Tiểu luận Văn hóa Việt Nam và hội nhập Quốc tế - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Tiểu luận Văn hóa Việt Nam và hội nhập Quốc tế - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
1
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………
2
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………….
3
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………
3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài……………………………………...
3
2
NỘI DUNG………………………………………………………………………..
4
A.Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời phong kiến
I. Khái quát về “Tam giáo đồng nguyên”..........................................................
4
1. Khái niệm về tôn giáo………………………………………………………
4
2. Vai trò của tôn giáo…………………………………………………………
4
3. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”.............................................................
4
4. Sự xuất hiện của ba tôn giáo tại Việt Nam………………………………….
4
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam thời phong kiến……………
11
B. Sự tồn tại của “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay
I. I. Ba tôn giáo trong xã hội Việt Nam ngày nay…………………………………..
14
1. Nho giáo…………………………………………………………………….
14
2. Phật giáo……………………………………………………………………
15
3. Đạo giáo…………………………………………………………………….
15
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay…………………..
16
3
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...
19
4
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...
21
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn phát triển ngày nay với sự xuất hiện của văn hóa hội
nhập, nhiều yếu tố văn hóa được du nhập vào Việt Nam tồn tại cùng với
văn hóa truyền thống, đã đang biến đổi sâu sắc theo xu hướng mai một bản
sắc, ý thức về việc giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc trong bộ phận lớp trẻ
ngày một yếu đi. Sự du nhập chạy theo các trào lưu văn hóa mới đã
đang làm cho giá trị đạo đức hội ngày một pha tạp. Do vậy, việc giữ gìn
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nhiệm vụ quan trọng không chỉ
của Đảng, Nhà nước mọi thành phần hội, trong đó các tổ chức tôn
giáo. Trong nhiệm vụ này việc đưa tôn giáo vào cùng tham gia thực hiện
vấn đề cần tính đến
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, các nền văn hóa ngày càng nhiều
hội giao lưu, giao thoa văn hóa trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chính
vậy, văn hóa được coi như “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia, dân tộc. Với
nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng nguyên”, dân tộc Việt Nam tự hào gìn giữ
được bản sắc dân tộc với nhiều nét đẹp truyền thống vốn có, đồng thời tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt chặng đường vươn ra biển thế giới,
khẳng định được vị thế của nước nhà trên trường quốc tế.
Từ những do nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Tam giáo đồng nguyên
trong hội Việt Nam thời phong kiến sự tồn tại của trong hội
Việt Nam ngày nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Phân tích, nhận định tầm quan trọng vai trò của Tam giáo đồng
nguyên trong xã hội Việt Nam.
- Phát hiện ra những mặt tích cực, hạn chế của Tam giáo đồng nguyên
Việt Nam.
- Một số đề xuất, kiến nghị trong việc vận dụng Tam giáo đồng nguyên
vào cuộc sống và quản lý xã hội ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ
2
Phân tích, trình bày, lấy dẫn chứng về những nội dung biểu hiện của “Tam
giáo đồng nguyên” Việt Nam trong hội phong kiến hiện nay. Từ đó
nêu ra những đề xuất biện pháp khắc phục trong việc nghiên cứu vấn đề
nêu trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về “Tam giáo đồng nguyên trong hội Việt Nam thời
phong kiến và sự tồn tại của nó trong xã hội Việt Nam ngày nay”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Tại Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Trong xã hội phong kiến và xã hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật với các phương pháp như: thống nhất logic lịch sử, phân tích, khái quát
và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
Tùy theo cách nhìn nhận vấn đề “Tam giáo đồng nguyên” những cách
hiểu cách giải quyết khác nhau. Do vậy, khi nghiên cứu tôi cố gắng nhìn
nhận từ nhiều góc độ khác nhau để thấy được những đặc trưng sức ảnh
hưởng của ba tôn giáo trong Tam giáo đồng nguyên trong hội phong kiến
và xã hội Việt Nam hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Tổng quát, đánh giá chung “Tam giáo đồng nguyên” đang diễn ra như
thế nào tại Việt Nam.
- Phân tích vai trò ảnh hưởng của “Tam giáo đồng nguyên” trong
hội Việt Nam ngày nay.
- Vận dụng những vai trò, tính chất của từng tôn giáo để phát triển văn
hóa và xã hội Việt Nam.
3
NỘI DUNG
A. Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời phong kiến
I. Khái quát về “Tam giáo đồng nguyên”
1. Khái niệm về tôn giáo
Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt
1
động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
2. Vai trò của tôn giáo
2
Tôn giáo được coi là một tài sản văn hóa của nhân loại. Tôn giáo giúp
truyền tải niềm tin, hòa nhập văn hóa, văn minh và duy trì đạo đức xã hội. Nó
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Tôn giáo đã
đem lại cho mỗi quốc gia một lối ứng xử, phong tục, tập quán và yếu tố văn
hóa vật chất, tinh thần phong phú, đa dạng.
3. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”
Tam giáo đồng nguyên là ba tôn giáo, gồm Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo
cùng hòa vào làm một. Hiện tượng này phổ biến ở một số nước Á Đông, điển
hình là Trung Quốc và Việt Nam. Đào Hoằng Cảnh (456-536) là người đầu
3
tiên đề ra thuyết này với lý lẽ đơn giản rằng ba tôn giáo Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo đều cùng một nguồn gốc là đưa con người đến đỉnh cao của như ý
toại nguyện.
4. Sự xuất hiện của ba tôn giáo tại Việt Nam
4.1. Nho giáo
4.1.1. Khái quát về Nho giáo
“Nho” là danh hiệu chỉ những học sỹ. Nho giáo là hệ thống giáo lý của các
nhà Nho nhằm mục đích tổ chức xã hội có hiệu quả. Cơ sở hình thành, ra đời
của Nho giáo được định hình từ thời Tây Chu, đặc biệt là với sự đóng góp của
Chu Đông Hán. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn ly, Khổng Tử mới phát triển
tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa lại và tích cực truyền bá.
Nho giáo là một học thuyết chính trị. Để làm được điều đó, Nho giáo đào
tạo cho những người cai trị kiểu mẫu, lý tưởng đó là quân tử.
3
Về Tam giáo đồng nguyên của Trung Quốc - Học thuật phương Đông
2
Viện Triết học - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
1
Khoản 1 và 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016
4
4.1.2. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo từ thế kỉ I-X năm 1407-1427 thời kỳ hưng thịnh nhất nước
ta nằm trong tay của đế chế Trung Hoa . Du nhập vào Việt Nam không phải
4
Nho giáo nguyên thủy (mang màu sắc của phong kiến nhân quyền thời Khổng
Tử) Nho giáo của thời quân chủ chuyên chế (tập quyền) như Đường,
Tống, Minh. Bằng sự cưỡng chế, Nho giáo đã che lấp đời sống tinh thần của
người Việt che lấp các yếu tố tinh thần khác như Phật giáo văn hóa bản
địa. Vì vậy, Nho giáo là ý thức hệ đặc trưng của tầng lớp cai trị phong kiến.
4.1.3. Nho giáo trong xã hội Việt Nam
Trong thời kỳ đầu lập quốc, Nho giáo chưa tầm ảnh hưởng. Các nhà
Ngô, Đinh, trong buổi đầu của việc xây dựng nhà nước phong kiến, cùng
với việc bận rộn đánh đuổi giặc ngoài, bình giặc trong, nên việc cấp thiết
hơn việc văn, vậy nhà vua ít lưu tâm đến việc học (việc học lúc này do nhà
chùa đảm nhận). Giai đoạn này diễn ra cuộc chiến tranh căng thẳng giữa hai
tôn giáo Nho Phật, nhưng không ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau,
trái lại để tạo ra một sự thăng bằng trong đời sống tinh thần Việt Nam, đã
dẫn đến đặc trưng riêng có ở Việt Nam là “Tam giáo đồng nguyên”, đó là:
- Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội.
- Phật giáo chi phối con người về mặt tình cảm, tưởng tượng ước
nhân đạo.
- Đạo giáo chi phối con người về mặt ý chí khắc phục khó khăn trần thế
bằng phương thuật bí ẩn.
Thực tế , nhà nước sử dụng nhân tài từ Phật giáo, Đạo giáo Nho giáo.
Tập tục triều đình còn xa lạ với Nho giáo.
Đến khi nhà thành lập, tình hình chính trị trong nước ổn định lâu dài,
mới điều kiện mở mang học vấn. Học vấn đã trở thành một nhu cầu cấp
thiết để củng cố chính quyền, để tuyển lựa một số quan chức. Nho giáo đã
theo sự phát triển của việc học vươn lên dần dần. Đến năm 1070, sự kiện
nhà cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử thì thể xem Nho
giáo được tiếp nhận chính thức tại Việt Nam. Chính vậy, Nho giáo Việt
Nam chủ yếu Tống Nho (nhà tương ứng với nhà Tống Trung Hoa),
4
Đại cương về văn hóa Việt Nam - TS Phạm Thái Việt
5
chứ không phải Hán Nho, Đường Nho, Thanh Nho,... Trong khi đó, quần
chúng nhân dân vẫn theo Phật giáo, Đạo giáo, Song Phật giáo được tôn
sùng đến đâu, cố gắng nhập thế đến mức nào. Bản thân Phật giáo cũng
không phải là một đạo trị nước. Đạo giáo cũng vậy.
