . Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của
hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới , hai
mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn .Mâu thuẫn được
giải quyết , sự vật mới xuất hiện . Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập
làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao . Chính vì vậy Lênin
khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập “.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập , Lênin chỉ ra rằng :’Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại
với ý nghĩa là chính nó – nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta
nhận biết được sự vật , sự vật tồn tại trong thế giới khách quan . Song bản thân
sự thống nhất chỉ là tạm thời . Đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối .
Nó diễn ra thường xuyên , liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật . Kể
cả trong trạng thái ổn định , cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất . Lênin
viết :”sự thống nhất (phù hợp , đồng nhất ,tác dụng ngang nhau )của các mặt
đối lập là có điều kiên , tạm thời , thoang qua trong tương đối . Sự đấu tranh
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển , sự vận động tuyệt đối”.
*Chuyển hóa của các mặt đối lập .
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn tới sự
chuyển hoá giữa chúng . Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến
một trình độ nhất định , hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá
, bài trừ , phủ định lẫn nhau . Trong giới tự nhiên , chuyển hoá của các mặt đối lOMoAR cPSD| 36006477
lập thường diễn ra một cách tự phát , còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt
đối lập diễn ra nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người
Do đó , không nên hiểu sự chuyển hoá của các mặt đối lập chỉ là sự
hoán đổi vị trí một cách đơn giản , máy móc . Thông thường thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phương thức :
+Phương thức thứ nhất :Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập
kia nhưng ở một trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật .
Ví dụ :Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến
đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+Phương thức thứ hai:Cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá lẫn nhau để
tạo thành hai mặt đối lập hoàn toàn mới .
Ví dụ :Nền kinh tế Việt Nam chuyển hoá từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung , quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Từ mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới thực , bất kỳ sự vật , hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mặt những thuộc tính có khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối
lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn là hiện tượng khách
quan , phổ biến của thế giới . Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự
vật mới hình thành . Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới .
Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau dể tạo
thành sự vật mới hơn . Cứ như vậy các sự vật , hiên tượng trong thế giới khách
quan thường xuyên biến đổi và phát triển không ngừng . Vì vậy mâu thuẫn là
nguồn gốc và động lực phát triển của mọi quá trình phát triển. lOMoARcPSD| 36006477
II.Tính tất yếu và mâu thuẫn bản chất của nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
II.1.tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
* Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quắ trình
phát triển nền kinh tế đất nước .
Như đã biết ,kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh
trình độ phát triển nhất của văn minh nhân loại .Từ trước đến nay nó tồn tại và
phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày nay , kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa đã phát triển tới trình độ khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái , có khuyết tật từ trong bản chất của
nó do chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất chi phối. Cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất , càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản
càng bộc lộ sâu sắc , không giải quyết được các vấn đề xã hội , làm tăng thêm
bất công và bất ổn của xã hội , đào sâu thên hố ngăn cách giữa người giàu và
người nghèo. Chính vì thế mà , như C.Mác đã phân tích và dự báo , chủ nghĩa
tư bản tất yếu phải được thay thế bởi một phương thức sản xuất và chế độ mới
văn minh hơn , nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản , mặc dù đã và đang tìm mọi
cách để tự điều chỉnh và tự thích nghi, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất
của nó , chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được , có chăng nó chỉ tạm
thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi . Nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá
để chuyển sang một giai đoạn hậu công nghiệp , theo xu hướng xã hội hoá .
Đây là tất yếu khách quan , là quy luật phát triển của xã hội . Nhân loại muốn
tiến lên , xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa .
Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết là một kiểu tổ chức xã hội , tổ
chức kinh tế muốn sớm khắc phục khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh
chóng xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn , một phương thức sản xuất văn minh lOMoAR cPSD| 36006477
hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản . Nhưng có lẽ , do nôn nóng , làm trái quy luật ,
không năng động , kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cục đã không
thành công . Liên Xô khắc phục sự nóng vội bằn cách đưa ra thực hiện “chính
sách kinh tế mới “(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển
kinh tế hàng hoá, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường Muốn thế ,
Nga cần phải sử dụng quan hệ tiền tệ – hàng hoá và phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần , đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển
lực lượng sản xuất . Tuy chỉ mới thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng
NEP đã đem lại những kế quả tích cực cho nước Nga:hồi phục và phát triển
kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều nghành kinh tế hoạt động năng động , nhộn
nhịp hơn . Tiếc rằng , tư tuởng của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với
chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau đó .
