


















Preview text:
TIỂU LUẬN
Môn học: Đại cương văn hóa Việt Nam Đề Tài
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ CÁC
QUỐC GIA ASEAN TỪ CÔNG CỤ ĐỊNH VỊ ĐỊA – VĂN HÓA
Sinh viên thực hiện : Vũ Ngân Nhi Mã sinh viên : TTQT48A1-1513 Lớp : TT48A1 Khóa 48 Giảng viên : Trần Hồng Thúy Đào Ngọc Tuấn
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2021 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3
I. Công cụ định vị địa – văn hóa ........................................................................ 5 II.
Khái quát về Đông Nam Á ........................................................................... 5
1. Đặc điểm tự nhiên .......................................................................................... 6
2. Văn hóa.......................................................................................................... 7
III. Sự tương đồng về văn hóa Việt Nam và các quốc gia ASEAN................... 8
1. Nền văn minh lúa nước .................................................................................... 8
2. Tín ngưỡng .................................................................................................... 10
3. Nghệ thuật thanh sắc và hình khối .................................................................. 11
3.1. Nghệ thuật thanh sắc ................................................................................ 11
3.2. Nghệ thuật hình khối ................................................................................ 11
4. Lối sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên .................................................. 12
5. Đề cao vai trò của người phụ nữ ..................................................................... 13
6. Súng bái mùa màng, sinh nở .......................................................................... 13
IV. Sự khác biệt về văn háo giữa Việt Nam và các quốc gia ASEAN ............... 14
1. Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao ............................... 14
2. Tính dung chấp cao ........................................................................................ 15
3. Kiến trúc ........................................................................................................ 16
4. Loại hình nghệ thuật ....................................................................................... 17
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 18
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 19 LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới có rất nhiều nền văn hóa khác nhau, nó thể hiện những giá trị tinh
thần và thói quen sinh hoạt của từng dân tộc. Đã có rất nhiều nhà khoa học, các
chuyên gia nghiên cứu về văn hóa của các dân tộc trên thế giới và họ cũng đã đưa
ra những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa về
văn hóa, PGS.TS.Trần Ngọc Thêm đã nói rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình.” Nói cách khác, văn hóa là hiện tượng bao trùm lên tất thảy các mặt của
đời sồng con người. Tuy nhiên trong văn hóa luôn có sự tương đồng nhất định và
những đặc điểm riêng tạo nên văn hóa dân tộc, bằng cách nhìn nhận về sự tương
đồng và khác biệt giữa mỗi quốc gia sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về sự đa dạng
của nền văn hóa của các quốc gia ASEAN từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Văn hóa được đưa vào nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực, dưới nhiều cách định vị
về văn hóa khác nhau. Trong đó có phương pháp định vị dựa vào điều kiện địa lý
và hoàn cảnh tự nhiên, giúp góp phần lý giải sự tương đồng về mặt văn hóa của các
cộng đồng sinh sống trên cùng một khu vực.
Trong văn hóa luôn có sự tương đồng nhất định và những đặc điểm riêng tạo
nên bản sắc văn hóa của quốc gia dân tộc. Khi xét về văn hóa Đông Nam Á chúng
ta sẽ thấy rõ điều này, mặc dù trên nền chung gốc văn hóa nông nghiệp lúa nước
nhưng ở mỗi quốc gia trong khu vực lại có những nét dị biệt. Tiếp cận văn hoá
Đông Nam Á ngày nay, cái cảm đầu tiên với mỗi người sẽ là một nền văn hoá đa
dạng trong thống nhất. Trong kho tàng văn hoá đồ sộ ấy dẫu có rất nhiều yếu tố
chung làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á song cũng có không ít những yếu
tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Việc nhận xét đặc
điểm này sẽ giúp chúng ta thấy được nét tương đồng và những điểm riêng có của
từng quốc gia. Chúng ta sẽ thấy được từ những nét tương đồng đã tạo nên bức
tranh thống nhất như thế nào và những nét dị biệt tạo nên nét chấm phá, điểm nhấn
cho bức tranh văn hóa ấy ra sao cũng như thấy được đặc điểm địa lý đã ảnh hưởng
như thế nào đến nền văn hóa Đông Nam Á.
I. Công cụ định vị địa – văn hóa
Địa lý văn hóa là một trong hai nhánh chính của địa lý và thường được gọi là
địa lý nhân văn. Địa lý văn hóa là nghiên cứu về nhiều khía cạnh văn hóa được tìm
thấy trên khắp thế giới và cách chúng liên quan đến không gian và địa điểm nơi
chúng bắt nguồn và sau đó du hành khi mọi người liên tục di chuyển qua các khu vực khác nhau.
Một số hiện tượng văn hóa chính được nghiên cứu trong địa lý văn hóa bao gồm
ngôn ngữ, tôn giáo, các cấu trúc kinh tế và chính quyền khác nhau, nghệ thuật, âm
nhạc và các khía cạnh văn hóa khác giải thích cách thức và lý do tại sao con người
hoạt động như thế nào trong các khu vực họ sinh sống. Toàn cầu hóa ngày càng trở
nên quan trọng đối với lĩnh vực này vì nó cho phép các khía cạnh cụ thể của văn
hóa dễ dàng đi khắp toàn cầu. Có thể khẳng định rằng quá trình hình thành và phát
triển văn hóa bị chi phối bởi môi trường tự nhiên thông qua luận điểm của phương
pháp nghiên cứu văn hóa này:
- Bản thân con người là một phần của tự nhiên.