Nho giáo sự phát triển hơn thời Trần được dùng làm chính đạo.
Nhu cầu trị nước, nhu cầu trí tuệ ảnh hưởng của văn hóa các nước láng
giềng đã giúp Nho giáo chiếm ưu thế trong triều đình cùng hàng tri thức
với Phật giáo. Các khoa thi được tổ chức thường xuyên hơn trong giai đoạn
này. Năm 1236, Trần Thái Tông lập Quốc Tử viên dạy Ngũ kinh. Tứ thư cho
con con em các quý tộc. Năm 1253, Quốc học viên được thành lập, không
phải để cho thiếu niên mà để cho các nho sĩ đã có trình độ tới học tập.
Như thế, Phật giáo giảm sức ảnh hưởng còn Nho giáo thì ngày càng phát
triển cung cấp ngày càng đông tử cho nhà nước phong kiến. Tuy vậy đến
cuối thời Trần, Nho giáo vẫn chưa được người dân Việt chấp nhận.
Trong giai đoạn quân Minh xâm lược nước ta, chúng sử dụng những thủ
đoạn tàn độc nhằm thủ tiêu nền văn hóa Việt Nam. Năm 1407, vua Minh ra
lệnh cho Trương Phụ, Trần Húc thiêu hủy tất cả sách vở do người Việt Nam
viết, thiêu hủy cả bàn gỗ, dập nát các bia đá. Trong kháng chiến chống quân
Minh 10 năm (1418 - 1458), các nhà Nho Việt Nam đứng đầu Nguyễn Trãi
tập hợp, tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận.
4.2. Phật giáo
4.2.1. Khái quát về Phật giáo
Phật giáo ra đời từ thế kỉ VI trước công nguyên tại một vùng đất thuộc
phía Bắc Ấn Độ Dương (nay thuộc lãnh thổ Nepal). Người sáng lập ra Phật
giáo Thái tử Xidacta, pháp hiệu Thích ca Mâu ni. Toàn bộ tưởng, nội
5
dung được thể hiện trong ba cuốn kinh lớn Kinh tạng, Luật tạng Luận
tạng. Nói đến Phật giáo trước hết là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh .
Toàn bộ nội dung của Phật giáo được thể hiện ở ba cuốn kinh lớn:
- Kinh tạng: Bộ sách ghi lại những lời của Thích ca Mâu ni trước khi ông
còn sống.
5
Sự ra đời của Phật giáo - Báo Bình Phước
6
- Luật tạng: Bộ sách ghi lại những luật lệ, quy tắc khi gia nhập cộng
đồng Phật giáo.
- Luận tạng: Bộ sách do những nhà tường Phật giáo đời sau biên soạn,
chứa những lời bình luận.
4.2.2. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ sớm qua nhiều con đường
khác nhau . Theo tài liệu lịch sử, Phật giáo du nhập vào miền Bắc Việt Nam
6
bằng đường hải vào miền nam theo đường bộ. Luy Lâu (Bắc Ninh) thuộc
Giao Chỉ trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng. Trong thời kỳ Bắc
thuộc, Phật giáo được truyền vào Việt Nam dưới sự cai trị của phong kiến
Trung Hoa. Phật giáo bị thay đổi bản, trở nên thực dụng ít mang tính
chất siêu hình hơn, gần gũi rộng mở hơn với đời sống trần tục. Trong thời
dựng nước mở mang bờ cõi về phía Nam, Phật giáo hội phát triển
hơn bởi đại cư dân ở khu vực này đã là tín đồ của dòng Tiểu Thừa trước đó.
4.2.3. Phật giáo trong xã hội Việt Nam
7
Sự chấn hưng của Phật giáo đã tạo bước quan trọng của quan niệm hy sinh,
gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động chính trị hội, gắn ý thức dân tộc với
ý thức Phật giáo. Phật giáo đã tạo ra những phong trào lớn cho lịch sử Phật
giáo và lịch sử dân tộc thời ấy.
Phật giáo vào thời hậu mất thế đứng so với Nho giáo thế kỷ X-XIV
một thời kỳ cùng rạng rỡ; lợi muốn xây dựng một thể chế quân chủ
phong kiến, do vậy cần dùng học thuyết Nho gia để phát triển; Phật giáo bị
hạn chế từ kiến thiết, nghi lễ hoạt động hội. Tuy không còn tham chính
như xưa, Phật giáo vẫn truyền tải trong nhân gian qua tín ngưỡng từ bi, nhân
quả, luân hồi… Đến khi Nam-Bắc phân tranh, tình hình hội nhiều thay
đổi, Phật giáo hội phát triển nhờ triết thuyết nhân quả đủ để an ủi nhân
tâm giữa lúc phân ly loạn lạc nhiều thống khổ. Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà
nên xảy ra tranh chấp giữa nhà Mạc nhà suốt 60 năm, nhân dân đồ
thán; nhà nhờ họ Trịnh đánh dẹp nhà Mạc, sau đó giữa Trịnh Nguyễn
lại tiếp tục xảy ra tranh chấp suốt 2 thế kỷ làm hội rối ren, nhân dân đồ
7
Lịch sử Phật giáo và dân tộc Việt Nam
6
Đại cương về văn hóa Việt Nam - TS Phạm Thái Việt
7
thán. Tuy vậy, thời kỳ này Phật giáo lại phát triển khá tốt. Phật giáo thời này
không chỉ Phật giáo của giới thượng lưu quan quyền như thời Trần
mà là phật giáo xã hội hóa, bàng bạc khắp trong nhân gian làng xã.
Lợi chiến thắng giặc ngoại xâm lên ngôi vua, đã đánh dấu bước
chuyển quan trọng trong đời sống hội Việt Nam. Trên lĩnh vực tôn giáo,
Nho giáo đã thay thế chỗ đứng của Phật giáo. Nguyên nhân chủ yếu bắt
nguồn từ đời sống chính trị hội Việt Nam quy định, đó phải xây dựng
củng cố nhà nước phong kiến, kỷ cương hội, Nho giáo khả năng đáp
ứng được. Tuy nhiên Nho giáo chỉ sức ảnh hưởng chủ yếu tầng lớp trên
của hội, còn đại bộ phận dân tác động của Phật giáo khá lớn. Thời kỳ
này Phật giáo dung nạp 3 yếu tố: Tịnh, Thiền, Mật kết hợp cả tự độ, tự giác
giác tha. Bên cạnh đó nhà hạn chế tổ chức thi cử, một số lễ giáo, xây dựng
chùa chiền… thể nói vai trò Phật giáo thời hậu đã bị giảm sút so với
trước. Phật giáo không trực tiếp tham gia vào việc triều chính như trước
chủ yếu ảnh hưởng trong đời sống dân chúng.
Triều đình Nguyễn gặp nhiều phản đối, kháng cự của người dân không
được ủng hộ, vậy triều đình Nguyễn muốn lặp lại cấu tổ chức nhà
nước, đi đôi với các chính sách khắc, hạn chế đạo Phật, sãi…. Với
đạo Phật, triều Nguyễn đã lên án cả giáo hành đạo của Phật giáo. Song
Phật giáo vẫn sức ảnh hưởng ngay trong cung đình, trong gia đình triều
thần, trong các nho quan lại. Do vậy việc tu sửa chùa chiền thời này vẫn
được diễn ra. Phật giáo đã thấm sâu vào tưởng nhân dân, được quan hệ
làng lưu giữ, duy trì. Trong quan niệm của nhân dân, trong văn học đều
mang dấu ấn tư tưởng của Phật giáo.
Từ thời trở đi, Nho giáo trở thành quốc giáo của Việt Nam. Nho giáo
trở thành một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu chống Minh giải
phóng dân tộc. Năm 1428, Lợi lập Quốc Tử giám kinh thành nhiều
trường học các đạo. Năm 1483, Thánh Tôn xây dựng lại Văn Miếu
lập nhà Thái học vừa giảng đường, vừa thư viện nơi bảo quản các bản
in gỗ quan trọng. Tiếp đến năm 1480, Thánh Tôn dựng bia đá Văn Miếu,
ghi lý lịch các vị tiến sĩ từ khóa 1442 trở đi.
8
Sang thời Tây Sơn, Nho giáo tiếp tục được nhiều người đón nhận. Quang
Trung hạ chiếu yêu cầu Nguyễn Thiếp phải hướng việc học tập thi cử theo
phép của Chu Tử, đồng thời có kế hoạch biên soạn chữ Nôm.
Như vậy, suốt các thời Ngô, Đinh, sơ, Lý, Trần, Hậu Lê, Việt Nam
tâm giáo đều lưu hành, lúc suy thịnh, đấu tranh nhưng chưa hề chiến
tranh tôn giáo xảy ra như một số nước châu Á châu Âu. Trái lại, tôn giáo
đoàn kết với nhau chống giặc ngoại xâm.
4.3. Đạo giáo
4.3.1. Khái quát về Đạo giáo
Đạo giáo còn gọi Đạo Lão, Đạo gia hay thuyết Lão - Trang, được hình
thành trong phong trào nông dân khởi nghĩa vùng Nam Trung Hoa vào thế kỉ
II sau công nguyên, sở luận của ĐẠO GIA– triết thuyết do Lão Tử
đề xướng Trang tử hoàn thiện (học thuyết Lão-Trang). Đây học thuyết
chủ trương sống hòa hợp với thiên nhiên, phù hợp với Đạo (quy luật của trời
đất) để bảo tồn “cái tôi” của con người.
