Tiểu luận, tầm quan trọng của quy luật cung cầu - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân

Cung cầu và giá cả hàng hóa luôn có mối quan hệ vô cùng mật thiết vàtác động qua lại với nhau. Các yếu tố này sẽ tác động đến các loại mặthàng tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Duy Tân 1.8 K tài liệu

Thông tin:
13 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận, tầm quan trọng của quy luật cung cầu - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân

Cung cầu và giá cả hàng hóa luôn có mối quan hệ vô cùng mật thiết vàtác động qua lại với nhau. Các yếu tố này sẽ tác động đến các loại mặthàng tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

482 241 lượt tải Tải xuống
ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MARX – LENIN
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA QUY LUẬT CUNG – CẦU TRONG ĐIỀU
TIẾT NỀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
GVHD TRẦN THỊ DUNG
LỚP POS 151 SE
Tên SV Lăng Hải Dương- 3004
Nguyễn Đức Hiển-3350
Lê Vũ Hùng-1538
Lê Quang Huy-0678
Trần Ngọc Yến Nhi-6594
Nguyễn Phước Cảnh Quốc-0078
Đà Nẵng, ngày 2, tháng 7, năm 2024
1
Báo cáo công tác làm Tiểu Luận
Họ và tên MSS
V
Nhiệm Vụ Mức độ
hoàn
thành
Lăng Hải Dương 3004 Nội dung,
PowerPoint
100%
Nguyễn Đức Hiển 3350 Nội dung 100%
Lê Vũ Hùng 1538 Nội dung 100%
Nguyễn Đức Hưng 0322 Nội dung 100%
Lê Quang Huy 0678 Nội dung 100%
Trần Ngọc Yến Nhi 6594 Nội dung 80%
Nguyễn Phước Cảnh
Quốc
0078 Nội dung 85%
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................3
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT CUNG CẦU TRONG ĐIỀU
TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM...................................................................4
1.1.Khái niệm cung, cầu và quy luật của cung cầu:........................4
1.1.1. Khái niệm "Cung" là gì?..........................................................4
1.1.2.Khái niệm “Cầu” là gì?.............................................................4
1.1.3.Quy luật của “Cung” và “Cầu”:..............................................4
1.2.Tác động của cung cầu trong điều tiết nền kinh tế Việt Nam:5
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật cung cầu:.........................7
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY LUẬT CUNG
CẦU TRONG ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM...................................8
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.................................8
2.2. Biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả
thị trường................................................................................................8
2.2.1. Biến đổi cơ cấu thị trường:....................................................8
2.2.2. Dung lượng thị trường:...........................................................8
2.2.3. Quyết định giá cả thị trường:................................................9
2.3. Tầm quan trọng của cung – cầu trong điều tiết kinh tế..........9
2.3.1. Đối với nhà nước......................................................................9
2.3.2. Đối với nhà sản xuất kinh doanh..........................................9
2.3.3. Đối với người tiêu dùng..........................................................9
KẾT LUẬN.................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................11
1
LỜI MỞ ĐẦU
Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc,
Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế
giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương, ASEAN,…Kinh tế Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ
còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc
rễ của bất ổn kinh tế vĩ mô đã ăn sâu, bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền
kinh tế nước này, cộng với việc điều hành kém hiệu quả, liệu dẫn đến liên
tục gặp lạm phát cũng như nguy cơ đình đốn nền kinh tế. Chúng ta đã biết
được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì
đó có sự xuất hiện cuả quy luật giá trị. Mọi hoạt động cuả các chủ thể kinh
tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động cuả quy luật
này. Quy luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế
chu kì,phân hoá giàu nghèo,những cuộc cạnh tranh không lành mạnh…
Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị,tìm hiểu vai trò và
tác động của nó tới nền kinh tế,đặc biệt là trong thời kì phát triển nền kinh
tế thị trường của nước ta hiện nay.
1
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT CUNG CẦU TRONG ĐIỀU
TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1.1.Khái niệm cung, cầu và quy luật của cung cầu:
Cung, cầu là gì?
-Cung cầu và giá cả hàng hóa luôn có mối quan hệ vô cùng mật thiết và
tác động qua lại với nhau. Các yếu tố này sẽ tác động đến các loại mặt
hàng tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Cung và cầu là hai
khái niệm cơ bản trong lĩnh vực kinh tế học, áp dụng để mô tả sự tương
tác giữa người mua và người bán trên thị trường. Dưới đây là các khái niệm
và quy luật cơ bản liên quan đến cung, cầu và quy luật của cung cầu:
1.1.1. Khái niệm "Cung" là gì?
-Cung là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người bán có thể
đáp ứng cho thị trường. Nó tương ứng với những mức giá khác nhau, khả
năng sản xuất, chi phí sản xuất trong một thời gian nhất định.
-Yếu tố ảnh hưởng đến”Cung”:Cung sẽ phục thuộc vào nhiều yếu tố bên
ngoài như thuế, giá cả nguyên vật liệu, công nghệ, số lượng và khả năng
thực hiện của nhà sản xuất. Cung bao gồm cung của thị trường và cung cá
nhân. Cung thị trường sẽ bằng tổng của cung cá nhân.
1.1.2.Khái niệm “Cầu” là gì?
-Cầu là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người tiêu dùng
muốn mua và sẵn lòng mua. Số lượng hàng hóa, dịch vụ này tương ứng với
nhiều mức giá khác nhau, nằm trong một khoảng thời gian xác định.
-Yếu tố ảnh hưởng đến cầu:Cầu phụ thuộc vào những yếu tố như khả năng
chi trả, mức độ kỳ vọng vào sản phẩm và giá cả của hàng hóa, dịch vụ,giá
cả,thu nhập,sở thích, sự thay đổi trong số lượng người tiêu dùng, các
yếu tố có liên quan đến sản phẩm (như giá thay thế và sự kỳ vọng về
tương lai) đều ảnh hưởng đến mức độ cầu của một mặt hàng.
1.1.3.Quy luật của “Cung” và “Cầu”:
- Mối quan hệ giữa “cung”, “cầu” và “giá cả thị trường” là một mối quan
hệ mật thiết, gắn bó và tác động qua lại với nhau. Khi cầu tăng, sản xuất
được mở rộng dẫn đến cung tăng. Khi cầu giảm, sản xuất thu hẹp dẫn đến
cung giảm.
-Khi “cung” và “cầu” cân bằng thì giá cả bằng với giá trị của hàng hóa. Khi
cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ nhỏ hơn giá trị của hàng hóa. Khi cung nhỏ
hơn cầu, giá của của hàng hóa sẽ lớn hơn giá trị của nó. Khi giá cả tăng,
cung sẽ tăng, cầu giảm, khi giá cả giảm, cung giảm cầu sẽ tăng.