- Để tồn tại và phát triển con người phải trao đổi chất với môi trường. Diễn ra
hai hướng: Thích nghi (in dấu trong văn hóa nhân cách, lối sống cộng đồng
– văn hóa phi vật thể) và Biến đổi (lưu giữ trong các đồ vật xã hội – văn hóa vật thể).
II. Khái quát về Đông Nam Á
Đông Nam Á là một tiểu vùng nằm về phía Đông Nam của Châu Á. Các quốc
gia Đông Nam Á nằm ở phía Đông của Tiểu Lục địa Ấn Độ, phía Bắc nước Úc và
phía Nam Trung Quốc. Đồng thời nằm giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương
với diện tích xấp xỉ 4.523.000 km2 và số dân cư lên đến 647.172.508 người. Đây là
khu vực với nền văn hóa lâu đời, được tạo nên từ rất nhiều mối quan hệ và bản sắc
riêng của dân tộc của 11 quốc gia thành viên trực thuộc là: Việt Nam, Lào,
Campuchia, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Myanmar, Philippine, Singapore,
Brunei và Đông Timor. Các phần diện tích được phân chia thành 2 khu vực là
Indo-China (Đông Dương) và Mã Lai (phần hải đảo). Khái niệm Đông Nam Á
được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, do nơi đây được đánh giá là một
trong những trọng điểm với lợi ích to lớn về mặt chính trị trên bản đồ thế giới.
1. Đặc điểm tự nhiên
Địa bàn Đông Nam Á là nơi giao nhau của nhiều mảng địa chất có núi lửa và
động đất hoạt động rất mạnh. Nhóm Đông Nam Á hải đảo được hình thành bởi
nhiều cung đảo thuộc về vành đai núi lửa Thái Bình Dương và là một trong những
khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế giới. Được mệnh danh là “ngã tư
đường” của thế giới, nối liền hai đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây
Dương, Đông Nam Á là khu vực có vị trí địa lý và địa kinh tế vô cùng quan trọng.
Hệ thống sông ngòi dày đặc ở Đông Nam Á chính là một trong những đặc điểm
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cuộc sống của con người nơi đây trong buổi đầu
tiền sử của họ. Bên các dòng sông, các tộc người châu Á đã hình thành và tạo nên
các nền văn minh rực rỡ. Đặc điểm tự nhiên của khu vực Đông Nam Á là những
dãy núi nối tiếp chạy dài theo hướng Bắc – Nam và Tây Bắc – Đông Nam, bao
quanh những khối cao nguyên thấp; các khu vực bị chia cắt mạnh do sự cắt xẻ sâu
của các thung lũng sông; đồng bằng phù sa màu mỡ tập trung ở ven biển và hạ lưu các sông.
Gió mùa không chỉ đem đến thuận lợi cho con người mà còn là yếu tố tự nhiên
tác động và tạo nên sự thất thường cho khí hậu trong vùng, với biên độ không lớn.
Tác động của gió mùa đã tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt là mùa khô lạnh, mát và
mùa mưa tương đối nóng, ẩm. Đây là khu vực có đường xích đạo chạy qua, đồng
thời có đường bờ biển bao quanh nên đã tạo ra khí hậu nóng ẩm mưa nhiều. Khí
hậu Đông Nam Á trở nên xanh tốt, trù phú với những đô thị đông đúc và thịnh
vượng như Singapore, Kuala Lumpur,... là nhờ có gió mùa và khí hậu biển. Gió
mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng
trong đời sống và sản xuất hằng năm. Mưa nhiệt đới trên địa bàn đã tạo ra những
vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, bờ biển và đồng bằng, tạo nên
những cảnh quan đa dạng. Điều này khiến cho Đông Nam Á thiếu không gian rộng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, thiếu những điều kiện tự nhiên cho sự phát triển
những kĩ thuật tinh tế, phức tạp.Chính từ đặc trưng khí hậu ấy đã giúp cho hệ thực
vật ở đây rất đa dạng, phong phú, giúp cho Đông Nam Á trở thành khu vực có cảnh
quan đặc trưng tiêu biểu nhất. Đông Nam Á có nhiều những cánh rừng nhiệt đới
rộng lớn với nhiều thảo mộc và chim muông. Từ lâu Đông Nam Á đã trở thành quê
hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, hồi,
quế,... Bên cạnh đó, các cơn bão nhiệt đới hình thành từ áp thấp trên biển đã gây ra
không ít những thiệt hại về người và của ở khu vực này. 2. Văn hóa
Đông Nam Á là một trong những địa bàn được xem như là cái nôi của nhân loại
với sự hiện diện từ rất sớm của loài người. Đồng hành chung với tiến trình lịch sử
của nhân loại, Đông Nam Á đã ngày càng trở thành một khu vực đa văn hóa với sự
hiện diện đông đúc và đa dạng của nhiều dân tộc, quốc gia. Chính điều này đã góp
phần làm cho Đông Nam Á dần trở thành một khu vực đặc sắc của thế giới. Văn
hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa
truyền thống, vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả
phương Đông lẫn phương Tây. Mỗi quốc gia được hình thành và phát triền ở nhiều
thời điểm khác nhau, với những đặc trưng văn hóa riêng biệt ở từng vùng. Hầu hết
nền văn hóa của các nước đều bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng Phật giáo, đạo
giáo, đạo Hồi,... khắc họa rõ nét trong cách ứng xử, thờ phụng, trang phục quần áo,
điệu múa,... Các quốc gia Đông Nam Á cơ bản vẫn giữ được những phong tục tập
quán rất riêng biệt nhằm mục đích duy trì những đặc điểm cốt lõi trong văn hóa
dân tộc. Những phong tục tập quán này lại có một vài nét tương đồng nhau do có
sự giao thoa văn hóa giữa các đất nước.