Đạo giáo một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song
song với Nho giáo Phật giáo. Ba truyền thống tưởng nội sinh (Nho-Lão)
ngoại nhập (Phật) này đã ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hoá Trung
Quốc. Tuy tồn tại nhiều điểm khác biệt nhưng ba tôn giáo này cộng hưởng
cùng nhau. Ảnh hưởng của Tam giáo trong lĩnh vực tôn giáo văn hoá vượt
khỏi biên giới Trung Quốc, được truyền đến các nước lân cận như Việt Nam,
Triều Tiên, Đài Loan và Nhật Bản.
4.3.2. Sự du nhập của Đạo giáo vào Việt Nam
Cuối thế kỉ thứ II, khi Trung Hoa đại lục trải qua nhiều cuộc bạo loạn,
chiến tranh khiến rất đông người phương Bắc chạy xuống phương Nam lánh
nạn. Trong số đó nhiều đạo Trung Hoa. Các tín ngưỡng bản địa môi
trường để Đạo giáo thâm nhập vào đời sống của dân Giao Chỉ. Chính sự
du nhập đó nên Đạo giáo một triết sống ít được người Việt Nam biết đến
mà chủ yếu được quan niệm như Đạo phù thủy hoặc bùa chú và pháp thuật.
8
4.3.3. Đạo giáo trong xã hội Việt Nam
8
Đại cương về văn hóa Việt Nam - TS Phạm Thái Việt
9
Thời kỳ Trần giai đoạn hưng thịnh của Đạo giáo Việt nam. Khi
đó, Đạo giáo du nhập vào cả chốn cung đình, đạo chức quan, tham gia
vào việc triều chính. Từ thời nhà Lý, các vua bắt đầu tổ chức các cuộc thi tam
giáo. Điều này giúp Đạo giáo trở nên phổ biến hơn so với lúc trước. Tuy đã
xâm nhập vào Đại Việt cũng được sự trọng thị của triều đình, Đạo giáo
không thu nhận nhiều người truyền giảng đạo như Phật giáo Nho giáo. Do
đó Đạo giáo thời Trần không những tín đồ thực sự, chỉ một số người tu
tiên và các thầy cúng cầu phúc trừ tà.
Từ đời (1428 1527) tới đời Nguyễn, Đạo giáo cung đình dần dần
bị Nho giáo bài xích khiến cho nhiều người tinh thông Đạo giáo phải gia nhập
Nho giáo để đi thi làm quan theo đường Nho; tưởng Đạo giáo phải ẩn vào
trong Phật giáo Nho giáo để tồn tại. Cũng như đạo Phật, bị triều đình
hạn chế khá chặt chẽ nhưng Đạo giáo vẫn phát triển trong đời sống tưởng
của nhân dân. Năm 1429, Thái Tổ đã làm sát hạch với các đạo sĩ, giống
như với các tăng để loại bỏ bớt những người không thực sự kiến thức về
Đạo giáo. Năm 1461, Thánh Tông ra lệnh cấm tự tiện xây chùa, cấm mở
đạo quán. các vua từ Thái Tổ đến Thánh Tông đề ra những biện pháp hạn
chế hoạt động Đạo giáo nhưng trên thực tế ngay cả trong cung đình, vẫn tồn
tại chi phối các nghi lễ cung đình. Cũng tương tự trong thời Nguyễn, theo
Phó giáo Nguyễn Duy Hinh viết trong cuốn “Văn Minh Đại Việt”
“Người Việt nam với Đạo giáo” thì đến đời Nguyễn, triều đình ra sức trấn áp
việc đồng bóng, bói toán, cấm xây dựng đạo quán mới . Tuy nhiên Đạo giáo
9
trong dân gian vẫn được duy trì. Tuy tồn tại nhiều cấm đoán, nhưng chính các
vua triều Nguyễn cũng ra lệnh xây dựng một số đền, đạo quán mới của Đạo
giáo .
10
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam thời phong kiến
11
Nhu cầu củng cố xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, thống nhất,
hùng mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa nhằm cố kết, thống nhất
sức mạnh toàn dân tộc để chống lại các cuộc xâm lăng của quân Tống thời
Lý, giặc Mông - Nguyên thời Trần đòi hỏi cần thống nhất sức mạnh vật chất
11
ThS. Nguyễn Thị Hiền - GV Khoa Xây dựng Đảng
10
Văn Minh Đại Việt – Nguyễn Duy Hinh
9
Người Việt Nam với Đạo giáo – Nguyễn Duy Hinh
10
tinh thần, thống nhất tưởng, hình thành sự dung hợp giữa yếu tố văn hoá
ngoại sinh với yếu tố văn hoá địa phương sự dung hợp giữa các yếu tố văn
hóa ngoại sinh đã được địa phương hóa với nhau.Ý thức dân tộc, lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng dân tộc, cùng với các yếu tố triết
học, tôn giáo, đạo đức, chính trị - hội của Phật giáo, Nho giáo Đạo giáo
đã trở thành những nhân tố tinh thần tiêu biểu ảnh hưởng đến đời sống tinh
thần xã hội thời kỳ này nói chung, đến tư tưởng chính trị nói riêng.
Chính vậy hình thành nên quan niệm “Tam giáo đồng nguyên”. Sự
dung hòa “Tam giáo” một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình
cảm việc làm của người dân đến thời kỳ - Trần thì được chính quyền
công nhận rộng rãi. Dung hòa “Tam giáo” không chỉ trong đời sống hội
của người dân tồn tại trên cả bộ phận bên trên tức bộ phận quý tộc phong
kiến.
Trước hết ta gặp sự dung hợp giữa từng hiện tượng văn hoá ngoại sinh
với văn hoá bản địa: Phật giáo với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên sinh. Việc
phụng thờ những hiện tượng tự nhiên đã từ rất sớm trong đời sống tâm linh
của người Việt cổ được tôn xưng thành các vị thần như: thần Mây, thần
Mưa, thần Sấm, thần Sét, thần Gió… Trong quá trình tồn tại phát triển, do
được Việt hóa khá mạnh nên chùa, ngoài việc thờ phụng những nhân vật
của Phật giáo, còn thờ thêm cả những nhân vật của riêng người Việt như các
vị Thần, Thánh… tiêu biểu như: Tứ Pháp (gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi, Pháp Điện); lối cấu trúc chùa chiền theo kiểu “tiền Phật hậu thần”...Nho
giáo vào Việt Nam cũng bị truyền thống coi trọng làng nước, tinh thần dân
chủ... làm biến đổi. Còn Đạo giáo vốn gần gũi với tín ngưỡng cổ truyền nên
khi vào Việt Nam, lại bị hoà lẫn đến mức nhiều khi không nhận ra sự tồn
tại của nó. Truyền thống hoà hợp với tự nhiên, thờ các vị thần tự nhiên, yếu tố
nữ được coi trọng… được phản ánh qua các tôn giáo rất rõ.
mức độ cao hơn sự dung hợp giữa các hiện tượng văn hoá ngoại sinh
đã được địa phương hoá với nhau. Sự dung hợp giữa Phật giáo với Đạo giáo
mối quan hệ lâu đời bền chặt nhất. Ngay từ thời kỳ chống Bắc thuộc, hai
tôn giáo này đã hoà quyện với nhau trong cuộc sống của người bình dân.
những nơi như đền Ngọc Sơn Nội, lúc chùa ( Phật giáo), lúc lại Đền
11
(Đạo giáo). Khá nhiều chùa ( Phật giáo) lại thờ các vị thần của Đạo giáo như
Nam Tào, Ngọc Hoàng, Bắc Đẩu, Quan Công... Thời Đinh- Lê- Lý- Trần,
nhiều nhà đồng thời đạo sĩ. Triều đình thì trọng dụng cả đạo lẫn nhà
sư. Thiền phái Trúc Lâm dung hợp tưởng Phật với triết sống tìm về thiên
nhiên của Lão-Trang.
Phật giáo Nho giáo cũng quan hệ lâu đời. Do ảnh hưởng Phật giáo
từ Trung Hoa đã dần thay thế cho việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn Độ, cho nên
các nhà muốn đọc kinh Phật phải biết đọc chữ Hán do vậy dễ hiểu
không ít nhà khá tinh thông Nho học. Thời Đinh- Lê- –Trần nhiều
trường hợp tài đối đáp cùng vốn tri thức uyên thâm của các nhà Việt Nam
khiến các sứ thần Trung Hoa nể trọng. Thiền Phái Thảo Đường do thiền
Thảo Đường sáng lập năm 1069 dưới thời Nhà sự dung hợp triết Phật
giáo với tưởng Nho giáo, không phải ngẫu nhiên phái này nhiều vua
quan đương nhiệm quy y hơn cả.
Sự dung hợp tam giáo một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong
tình cảm việc làm của người dân, đến thời Lý- Trần thì được chính quyền
công nhận rộng rãi. Triều đình tổ chức những kỳ thi tam giáo để tìm ra những
người thông thạo cả ba giáo lý ra giúp nước (vào các năm 1195 và 1247).