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những khuyết tật của mô hình
kinh tế Xô Viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo ,
quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng trì trệ . Một số nhà lãnh
đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình
bằng công cuộc cải cách , cải tổ nhưng với một “ tư duy” chính trị mới , họ đã
mắc sai lầm nghiêm trọng cực đoan , phiến diện đãn tới sự tan rã của Liên Xô
và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới , đã làm lộ rõ những khuyết
tật của mô hình kinh tế cứng nhắc , phi thị trường , mặc dù những khuyết tật đó
không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn tới sự sụp đổ .
Việt nam là một nước nghèo , kinh tế kỹ thuật lạc hâu , trình độ xã hội
còn thấp , bị chiến tranh tàn phá nặng nề , di lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu
lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam , là khát vọng thiêng
liêng ngàn đời của nhân dân Việt Nam . Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng
cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng , muốn trả lời thật không đơn
giản . Chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết , mô hình
kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp . Mô hình này đã thu được những
kết quả quan trọng , nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến
tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm ;và trong công tác lOMoAR cPSD| 36006477
chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai
lầm đó là bệnh giáo điều , chủ quan , duy ý chí . Lối suy nghĩ và hành động đơn
giản , nóng vội không tôn trong quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa
xã hội không đúng với thực tế ở Việt Nam .
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , Đại hội VI của Đảng cộng
sản Việt Nam(tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội .
Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường , phương pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội , đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ , về cơ cấu kinh tế , thừa nhận sự tồn tại khách quan của
sản xuất hành hoá và thị trường . Phê phán triệt để cơ chế tập trung , quan liêu
, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI là
một mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản
Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
*.Bản chất và những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không
phải kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa , cũng không phải kinh
tế bao cấp quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp và cũng chưa hoàn toàn
là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ,bởi vì Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội , vừa có vừa chưa có các yếu tố của chủ nghĩa xã hội .
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại , phát huy vai trò tích
cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy sức sản xuất , xã hội hoá lao động
, cả tiến kỹ thuật – công nghệ , nâng cao chất lượng sản phẩm , tạo ra nhiều của
cải , góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân : đồng thời
phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường . Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên lOMoAR cPSD| 36006477
cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lênin nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận
dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam .
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất , phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chấtkỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội , nâng cao đời sống nhân dân .Phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn liền với phát triển quan hệ sản xuất mới , tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu ,, nhiều thành phần kinh tế , trong dó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
: kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước , Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược , quy
hoạch , kế hoạch , chính sách , pháp luật , và bằng cả sức mạnh vật chất của
kinh tế nhà nước : đồng thời sử dụng cơ chế thị trường , áp dụng các hình thức
kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất ,
giải phóng sức sản xuất , phát huy mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường , bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động , của toàn thể nhân dân .
Kinh tế thị rường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất , kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội . Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển . Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hoá và giáo dục , xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà
bản sắc dân tộc , nâng cao dân trí , giáo dục và đào tạo con người , xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực đất nước .
C.Mác khẳng định rằng:”…sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá
là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau,
tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau…Chúng ta
hoàn toàn chưa biết gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản
xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức sản xuất ấy, nếu lOMoARcPSD| 36006477
chúng ta chỉ có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hoá , những
phạm trù chung của tất cả các phương thức ấy”.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường chủ nghĩa xã hội , mà là
sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại hiện nay . Đảng cộng sản Việt nam trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự khái quát đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh
tế thị trường thế giới , đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung
Quốc và Việt Nam , để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa , nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu
từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội . Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Đây là một
kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường .
II.2.Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam .
*Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước , theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay , vấn đề lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp , mâu thuẫn giữa hai lực lượng
này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học MacLênin , theo
đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của
sự vật , lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất , lực lượng
sản xuất là yếu tố động , luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến
một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp nữa và trở
thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Để mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển , cần thay thế quan hệ sản xuất cũ băng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
.Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để để phù hợp với lực lượng sản xuất ,
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , đó
là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của xã hội . lOMoAR cPSD| 36006477
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt , quyết liệt và cần được giải quyết .
Nhưng giải quyết nó bằng cách nào ? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội
,các cuộc chuyển đổi kinh tế mà các cuộc chuỷên đổi kinh tế ở nước ta là một
ví dụ . Khi một mục tiêu , một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng , thể hiện tính chất
cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh .
Công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước là chủ trương , biện pháp vừa
mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội .
Nói đến công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất
tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , nói đến khoa
học , đến sự anh minh của trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát
khỏi tình trạng sản xuất nhỏ , nông nghiệp lạc hậu , tạo điều kiện và cơ sở vật
chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển. Không thể
ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết
chủ nghĩa xã hội , chuyển sang nền kinh tế thị trường . Khẳng định cái mới ,
đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phủ định , gạt bỏ cả quan niệm
cũ sai lầm về điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Trước đây , chúng
ta thiếu quan tâm tới vai trò của trí tuệ , khoa học đến việc tạo lập cơ sở vật chất
–kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội . Bằng chứng là một thời chúng ta coi trọng
không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan
với đội ngũ những người lao động khác . Do thế , hậu quả tất yếu sảy ra là khoa
học ở nước ta chậm hoặc không có điều kiện phát triển , đất nước không thoá
khỏi nền sản xuất nhỏ , nông nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói tới công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
*Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường .
Trước đây , người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa
xã hội là: sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể . Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi
hoàn cảnh lịch sử khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội lOMoAR cPSD| 36006477
chủ nghĩa . Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai
hình thức sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu
tư nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải
có thái độ giải quyết khác nhau. Đối vơí hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để đưa thẳng lên sở hữu toàn dân ,
còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ thì không
thể dùng những biện pháp như trên , mà pỉai kiên trì giáo dục , thuyết phục tổ
chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng việc hợp tác hoá
hai hình thức . Sở hữu đó là đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp
công và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ chuyển sang
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới , của chính sách đa dạng
hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện
. Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao
gồm nhiều hình thức sở hữu , chứ không phải chỉ bao gồm hai hình thức sở hữu
là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây .
Trong giai đoạn hiện nay , nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm
nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân , sở hữu tập thể , sở hữu nhà nước
, sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp . Trong các hình thức sở hữu này , khái quát
lại chỉ có hai hình thức sở hữu đó là : công hữu và tư hữu , còn các hình thức
sở hữu khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp . ở đây mỗi hình
thức sở hữu lại có nhiều hình thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau.
Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý .
Về sở hữu toàn dân.
Trước đây , người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu nhà
nước . Nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên bao gôm nhiều hình thức sở
hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt liên kết và hỗ trợ các thành lOMoAR cPSD| 36006477
phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh . Nhà nước
quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quỳên lực đại diện cho lợi ích của
nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu toàn dân .
ở nước ta hiện nay , như hiến pháp và luật đất đai quy định rõ :”Xét và
mặt kinh tế , đất đai là phương tiện tồn tại của cả một cộng đồng xã hội . Xét
về mặt xã hội , đất đâi là nơI cư trú của một cộng đồng . Thế nhưng khi xét trên
cả hai phương diện có thể nói đất đai không thể là sở hữu của riêng ai .
Tuy nhiên , suy cho cùng , đất đai là tư liệu sản xuất , hay nói chính xác hơn đó
là một bộ phận quan trọng của sản xuất . Bởi thế , dù là đặc biệt thì trong nền
kinh tế hàng hoá , nó vẫn phảI hoạt động theo quy luật của thị trường và chịu
sự điều tiết của quy luật đó .Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là
người đại diện , thống nhất quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền
cho các hộ nông dân , kể cả quyền chuyển nhượng , quyền sử dụng đất đai nếu
biết giải quyết các vấn đề sở hữu , biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng .
Chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân nhưngngười nông
dân có quyền sử dụng ổn định lâu dài thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất vừa tăng cường của nền kinh tế nói chung. Văn
kiện đại ội VII của Đảng ta đã chỉ rõ:”Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai ,đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài . Nhà nước quy định
bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế , chuyển quyền sử dụng đất…” (Đảng
cộng sản Việt Nam-văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ VII-Nhà xuất
bản sự thật-Hà nội 1991).Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện
nay đã được xác định theo nội dung mới , có nhiều khả năng để thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế .
Về sở hữu nhà nước .
Trong thời kỳ bao cấp trước đây , không chỉ có nước ta mà còn ở các
nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đông nhất sở hữu
nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian
khá dài , người ta thường bỏ qua sở hữu nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt tới sở
hữu toàn dân với chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với khu vực kinh tế quốc doanh lOMoAR cPSD| 36006477
mà chúng ta ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niền tin cho rằng chỉ có như
vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra , với quan niệm đó, sở hữu
toàn dân không trở thành sở hữu của một chủ thể cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều
kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu
nhà nước xét về tổng thể , mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu . Còn kết
cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở
hữu đó , ở khu vực kinh tế quốc doanh , khu vực các doanh nghiệp nhà nước .
Về sở hữu tập thể .
ở nước ta trước đây , sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp
tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ) với nội dung
là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu
chính . Vì vậy, với hình thức sở hữu này , quyền mua bán hoặcchuyển nhượng
tư liệu sản xuất , trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở nước ta đã diễn
ra hêt sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế , song
đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định , sự nhập nhằng giữa
quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến
. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện
naycần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối
với các tập thể sản xuất kinh doanh .Chỉ có như vậy , sở hữư tập thể mới có thể
trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta biết , hợp tác xã không phải là hình thức riêng có đặc trưng
cho chủ nghĩa xã hội , nhưng nó là một hình thức sỏ hữu kinh tế tiến bộ trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Vì vậy , chúng ta phải duy trì và phát triển
hơn nữa khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã khẳng định :”chế dộ
của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa “.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình , của nền
sản xuất hàng hoá . Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp
nhỏ phát triển đến một trình độ nhất định , nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác .
Trong đIều kiện của nề kinh tế hàng hoá các nhu cầu về vốn , cung ứng vật tư,
tiêu thụ sản phẩm…đòi hỏi các hộ sản xuất phải liên kết với nhau mới có khả lOMoAR cPSD| 36006477
năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao
động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tế cho thấy , ở
nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu
tồn tại và phá triển của cơ chế thị trường “hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở
đóng góp cổ phần và sự tham gia trực tiếp của xã viên , phân phối theo kết quả
lao động và cổ phần đóng góp, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công
việc chung”(Đảng cộng sản Việt Nam –Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc làn
thứ VIII-nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội –1996) . ĐIều này cho thấy kết
cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta hiện nay.
*Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa .
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng :muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa . Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng , bởi vì con người là chủ thể của mọi
sáng tạo , của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá . Con người phát triển cao
về trí tuệ , cường tráng về thể chất , phong phú về tinh thần , trong sáng về đạo
đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới , là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội . Chúng ta phải lấy con người làm điểm xuất phát .
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ
giữa con người với con người đều thông qua thị trường , tức là thông qua việc
mua bán , trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường . Trong kinh tế hàng hoá ,
quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển , mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực , có ý
nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng . Do nảy sinh và phát
triển trong một đIều kiện lịch sử nhất định , kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ
trình độ văn minh và phát triển là nhân tố phát triển sức sản xuất , tăng trưởng
kinh tế , thúc đảy xã hội phát triển . Tuy nhiên , kinh tế thị trường cũng có
những khuyết đIểm của nó như cạnh tranh lạnh lùng , tính tự phát mù quáng
dẫn đến sự phá sản , thất nghiệp , khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây , chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước
ta hiện nay , không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh lOMoAR cPSD| 36006477
tế thị trường . Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh , của nền kinh tế kém phát
triển , của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế nước ta đã tụt hậu rất
xa so với khu vực và thế giới . Trong tình hình đó thì kinh tế thị trường là nhân
tố rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảngvà phát triển
phục hồi sản xuất , đẩy mạnh tốc độ phát triển, bắt kịp bước bước tiến của thời đại.