Bên cạnh đó, một số nước Đông Nam Á cũng phải hứng chịu các cảnh bị đô hộ
bởi các nước phương Tây trong một thời gian dài, cũng như vị trí địa lý đặc biệt là
nơi chuyển giao giữa các luồn hàng hóa Đông – Tây, nên cũng đã dần hình thành
một số biến đổi, tác động trong tư tưởng, đời sống và ngôn ngữ. Cộng đồng người
đã hình thành nên một hệ thống ngôn ngữ đồ sộ, cho từng bộ tộc sử dụng cũng như
được duy trì cho đến ngày nay. Chẳng hạn như tại Indonesia có đến 200 ngôn ngữ
dân tộc cùng tồn tại, hay như tại Philippines là 80 thứ ngôn ngữ,...
Các tín ngưỡng của các quốc gia Đông Nam Á nói chung có thể chia theo 3
dạng chính: Sùng bái tự nhiên – Phồn thực – Thờ cúng. Điều này dựa trên nguyên
lý cơ bản ban đầu khi đều tin rằng mọi sinh vật sinh ra trên đời đều có linh hồn, và
được tách rời khi cơ thể chết, biến mất.
Văn hóa Đông Nam Á nói chung luôn được thế giới nhận định là một tổng thể
tập hợp đa dạng của nền văn hóa khác nhau, vẫn được giữ gìn và phát huy mạnh
mẽ cho đến ngày nay. Các quốc gia trong khu vực không chỉ thực hiện những biện
pháp bảo tồn di sản quốc gia, mà còn mở rộng tư tưởng tiếp thu những cái mới để
phát triển đời sống văn hóa con người thêm đa dạng hơn.
III. Sự tương đồng về văn hóa Việt Nam và các quốc gia ASEAN
1. Nền văn minh lúa nước
Đông Nam Á được coi là cái nôi của cây lúa nước và là một trong năm trung
tâm cây trồng lớn trên thế giới. Sự biến chuyển và giao lưu quan trọng nhất ở khu
vực Đông Nam Á là vào khoảng 3000 năm trước Công Nguyên. Cây lúa đầu tiên
được thuần dưỡng ở vùng thung lũng, dần được chuyển xuống vùng châu thổ.
Cùng với việc trồng lúa nước, cư dân Đông Nam Á đã thuần dưỡng trâu bò làm
sức kéo. Từ đó, nông nghiệp lúa nước đã trở thành một cơ sở quan trọng của nền văn minh khu vực.
Nền văn minh lúa nước đã có cách đây khoảng 10.000 năm trước tại vùng Đông
Nam Á và được gọi là nền văn minh cổ đại. Khi nói đến nền văn minh ta nghĩ ngay
đến sự tiến bộ vượt bậc và với văn minh lúa nước đó chính là sự phát triển của kỹ
thuật canh tác lúa, thủy lợi, phát triển công cụ,... đạt đến trình độ cao đủ sản phẩm
phục vụ cho một cộng đồng dân cư đông đúc. Sau nhiều năm, người nông dân
Đông Nam Á đã sáng tạo và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trồng lúa phong phú
sao cho thích hợp với từng quốc gia trong vùng. Chính sự phát triển của nền văn
minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hóa
đương thời như văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hòa Bình,... Có ý kiến cho rằng nền văn
minh lúa nước là chiếc nôi hình thành nên cộng đồng dân cư có lối sống định cư
định canh cũng như các giá trị văn hóa phi vật thể kèm theo là văn hóa làng xã.
Nền văn minh này xuất hiện dựa trên các đặc thù địa hình và điều kiện tự nhiên
của khu vực Đông Nam Á:
- Đông Nam Á thuộc vùng Châu Á gió mùa với đặc trưng khí hậu nóng và
ẩm, phù hợp cho việc canh tác và phát triển nền văn minh lúa nước. Khí hậu
ôn hòa, không có nhiều các dạng thời tiết cực đoan nên công việc làm lúa
nước không bị ảnh hưởng. Nhiều hoạt động canh tác được duy trì ổn định và
ngày càng cho năng suất cao nhờ vào các tiến bộ của khoa học.
- Hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc với lượng nước lớn có nguồn từ các
vùng núi rừng rộng lớn. Có thể kể đến những con sông lớn như: sông
Mêkong dài 4500km, sông Irawadi dài 2150km, sông Mênam dài 1200km…
Những con sông này ngoài việc tạo ra giá trị kinh tế thông qua khai thác lợi
thế thủy điện, chúng còn là cơ sở tạo nên những châu thổ với việc đem
lượng phù sa màu mỡ vào bồi đắp cho các châu thổ ấy từ hằng triệu năm
trước. Đây là một yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy nền nông nghiệp phát
triển để qua đó, biến Đông Nam Á thành vựa lúa nói riêng và vựa cây lương
thực nói chung của thế giới.
- Lượng mưa hằng năm lớn, vào khoảng từ 2.000 – 2.500 mm, cung cấp một
lượng nước đủ cho việc tưới tiêu. Nhiệt độ trung bình hằng năm trong
khoảng 20oC đến 27oC với lượng bức xạ mặt trời cao và độ ẩm cao trên 80%.