-Việc tăng hay giảm giá của một mặt hàng bất kỳ là sự tách rời giá cả và
giá trị của mặt hàng đó. Từ đó sẽ kích thích hoặc hạn chế nhu cầu, khả
năng thanh toán cho hàng hóa của người tiêu dùng. Lúc này sự chuyển
dịch nhu cầu về hàng hóa sẽ xuất hiện, gây nên sự biến đổi trong mối
1
quan hệ cung cầu. Vậy nên những yếu tố này luôn gắn bó vô cùng chặt
chẽ và mật thiết với nhau.
-Quy luật “cầu”: Quy luật này cho rằng, ceteris paribus (tức là các yếu tố
còn lại không thay đổi), khi giá cả của một mặt hàng tăng lên, lượng cầu
giảm xuống và ngược lại. Điều này thể hiện sự tương quan nghịch đảo giữa
giá cả và lượng cầu.
-Quy luật “cung”: Quy luật này cho rằng, ceteris paribus, khi giá cả của
một mặt hàng tăng lên, lượng cung cũng sẽ tăng lên và ngược lại. Điều
này thể hiện sự tương quan thuận đảo giữa giá cả và lượng cung.
Thông qua các khái niệm và quy luật này, kinh tế học cung cầu cung cấp
một cách để giải thích sự biến động của giá cả và lượng mặt hàng trên thị
trường, đồng thời cung cấp cho các nhà kinh tế và quản lý một cơ sở để dự
đoán và thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.2.Tác động của cung cầu trong điều tiết nền kinh tế Việt Nam:
-Cung cầu là một khái niệm quan trọng trong kinh tế, đặc biệt là trong việc
điều tiết nền kinh tế của một quốc gia như Việt Nam. Tác động của cung
cầu có thể được thể hiện qua các điểm sau: Tác động lên giá cả: Khi cung
cầu không cân đối, giá cả có thể tăng hoặc giảm. Ví dụ, khi cung cầu thấp
hơn cầu cần thiết (cầu cao hơn cung), giá cả sẽ tăng lên do sự khan hiếm.
Ngược lại, khi cung cao hơn cầu, giá cả sẽ giảm xuống do sự dư thừa. Ảnh
hưởng đến sản xuất: Cung cầu ảnh hưởng đến quyết định sản xuất của
doanh nghiệp. Khi cầu tăng, doanh nghiệp có xu hướng sản xuất nhiều hơn
để đáp ứng nhu cầu thị trường; ngược lại, khi cầu giảm, họ có thể giảm sản
lượng hoặc ngừng sản xuất một phần để tránh thua lỗ. Tác động lên việc
tạo việc làm: Nếu cung cầu tăng lên, nhu cầu về lao động sẽ tăng lên
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo ra việc làm mới. Ngược lại, khi cung
cầu giảm, có thể có nguy cơ mất việc làm doanh nghiệp giảm sản xuất
hoặc đóng cửa. Tác động đối với thâm hụt thương mại: Nếu cầu cao hơn
cung trong nền kinh tế, có thể dẫn đến tăng thâm hụt thương mại do cần
phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất. Tác động lên
chính sách kinh tế: Chính sách kinh tế của chính phủ, chẳng hạn như chính
sách tiền tệ và tài khóa, thường dựa trên phân tích cung cầu để điều tiết
nền kinh tế, ví dụ như giảm lãi suất để thúc đẩy đầu tư khi cung cầu thấp
hơn cầu. Tóm lại, cung cầu đóng vai trò quan trọng trong điều tiết kinh tế
của Việt Nam, ảnh hưởng đến giá cả, sản xuất, việc làm và các chính sách
kinh tế. Do đó, việc hiểu và quản lý cung cầu là điều cần thiết để duy trì ổn
định và phát triển bền vững của nền kinh tế.
-Điều tiết cung - cầu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến nay, tư duy lý luận của Đảng
về đổi mới trong xây dựng và phát triển nền kinh tế đã có những bước
phát triển rất rõ rệt. Nếu như tại Đại hội VI, Đảng ta chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thì đến Đại hội VII, Cương lĩnh
(năm 1991) đã khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Đến Đại hội VIII, quan điểm đó lại tiếp tục
được phát triển, bổ sung bằng việc khẳng định: Sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh
1
nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Đến Đại hội IX, khái
niệm “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã chính thức được
đưa vào Văn kiện và được xem là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội chỉ rõ: Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa dựa theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói
cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ chế thị trường ở nước ta là
cơ chế thị trường chịu sự điều tiết của Nhà nước, trên cơ sở sự vận động
khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ có
các điều chỉnh cần thiết nhằm hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị
trường. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối... Nhà nước quản lý nền kinh tế,
định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”(1).
Như vậy, đến Đại hội XI Đảng ta đã xác định rất rõ chủ trương nhất quán
về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò
của Nhà nước trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, trong đó
vấn đề điều tiết cung - cầu là khách quan và cần thiết.
-Điều tiết cung - cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Hiện nay, có một số
ý kiến cho rằng, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) từ năm 2007 và đang trong quá trình vận động để các thành
viên của WTO công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường đầy
đủ vào năm 2018, việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong điều tiết thị
trường hàng hóa liệu có vi phạm quy định của WTO và cam kết gia nhập
của Việt Nam hay không? Trả lời câu hỏi này sẽ bao hàm một nội dung khá
rộng và phức tạp, tuy nhiên, có thể tóm tắt một số lý do chủ quan và
khách quan để khẳng định rằng việc điều tiết thị trường hàng hóa là được
phép trong các điều kiện cụ thể sau:
+Thứ nhất, Việt Nam đã gia nhập WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới nên chúng ta phải thực hiện theo các cam kết đa
phương và song phương. Song, theo nguyên tắc của WTO đối với những
thành viên chậm và đang phát triển ở trình độ thấp như Việt Nam hiện
nay, chúng ta vẫn có thể vận dụng các quy định về hỗ trợ cho các vùng
khó khăn để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn
thương. Đồng thời, chúng ta có thể vận dụng những quy định về an ninh
lương thực và năng lượng để đưa ra các biện pháp điều tiết cung - cầu,
bình ổn thị trường đối với những hàng hóa thiết yếu.
+Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, các yếu tố để được công nhận là nước có nền kinh tế thị
1
trường cũng chưa đầy đủ, có những mặt hàng, như xăng dầu, điện, nước
sạch và một số dịch vụ… còn đang trong quá trình thực hiện lộ trình điều
chỉnh theo cơ chế “giá thị trường”. Đồng thời, chúng ta còn có một bộ
phận không nhỏ dân cư có mức thu nhập bình quân đầu người quá thấp
(tại các khu công nghiệp, khu vực nông thôn và đặc biệt là ở khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, nơi kinh tế vẫn chủ yếu là tự cấp tự túc), do vậy
cần có thời gian đủ dài để ổn định và phát triển kinh tế đối với những đối
tượng và với các vùng, miền đó.
+Thứ ba, theo các điều khoản về cán cân thanh toán của Hiệp ước chung
về thuế quan và mậu dịch (GATT) 1994 hiện đang có hiệu lực trong WTO,
các thành viên có thể áp dụng những biện pháp có liên quan đến cán cân
thanh toán như biện pháp dựa vào giá cả (phụ thu, tác động đến giá cả
hàng hóa nhập khẩu) và nếu các biện pháp này đã vượt qua mức thuế trần
một cách rõ ràng, riêng rẽ theo những thủ tục thông báo thì có thể áp
dụng các hạn chế định lượng cho những sản phẩm thiết yếu. Thuật ngữ
“các sản phẩm thiết yếu” được quy định là các sản phẩm đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng cơ bản hoặc góp phần cho nỗ lực của thành viên để cải
thiện tình hình cán cân thanh toán của họ. Trong bối cảnh kinh tế thế giới
chưa thoát khỏi thời kỳ suy thoái và khủng hoảng kinh tế, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam mặc dù vẫn tăng trưởng, nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng nhập siêu kéo dài suốt hơn hai mươi năm qua; quy mô kinh tế của
Việt Nam còn nhỏ bé nhưng độ mở nền kinh tế lại rất lớn, xuất khẩu hàng
hóa còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu; xuất khẩu vẫn là một trong
những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế; cùng với tiến trình thực hiện
tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chúng ta hoàn toàn có
thể sử dụng biện pháp có liên quan đến cán cân thanh toán để điều tiết
cung - cầu nhằm bình ổn thị trường hàng hóa.
+Thứ tư, thực hiện Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc về phát triển
bền vững, Đảng ta đã xác định phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế và an sinh xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo dự báo của các tổ
chức quốc tế, Việt Nam sẽ là một trong số các quốc gia chịu tác động lớn
nhất của biến đổi khí hậu (nhất là nước biển dâng), đồng thời, cũng nằm
trong khu vực chịu nhiều tác động cực đoan của thời tiết, khí hậu. Vì vậy,
để bảo đảm an sinh xã hội và chủ động phòng, chống tác động của biến
đổi khí hậu, Việt Nam cần chủ động điều tiết quan hệ cung - cầu thị trường
đối với các hàng hóa thiết yếu.
Tóm lại, cung cầu đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh
tế Việt Nam, từ việc điều chỉnh giá cả, tài chính, sản xuất, đến chính sách
phát triển bền vững và việc làm. Các chính sách kinh tế được hình thành
dựa trên các nguyên lý này để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững
cho nền kinh tế quốc gia.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật cung cầu:
Quy luật cung cầu là một khái niệm kinh tế cơ bản giải thích mối quan hệ
giữa giá cả và số lượng hàng hóa được mua bán trên thị trường. Quy luật
này cho rằng, khi giá một loại hàng hóa tăng lên, lượng cung của nó cũng
1
sẽ tăng lên và lượng cầu sẽ giảm xuống. Ngược lại, khi giá hàng hóa giảm
xuống, lượng cung sẽ giảm và lượng cầu sẽ tăng.
Tuy nhiên, quy luật cung cầu không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào giá cả.
Có rất nhiều yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến cả cung và cầu, dẫn
đến sự thay đổi trong giá cả và số lượng hàng hóa được giao dịch. Dưới
đây là một số yếu tố quan trọng nhất:
Đối với cung:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Giá cả của nguyên liệu, nhân công, và các
yếu tố đầu vào khác ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất. Khi giá đầu
vào tăng, chi phí sản xuất tăng, dẫn đến giảm lượng cung. Ngược lại, khi
giá đầu vào giảm, chi phí sản xuất giảm, lượng cung có xu hướng tăng.
Công nghệ: Sự thay đổi công nghệ có thể làm tăng năng suất sản xuất,
giảm chi phí sản xuất, và do đó dẫn đến tăng lượng cung.
Chính sách của chính phủ: Chính phủ có thể ảnh hưởng đến cung thông
qua các biện pháp như thuế, trợ cấp, quy định, và hạn ngạch. Ví dụ, thuế
cao có thể khiến doanh nghiệp giảm sản xuất, dẫn đến giảm cung.
Kỳ vọng của nhà sản xuất: Kỳ vọng của nhà sản xuất về giá cả trong
tương lai cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định sản xuất hiện tại. Nếu nhà
sản xuất kỳ vọng giá sẽ tăng trong tương lai, họ có thể tăng sản xuất hiện
tại để đáp ứng nhu cầu dự kiến.
Số lượng nhà sản xuất: Số lượng nhà sản xuất trong thị trường cũng ảnh
hưởng đến lượng cung. Khi có nhiều nhà sản xuất tham gia thị trường,
lượng cung sẽ tăng lên.
Đối với cầu:
Thu nhập của người tiêu dùng: Khi thu nhập của người tiêu dùng tăng
lên, họ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho hàng hóa và dịch vụ, dẫn đến
tăng lượng cầu. Ngược lại, khi thu nhập giảm, lượng cầu có xu hướng giảm.
Sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng: Sở thích và thị hiếu của
người tiêu dùng có thể thay đổi theo thời gian, dẫn đến thay đổi trong
lượng cầu đối với các mặt hàng khác nhau. Ví dụ, nếu xu hướng thời trang
thay đổi, nhu cầu về quần áo theo xu hướng cũ có thể giảm xuống.
Giá cả hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung: Giá cả của hàng hóa
thay thế và hàng hóa bổ sung cũng ảnh hưởng đến lượng cầu. Ví dụ, nếu
giá của một loại thịt tăng lên, người tiêu dùng có thể chuyển sang mua các
loại thịt khác thay thế, dẫn đến giảm cầu đối với loại thịt ban đầu. Ngược
lại, nếu giá của một loại xăng giảm xuống, nhu cầu về xe hơi, là hàng hóa
bổ sung, có thể tăng lên.
Dân số: Sự gia tăng dân số có thể dẫn đến tăng lượng cầu đối với tất cả
các loại hàng hóa và dịch vụ.
Kỳ vọng của người tiêu dùng: Kỳ vọng của người tiêu dùng về giá cả
trong tương lai cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định mua hàng hiện tại.