Người Việt Nam nhận ra rằng Tam giáo mới trông thì khác nhau nhưng
nhìn kỹ thì thấy nhiều khi chỉ những cách diễn đạt khác nhau về cùng một
khái niệm. khi những phạm trù khác nhau, những biện pháp khác nhau
nhằm đến cùng một mục đích, những cái dụng khác nhau của cùng một thể.
Cái khác nhau ấy không mâu thuẫn đối chọi nhau bổ sung hỗ trợ cho
nhau: Nho giáo lo tổ chức hội sao cho quy củ; Đạo giáo lo thể xác con
người sao cho mạnh khoẻ; Phật giáo lo cho tâm tính con người sao cho thoát
khổ.
Bởi vậy người dân cầu đến cả ba tôn giáo, họ sử dụng kết hợp chúng
theo giới tính, theo các giai đoạn theo cuộc đời. Phụ nữ âm tính hơn thiên về
Phật, đàn ông dương tính hơn thiên về Nho. Cùng một người Việt Nam, khi
trai trẻ thì ra sức học Nho để giúp nước, khi khổ ải trầm luân thì cầu khấn
Phật trời phù hộ, khi ốm đau già yếu thì mời đạo trị bệnh trừ hoặc tập
luyện dưỡng khí an thần. Không chỉ trong một đời, ngay trong một ngày
12
cũng thể gặp biểu hiện của ba tôn giáo nơi một con người. Hơn thế nữa,
người bình dân cũng chẳng cần biết đến Nho giáo, gần gũi đối với họ trước
hết tín ngưỡng bản địa quen thuộc của dân nông nghiệp với truyền thống
trọng phụ nữ, đạo Thánh Mẫu, sau nữa Phật giáo Đạo giáo. Thế hình
thành một thứ “Tam giáo” bình dân, hoà quyện Đạo Phật, Đạo Lão Đạo
Thánh Mẫu. Như vậy, sự dung hợp diễn ra không chỉ giữa từng tôn giáo ngoại
sinh với tín ngưỡng bản địa, giữa các tôn giáo ngoại sinh đã được địa phương
hoá với nhau.
“Tam giáo đồng nguyên” Việt Nam thời kỳ - Trần đã tạo nên được
sự ổn định, một sự nhất trí trong hội Việt Nam đương thời. Đây một thời
kỳ văn hoá Việt Nam được bồi bổ xây dựng thêm những nhân tố mới
khiến cho nền văn hoá dân tộc càng phong phú đặc sắc hơn. Cả ba tôn giáo
Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều những tôn giáo phiến thần tôn trọng tín
ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên, phù hợp với hội nông nghiệp với tín
ngưỡng phồn thực rất đậm, cho nên nó dễ dàng hoà bình tồn tại với nhau.
B. Sự tồn tại của “Tam giáo đồng nguyên” trong hội Việt Nam ngày
nay
I. Ba tôn giáo trong xã hội Việt Nam ngày nay
1. Nho giáo
Việt Nam tuy lấy chủ nghĩa Mác-Lenin tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng để Đảng Cộng sản lãnh đạo nước, song không loại trừ các học thuyết
triết học chính trị hội khác như Nho học, lợi cho sự phát triển ổn
định của đất nước. Còn các nước bản chủ nghĩa thì từ trước đến nay vẫn
chủ trương đa nguyên luận đa nguyên văn hóa tưởng. Do đó Nho học
vẫn do tiếp tục phát triển tác động đến con người khu vực này. Sự
tồn tại của Nho học ngày nay không chỉ do điều kiện khách quan tạo nên
con do ý thức chủ quan, sự tự giác của con người trong ngoài khu vực. Con
người ngày nay tuy mức sống vật chất cao hơn, đời sống tinh thần phong phú,
đa dạng hơn rất nhiều, song đối mặt với hội hiện đại, vẫn còn một số lượng
đông đảo nhớ tới tư tưởng, đạo đức, lối sống của Nho học.
13
Nho học đã để lại cho các nước Đông Á, trong đó Việt Nam một di sản
tinh thần đồ sộ như văn học, kinh dịch, sử liệu, tưởng, nghi thức, tập tục,
thói quen,... thể hiện lên trình độ văn hóa phát triển các dân tộc đó tích lũy
trong mấy nghìn năm.
2. Phật giáo
Mặc dù, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định lấy chủ nghĩa Mác Lênin
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tưởng luận, tuy nhiên, do sự
tồn tại lâu đời tình nhiều quan điểm của đạo Phật cũng đã bén rễ trong
đời sống chính trị của Việt Nam. Nhiều quan điểm của đạo Phật được hiện
thực hóa trong một số chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Phật giáo tuy không tác động trực tiếp việc định hướng phát triển kinh
tế hội mỗi địa phương chỉ những yếu tố góp phần khai sáng mặt
nhận thức của người dân. mục đích của Phật giáo xây dựng đời sống an
lạc giải thoát, nhưng muốn an lạc thì đời sống kinh tế phải vững mạnh,
phát triển, hài hòa. Hiểu được lời dạy của phật thì đồng bào một số nơi sẽ
tránh được những hủ tục lạc hậu, tốn kém nhưng giết trâu, mổ để cưới xin,
ma chay hay cúng giàng, cúng thần linh, ma quỷ. Khi tiền rồi thì cần biết
tiết kiệm (tích cốc phòng cơ) để đề phòng những tình huống khẩn cấp xảy ra.
Phật giáo chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, đạo đức. Những giá trị này
đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền văn hóa mỗi quốc gia dừng chân.
Với văn hóa Việt Nam cũng vậy. Nhờ Phật giáo, nền văn hóa Việt Nam
càng thể hiện rõ hơn sự đa dạng, đặc sắc của mình.
3. Đạo giáo
Ngày nay, người ta nói về Đạo giáo với cách một tôn giáo không còn
tồn tại nữa, tuy nhiên, những phong tục mang tưởng của tôn giáo này vẫn
còn tồn tại cùng với con người Việt Nam đến tận bây giờ. dụ điển hình
việc xem phong thủy, như đối với một số người, việc này cùng quan trọng,
khi làm chuyện lớn như mua một căn nhà, cho đến việc nhỏ nhặt như đặt một
thứ đồ nội thất đâu, họ đều mời thầy phong thủy đến xem vấn, bởi họ
14
tin, những chuyện đó thể làm ảnh hưởng đến những chuyện lớn hơn như
sức khỏe, tiền tài, danh vọng… Hoặc những người tin rằng nhân tướng
thể quyết định được số phận cuộc đời sau này, nên họ học xem tướng, chọn
tin rằng số phận cuộc đời của họ đã được định đoạt sẵn không thể thay đổi
- mà họ cũng không muốn thay đổi.
Tuy nhiên hầu hết những thứ thần tiên, phù thủy Đạo giáo hướng đến
không còn tồn tại nhiều trong đời sống hiện đại nữa. Người Việt Nam, nhất
những người trẻ, chỉ coi những điều đó như một phần của đời sống văn hóa
tinh thần, chứ không tìm thấy sự liên hệ nhiều giữa những tưởng của Đạo
giáo với hiện thực. Họ những người trẻ, năng động, mang khát khao thay
đổi thế giới, không tin vào học thuyết vi hay tưởng không muốn thay
đổi vì sợ ảnh hưởng đến sự vận hành của vũ trụ nữa.
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay
“Tam giáo đồng nguyên” đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình đất
nước ta hội nhập toàn cầu và vươn lên phát triển.
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, các nền văn hóa ngày càng nhiều
hội giao lưu, giao thoa văn hóa trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chính
vậy, văn hóa được coi như “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia, dân tộc .
12
Với nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng nguyên”, dân tộc Việt Nam tự hào gìn
giữ được bản sắc dân tộc với nhiều nét đẹp truyền thống vốn có, đồng thời
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt chặng đường vươn ra biển thế
giới, khẳng định được vị thế của nước nhà trên trường quốc tế.
“Tam giáo đồng nguyên” giúp Việt Nam tiếp cận gần gũi hơn với bạn
quốc tế. Đối với các nước đồng văn, đây điều kiện thuận lợi để chính phủ
nhân dân hai nước giao lưu thuận lợi, với nhiều điểm tương đồng trong văn
hóa, hệ tưởng, tôn giáo. Điều này tương tự với các quốc gia phần đông
dân số theo Phật giáo như các nước cùng khu vực Đông Nam Á hay Nam Á.
Đối với các quốc gia còn lại, nền văn hóa không nhiều nét tương đồng,
song “Tam giáo đồng nguyên” đã tạo cho mỗi người Việt Nam nền tảng phẩm
chất, đạo đức hệ tưởng tiến bộ, tốt đẹp, truyền thống, giàu bản sắc dân
tộc trên mỗi bước đi hội nhập, giao lưu cùng thế giới.
12
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
15
Bên cạnh những yếu tố trên, “Tam giáo đồng nguyên” hướng tâm con
người Việt Nam đến những điều thiện lành, với những hệ tưởng tốt đẹp
trong đời sống, hội. Chính điều này đã đưa Việt Nam trở thành một trong
những quốc gia thân thiện nhất, chỉ số hạnh phúc cao nhất. Những nụ cười
người Việt Nam trao cho bạn quốc tế đã làm cảm mến họ biết bao, đồng
thời hình ảnh Việt Nam hạnh phúc, thân thiện với nụ cười đã trở thành đề tài ý
nghĩa nóng hổi trên nhiều diễn đàn quốc tế.
Quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới đặt ra nhiều thách thức, không
chỉ về gìn giữ bản sắc riêng còn giữ vững nền độc lập, tự chủ, bảo vệ
chủ quyền Tổ quốc, đảm bảo hòa bình khu vực mối quan hệ tốt đẹp, thân
thiện với các quốc gia khác. Chính những tưởng trong “Tam giáo đồng
nguyên” của riêng Việt Nam trở thành sở vững chắc để xây dựng củng
cố “tinh thần Đại Việt” độc lập tự chủ, “phi Hoa, phi Ấn”, khác biệt với Đông
Nam Á về văn hóa, truyền thống nhưng vẫn hài hòa với các quốc gia khác .
13
Thực tế lịch sử đã minh chứng nét, từ thế kỷ XV khi nhân dân Đại Việt lấy
chí nhân, đại nghĩa để tha thứ đưa giặc Minh về nước khiến chúng cay
đắng thất bại cũng phải cảm kích. Trong suốt thế kỷ XX, Việt Nam ta cũng đã
đánh tan những kẻ thù sừng sỏ tiếng toàn cầu như thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ quân Trung Quốc gây chiến tranh xâm lược đất nước ta, ấy vậy chỉ đến
cuối những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã thiết lập lại quan hệ ngoại
giao với các quốc gia này. Cũng nhờ ảnh hưởng từ “Tam giáo đồng nguyên”,
đường lối đối ngoại của Việt Nam luôn xoay quanh những yếu tố như “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, chủ quyền đất liền biển đảo, luôn đặt lợi ích dân tộc
trên hết, trước hết, độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát
triển, đa phương hóa, đa dạng hóa hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng.
Ngày nay, nước ta, Cộng hòa hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia vùng lãnh thổ, trong đó thiết lập quan
hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với ba nước lớn, quan hệ Đối tác Chiến lược
quan hệ Đối tác Toàn diện với gần 30 quốc gia. Năm 2019, Việt Nam cũng
trúng cử vị trí Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
với số phiếu bầu kỷ lục chưa từng 192/193, chứng tỏ vị thế nước nhà
13
Di sản văn hóa trong thời đại của chúng ta - Tạp chí điện tử Thế giới Di sản
16
mối quan hệ của nước ta với các quốc gia khác. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng
được giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức khu vực, thế giới, được
chọn là địa điểm tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2,...
Nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng nguyên” đã tạo điều kiện cho nước ta
hội nhập sâu rộng với quốc tế. Điều này dẫn tới nhiều hội to lớn, tác động
mạnh mẽ đến động lực công nghiệp hóa-hiện đại hóa của nước ta. Trước hết,
Việt Nam hội tiếp cận, giao lưu học hỏi khoa học công nghệ, từ đó
ứng dụng trong đời sống, sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng
nhu cầu yêu cầu về nhân lực, tài lực vật lực phụng sự cho sự nghiệp
phát triển của Tổ quốc. Không chỉ vậy, Việt Nam còn ngày càng trở nên hấp
dẫn hơn với các nhà đầu quốc tế. FDI của Việt Nam năm 2019 (trước đại
dịch Covid-19) đạt trên 38 tỷ USD, gấp đôi năm 2012, trong đại dịch,
nguồn FDI xu hướng giảm nhẹ theo tình hình chung nhưng các chuyên gia
vẫn đánh giá rất cao tiềm năng Việt Nam. Quan hệ thương mại của nước ta
đối với các quốc gia trên thế giới cũng phát triển nhanh chóng, trở thành đối
tác tin cậy của thế giới đối tác lớn, quan trọng trong chính sách của
nhiều quốc gia như Mỹ, Trung Quốc,...
Cốt lõi hơn nữa, “Tam giáo đồng nguyên” tạo cho người Việt Nam những
mục tiêu phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp, trong đó tinh thần dân tộc,
chủ nghĩa ái quốc, đức tính siêng năng cần cù, chịu khó, dũng cảm, sáng tạo,
đoàn kết, tương thân tương ái. Đảng Nhà nước cũng vận dụng nhiều yếu tố
trong “Tam giáo đồng nguyên” khi thực thi các chính sách kinh tế, hội;
đồng thời các lãnh đạo, cán bộ Đảng, Nhà nước, quân đội, công an luôn đề
cao tưởng trung với Đảng, hiếu với dân, từ đó được một hội ổn định,
phát triển, nhân dân đặt niềm tin tưởng, yên tâm lớn lao vào đường lối chính
sách.
Chính vậy, người Việt Nam thích nghi tốt với thời kỳ đổi mới, sáng tạo,
học hỏi vận dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, thúc đẩy thành công
tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước sau 35 năm Đổi Mới, đi lên
theo con đường chủ nghĩa hội. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo, Việt
Nam cần tiếp tục giáo dục vận dụng linh hoạt “Tam giáo đồng nguyên” để
đạt được mục tiêu chiến lược đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng:
17
Năm 2025 vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến 2030, kỷ niệm 100
năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nước ta trở thành nước phát
triển, thu nhập cao .
14
14
Nghị quyết Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam
18
KÉT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu lý luận và phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn
của vấn đề “Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời phong kiến và
sự tồn tại của nó trong xã hội Việt Nam ngày nay” có thể thấy: Tôn giáo là
một sản phẩm tinh thần tâm linh của con người. Sự dung hòa “Tam giáo” là
một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình cảm và việc làm của
người dân và đến thời kỳ Lý - Trần thì được chính quyền công nhận rộng rãi.
Dung hòa “Tam giáo” không chỉ trong đời sống xã hội của người dân mà tồn
tại trên cả bộ phận bên trên tức bộ phận quý tộc phong kiến. “Tam giáo đồng
nguyên” đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình đất nước ta hội nhập
toàn cầu và vươn lên phát triển. Với nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng
nguyên”, dân tộc Việt Nam tự hào gìn giữ được bản sắc dân tộc với nhiều nét
đẹp truyền thống vốn có, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong
suốt chặng đường vươn ra biển thế giới, khẳng định được vị thế của nước nhà
trên trường quốc tế. “Tam giáo đồng nguyên” còn đưa Việt Nam tiếp cận gần
gũi hơn với bạn bè quốc tế.
Qua đây, tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, dân tộc
Việt Nam cần bảo tồn những nền văn hóa tôn giáo vốn có. Tập trung nâng cao
nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn
xã hội về vấn đề tôn giáo. Trong đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà
nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà
tu hành và tín đồ các tôn giáo. Thông qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa
những người có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa
những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Đồng thời, tạo cơ sở để
đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt động mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn
giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc dân tộc và nhân dân. Thứ hai, cần phân
biệt rõ đâu là hủ tục, đâu là điểm mạnh cần phát huy của những tôn giáo để từ
đó tạo tiền đề phát triển xã hội, đất nước. Không phải tất cả những sản phẩm
nảy sinh từ các tôn giáo đều mang ý nghĩa tích cực, đã có một số hoạt động
không còn phù hợp trong thời đại ngày nay. Vì vậy, Nhà nước cần tỉnh táo,
sáng suốt lựa chọn và sẵn sàng loại bỏ những tập tục ảnh hưởng tiêu cực đến
19
| 1/22

Preview text:

MỤC LỤC STT Nội dung Trang 1
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………… 2
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………… 2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………… 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………. 3
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………… 3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài……………………………………... 3 2
NỘI DUNG……………………………………………………………………….. 4
A.Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời phong kiến I.
Khái quát về “Tam giáo đồng nguyên”.......................................................... 4
1. Khái niệm về tôn giáo……………………………………………………… 4
2. Vai trò của tôn giáo………………………………………………………… 4
3. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”............................................................. 4
4. Sự xuất hiện của ba tôn giáo tại Việt Nam…………………………………. 4
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam thời phong kiến…………… 11
B. Sự tồn tại của “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay
I. I. Ba tôn giáo trong xã hội Việt Nam ngày nay………………………………….. 14
1. Nho giáo……………………………………………………………………. 14
2. Phật giáo…………………………………………………………………… 15
3. Đạo giáo……………………………………………………………………. 15
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay………………….. 16 3
KẾT LUẬN……………………………………………………………………... 19 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………... 21 1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn phát triển ngày nay với sự xuất hiện của văn hóa hội
nhập, nhiều yếu tố văn hóa được du nhập vào Việt Nam và tồn tại cùng với
văn hóa truyền thống, đã và đang biến đổi sâu sắc theo xu hướng mai một bản
sắc, ý thức về việc giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc trong bộ phận lớp trẻ
ngày một yếu đi. Sự du nhập và chạy theo các trào lưu văn hóa mới đã và
đang làm cho giá trị đạo đức xã hội ngày một pha tạp. Do vậy, việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng không chỉ
của Đảng, Nhà nước mà là mọi thành phần xã hội, trong đó có các tổ chức tôn
giáo. Trong nhiệm vụ này việc đưa tôn giáo vào cùng tham gia thực hiện là vấn đề cần tính đến
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, các nền văn hóa ngày càng có nhiều
cơ hội giao lưu, và giao thoa văn hóa trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chính
vì vậy, văn hóa được coi như “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia, dân tộc. Với
nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng nguyên”, dân tộc Việt Nam tự hào gìn giữ
được bản sắc dân tộc với nhiều nét đẹp truyền thống vốn có, đồng thời tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt chặng đường vươn ra biển thế giới,
khẳng định được vị thế của nước nhà trên trường quốc tế.