Chính những “hằng số” ấy đã tạo nên một nền “Văn minh Lúa nước” trứ danh
khắp thế giới. Người ta đã khẳng định được rằng: trước khi tiếp xúc với văn hóa
Trung Hoa và Ấn Độ, dân cư Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa khá phát
triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cây lúa hầu như có mặt ở tất cả
các quốc gia Đông Nam Á. Người Đông Nam Á rất coi trọng cây lúa và tin rằng
cây lúa là hiện thân của các vị thần nên họ tôn trọng, sùng bái và thờ hồn lúa. Nó
xuất hiện rất sớm trong đời sống của cộng đồng cư dân vùng đất này. Có thể xem
cây lúa nước là nền tảng để cấu tạo nên văn minh Đông Nam Á. Cho đến nay, với
bao biến đổi trên nhiều bình diện, ta vẫn không thể phủ nhận vai trò của cây lúa
trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của cả khu vực; và Đông Nam Á
vẫn đang giữ vị trí đứng đầu trong việc xuất khẩu gạo. 2. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những hiện tượng mang tính chất
huyền bí trong thế giới siêu nhiên. Các hoạt động hướng tới những hiện tượng đó
tạo nên văn hóa tâm linh, một lĩnh vực văn hóa tạo nên bản sắc của mỗi tộc người,
mỗi cộng đồng. Tín ngưỡng do tầng lớp bình dân tạo ra, từ thời tiền sử đã xuất
hiện tín ngưỡng thờ vật tổ. Tín ngưỡng dân gian trong lịch sử văn hoá Đông Nam
Á, giữ vai trò điều chỉnh nếp sống, phong tục trên lĩnh vực tư tưởng chính trị thời xưa.
- Thuyết vạn vật hữu linh: Từ thời cổ đại đã xuất hiện thuyết “ Vạn vật hữu
linh”, người ta đã cho rằng tất cả mọi loài, mọi thứ trên trái đất từ con người
đến con thú, ngay cả cỏ cây, đất đá cũng đều có linh hồn. Tuy nhiên tùy theo
tôn giáo, phong tục tập quán mỗi quốc gia mà sự định nghĩa và tin tưởng có
vài khác biệt, nhưng tựu chung thì ai cũng tin rằng có linh hồn. Đối với cư
dân nông nghiệp lúa nước như nước ta, thì việc cầu mong mùa màng luôn
được phong đăng, hòa cốc, cầu cho nhân khang, vật thịnh, cho cuộc sống
sinh sôi, nảy nở, phát triển là khát vọng muôn đời của người Đông Nam Á.
- Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên: Khi con người còn yếu đuối trước thiên nhiên,
người ta phải phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến tín
ngưỡng đa thần. Người ta sùng bái nhiều hiện tượng tự nhiên: trời, đất,
nước, mây, mưa, sấm, chớp… Trời cao, đất dày là những đấng thiêng liêng
đem đến cho con người sự sống. Ngoài ra, ở các nước Đông Nam còn thờ
các loài vật như hạc, rùa, rắn, voi,...
- Tín ngưỡng phồn thực: là tín ngưỡng thể hiện niềm tin của con người trong
nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong được sản
xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu. Thờ sinh thực khí tượng trưng cho
cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…
Đây được xem là tín ngưỡng phổ biến của nhân loại nhưng ở Việt Nam nói
riêng và Đông Nam Á nói chung thì nó có ý nghĩa đặc biệt vì gắn liền với
sản xuất nông nghiệp lúa nước, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên việc cầu
cho mùa màng bội thu rất lớn.
- Tín ngưỡng thờ cúng người đã mất: Đây là tín ngưỡng thờ cúng người đã
khuất. Nhiều dân tộc trên thế giới quan niệm con người gồm có hai phần là
phần xác và phần hồn. Khi con người chết đi thì phần xác sẽ bị tiêu hủy
nhưng phần hồn vẫn còn tồn tại mãi mãi. Niềm tin ấy còn thể hiện lòng biết
ơn những người có công sinh thành ra mình, ngoài ra còn cầu mong sự phù
hộ độ trì, sự giúp đỡ của người đã chết đối với người đang sống, điều đó tạo
nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
3. Nghệ thuật thanh sắc và hình khối
3.1. Nghệ thuật thanh sắc
Nghệ thuật thanh sắc được dùng để chỉ các loại hình nghệ thuật như nhạc, kịch,
múa còn nghệ thuật hình khối là tượng trưng cho hội họa và điêu khắc. Điểm
tương đồng trong nghệ thuật thanh sắc và hình khối ở các quốc gia Đông Nam Á là
tính tượng trưng. Đây là một phương diện đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, nó trở
thành phương thức khái quát đời sống, nghiêng về tính chất ổn định và đa nghĩa.
Lý giải cho sự xuất hiện của khuynh hướng tượng trưng ở văn hóa phương Đông
là bởi từ cuộc sống gắn liền với nền văn hóa lúa nước, con người muốn bộc lộ
niềm khao khát thoát khỏi tự nhiên trong chốc lát để vươn tới cái gọi là biểu trưng
ước lệ. Xuất phát từ quan niệm chủ yếu là sự biểu hiện của cái tôi ở phần tiềm
thức, vô thức, tâm linh, các nhà thơ thuộc khuynh hướng này đã đưa các tác phẩm
của mình vào sâu trong các vùng mờ của tiềm thức, những miền vô thức mờ ảo với
những giấc mơ, những mộng mị và hư ảo. Trong các buổi nhạc kịch, chủ yếu được
đề cập đến thường xoay quanh việc trồng lúa, gieo mạ, cấy lúa,... Điều này cho
thấy nghệ thuật thanh sắc ở Đông Nam Á gắn liền bới nền văn hóa công nghiệp
trồng lúa nước, tức là gắn với yếu tố địa lý.