Trên cơ sở đó đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao , những
nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản hàng ngày được đáp ứng đầy đủ và nhanh
chóng . Con người không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn , thiếu mặc,
thiếu các điều kiện chăm sóc sức khoẻ hiện đại . Con người không thể có trí tuệ
minh mẫn , phát triển các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập ,
nghiên cứu khoa học không được đáp ứng . Việc xây dựng , củng cố hoàn thiện
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến
lược xây dựng con người cho thế kỷ XXI.
Trong năm qua , kinh tế thị trương ở nước ta đã được nhân dân hưởng
ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng , góp phần khơi dậy nhiều
tiềm năng sáng tạo , làm cho nền kinh tế sống động hơn . Đây là những kết quả
rất đáng mừng , đáng được phát huy . nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng
đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội . Quá trình biện chứng đi lên chủ
nghĩa xã hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội .
Bên cạnh đó , có một khía cạnh khác cần đề cập tới : kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng , phát huy
nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho con người phát
triển hoàn toàn , toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra
sự chạy đua , cạnh tranh quyết liệt . Điều đó buộc con người phải năng động ,
sáng tạo , linh hoạt , có tác phong nhanh nhạy , có đầu óc phân tích , tổng hợp
để thích nghi và hành động có hiệu quả. Từ đó nâng cao năng lực hoạt động
thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi tính trì trệ và chậm chạp vốn có
của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời con người Việt Nam. lOMoAR cPSD| 36006477
Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các
quan hệ mua bán , giao lưu , từ đó hình thành những chuẩn mực văn hoá , đạo
đức theo tiêu chí của thị trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch…Đây
cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam.
Tuy nhiên , cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng kinh tế thị
trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người . Có những
lúc , những nơi , kinh tế thị trường không những làm cho con người ta năng
động hơn , tốt đẹp hơn mà ngược lại , còn làm tha hoá bản chất con người biến
con người trở thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc đạo đức giả chỉ biết tôn
trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân , sẵn sàng chà đạp lê nhân phẩm , đạo đức ,
luân lý… Bên cạnh những tác động tích cực , kinh tế thị trường có nhiều khuyết
tật ,hạn chế gây ra những tác động xấu .
Nhưng phân tích trên đây cho thấy , kinh tế thị trường là mục tiêu xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn ở nước ta hiện nay .
Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội . Giữa kinh tế thị trường
và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất , vừa có sự đấu tranh .
Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện xây dựng , phát huy những nguồn
lực của con người , vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại con người . Việc giải
quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản . Đối với nước
ta , mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được
giải quýêt bằng vai trò lãnh đạo của Đảng , bằng sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa . Đảng ta xác định :”sản xuất hàng hoá không đối
lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại
, tồn tại khách quan , cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng “.Như vậy , Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất
giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội . Việc áp dụng
cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà
nước , đồng thời phải xác nhận đầy đủ quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất
khinh doanh . Thực hiện tốt những vấn đề này sẽ phát huy được những tác động lOMoARcPSD| 36006477
to lớn cũng như ngăn ngừa những hạn chế , khắc phục được những tiêu cực ,
khiếm khuyết của kinh tế thị trường . Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải
hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến
hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền ,
bất chấp đạo lý , coi thường các giá trị nhân văn , phải ra sức phát huy các giá
trị tinh thần nhân đạo , thẩm mỹ , các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như
nội dung của Nghị quyết trung ương V đã nêu. Đây chính là công cụ , phương
tiện quan trọng để tác động , góp phần giải quyết các mâu thuẫn đã nêu trên
*Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới.
Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển bằng cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp , nền kinh tế hoạt động theo mênh lệnh bắt buộc … đã
tạo ra một phong cách làm việc trì trệ , thiếu trách nhiệm , sản xuất đình đốn .