Từ những lý do nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Tam giáo đồng nguyên
trong xã hội Việt Nam thời phong kiến và sự tồn tại của nó trong xã hội
Việt Nam ngày nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích
- Phân tích, nhận định tầm quan trọng và vai trò của Tam giáo đồng
nguyên trong xã hội Việt Nam.
- Phát hiện ra những mặt tích cực, hạn chế của Tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam.
- Một số đề xuất, kiến nghị trong việc vận dụng Tam giáo đồng nguyên
vào cuộc sống và quản lý xã hội ở nước ta. 2.2. Nhiệm vụ 2
Phân tích, trình bày, lấy dẫn chứng về những nội dung biểu hiện của “Tam
giáo đồng nguyên” ở Việt Nam trong xã hội phong kiến và hiện nay. Từ đó
nêu ra những đề xuất và biện pháp khắc phục trong việc nghiên cứu vấn đề nêu trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về “Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời
phong kiến và sự tồn tại của nó trong xã hội Việt Nam ngày nay”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Tại Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Trong xã hội phong kiến và xã hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật với các phương pháp như: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, khái quát và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa lý luận
Tùy theo cách nhìn nhận vấn đề “Tam giáo đồng nguyên” mà có những cách
hiểu và cách giải quyết khác nhau. Do vậy, khi nghiên cứu tôi cố gắng nhìn
nhận từ nhiều góc độ khác nhau để thấy được những đặc trưng và sức ảnh
hưởng của ba tôn giáo trong Tam giáo đồng nguyên trong xã hội phong kiến
và xã hội Việt Nam hiện nay. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Tổng quát, đánh giá chung “Tam giáo đồng nguyên” đang diễn ra như thế nào tại Việt Nam.
- Phân tích vai trò và ảnh hưởng của “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay.
- Vận dụng những vai trò, tính chất của từng tôn giáo để phát triển văn hóa và xã hội Việt Nam. 3 NỘI DUNG
A. Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời phong kiến
I. Khái quát về “Tam giáo đồng nguyên”
1. Khái niệm về tôn giáo
Tôn giáo1 là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt
động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. 2. Vai trò của tôn giáo2
Tôn giáo được coi là một tài sản văn hóa của nhân loại. Tôn giáo giúp
truyền tải niềm tin, hòa nhập văn hóa, văn minh và duy trì đạo đức xã hội. Nó
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Tôn giáo đã
đem lại cho mỗi quốc gia một lối ứng xử, phong tục, tập quán và yếu tố văn
hóa vật chất, tinh thần phong phú, đa dạng.
3. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”
Tam giáo đồng nguyên là ba tôn giáo, gồm Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo
cùng hòa vào làm một. Hiện tượng này phổ biến ở một số nước Á Đông, điển
hình là Trung Quốc và Việt Nam. Đào Hoằng Cảnh (456-536)3 là người đầu
tiên đề ra thuyết này với lý lẽ đơn giản rằng ba tôn giáo Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo đều cùng một nguồn gốc là đưa con người đến đỉnh cao của như ý toại nguyện.
4. Sự xuất hiện của ba tôn giáo tại Việt Nam 4.1. Nho giáo
4.1.1. Khái quát về Nho giáo
“Nho” là danh hiệu chỉ những học sỹ. Nho giáo là hệ thống giáo lý của các
nhà Nho nhằm mục đích tổ chức xã hội có hiệu quả. Cơ sở hình thành, ra đời
của Nho giáo được định hình từ thời Tây Chu, đặc biệt là với sự đóng góp của
Chu Đông Hán. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn ly, Khổng Tử mới phát triển
tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa lại và tích cực truyền bá.
Nho giáo là một học thuyết chính trị. Để làm được điều đó, Nho giáo đào
tạo cho những người cai trị kiểu mẫu, lý tưởng đó là quân tử.
1 Khoản 1 và 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016
2 Viện Triết học - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
3 Về Tam giáo đồng nguyên của Trung Quốc - Học thuật phương Đông 4
4.1.2. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo từ thế kỉ I-X và năm 1407-1427 là thời kỳ hưng thịnh nhất vì nước
ta nằm trong tay của đế chế Trung Hoa .4 Du nhập vào Việt Nam không phải
Nho giáo nguyên thủy (mang màu sắc của phong kiến nhân quyền thời Khổng
Tử) mà là Nho giáo của thời quân chủ chuyên chế (tập quyền) như Đường,
Tống, Minh. Bằng sự cưỡng chế, Nho giáo đã che lấp đời sống tinh thần của
người Việt và che lấp các yếu tố tinh thần khác như Phật giáo và văn hóa bản
địa. Vì vậy, Nho giáo là ý thức hệ đặc trưng của tầng lớp cai trị phong kiến.
4.1.3. Nho giáo trong xã hội Việt Nam
Trong thời kỳ đầu lập quốc, Nho giáo chưa có tầm ảnh hưởng. Các nhà
Ngô, Đinh, Lê trong buổi đầu của việc xây dựng nhà nước phong kiến, cùng
với việc bận rộn đánh đuổi giặc ngoài, bình giặc trong, nên việc võ cấp thiết
hơn việc văn, vì vậy nhà vua ít lưu tâm đến việc học (việc học lúc này do nhà
chùa đảm nhận). Giai đoạn này diễn ra cuộc chiến tranh căng thẳng giữa hai
tôn giáo Nho và Phật, nhưng không ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau,
mà trái lại để tạo ra một sự thăng bằng trong đời sống tinh thần Việt Nam, đã
dẫn đến đặc trưng riêng có ở Việt Nam là “Tam giáo đồng nguyên”, đó là:
- Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội.
- Phật giáo chi phối con người về mặt tình cảm, tưởng tượng và ước mơ nhân đạo.
- Đạo giáo chi phối con người về mặt ý chí khắc phục khó khăn trần thế
bằng phương thuật bí ẩn.
Thực tế , nhà nước sử dụng nhân tài từ Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.
Tập tục triều đình còn xa lạ với Nho giáo.
Đến khi nhà Lý thành lập, tình hình chính trị trong nước ổn định lâu dài,
mới có điều kiện mở mang học vấn. Học vấn đã trở thành một nhu cầu cấp
thiết để củng cố chính quyền, để tuyển lựa một số quan chức. Nho giáo đã
theo sự phát triển của việc học mà vươn lên dần dần. Đến năm 1070, sự kiện
nhà Lý cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử thì có thể xem là Nho
giáo được tiếp nhận chính thức tại Việt Nam. Chính vì vậy, Nho giáo ở Việt
Nam chủ yếu là Tống Nho (nhà Lý tương ứng với nhà Tống ở Trung Hoa),
4 Đại cương về văn hóa Việt Nam - TS Phạm Thái Việt 5
chứ không phải Hán Nho, Đường Nho, Thanh Nho,... Trong khi đó, quần
chúng nhân dân vẫn theo Phật giáo, Đạo giáo, Song Phật giáo dù được tôn
sùng đến đâu, dù cố gắng nhập thế đến mức nào. Bản thân Phật giáo cũng
không phải là một đạo trị nước. Đạo giáo cũng vậy.
Nho giáo có sự phát triển hơn ở thời Trần và được dùng làm chính đạo.
Nhu cầu trị nước, nhu cầu trí tuệ và ảnh hưởng của văn hóa các nước láng
giềng đã giúp Nho giáo chiếm ưu thế trong triều đình và cùng hàng tri thức
với Phật giáo. Các khoa thi được tổ chức thường xuyên hơn trong giai đoạn
này. Năm 1236, Trần Thái Tông lập Quốc Tử viên dạy Ngũ kinh. Tứ thư cho
con con em các quý tộc. Năm 1253, Quốc học viên được thành lập, không
phải để cho thiếu niên mà để cho các nho sĩ đã có trình độ tới học tập.
Như thế, Phật giáo giảm sức ảnh hưởng còn Nho giáo thì ngày càng phát
triển và cung cấp ngày càng đông sĩ tử cho nhà nước phong kiến. Tuy vậy đến
cuối thời Trần, Nho giáo vẫn chưa được người dân Việt chấp nhận.
Trong giai đoạn quân Minh xâm lược nước ta, chúng sử dụng những thủ
đoạn tàn độc nhằm thủ tiêu nền văn hóa Việt Nam. Năm 1407, vua Minh ra
lệnh cho Trương Phụ, Trần Húc thiêu hủy tất cả sách vở do người Việt Nam
viết, thiêu hủy cả bàn gỗ, dập nát các bia đá. Trong kháng chiến chống quân
Minh 10 năm (1418 - 1458), các nhà Nho Việt Nam đứng đầu là Nguyễn Trãi
tập hợp, tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận. 4.2. Phật giáo
4.2.1. Khái quát về Phật giáo
Phật giáo ra đời từ thế kỉ VI trước công nguyên tại một vùng đất thuộc
phía Bắc Ấn Độ Dương (nay thuộc lãnh thổ Nepal). Người sáng lập ra Phật
giáo là Thái tử Xidacta, pháp hiệu là Thích ca Mâu ni.5 Toàn bộ tư tưởng, nội
dung được thể hiện trong ba cuốn kinh lớn là Kinh tạng, Luật tạng và Luận
tạng. Nói đến Phật giáo trước hết là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh .
Toàn bộ nội dung của Phật giáo được thể hiện ở ba cuốn kinh lớn:
- Kinh tạng: Bộ sách ghi lại những lời của Thích ca Mâu ni trước khi ông còn sống.
5 Sự ra đời của Phật giáo - Báo Bình Phước 6
- Luật tạng: Bộ sách ghi lại những luật lệ, quy tắc khi gia nhập cộng đồng Phật giáo.
- Luận tạng: Bộ sách do những nhà tư tường Phật giáo đời sau biên soạn,
chứa những lời bình luận.
4.2.2. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ sớm và qua nhiều con đường
khác nhau .6 Theo tài liệu lịch sử, Phật giáo du nhập vào miền Bắc Việt Nam
bằng đường hải và vào miền nam theo đường bộ. Luy Lâu (Bắc Ninh) thuộc
Giao Chỉ trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng. Trong thời kỳ Bắc
thuộc, Phật giáo được truyền vào Việt Nam dưới sự cai trị của phong kiến
Trung Hoa. Phật giáo bị thay đổi cơ bản, trở nên thực dụng và ít mang tính
chất siêu hình hơn, gần gũi và rộng mở hơn với đời sống trần tục. Trong thời
kì dựng nước và mở mang bờ cõi về phía Nam, Phật giáo có cơ hội phát triển
hơn bởi đại cư dân ở khu vực này đã là tín đồ của dòng Tiểu Thừa trước đó.
4.2.3. Phật giáo trong xã hội Việt Nam7
Sự chấn hưng của Phật giáo đã tạo bước quan trọng của quan niệm hy sinh,
gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động chính trị xã hội, gắn ý thức dân tộc với
ý thức Phật giáo. Phật giáo đã tạo ra những phong trào lớn cho lịch sử Phật
giáo và lịch sử dân tộc thời ấy.
Phật giáo vào thời hậu Lê mất thế đứng so với Nho giáo mà thế kỷ X-XIV
là một thời kỳ vô cùng rạng rỡ; Lê lợi muốn xây dựng một thể chế quân chủ
phong kiến, do vậy cần dùng học thuyết Nho gia để phát triển; Phật giáo bị
hạn chế từ kiến thiết, nghi lễ và hoạt động xã hội. Tuy không còn tham chính
như xưa, Phật giáo vẫn truyền tải trong nhân gian qua tín ngưỡng từ bi, nhân
quả, luân hồi… Đến khi Nam-Bắc phân tranh, tình hình xã hội có nhiều thay
đổi, Phật giáo có cơ hội phát triển nhờ triết thuyết nhân quả đủ để an ủi nhân
tâm giữa lúc phân ly loạn lạc nhiều thống khổ. Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà
Lê nên xảy ra tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê suốt 60 năm, nhân dân đồ
thán; nhà Lê nhờ họ Trịnh đánh dẹp nhà Mạc, sau đó giữa Trịnh và Nguyễn
lại tiếp tục xảy ra tranh chấp suốt 2 thế kỷ làm xã hội rối ren, nhân dân đồ
6 Đại cương về văn hóa Việt Nam - TS Phạm Thái Việt
7 Lịch sử Phật giáo và dân tộc Việt Nam 7
thán. Tuy vậy, thời kỳ này Phật giáo lại phát triển khá tốt. Phật giáo thời này
không chỉ là Phật giáo của giới thượng lưu quan quyền như thời Lê Lý Trần
mà là phật giáo xã hội hóa, bàng bạc khắp trong nhân gian làng xã.
Lê Lợi chiến thắng giặc ngoại xâm và lên ngôi vua, đã đánh dấu bước
chuyển quan trọng trong đời sống xã hội Việt Nam. Trên lĩnh vực tôn giáo,
Nho giáo đã thay thế chỗ đứng của Phật giáo. Nguyên nhân chủ yếu bắt
nguồn từ đời sống chính trị xã hội Việt Nam quy định, đó là phải xây dựng
củng cố nhà nước phong kiến, kỷ cương xã hội, mà Nho giáo có khả năng đáp
ứng được. Tuy nhiên Nho giáo chỉ có sức ảnh hưởng chủ yếu ở tầng lớp trên
của xã hội, còn ở đại bộ phận dân cư tác động của Phật giáo khá lớn. Thời kỳ
này Phật giáo dung nạp 3 yếu tố: Tịnh, Thiền, Mật kết hợp cả tự độ, tự giác và
giác tha. Bên cạnh đó nhà Lê hạn chế tổ chức thi cử, một số lễ giáo, xây dựng
chùa chiền… Có thể nói vai trò Phật giáo thời hậu Lê đã bị giảm sút so với
trước. Phật giáo không trực tiếp tham gia vào việc triều chính như trước mà
chủ yếu ảnh hưởng trong đời sống dân chúng.
Triều đình Nguyễn gặp nhiều phản đối, kháng cự của người dân vì không
được ủng hộ, vì vậy mà triều đình Nguyễn muốn lặp lại cơ cấu tổ chức nhà
nước, đi đôi với nó là các chính sách hà khắc, hạn chế đạo Phật, sư sãi…. Với
đạo Phật, triều Nguyễn đã lên án cả giáo lý và hành đạo của Phật giáo. Song
Phật giáo vẫn có sức ảnh hưởng ngay trong cung đình, trong gia đình triều
thần, trong các nho sĩ quan lại. Do vậy việc tu sửa chùa chiền thời này vẫn
được diễn ra. Phật giáo đã thấm sâu vào tư tưởng nhân dân, nó được quan hệ
làng xã lưu giữ, duy trì. Trong quan niệm của nhân dân, trong văn học đều
mang dấu ấn tư tưởng của Phật giáo.
Từ thời Lê trở đi, Nho giáo trở thành quốc giáo của Việt Nam. Nho giáo
trở thành một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu chống Minh và giải
phóng dân tộc. Năm 1428, Lê Lợi lập Quốc Tử giám ở kinh thành và nhiều
trường học ở các đạo. Năm 1483, Lê Thánh Tôn xây dựng lại Văn Miếu và
lập nhà Thái học vừa là giảng đường, vừa là thư viện và nơi bảo quản các bản
in gỗ quan trọng. Tiếp đến năm 1480, Lê Thánh Tôn dựng bia đá ở Văn Miếu,
ghi lý lịch các vị tiến sĩ từ khóa 1442 trở đi. 8
Sang thời Tây Sơn, Nho giáo tiếp tục được nhiều người đón nhận. Quang
Trung hạ chiếu yêu cầu Nguyễn Thiếp phải hướng việc học tập thi cử theo
phép của Chu Tử, đồng thời có kế hoạch biên soạn chữ Nôm.
Như vậy, suốt các thời Ngô, Đinh, Lê sơ, Lý, Trần, Hậu Lê, ở Việt Nam
tâm giáo đều lưu hành, có lúc suy thịnh, đấu tranh nhưng chưa hề có chiến
tranh tôn giáo xảy ra như ở một số nước châu Á và châu Âu. Trái lại, tôn giáo
đoàn kết với nhau chống giặc ngoại xâm. 4.3. Đạo giáo
4.3.1. Khái quát về Đạo giáo
Đạo giáo còn gọi là Đạo Lão, Đạo gia hay thuyết Lão - Trang, được hình
thành trong phong trào nông dân khởi nghĩa vùng Nam Trung Hoa vào thế kỉ
II sau công nguyên, cơ sở lý luận của nó là ĐẠO GIA– triết thuyết do Lão Tử
đề xướng và Trang tử hoàn thiện (học thuyết Lão-Trang). Đây là học thuyết
chủ trương sống hòa hợp với thiên nhiên, phù hợp với Đạo (quy luật của trời
đất) để bảo tồn “cái tôi” của con người.
Đạo giáo là một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song
song với Nho giáo và Phật giáo. Ba truyền thống tư tưởng nội sinh (Nho-Lão)
và ngoại nhập (Phật) này đã ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hoá Trung
Quốc. Tuy tồn tại nhiều điểm khác biệt nhưng ba tôn giáo này cộng hưởng
cùng nhau. Ảnh hưởng của Tam giáo trong lĩnh vực tôn giáo và văn hoá vượt
khỏi biên giới Trung Quốc, được truyền đến các nước lân cận như Việt Nam,
Triều Tiên, Đài Loan và Nhật Bản.