3.2. Nghệ thuật hình khối
Đông Nam Á mang khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm nhiều mưa vừa tạo điều
kiện cho sự vật sinh sôi cũng là một bất tiện cho các công trình kiến trúc. Để đối
phó với những khắc nghiệt trên các công trình thời xưa đều có một số đặc trưng
riêng. Đó chính là khối kiến trúc theo miền nhiệt đới - mái nhà nhọn cong, kiến
trúc mang những tác động của nước mưa đối với công trình. Bên cạnh đó, các
công trình ở Đông Nam Á có nhiều cửa, từ cửa chính đến cửa sổ phù hợp với sự
nóng ẩm ở phương Nam. Các dòng kiến trúc ở Đông Nam Á đều có thực nhiều cửa
để giảm sức nóng trong những ngày hè oi bức cùng lúc đó có thể nhận được nhiều
ánh sáng và gió thiên nhiên vào làm dịu đi không khí.
- Những hang động chùa chiền gắn liền với thiên nhiên trong hang đá hay do
sự bào mòn của thiên nhiên mà tạo nên cũng là một trong những đặc trưng
độc đáo của Đông Nam Á.
- Các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á cũng gây tác động lên
nhau về xu hướng thẩm mỹ, xây dựng các công trình kiến trúc. Ví dụ: Trong
khi Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn hóa kiến trúc Trung Hoa, thì văn
hóa Indonesia chịu tác động mạnh mẽ của Ấn Độ và nghệ thuật Lào ảnh
hưởng lớn bởi nước láng giềng Thái Lan,...
4. Lối sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên
Nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối phát triển, ra
hoa, kết trái thì mới thu hoạch được. Từ nghìn năm trước, nền nông nghiệp với
những cộng đồng định cư thành làng xã đã xuất hiện do tác dụng tổng hòa của
người, trời và đất. Do làm nông nghiệp nên cư dân tập trung sinh sống xung quanh
khu vực có nguồn nước, tạo nên đặc điểm quần cư thành những làng xóm. Nền
nông nghiệp lúa nước với yêu cầu tập trung sức lao động của tập thể trong việc sản
xuất và trị thủy nên các dân cư trong cùng một làng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Gia đình được tổ chức theo thứ bậc,
người dưới phải tôn trọng người trên còn người trên phải chăm lo, dạy dỗ con cháu
nên người. Văn hóa làng nước mang tính cộng đồng và tính tự trị cao. Cư dân
trong làng được thắt chặt bởi các nghi lễ, tập quán mà mọi người đều phải tuân theo.
Nền nông nghiệp từ buổi sơ khai phụ thuộc vào tự nhiên nên quan điểm vạn vật
hữu linh và tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên là tính ngưỡng phổ biến trong khu
vực. Do sống phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết nên người làm nông
có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Tôn trọng tới mức
sùng bái tự nhiên, dần hình thành nên khát vọng hòa hợp với giới tự nhiên, phổ
biến cái quan điểm coi con người chỉ là một bộ phận bình đẳng với những hiện
tượng khác trong vũ trụ. Sinh sống trong khu vực bị chi phối bởi hệ thống khí hậu
nhiệt đới, gió mùa, người dân Đông Nam Á đã sáng tạo nên những nền văn hoá tộc
người và địa phương đa dạng, phong phú trên cơ tầng chung của văn hoá nông
nghiệp. Họ chủ yếu sống bằng lúa gạo, với hai hình thức canh tác: ruộng nước và
nương rẫy; thuần dưỡng trâu, bò làm sức kéo; các bộ công cụ lao động và các hệ
thống thủy lợi, dựa theo nguyên lý tự chảy của dòng nước được xây dựng hết sức
đa dạng phù hợp với các môi trường sinh thái thành ở đồng bằng, vùng thung lũng
chân núi, vùng sườn dốc… Lễ hội thường xuyên được tổ chức vào thời điểm đầu
mùa vụ mới hoặc sau các vụ thu hoạch trước hết để tế lễ thần linh phù hộ cho các
mùa vụ bội thu, sau đó là để người dân vui chơi sau những ngày lao động vất vả.
5. Đề cao vai trò của người phụ nữ
Người phụ nữ yếu tố mẹ được coi trọng trong văn hóa Đông Nam Á. Đây là một
đặc trưng của văn hóa thực vật, nơi chế độ mẫu hệ dựa trên kinh tế hái lượm, trồng
trọt là hình thái thống trị. Đặt tình nghĩa lên đầu, hàng xóm sống lâu dài với nhau
tạo nên một cuộc sống hòa thuận. Lối sống trọng tình cảm tất yếu phải dẫn đến thái
độ trọng đức, trọng văn và trọng phụ nữ.
Người phụ nữ có trách nhiệm quản lý kinh tế, tài chính trong mỗi gia đình.
Nhằm đề cao vai trò cũng như những đóng góp của người phụ nữ trong gia đình,
họ được dân gian coi là người nắm tay hòm chìa khóa, ý chỉ “của chồng công vợ”.
Phụ nữ cũng là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái (“phúc đức
tại mẫu”, “Con dại cái mang”,...). Ngoài ra, người phụ nữ cũng dẩm nhận khâu
quan trọng nhất trong quá trình sản xuất là cấy lúa. Họ được tin rằng sẽ truyền tới
cho cây lúa năng lực sinh nở với ưu thế riêng của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á được nhiều học giả
phương Tây gọi là “xứ sở mẫu hệ”. Vai trò quan trọng của người phụ nữ được thể
hiện qua nhiều mặt: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về đằng nhà vợ,...
6. Súng bái mùa màng, sinh nở
Đây là một đặc trưng của văn hóa phồn thực – nông nghiệp. Nhằm duy trì đời
sống, con người phải thực hiện hoạt động sản xuất vật chất cũng như hoạt động sản
xuất ra con người về mặt sinh học. Đối với văn hóa gốc công nghiệp thì ý nghĩa
của việc sinh nở, giao hòa là rất to lớn đối vơi hai dạng hoạt động sản xuất trên.