Nếu người tiêu dùng kỳ vọng giá sẽ tăng trong tương lai, họ có thể mua
hàng dự trữ ngay bây giờ, dẫn đến tăng lượng cầu hiện tại.
1
Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến cung và cầu,
chẳng hạn như thiên tai, sự kiện chính trị, và tâm lý chung của người tiêu
dùng.
Hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật cung cầu là rất quan trọng
đối với doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách. Doanh nghiệp có thể
sử dụng thông tin này để dự đoán nhu cầu thị trường, điều chỉnh sản xuất
và giá cả để tối đa hóa lợi nhuận. Nhà hoạch định chính sách có thể sử
dụng thông tin này để các chính sách nhằm điều tiết thị trường, ổn định
giá cả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. các yếu tố này đều tác động mạnh
mẽ đến quy luật cung cầu trong kinh tế. Việc hiểu và đánh giá các yếu tố
này là cần thiết để dự báo và đưa ra các chiến lược kinh tế hiệu quả.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY LUẬT CUNG
CẦU TRONG ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa là hoạt động tác động có ý thức
của Nhà nước nhằm định hướng, điều chỉnh sản xuất và lưu thông hàng
hóa theo hướng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
cân bằng cung - cầu thị trường, ổn định giá cả, bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng.
-Buộc người sản xuất, kinh doanh phải nắm vững các trường hợp vận động
của cung – cầu để đưa ra quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất, kinh
doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
2.2. Biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả
thị trường
- Quy luật cung cầu đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là thông qua sự biến đổi cơ cấu và dung lượng
thị trường. Dưới đây là một số phân tích về tác động của quy luật này
2.2.1. Biến đổi cơ cấu thị trường:
- Sự xuất hiện của các thành phần kinh tế mới: Nền kinh tế Việt
Nam ngày càng đa dạng hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI,...
Sự đa dạng này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt hơn, tác động đến giá cả
thị trường. Ví dụ, sự gia tăng số lượng doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực
bán lẻ đã góp phần làm giảm giá cả hàng hóa tiêu dùng.
- Thay đổi cơ cấu sản xuất: Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển
dịch từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Điều này dẫn
đến sự thay đổi về cơ cấu cung cầu hàng hóa, tác động đến giá cả thị
trường. Ví dụ, khi sản lượng nông sản tăng cao, giá nông sản có thể giảm
do dư cung. Ngược lại, khi nhu cầu về dịch vụ tăng cao, giá dịch vụ có thể
tăng do cầu vượt quá cung.
1
2.2.2. Dung lượng thị trường:
- Mở rộng thị trường: Thị trường Việt Nam ngày càng mở rộng do
hội nhập kinh tế quốc tế và sự gia tăng thu nhập của người dân. Điều này
dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ, tác động đến giá cả
thị trường. Ví dụ, khi thị trường xuất khẩu mở rộng, giá nông sản có thể
tăng do nhu cầu từ các nước khác.
- Thay đổi cơ cấu tiêu dùng: Cơ cấu tiêu dùng của người dân Việt
Nam đang thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng hóa và dịch vụ cao cấp
hơn. Điều này dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về các mặt hàng này, tác động
đến giá cả thị trường. Ví dụ, khi nhu cầu về xe ô tô tăng cao, giá xe ô tô có
thể tăng.
2.2.3. Quyết định giá cả thị trường:
- Giá cân bằng: Theo quy luật cung cầu, giá cả thị trường sẽ tự điều
chỉnh để đạt đến mức cân bằng, nơi lượng cung bằng lượng cầu. Khi lượng
cầu vượt quá lượng cung, giá cả có xu hướng tăng. Ngược lại, khi lượng
cung vượt quá lượng cầu, giá cả có xu hướng giảm.
-Tác động của Nhà nước: Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết
giá cả thị trường ở Việt Nam là rất quan trọng. Nhà nước có thể sử dụng
các công cụ như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các biện pháp
hành chính để tác động đến giá cả thị trường. Ví dụ, Nhà nước có thể áp
dụng thuế, trợ cấp hoặc hạn ngạch nhập khẩu để điều tiết giá cả hàng
hóa.
2.3. Tầm quan trọng của cung – cầu trong điều tiết kinh tế
- Quy luật cung - cầu là một trong những nguyên tắc kinh tế cơ bản nhất,
đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế. Nó thể hiện mối
quan hệ giữa giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ được mua bán trên thị
trường. Việc nắm bắt và hiểu rõ quy luật này mang lại nhiều lợi ích to lớn
cho các doanh nghiệp, nhà hoạch định chính sách và người tiêu dùng, góp
phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
2.3.1. Đối với nhà nước
- Quy luật cung cầu có tác dụng lớn đối với nhà nước, hỗ trợ điều chỉnh
tình hình nền kinh tế. Nếu cầu vượt cung, nhà nước sẽ thực hiện các biện
pháp điều chỉnh để tăng nguồn cung ra thị trường. Ngoài ra, nhà nước
cũng có thể sử dụng biện pháp điều tiết và tìm ra kẻ đầu cơ.
- Còn trong trường hợp cung vượt cầu, dựa vào quy luật cung cầu, nhà
nước có thể đưa ra những biện pháp để kích cầu
2.3.2. Đối với nhà sản xuất kinh doanh
1
-‹Nếu cầu vượt cung, nghĩa là giá hàng hóa đang cao hơn giá trị thực tế,
nhà sản xuất tìm cách tăng gia sản xuất để tăng lợi nhuận thu về.
- Khi cung vượt cầu, nghĩa là giá hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế, nhà sản
xuất sẽ tìm cách thu hẹp sản xuất để tối ưu khoản chi phí phải bỏ ra.
2.3.3. Đối với người tiêu dùng
- Với người tiêu dùng, quy luật cũng mang đến nhiều tác dụng không
ngờ đến:
+ Với dấu hiệu cầu vượt cung, mức giá đang cao nên người tiêu dùng giảm
hoạt động mua sắm.
+Với dấu hiệu cung vượt cầu, giá đang thấp nên người tiêu dùng tăng hoạt
động mua sắm.
KẾT LUẬN
Quy luật cung- cầu là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa.
Không có nền kinh tế nào đứng ngoài quy luật này. Hiện nay, nước ta đang
phát triến nên kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Nên kinh tế
nước ta đang cạnh tranh mạnh mẽ đối với các quốc gia trên thê giới và
đang có vị trí riêng của mình. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong
phát triên kinh tế-xā hội song trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn
tồn tại những hạn chế, bất cập. Tiếp tục đẩy mạnh phát triến kinh tế vừa
là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là ở nước ta. Yêu cầu cấp thiết hiện nay
nghiên cứu, vận dụng quy luật cung - cầu ở nước ta đòi hỏi phải có
phương pháp luận khoa học, bám sát thực tiễn đất nước. Những giải pháp
mà tiểu luận để xuất có mối quan hệ chặt chẽ, tác động, b sung lẫ nhau,
cần được tiến hành một cách đồng bộ, tránh tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ
bất cứ giải pháp nào. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động và phát triển nên
vấn để này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung.