Chính vì vậy, khi chuyển sang nền kinh ttế thị trường , nền kinh tế mở đã khiến
nền kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Các hoạt động kinh tế vẫn còn mang nặng tính tập trung quan liêu bao
cấp . Các hoạt động thông qua các cơ quan trung gian nhà nước vẫn còn đầy
dẫy những thủ tục phiền hà gây tốn thời gian vô ích , cán bộ quan liêu cửa
quyền dẫn đến hạn chế sự phát triển của nền kinh tế . Hoạt động của các cơ
quan nhà nước khi chuyển sang kinh tế thị trường không bắt kịp nhịp độ sản xuất do máy móc .
II.3.Thực trạng và phương hướng giải quyết những mâu
thuẫn trong nền kinh tế thị trường.

Theo quan điểm của Mác : các quy luật khách quan đều tồn tại và phát huy tác
dụng một cách khách quan và không phụ thuộc vào ý chí của con người . Vì
vậy , con người không thể sáng tạo thêm quy luật và con người cũng không có
khả năng thủ tiêu các quy luật khách quan . Vận dụng vào nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam , chúng ta một lần nữa khẳng định
những mâu thuẫn của nền kinh tế tồn tại một cách khách quan và tuân theo quy
luật của phép biện chứng duy vật . Do vậy , muốn giải quyết mâu thuẫn ở Việt
Nam hiện nay chúng ta phải dựa vào quy luật đấu tranh và thống nhất của các
mặt đối lập . Trong phạm vi bài tiểu luận , tôi xin mạn phép đưa ra hướng giải lOMoAR cPSD| 36006477
quyết cụ thể cho một mâu thuẫn đó là :mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .
Khi đề cập tới mâu thuẫn này chúng ta phải khẳng định đây là nội dung
chủ yếu của các học thuyết kinh tế , của các chiến lược , chính sách phát triển
kinh tế của các nước đang phát triển . Một mục tiêu chiến lược CNHHĐH ở
nước ta là tăng trưởng kinh tế cao , liên tục , lâu dài, đi kèm với tiến bộ và công
bằng xã hội . Đại hội VIII đã chỉ rõ bài học cũng như phương hướng phát triển
lau dài “tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội “. Và giới nghiên
cứu nước ngoài tương đối thống nhất khẳng định phương hướng đó là ở giai
đoạn đầu của sự phát triển , đối với nước nông nghiệp đi theo con đường công
nghiệp hoá , điều cần thiết là gia tăng đáng kể về thu nhập do tăng trưởng kinh
tế được thúc đẩy bởi việc bộ phận lao động được thu hút vào một số nghành có
năng xuất lao động cao đi liền với sự giảm sút tỷ lệ thu nhập có 20 , 40 hoặc
60% dân số ở phía dưới . Vấn đề đặt ra gây nhiều tranh cãi là phải chăng sự bất
bình đẳng cùng với quá trình phát triển là không tránh khỏi , hay là một vấn đề
lựa chọn chính sách . Cần phải thấy trong luận điểm mới về bất bình đẳng nói
riêng và trong qua trình tăng trưởng kinh tế –bất bình đẳng rất phu thuộc vào
mô hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia gồm những lực lượng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế chi phối bất bình đẳng và cả chiến lược phát triển kinh tế của
nước đó. Ngày nay, trong giới nước ngoài cho rằng :”Không có mâu thuẫn “
,giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội . Nhận thức này có tính tiến bộ
bởi : ở nhiều nước trong quá trình phát triển kinh tế của mình đạt được tăng
trưởng kinh tế cao và công bằng xã hội luôn luôn được cải thiên như: Đài Loan
, Hàn Quốc ,hay như ở một số nước ASEAN sau này .Mặc dù vậy ,còn nhiều
nước đang phát triển “loay hoay”giải quyết tăng trưởng kinh tế , công bằng xã
hội hoặc chưa gắn liền phảt triển kinh tế với công bằng xã hội . Hay cái gọi là
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội lại gắn liền với khủng hoảng kinh tế
theo chu kỳ. ở các nước tư bản thực chất là biểu hiện ra bên ngoài sự mất cân
đối của các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như cuộc khủng
hoảng kinh tế thừa khách quan nhất đó là hệ quả của việc tập trung quá mức tài
sản , vốn liếng trong tay một số người giữ vai trò làm “cung” cho nền kinh tế , lOMoAR cPSD| 36006477