Đây là tín ngưỡng thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi
nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong được sản xuất phồn thịnh, mùa màng được
bội thu. Ngưỡng tin này phát triển dựa trên quan niệm từ xưa rằng năng lượng tích
tụ trong thiên nhiên và con người có khả năng truyền sang vật nuôi và cây trồng.
Tín ngưỡng phồn thực tồn tại ở hai dạng là thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi
giao phối. Thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe
nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,… Tín ngưỡng này được thể hiện qua nhiều hình
thức: Tượng đá hình nam nữ với bộ phận sinh dục có từ nghìn năm trước Công
Nguyên được tìm thấy ở Văn Điển; nhân dân Lào, Thái Lan và Campuchia thờ cột
đá tự nhiên, hang động, khe nứt trên núi, giếng; lễ hội rước âm vật, dương vật của
người Lào. Ngoài ra, chiếc trống đồng – biểu hiện của sức mạnh và quyền lực con
người xưa đồng thời cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực.
Đây được xem là tín ngưỡng phổ biến của nhân loại nhưng ở Việt Nam nói riêng
và Đông Nam Á nói chung thì nó có ý nghĩa đặc biệt vì gắn liền với sản xuất nông
nghiệp lúa nước, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên việc cầu cho mùa màng bội thu rất lớn.
IV. Sự khác biệt về văn háo giữa Việt Nam và các quốc gia ASEAN
1. Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao
Người dân Việt Nam luôn được biết đến với lối ứng xử hòa hiếu, mềm dẻo từ
những giao tiếp xã giao hằng ngày cho đến những quốc sách ngoại giao. Trong các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, một khi thế thắng đã nghiêng về bên Việt Nam
thì ta chủ động cầu hòa, mở đường cho giặc rút lui trong danh dự thay vì tiếp tục
chiến đấu, gây ra nhiều thiệt hại hơn về người và của. Bằng cách này, ta lấy được
sự tôn trọng của các quốc gia khác cũng như giữ được mối quan hệ hòa hiếu với họ
để phục vụ cho những hoạt động phát triển quốc gia sau này. Nhân dân Việt Nam
thể hiện tính chuộng hòa bình xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước. Điều
này chủ yếu hình thành từ mong muốn một cuộc sống bình yên để lao động sản
xuất, bản tính chịu thương chịu khó của người dân Việt.
Vì ảnh hưởng của nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước phụ thuộc vào
các hiện tượng tự nhiên cho nên từ sớm nhân dân Việt Nam đã hình thành lối tư
duy tổng hợp. Người dân luôn phải để ý đến những biến chuyển của thiên nhiên,
thời tiết, điều mà sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống thường nhật. Từ đó hình thành nên
lối tư duy tổng hợp kèm theo biện chứng để lý giải cho những hiện tượng trên.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố còn biện chứng là chú trọng đến các mối
quan hệ giữa chúng. Người Việt Nam tích lũy được nhiều kinh nghiệm về các loại
quan hệ này: “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”, “Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại
lụt”,... Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm
nông cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến báo
cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Do ảnh hưởng của môi trường nước nên
người Việt Nam có khả năng thích nghi và chịu đựng cao. Họ thường xuyên phải
đối mặt với những khó khăn của thiên nhiên như bão, lũ lụt,... nên họ đã tự mình
đúc kết kinh nghiệm, thích nghi dần dần với hoàn cảnh và kiên cường vượt qua thử
thách. Các triết lý sống được truyền lại cho đời sau: “Ở hiền gặp lành”, “Đi với Bụt
mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”,...
2. Tính dung chấp cao
So với các quốc gia thành viên ASEAN thì văn hóa Việt Nam có tính dung chấp
cao do chúng ta có chủ chương nhận thức rõ những cốt lõi văn hóa dân tộc Việt
Nam. Tính dung chấp trong bản sắc văn hóa Việt Nam là sự điều tiết quá trình lựa
chọn và kết hợp một cách sáng tạo giữa các yếu tố văn hóa ngoại sinh với văn hóa
bản địa sao cho bản sắc dân tộc vẫn được duy trì.
Lý giải cho sự xuất hiện của tính dung chấp là do dân tộc ta hình thành từ sự hòa
huyết về chủng, từ sự tổng hợp về ngôn ngữ và từ sự giao thoa của nhiều nền văn
hóa trong cùng khu vực. Chính quá trình hình thành như vậy đã quy định rằng: nền
văn hoá của người Việt phải là một hệ thống tổng hợp và phải là một hệ thống mở,
và do đó phải có tính dung chấp. Trải qua một thời gian dài đấu tranh, đô hộ, dựng
và giữ nước, việc để những nền văn hóa khác tràn vào là điều tất yếu và nền văn
hóa Việt Nam đã chịu tác động không nhỏ. Bên cạnh đó, do là đầu mối giao thông
đường thủy và đường bộ - cửa ngõ của Đông Nam Á nên người dân thường xuyên
giao lưu, trao đổi mua bán với khu vực bên ngoài đồng thời tiếp thu nhiều kiến
thức từ hoạt động giao lưu đó.
Nhờ có bản chất tính duy chất cao mà dù văn hóa Việt Nam có tiếp thu những
tinh hoa văn hóa ngoại lai thì mục đích vẫn là để phát triển trên nền tảng cốt lõi.