1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
| 1/13

Preview text:

ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MARX – LENIN
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA QUY LUẬT CUNG – CẦU TRONG ĐIỀU
TIẾT NỀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM GVHD TRẦN THỊ DUNG LỚP POS 151 SE Tên SV Lăng Hải Dương- 3004 Nguyễn Đức Hiển-3350 Lê Vũ Hùng-1538 Lê Quang Huy-0678 Trần Ngọc Yến Nhi-6594
Nguyễn Phước Cảnh Quốc-0078
Đà Nẵng, ngày 2, tháng 7, năm 2024 1
Báo cáo công tác làm Tiểu Luận Họ và tên MSS Nhiệm Vụ Mức độ V hoàn thành Lăng Hải Dương 3004 Nội dung, 100% PowerPoint Nguyễn Đức Hiển 3350 Nội dung 100% Lê Vũ Hùng 1538 Nội dung 100% Nguyễn Đức Hưng 0322 Nội dung 100% Lê Quang Huy 0678 Nội dung 100% Trần Ngọc Yến Nhi 6594 Nội dung 80%
Nguyễn Phước Cảnh 0078 Nội dung 85% Quốc 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................3
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT CUNG CẦU TRONG ĐIỀU
TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM...................................................................4
1.1.Khái niệm cung, cầu và quy luật của cung cầu:........................4
1.1.1. Khái niệm "Cung" là gì?..........................................................4
1.1.2.Khái niệm “Cầu” là gì?.............................................................4
1.1.3.Quy luật của “Cung” và “Cầu”:..............................................4
1.2.Tác động của cung cầu trong điều tiết nền kinh tế Việt Nam:5
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật cung cầu:.........................7
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY LUẬT CUNG
CẦU TRONG ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM...................................8
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.................................8
2.2. Biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả
thị trường................................................................................................8
2.2.1. Biến đổi cơ cấu thị trường:....................................................8
2.2.2. Dung lượng thị trường:...........................................................8
2.2.3. Quyết định giá cả thị trường:................................................9
2.3. Tầm quan trọng của cung – cầu trong điều tiết kinh tế..........9
2.3.1. Đối với nhà nước......................................................................9
2.3.2. Đối với nhà sản xuất kinh doanh..........................................9
2.3.3. Đối với người tiêu dùng..........................................................9
KẾT LUẬN.................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................11 1 LỜI MỞ ĐẦU
Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc,
Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế
giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương, ASEAN,…Kinh tế Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ
còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc
rễ của bất ổn kinh tế vĩ mô đã ăn sâu, bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền
kinh tế nước này, cộng với việc điều hành kém hiệu quả, liệu dẫn đến liên
tục gặp lạm phát cũng như nguy cơ đình đốn nền kinh tế. Chúng ta đã biết
được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở
đó có sự xuất hiện cuả quy luật giá trị. Mọi hoạt động cuả các chủ thể kinh
tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động cuả quy luật
này. Quy luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế
chu kì,phân hoá giàu nghèo,những cuộc cạnh tranh không lành mạnh…
Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị,tìm hiểu vai trò và
tác động của nó tới nền kinh tế,đặc biệt là trong thời kì phát triển nền kinh
tế thị trường của nước ta hiện nay. 1
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT CUNG CẦU TRONG ĐIỀU
TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1.1.Khái niệm cung, cầu và quy luật của cung cầu: Cung, cầu là gì?
-Cung cầu và giá cả hàng hóa luôn có mối quan hệ vô cùng mật thiết và
tác động qua lại với nhau. Các yếu tố này sẽ tác động đến các loại mặt
hàng tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Cung và cầu là hai
khái niệm cơ bản trong lĩnh vực kinh tế học, áp dụng để mô tả sự tương
tác giữa người mua và người bán trên thị trường. Dưới đây là các khái niệm
và quy luật cơ bản liên quan đến cung, cầu và quy luật của cung cầu:
1.1.1. Khái niệm "Cung" là gì?
-Cung là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người bán có thể
đáp ứng cho thị trường. Nó tương ứng với những mức giá khác nhau, khả
năng sản xuất, chi phí sản xuất trong một thời gian nhất định.
-Yếu tố ảnh hưởng đến”Cung”:Cung sẽ phục thuộc vào nhiều yếu tố bên
ngoài như thuế, giá cả nguyên vật liệu, công nghệ, số lượng và khả năng
thực hiện của nhà sản xuất. Cung bao gồm cung của thị trường và cung cá
nhân. Cung thị trường sẽ bằng tổng của cung cá nhân.
1.1.2.Khái niệm “Cầu” là gì?
-Cầu là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người tiêu dùng
muốn mua và sẵn lòng mua. Số lượng hàng hóa, dịch vụ này tương ứng với
nhiều mức giá khác nhau, nằm trong một khoảng thời gian xác định.
-Yếu tố ảnh hưởng đến cầu:Cầu phụ thuộc vào những yếu tố như khả năng
chi trả, mức độ kỳ vọng vào sản phẩm và giá cả của hàng hóa, dịch vụ,giá
cả,thu nhập,sở thích, sự thay đổi trong số lượng người tiêu dùng, các
yếu tố có liên quan đến sản phẩm (như giá thay thế và sự kỳ vọng về
tương lai) đều ảnh hưởng đến mức độ cầu của một mặt hàng.
1.1.3.Quy luật của “Cung” và “Cầu”:
- Mối quan hệ giữa “cung”, “cầu” và “giá cả thị trường” là một mối quan
hệ mật thiết, gắn bó và tác động qua lại với nhau. Khi cầu tăng, sản xuất
được mở rộng dẫn đến cung tăng. Khi cầu giảm, sản xuất thu hẹp dẫn đến cung giảm.
-Khi “cung” và “cầu” cân bằng thì giá cả bằng với giá trị của hàng hóa. Khi
cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ nhỏ hơn giá trị của hàng hóa. Khi cung nhỏ
hơn cầu, giá của của hàng hóa sẽ lớn hơn giá trị của nó. Khi giá cả tăng,
cung sẽ tăng, cầu giảm, khi giá cả giảm, cung giảm cầu sẽ tăng.