trong khi người tiêu dùng với quy mô thu nhập thấp hơn nhiều và với nhu cầu
có khả năng thanh toán còn hạn chế của họ –cái quyết định quy mô thực sự của
thị trường đóng vai trò là người thực hiện “cầu” . Mất cân bằng cung-cầu là
không thể tránh khỏi và đó là căn bệnh nan y của chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn khách quan khẳng định ,với bề dày kinh nghiệm lãnh đạo
cách mạng hơn 70 năm , bản lĩnh chính trị vững vàng , nhân quan chính trị sâu
sắc , sự nhạy cảm trước thời cuộc , Đảng ta đã xác định hướng đi đúng đắn ,
tiến bộ và cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta
trong thế kỷ XXI và gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội . Để thực
hiện thành công mục tiêu này , trước hết cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo
bao chùm: kiên định con đường phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa , có
mục tiêu dân giàu nước mạnh , xa hội công bằng , dân chủ ,văn minh .Đây vừa
là mục tiêu , vừa là phương tiện để thực hiện gắn bó keo sơn giữa giai cấp công
nhân , nông dân và lực lượng tri thức . Nói khác đi , căn cứ liên kết giai cấp ,
tránh phân hoá giai cấp là nội dung cốt lõi và tăng trưởng kinh tế gắn liền với
công bằng xã hội ở Việt Nam . Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công
bằng xã hội là thực hiện liên tư tưởng chỉ đạo của quá trình chỉ đạo đổi mới ở
nước ta được khởi xướng tại Đại hôI VI , liên tục khẳng định tại Đại hội VII,
VIII .Đó là đổi mới kinh tế là trọng tâm , từng bước đổi mới chính trị . Từ quan
điểm chỉ đạo của nước ta là toàn diẹn, đồng bộ , cần tiếp tục đẩy nhanh quá
trình hoàn thiện thể chế phát triển ở nước ta , trong đó tiếp tục hoàn thiện cơ
chế thị trường đi đôi nâng cao và tăng trưởng , nâng cao năng lực quản lý của
bộ máy nhà nước là then chốt . Việc hoạch định chính sách kinh tế – xã hội
trong thực tiễn phải hợp lý đó là : khi thực hiện phương hướng chính sách kinh
tế và chính sách xã hội hoà quỵên với nhau như là điều kiện quyết định để đảm
bảo phát triển kinh tế gắn liền với công bằng xã hội . Trên cơ sở lấy con người
làm trọng tâm , không ngừng phát huy , bồi dưỡng, nâng cao nguồn vốn con
người ; cân nhắc thực hiện và hạn chế dần các chính sách kinh tế , thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trước mặt nhưng không có hại cho công bằng xã hội về lâu dài.
Sử dụng hợp lý chính sách xã hội , căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế – tài chính đất
nước , phù hợp với truyền thống nhân nghĩa , đạo lý tốt đẹp của dân tộc , tinh lOMoARcPSD| 36006477
thần bao dung nhân ái của nhân dân , của Chủ tịch Hồ Chí Minh ; kiên quyết
thực hiện các chính sách kinh tế không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có hại cho công bằn g xã hội . KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước tanhưng bước đầu đã
vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua do nên kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp để lại thu được những thành tựu đáng phấn khích
trong nền kinh tế. Tạo niền tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới , kiên định
đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn . Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực do nền kinht tế thị trường mang lại chúng
ta cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó . Vì mới bước
đầu hội nhập với nền kinh tế thị trường , do vậy việc nhận thức các mặt đối lập
, những quy luật của nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết đối với chúng ta
để có những biện phấp cần thiết giải quyết những mâu thuẫn này góp phần đưa
đất nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới , ổn định
kinh tế , xã hội tiến lên xã hội chủ nghĩa .