Song vẫn cần phải thích ứng, thay đổi để phù hợp, loại bọ những yếu tố lạc hậu,
kìm hãm sự phát triển của dân tộc; chấp nhận những giá trị tiến bộ, góp phần đưa
dân tộc đi lên. Vấn đề đặt ra là hấp thụ những yếu tố văn hóa nào, cải biến làm sao
cho phù hợp, vận dụng chúng để trở thành một lợi thế trong bối cảnh ngày nay. 3. Kiến trúc
Đông Nam Á tọa lạc ở vị trí hết sức thuận lợi cùng với điều kiện tự nhiên mát
mẻ. Không những thế, ở đây còn có vô vàn những công trình kiến trúc vô cùng nổi
tiếng mà không kém phần độc đáo. Với lối kiến trúc đa dạng theo từng khu vực địa
lý cùng với những đặc trưng riêng của từng dân tộc, tất cả đã làm nên những công
trình kiến trúc độc lạ, có 1-0-2 đại diện cho sự văn minh của mỗi dân tộc.
Kiến trúc truyền thống của người Việt Nam khá đa dạng, phức tạp cũng như
chứa nhiều yếu tố vay mượn. Dẫu vậy nó vẫn mang trong mình những nét đặc
trưng riêng giúp khẳng định bản sắc riêng:
- Người Việt không có các công trình kiến trúc lớn, hoành tráng, thể hiện tính
vĩnh cữu, ngoại trừ hệ thống đê điều và thủy lợi. Nguyên nhân dẫn đến đặc điểm này là do:
Các vùng đất nơi người Việt cư trú là những vùng đất có các tầng kết cấu
về mặt địa chất không ổn định, bởi đó thường là những vùng đất bồi ven
sông, vùng đất lấn dần ra biển nên khó xây dựng được trên đó các công
trình kiến trúc đồ sộ, mang tính lâu dài.
Do khí hậu và thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều (đặc biệt nước lũ hằng năm)
đã ảnh hưởng đáng kể đến độ bền vững của các công trình. Hằng năm cứ
đến mùa mưa, người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Trung
phải hứng chịu những trận bão lũ lớn. Điều này đã tác động đến khuynh
hướng lựa chọn kiểu kiến trúc của người Việt Nam. Nhà thường được
xây cất theo hướng Đông – Tây phục vụ mục đích tránh nắng. Mái nhọn
cong, phủ dày và kéo xuống sát hiên để giảm sức nóng; trổ nhiều cửa, từ
cửa chính đến cửa sổ để lấy gió và nền nhà cao để tránh tình trạng ngập
nước, giảm thiểu tối đa những tác động của nước mưa đối với công trình.
Do tính tự trị rất cao của làng xã nên chính quyền trung ương của các
triều đại phong kiến ở Việt Nam rất khó huy động và tập trung được các
nguồn lực vào việc xây dựng những công trình đồ sộ và hoành tráng
giống như ở Trung Quốc. Bởi khác với những quốc gia Đông Nam Á
khác, nhân dân sẽ có phản ứng kịch liệt nếu chính quyền huy động sức
người và của để phục vụ cho nhu cầu xa xỉ của tầng lớp vua quan như
xây cung điện, lăng tẩm,...
- Tùy theo khu vực địa lý mà mỗi quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đa dạng. Theo đó, các chi tiết trang trí cũng được sử dụng từ
nhiều vật liệu khác nhau. Ví dụ: Việt Nam thường điêu khắc gỗ để trang trí
trên các công trình kiến trúc trong khi nhiều các quốc gia Đông Nam Á sử
dụng chất liệu sành sứ hay mạ vàng tinh xảo, công phu…
- Chất liệu, kết cấu cũng như kiểu dáng kiến trúc ở Việt Nam thay đổi theo
từng vùng nhiên liệu do người dân nơi đây tận dụng những nguyên, vật liệu
có sẵn trong tự nhiên. Ở vùng đồng bằng chủ yếu là nhà xây bằng gạch và
tre, vùng cao có nhà sàn bằng gỗ còn ở vùng sông nước thường là nhà lá gồi dừa.
4. Loại hình nghệ thuật
Nghệ thuật biểu diễn Đông Nam Á luôn mang nét đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước.
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu của Việt Nam, phát triển đặc biệt ở
miền Bắc. Loại hình sân khấu này giàu tính dân tộc, tính quần chúng và được coi là
một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa
nghĩa kết hợp. Chèo đi sâu vào đời sống của người dân Việt Nam, phản ánh đầy đủ
các góc nhìn của dân tộc dưới vô vàn các thể loại văn học khác nhau. Chèo gắn
liền với đời sống thường ngày, hội hè của người Việt. Đồng bằng sông Hồng luôn
là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi thu hoạch xong mùa
vụ, người nông dân tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ trời đất vì đã phù hộ
cho một vụ mùa ấm no. Trống chèo – nhạc cụ chủ yếu của chèo – thường được
người dân dùng để cầu mưa. Chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân
ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn, khát vọng được sống
trong hòa bình giữa một xã hội phong kiến đầy bất công. Ngoài ra, nhiều vở chèo
còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ, sẵn sàng hy sinh bản thân vì
người khác. Chèo là sân khấu của hiện thực đời sống tam nông: nông nghiệp, nông
dân và nông thôn. Trong các buổi nhạc kịch, chủ yếu được đề cập đến thường xoay
quanh việc trồng lúa, gieo mạ, cấy lúa,... Lối chèo thường diễn những việc vui
tươi, những thói xấu của người đời. Qua đó thể hiện được tính nhân đạo, mang giá
trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân
tộc, chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp
nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch.