-Việc tăng hay giảm giá của một mặt hàng bất kỳ là sự tách rời giá cả và
giá trị của mặt hàng đó. Từ đó sẽ kích thích hoặc hạn chế nhu cầu, khả
năng thanh toán cho hàng hóa của người tiêu dùng. Lúc này sự chuyển
dịch nhu cầu về hàng hóa sẽ xuất hiện, gây nên sự biến đổi trong mối 1
quan hệ cung cầu. Vậy nên những yếu tố này luôn gắn bó vô cùng chặt
chẽ và mật thiết với nhau.
-Quy luật “cầu”: Quy luật này cho rằng, ceteris paribus (tức là các yếu tố
còn lại không thay đổi), khi giá cả của một mặt hàng tăng lên, lượng cầu
giảm xuống và ngược lại. Điều này thể hiện sự tương quan nghịch đảo giữa giá cả và lượng cầu.
-Quy luật “cung”: Quy luật này cho rằng, ceteris paribus, khi giá cả của
một mặt hàng tăng lên, lượng cung cũng sẽ tăng lên và ngược lại. Điều
này thể hiện sự tương quan thuận đảo giữa giá cả và lượng cung.
Thông qua các khái niệm và quy luật này, kinh tế học cung cầu cung cấp
một cách để giải thích sự biến động của giá cả và lượng mặt hàng trên thị
trường, đồng thời cung cấp cho các nhà kinh tế và quản lý một cơ sở để dự
đoán và thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.2.Tác động của cung cầu trong điều tiết nền kinh tế Việt Nam:
-Cung cầu là một khái niệm quan trọng trong kinh tế, đặc biệt là trong việc
điều tiết nền kinh tế của một quốc gia như Việt Nam. Tác động của cung
cầu có thể được thể hiện qua các điểm sau: Tác động lên giá cả: Khi cung
cầu không cân đối, giá cả có thể tăng hoặc giảm. Ví dụ, khi cung cầu thấp
hơn cầu cần thiết (cầu cao hơn cung), giá cả sẽ tăng lên do sự khan hiếm.
Ngược lại, khi cung cao hơn cầu, giá cả sẽ giảm xuống do sự dư thừa. Ảnh
hưởng đến sản xuất: Cung cầu ảnh hưởng đến quyết định sản xuất của
doanh nghiệp. Khi cầu tăng, doanh nghiệp có xu hướng sản xuất nhiều hơn
để đáp ứng nhu cầu thị trường; ngược lại, khi cầu giảm, họ có thể giảm sản
lượng hoặc ngừng sản xuất một phần để tránh thua lỗ. Tác động lên việc
tạo việc làm: Nếu cung cầu tăng lên, nhu cầu về lao động sẽ tăng lên
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo ra việc làm mới. Ngược lại, khi cung
cầu giảm, có thể có nguy cơ mất việc làm doanh nghiệp giảm sản xuất
hoặc đóng cửa. Tác động đối với thâm hụt thương mại: Nếu cầu cao hơn
cung trong nền kinh tế, có thể dẫn đến tăng thâm hụt thương mại do cần
phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất. Tác động lên
chính sách kinh tế: Chính sách kinh tế của chính phủ, chẳng hạn như chính
sách tiền tệ và tài khóa, thường dựa trên phân tích cung cầu để điều tiết
nền kinh tế, ví dụ như giảm lãi suất để thúc đẩy đầu tư khi cung cầu thấp
hơn cầu. Tóm lại, cung cầu đóng vai trò quan trọng trong điều tiết kinh tế
của Việt Nam, ảnh hưởng đến giá cả, sản xuất, việc làm và các chính sách
kinh tế. Do đó, việc hiểu và quản lý cung cầu là điều cần thiết để duy trì ổn
định và phát triển bền vững của nền kinh tế.
-Điều tiết cung - cầu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến nay, tư duy lý luận của Đảng
về đổi mới trong xây dựng và phát triển nền kinh tế đã có những bước
phát triển rất rõ rệt. Nếu như tại Đại hội VI, Đảng ta chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thì đến Đại hội VII, Cương lĩnh
(năm 1991) đã khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Đến Đại hội VIII, quan điểm đó lại tiếp tục
được phát triển, bổ sung bằng việc khẳng định: Sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh 1
nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Đến Đại hội IX, khái
niệm “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã chính thức được
đưa vào Văn kiện và được xem là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội chỉ rõ: Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa dựa theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói
cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ chế thị trường ở nước ta là
cơ chế thị trường chịu sự điều tiết của Nhà nước, trên cơ sở sự vận động
khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ có
các điều chỉnh cần thiết nhằm hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị
trường. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối... Nhà nước quản lý nền kinh tế,
định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”(1).
Như vậy, đến Đại hội XI Đảng ta đã xác định rất rõ chủ trương nhất quán
về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò
của Nhà nước trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, trong đó
vấn đề điều tiết cung - cầu là khách quan và cần thiết.
-Điều tiết cung - cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Hiện nay, có một số
ý kiến cho rằng, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) từ năm 2007 và đang trong quá trình vận động để các thành
viên của WTO công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường đầy
đủ vào năm 2018, việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong điều tiết thị
trường hàng hóa liệu có vi phạm quy định của WTO và cam kết gia nhập
của Việt Nam hay không? Trả lời câu hỏi này sẽ bao hàm một nội dung khá
rộng và phức tạp, tuy nhiên, có thể tóm tắt một số lý do chủ quan và
khách quan để khẳng định rằng việc điều tiết thị trường hàng hóa là được
phép trong các điều kiện cụ thể sau:
+Thứ nhất, Việt Nam đã gia nhập WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới nên chúng ta phải thực hiện theo các cam kết đa
phương và song phương. Song, theo nguyên tắc của WTO đối với những
thành viên chậm và đang phát triển ở trình độ thấp như Việt Nam hiện
nay, chúng ta vẫn có thể vận dụng các quy định về hỗ trợ cho các vùng
khó khăn để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn
thương. Đồng thời, chúng ta có thể vận dụng những quy định về an ninh
lương thực và năng lượng để đưa ra các biện pháp điều tiết cung - cầu,
bình ổn thị trường đối với những hàng hóa thiết yếu.
+Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, các yếu tố để được công nhận là nước có nền kinh tế thị 1
trường cũng chưa đầy đủ, có những mặt hàng, như xăng dầu, điện, nước
sạch và một số dịch vụ… còn đang trong quá trình thực hiện lộ trình điều
chỉnh theo cơ chế “giá thị trường”. Đồng thời, chúng ta còn có một bộ
phận không nhỏ dân cư có mức thu nhập bình quân đầu người quá thấp
(tại các khu công nghiệp, khu vực nông thôn và đặc biệt là ở khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, nơi kinh tế vẫn chủ yếu là tự cấp tự túc), do vậy
cần có thời gian đủ dài để ổn định và phát triển kinh tế đối với những đối
tượng và với các vùng, miền đó.