Rối nước - “đặc sản văn hóa” của Việt Nam – được hình thành với hai yếu tố
cơ bản là rối và nước. Nghệ thuật rối nước là kết quả của tài năng sáng tạo Việt
Nam, thể hiện được lối sống, lối suy nghĩ, tài ứng xử và thái độ đối với vũ trụ,
thiên nhiên cũng như con người. Múa rối nước thường diễn ra vào cấc dịp lễ Tết,
hội làng,... Nước được đưa vào để làm sân khấu chính là điểm độc đáo của nghệ
thuật múa rối nước. Những quân rối nước đơn giản chỉ là công trình điêu khắc gỗ
sơ sài, đường nét thô cứng, những nước đã dùng đặc tính lỏng và phản quang để
tạo nên hiện tượng ảo hóa. Khiến cho trên mặt nước, những gì thô cứng, nghèo nàn
đều được giấu đi, thay vào đó tất cả mọi thứ đều trở nên lung linh, mềm mại. Múa
rối nước vừa thực vừa hư, gắn bó với với nhân dân Việt Nam qua những hình
tượng tiêu biểu như cây đa, lời ru, cánh cò,... Sân khấu rối nước lưu giữ sáng tạo
nghệ thuật dân gian, nhiều sinh hoạt tinh thần, tập tục và quá trình lao động vật
chất của người nông dân Việt Nam trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. KẾT LUẬN
Đông Nam Á là một trong những địa bàn được xem như là cái nôi của nhân loại
với sự hiện diện từ rất sớm của loài người. Đông Nam Á đã ngày càng trở thành
một khu vực đa văn hóa với sự hiện diện đông đúc và đa dạng của nhiều dân tộc,
quốc gia. Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn
hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên
ngoài, cả phương Đông lẩn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ của Đông
Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng
có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc. Nói cách khác văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.
Xét trên công cụ định vị địa – văn hóa, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á
có nhiều nét tương đồng. Cuộc sống gắn liền với sông nước đã hình thành nền văn
minh lúa nước ở Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhờ có các đặc
điểm tự nhiên thuận lợi mà nền văn minh lúa nước đã trở thành nền văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc của người Đông Nam Á. Bên cạnh đó, các nét tương đồng
cũng được thể hiện thông qua lối sống định cư hay tín ngưỡng,... Trong suốt quá
trình phát triển, Đông Nam Á đã bị ảnh hưởng bởi nhiều nền văn hóa xung quanh
nhưng vẫn giữ cho mình được màu sắc riêng vốn có.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn mang cho mình một bản sắc đặc trưng riêng. Văn hóa
ứng xử mềm dẻo hay tính dung chấp cao,... đã làm nên một nền văn hóa không bị
trọn lẫn của Việt Nam. Ngoài việc giữ vững giá trị văn hóa vốn có, người Việt vẫn
có những sự chọn lọc, biến đổi, học hỏi để hội nhập với các quốc gia trên thế giới
và tạo nên một nền văn hóa giàu tính dân tộc. Tài liệu tham khảo
Uy Bảo, Văn minh lúa nước
Trần Văn Đạt, Nền văn minh lúa nước
Huỳnh Triệu Phong, Văn hóa Việt Nam trong không gian văn hóa Đông Nam Á-
một góc nhìn địa- văn hóa
Hồng Nhung, Một số đặc trưng văn hóa Khu vực Đông Nam Á
Nguyễn Mai Hạ Quyên, Nghệ thuật và kiến trúc Đông Nam Á.
https://vungoidanang.wordpress.com/2014/12/03/nghe-thuat-va-kien-truc-dong- nam-a/?
fbclid=IwAR09XlWcEno6y55BROlV0xrCvBWXV6lWbWRlnkHBbqnN8pyTcvc x-cdz8OA
Tiểu luận kiến trúc và điêu khắc Đông Nam Á,
https://text.xemtailieu.net/tai-lieu/tieu-luan-kien-truc-va-dieu-khac-dong-nam-a- 571531.html
TS. Phạm Thái Việt, TS. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương về văn hóa Việt Nam, Nhà
xuất bản Hồng Đức, 2014
Trần Thơ – Chèo, Nghệ thuật sân khấu truyền thống tiêu biểu của Việt Nam
Du lịch Việt Nam, Những nét đặc sắc trong văn hóa Đông Nam Á
Lạc Việt Audio, Hát chèo là gì? Đặc điểm, phân loại, nguồn gốc hình thành Chèo
Phân tích văn hóa Việt Nam từ góc độ địa – văn hóa, Phân tích văn hóa Việt Nam
từ góc độ “Địa – văn hóa”. So sánh văn hóa Việt Nam - Tài liệu text (123docz.net)
Nền văn minh Đông Nam Á, NỀN VĂN MINH ĐÔNG NAM Á (123docz.net)
Document Outline
- SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA ASEAN TỪ CÔNG CỤ ĐỊNH VỊ ĐỊA – VĂN HÓA
- MỤC LỤC
- LỜI MỞ ĐẦU
- I. Công cụ định vị địa – văn hóa
- II. Khái quát về Đông Nam Á
- 1. Đặc điểm tự nhiên
- 2. Văn hóa
- III. Sự tương đồng về văn hóa Việt Nam và các quốc gia ASEAN
- 1. Nền văn minh lúa nước
- 2. Tín ngưỡng
- 3. Nghệ thuật thanh sắc và hình khối
- 3.1. Nghệ thuật thanh sắc
- 3.2. Nghệ thuật hình khối
- 4. Lối sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên
- 5. Đề cao vai trò của người phụ nữ
- 6. Súng bái mùa màng, sinh nở
- IV. Sự khác biệt về văn háo giữa Việt Nam và các quốc gia ASEAN
- 1. Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao
- 2. Tính dung chấp cao
- 3. Kiến trúc
- 4. Loại hình nghệ thuật
- KẾT LUẬN
- Tài liệu tham khảo