+Thứ ba, theo các điều khoản về cán cân thanh toán của Hiệp ước chung
về thuế quan và mậu dịch (GATT) 1994 hiện đang có hiệu lực trong WTO,
các thành viên có thể áp dụng những biện pháp có liên quan đến cán cân
thanh toán như biện pháp dựa vào giá cả (phụ thu, tác động đến giá cả
hàng hóa nhập khẩu) và nếu các biện pháp này đã vượt qua mức thuế trần
một cách rõ ràng, riêng rẽ theo những thủ tục thông báo thì có thể áp
dụng các hạn chế định lượng cho những sản phẩm thiết yếu. Thuật ngữ
“các sản phẩm thiết yếu” được quy định là các sản phẩm đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng cơ bản hoặc góp phần cho nỗ lực của thành viên để cải
thiện tình hình cán cân thanh toán của họ. Trong bối cảnh kinh tế thế giới
chưa thoát khỏi thời kỳ suy thoái và khủng hoảng kinh tế, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam mặc dù vẫn tăng trưởng, nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng nhập siêu kéo dài suốt hơn hai mươi năm qua; quy mô kinh tế của
Việt Nam còn nhỏ bé nhưng độ mở nền kinh tế lại rất lớn, xuất khẩu hàng
hóa còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu; xuất khẩu vẫn là một trong
những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế; cùng với tiến trình thực hiện
tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chúng ta hoàn toàn có
thể sử dụng biện pháp có liên quan đến cán cân thanh toán để điều tiết
cung - cầu nhằm bình ổn thị trường hàng hóa.
+Thứ tư, thực hiện Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc về phát triển
bền vững, Đảng ta đã xác định phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế và an sinh xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo dự báo của các tổ
chức quốc tế, Việt Nam sẽ là một trong số các quốc gia chịu tác động lớn
nhất của biến đổi khí hậu (nhất là nước biển dâng), đồng thời, cũng nằm
trong khu vực chịu nhiều tác động cực đoan của thời tiết, khí hậu. Vì vậy,
để bảo đảm an sinh xã hội và chủ động phòng, chống tác động của biến
đổi khí hậu, Việt Nam cần chủ động điều tiết quan hệ cung - cầu thị trường
đối với các hàng hóa thiết yếu.
Tóm lại, cung cầu đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh
tế Việt Nam, từ việc điều chỉnh giá cả, tài chính, sản xuất, đến chính sách
phát triển bền vững và việc làm. Các chính sách kinh tế được hình thành
dựa trên các nguyên lý này để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững
cho nền kinh tế quốc gia.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật cung cầu:
Quy luật cung cầu là một khái niệm kinh tế cơ bản giải thích mối quan hệ
giữa giá cả và số lượng hàng hóa được mua bán trên thị trường. Quy luật
này cho rằng, khi giá một loại hàng hóa tăng lên, lượng cung của nó cũng 1
sẽ tăng lên và lượng cầu sẽ giảm xuống. Ngược lại, khi giá hàng hóa giảm
xuống, lượng cung sẽ giảm và lượng cầu sẽ tăng.
Tuy nhiên, quy luật cung cầu không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào giá cả.
Có rất nhiều yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến cả cung và cầu, dẫn
đến sự thay đổi trong giá cả và số lượng hàng hóa được giao dịch. Dưới
đây là một số yếu tố quan trọng nhất: Đối với cung:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Giá cả của nguyên liệu, nhân công, và các
yếu tố đầu vào khác ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất. Khi giá đầu
vào tăng, chi phí sản xuất tăng, dẫn đến giảm lượng cung. Ngược lại, khi
giá đầu vào giảm, chi phí sản xuất giảm, lượng cung có xu hướng tăng.
Công nghệ: Sự thay đổi công nghệ có thể làm tăng năng suất sản xuất,
giảm chi phí sản xuất, và do đó dẫn đến tăng lượng cung.
Chính sách của chính phủ: Chính phủ có thể ảnh hưởng đến cung thông
qua các biện pháp như thuế, trợ cấp, quy định, và hạn ngạch. Ví dụ, thuế
cao có thể khiến doanh nghiệp giảm sản xuất, dẫn đến giảm cung.
Kỳ vọng của nhà sản xuất: Kỳ vọng của nhà sản xuất về giá cả trong
tương lai cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định sản xuất hiện tại. Nếu nhà
sản xuất kỳ vọng giá sẽ tăng trong tương lai, họ có thể tăng sản xuất hiện
tại để đáp ứng nhu cầu dự kiến.
Số lượng nhà sản xuất: Số lượng nhà sản xuất trong thị trường cũng ảnh
hưởng đến lượng cung. Khi có nhiều nhà sản xuất tham gia thị trường, lượng cung sẽ tăng lên. Đối với cầu:
Thu nhập của người tiêu dùng: Khi thu nhập của người tiêu dùng tăng
lên, họ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho hàng hóa và dịch vụ, dẫn đến
tăng lượng cầu. Ngược lại, khi thu nhập giảm, lượng cầu có xu hướng giảm.
Sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng: Sở thích và thị hiếu của
người tiêu dùng có thể thay đổi theo thời gian, dẫn đến thay đổi trong
lượng cầu đối với các mặt hàng khác nhau. Ví dụ, nếu xu hướng thời trang
thay đổi, nhu cầu về quần áo theo xu hướng cũ có thể giảm xuống.
Giá cả hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung: Giá cả của hàng hóa
thay thế và hàng hóa bổ sung cũng ảnh hưởng đến lượng cầu. Ví dụ, nếu
giá của một loại thịt tăng lên, người tiêu dùng có thể chuyển sang mua các
loại thịt khác thay thế, dẫn đến giảm cầu đối với loại thịt ban đầu. Ngược
lại, nếu giá của một loại xăng giảm xuống, nhu cầu về xe hơi, là hàng hóa
bổ sung, có thể tăng lên.
Dân số: Sự gia tăng dân số có thể dẫn đến tăng lượng cầu đối với tất cả
các loại hàng hóa và dịch vụ.
Kỳ vọng của người tiêu dùng: Kỳ vọng của người tiêu dùng về giá cả
trong tương lai cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định mua hàng hiện tại.
Nếu người tiêu dùng kỳ vọng giá sẽ tăng trong tương lai, họ có thể mua
hàng dự trữ ngay bây giờ, dẫn đến tăng lượng cầu hiện tại. 1
Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến cung và cầu,
chẳng hạn như thiên tai, sự kiện chính trị, và tâm lý chung của người tiêu dùng.
Hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật cung cầu là rất quan trọng
đối với doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách. Doanh nghiệp có thể
sử dụng thông tin này để dự đoán nhu cầu thị trường, điều chỉnh sản xuất
và giá cả để tối đa hóa lợi nhuận. Nhà hoạch định chính sách có thể sử
dụng thông tin này để các chính sách nhằm điều tiết thị trường, ổn định
giá cả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. các yếu tố này đều tác động mạnh
mẽ đến quy luật cung cầu trong kinh tế. Việc hiểu và đánh giá các yếu tố
này là cần thiết để dự báo và đưa ra các chiến lược kinh tế hiệu quả.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY LUẬT CUNG
CẦU TRONG ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa là hoạt động tác động có ý thức
của Nhà nước nhằm định hướng, điều chỉnh sản xuất và lưu thông hàng
hóa theo hướng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
cân bằng cung - cầu thị trường, ổn định giá cả, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
-Buộc người sản xuất, kinh doanh phải nắm vững các trường hợp vận động
của cung – cầu để đưa ra quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất, kinh
doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
2.2. Biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường
- Quy luật cung cầu đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là thông qua sự biến đổi cơ cấu và dung lượng
thị trường. Dưới đây là một số phân tích về tác động của quy luật này
2.2.1. Biến đổi cơ cấu thị trường:
- Sự xuất hiện của các thành phần kinh tế mới: Nền kinh tế Việt
Nam ngày càng đa dạng hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI,...
Sự đa dạng này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt hơn, tác động đến giá cả
thị trường. Ví dụ, sự gia tăng số lượng doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực
bán lẻ đã góp phần làm giảm giá cả hàng hóa tiêu dùng.
- Thay đổi cơ cấu sản xuất: Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển
dịch từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Điều này dẫn
đến sự thay đổi về cơ cấu cung cầu hàng hóa, tác động đến giá cả thị
trường. Ví dụ, khi sản lượng nông sản tăng cao, giá nông sản có thể giảm
do dư cung. Ngược lại, khi nhu cầu về dịch vụ tăng cao, giá dịch vụ có thể
tăng do cầu vượt quá cung. 1
2.2.2. Dung lượng thị trường:
- Mở rộng thị trường: Thị trường Việt Nam ngày càng mở rộng do
hội nhập kinh tế quốc tế và sự gia tăng thu nhập của người dân. Điều này
dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ, tác động đến giá cả
thị trường. Ví dụ, khi thị trường xuất khẩu mở rộng, giá nông sản có thể
tăng do nhu cầu từ các nước khác.
- Thay đổi cơ cấu tiêu dùng: Cơ cấu tiêu dùng của người dân Việt
Nam đang thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng hóa và dịch vụ cao cấp
hơn. Điều này dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về các mặt hàng này, tác động
đến giá cả thị trường. Ví dụ, khi nhu cầu về xe ô tô tăng cao, giá xe ô tô có thể tăng.
2.2.3. Quyết định giá cả thị trường:
- Giá cân bằng: Theo quy luật cung cầu, giá cả thị trường sẽ tự điều
chỉnh để đạt đến mức cân bằng, nơi lượng cung bằng lượng cầu. Khi lượng
cầu vượt quá lượng cung, giá cả có xu hướng tăng. Ngược lại, khi lượng
cung vượt quá lượng cầu, giá cả có xu hướng giảm.
-Tác động của Nhà nước: Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết
giá cả thị trường ở Việt Nam là rất quan trọng. Nhà nước có thể sử dụng
các công cụ như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các biện pháp
hành chính để tác động đến giá cả thị trường. Ví dụ, Nhà nước có thể áp
dụng thuế, trợ cấp hoặc hạn ngạch nhập khẩu để điều tiết giá cả hàng hóa.
2.3. Tầm quan trọng của cung – cầu trong điều tiết kinh tế
- Quy luật cung - cầu là một trong những nguyên tắc kinh tế cơ bản nhất,
đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế. Nó thể hiện mối
quan hệ giữa giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ được mua bán trên thị
trường. Việc nắm bắt và hiểu rõ quy luật này mang lại nhiều lợi ích to lớn
cho các doanh nghiệp, nhà hoạch định chính sách và người tiêu dùng, góp
phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
2.3.1. Đối với nhà nước
- Quy luật cung cầu có tác dụng lớn đối với nhà nước, hỗ trợ điều chỉnh
tình hình nền kinh tế. Nếu cầu vượt cung, nhà nước sẽ thực hiện các biện
pháp điều chỉnh để tăng nguồn cung ra thị trường. Ngoài ra, nhà nước
cũng có thể sử dụng biện pháp điều tiết và tìm ra kẻ đầu cơ.
- Còn trong trường hợp cung vượt cầu, dựa vào quy luật cung cầu, nhà
nước có thể đưa ra những biện pháp để kích cầu
2.3.2. Đối với nhà sản xuất kinh doanh 1
-‹Nếu cầu vượt cung, nghĩa là giá hàng hóa đang cao hơn giá trị thực tế,
nhà sản xuất tìm cách tăng gia sản xuất để tăng lợi nhuận thu về.
- Khi cung vượt cầu, nghĩa là giá hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế, nhà sản
xuất sẽ tìm cách thu hẹp sản xuất để tối ưu khoản chi phí phải bỏ ra.
2.3.3. Đối với người tiêu dùng
- Với người tiêu dùng, quy luật cũng mang đến nhiều tác dụng không ngờ đến:
+ Với dấu hiệu cầu vượt cung, mức giá đang cao nên người tiêu dùng giảm hoạt động mua sắm.
+Với dấu hiệu cung vượt cầu, giá đang thấp nên người tiêu dùng tăng hoạt động mua sắm. KẾT LUẬN
Quy luật cung- cầu là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa.
Không có nền kinh tế nào đứng ngoài quy luật này. Hiện nay, nước ta đang
phát triến nên kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Nên kinh tế
nước ta đang cạnh tranh mạnh mẽ đối với các quốc gia trên thê giới và
đang có vị trí riêng của mình. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong
phát triên kinh tế-xā hội song trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn
tồn tại những hạn chế, bất cập. Tiếp tục đẩy mạnh phát triến kinh tế vừa
là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là ở nước ta. Yêu cầu cấp thiết hiện nay
nghiên cứu, vận dụng quy luật cung - cầu ở nước ta đòi hỏi phải có
phương pháp luận khoa học, bám sát thực tiễn đất nước. Những giải pháp
mà tiểu luận để xuất có mối quan hệ chặt chẽ, tác động, b sung lẫ nhau,
cần được tiến hành một cách đồng bộ, tránh tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ
bất cứ giải pháp nào. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động và phát triển nên
vấn để này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung. 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1