4.3.2. Sự du nhập của Đạo giáo vào Việt Nam
Cuối thế kỉ thứ II, khi Trung Hoa đại lục trải qua nhiều cuộc bạo loạn,
chiến tranh khiến rất đông người phương Bắc chạy xuống phương Nam lánh
nạn. Trong số đó có nhiều đạo sĩ Trung Hoa. Các tín ngưỡng bản địa là môi
trường để Đạo giáo thâm nhập vào đời sống của cư dân Giao Chỉ. Chính vì sự
du nhập đó nên Đạo giáo là một triết lý sống ít được người Việt Nam biết đến
mà chủ yếu được quan niệm như Đạo phù thủy hoặc bùa chú và pháp thuật.8
4.3.3. Đạo giáo trong xã hội Việt Nam
8 Đại cương về văn hóa Việt Nam - TS Phạm Thái Việt 9
Thời kỳ Lý – Trần là giai đoạn hưng thịnh của Đạo giáo ở Việt nam. Khi
đó, Đạo giáo du nhập vào cả chốn cung đình, đạo sĩ có chức quan, tham gia
vào việc triều chính. Từ thời nhà Lý, các vua bắt đầu tổ chức các cuộc thi tam
giáo. Điều này giúp Đạo giáo trở nên phổ biến hơn so với lúc trước. Tuy đã
xâm nhập vào Đại Việt và cũng được sự trọng thị của triều đình, Đạo giáo
không thu nhận nhiều người truyền giảng đạo như Phật giáo và Nho giáo. Do
đó Đạo giáo thời Trần không có những tín đồ thực sự, chỉ có một số người tu
tiên và các thầy cúng cầu phúc trừ tà.
Từ đời Lê Sơ (1428 – 1527) tới đời Nguyễn, Đạo giáo cung đình dần dần
bị Nho giáo bài xích khiến cho nhiều người tinh thông Đạo giáo phải gia nhập
Nho giáo để đi thi làm quan theo đường Nho; tư tưởng Đạo giáo phải ẩn vào
trong Phật giáo và Nho giáo để tồn tại. Cũng như đạo Phật, dù bị triều đình
hạn chế khá chặt chẽ nhưng Đạo giáo vẫn phát triển trong đời sống tư tưởng
của nhân dân. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã làm sát hạch với các đạo sĩ, giống
như với các tăng sĩ để loại bỏ bớt những người không thực sự có kiến thức về
Đạo giáo. Năm 1461, Lê Thánh Tông ra lệnh cấm tự tiện xây chùa, cấm mở
đạo quán. Dù các vua từ Thái Tổ đến Thánh Tông đề ra những biện pháp hạn
chế hoạt động Đạo giáo nhưng trên thực tế ngay cả trong cung đình, vẫn tồn
tại và chi phối các nghi lễ cung đình. Cũng tương tự trong thời Nguyễn, theo
Phó giáo sư Nguyễn Duy Hinh viết trong cuốn “Văn Minh Đại Việt” và
“Người Việt nam với Đạo giáo” thì đến đời Nguyễn, triều đình ra sức trấn áp
việc đồng bóng, bói toán, cấm xây dựng đạo quán mới9. Tuy nhiên Đạo giáo
trong dân gian vẫn được duy trì. Tuy tồn tại nhiều cấm đoán, nhưng chính các
vua triều Nguyễn cũng ra lệnh xây dựng một số đền, đạo quán mới của Đạo giáo10.
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam thời phong kiến11
Nhu cầu củng cố và xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, thống nhất,
hùng mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa nhằm cố kết, thống nhất
sức mạnh toàn dân tộc để chống lại các cuộc xâm lăng của quân Tống thời
Lý, giặc Mông - Nguyên thời Trần đòi hỏi cần thống nhất sức mạnh vật chất
9 Người Việt Nam với Đạo giáo – Nguyễn Duy Hinh
10 Văn Minh Đại Việt – Nguyễn Duy Hinh
11 ThS. Nguyễn Thị Hiền - GV Khoa Xây dựng Đảng 10
và tinh thần, thống nhất tư tưởng, hình thành sự dung hợp giữa yếu tố văn hoá
ngoại sinh với yếu tố văn hoá địa phương và sự dung hợp giữa các yếu tố văn
hóa ngoại sinh đã được địa phương hóa với nhau.Ý thức dân tộc, lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng dân tộc, cùng với các yếu tố triết
học, tôn giáo, đạo đức, chính trị - xã hội của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo
đã trở thành những nhân tố tinh thần tiêu biểu ảnh hưởng đến đời sống tinh
thần xã hội thời kỳ này nói chung, đến tư tưởng chính trị nói riêng.
Chính vì vậy mà hình thành nên quan niệm “Tam giáo đồng nguyên”. Sự
dung hòa “Tam giáo” là một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình
cảm và việc làm của người dân và đến thời kỳ Lý - Trần thì được chính quyền
công nhận rộng rãi. Dung hòa “Tam giáo” không chỉ trong đời sống xã hội
của người dân mà tồn tại trên cả bộ phận bên trên tức bộ phận quý tộc phong kiến.
Trước hết ta gặp sự dung hợp giữa từng hiện tượng văn hoá ngoại sinh
với văn hoá bản địa: Phật giáo với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên sinh. Việc
phụng thờ những hiện tượng tự nhiên đã có từ rất sớm trong đời sống tâm linh
của người Việt cổ và được tôn xưng thành các vị thần như: thần Mây, thần
Mưa, thần Sấm, thần Sét, thần Gió… Trong quá trình tồn tại và phát triển, do
được Việt hóa khá mạnh nên ở chùa, ngoài việc thờ phụng những nhân vật
của Phật giáo, còn thờ thêm cả những nhân vật của riêng người Việt như các
vị Thần, Thánh… tiêu biểu như: Tứ Pháp (gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi, Pháp Điện); lối cấu trúc chùa chiền theo kiểu “tiền Phật hậu thần”...Nho
giáo vào Việt Nam cũng bị truyền thống coi trọng làng và nước, tinh thần dân
chủ... làm biến đổi. Còn Đạo giáo vốn gần gũi với tín ngưỡng cổ truyền nên
khi vào Việt Nam, nó lại bị hoà lẫn đến mức nhiều khi không nhận ra sự tồn
tại của nó. Truyền thống hoà hợp với tự nhiên, thờ các vị thần tự nhiên, yếu tố
nữ được coi trọng… được phản ánh qua các tôn giáo rất rõ.
Ở mức độ cao hơn là sự dung hợp giữa các hiện tượng văn hoá ngoại sinh
đã được địa phương hoá với nhau. Sự dung hợp giữa Phật giáo với Đạo giáo
là mối quan hệ lâu đời và bền chặt nhất. Ngay từ thời kỳ chống Bắc thuộc, hai
tôn giáo này đã hoà quyện với nhau trong cuộc sống của người bình dân. Có
những nơi như đền Ngọc Sơn ở Hà Nội, lúc là chùa ( Phật giáo), lúc lại là Đền 11
(Đạo giáo). Khá nhiều chùa ( Phật giáo) lại thờ các vị thần của Đạo giáo như
Nam Tào, Ngọc Hoàng, Bắc Đẩu, Quan Công... Thời Đinh- Lê- Lý- Trần,
nhiều nhà sư đồng thời là đạo sĩ. Triều đình thì trọng dụng cả đạo sĩ lẫn nhà
sư. Thiền phái Trúc Lâm dung hợp tư tưởng Phật với triết lí sống tìm về thiên nhiên của Lão-Trang.
Phật giáo và Nho giáo cũng có quan hệ lâu đời. Do ảnh hưởng Phật giáo
từ Trung Hoa đã dần thay thế cho việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn Độ, cho nên
các nhà sư muốn đọc kinh Phật phải biết đọc chữ Hán do vậy dễ hiểu là có
không ít nhà sư khá tinh thông Nho học. Thời Đinh- Lê- Lý –Trần có nhiều
trường hợp tài đối đáp cùng vốn tri thức uyên thâm của các nhà sư Việt Nam
khiến các sứ thần Trung Hoa nể trọng. Thiền Phái Thảo Đường do thiền sư
Thảo Đường sáng lập năm 1069 dưới thời Nhà Lý là sự dung hợp triết lí Phật
giáo với tư tưởng Nho giáo, không phải ngẫu nhiên mà phái này có nhiều vua
quan đương nhiệm quy y hơn cả.
Sự dung hợp tam giáo là một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong
tình cảm và việc làm của người dân, đến thời Lý- Trần thì được chính quyền
công nhận rộng rãi. Triều đình tổ chức những kỳ thi tam giáo để tìm ra những
người thông thạo cả ba giáo lý ra giúp nước (vào các năm 1195 và 1247).
Người Việt Nam nhận ra rằng Tam giáo mới trông thì khác nhau nhưng
nhìn kỹ thì thấy nhiều khi chỉ là những cách diễn đạt khác nhau về cùng một
khái niệm. Có khi là những phạm trù khác nhau, những biện pháp khác nhau
nhằm đến cùng một mục đích, những cái dụng khác nhau của cùng một thể.
Cái khác nhau ấy không mâu thuẫn đối chọi nhau mà bổ sung hỗ trợ cho
nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ; Đạo giáo lo thể xác con
người sao cho mạnh khoẻ; Phật giáo lo cho tâm tính con người sao cho thoát khổ.
Bởi vậy người dân cầu đến cả ba tôn giáo, họ sử dụng kết hợp chúng
theo giới tính, theo các giai đoạn theo cuộc đời. Phụ nữ âm tính hơn thiên về
Phật, đàn ông dương tính hơn thiên về Nho. Cùng một người Việt Nam, khi
trai trẻ thì ra sức học Nho để giúp nước, khi khổ ải trầm luân thì cầu khấn
Phật trời phù hộ, khi ốm đau già yếu thì mời đạo sĩ trị bệnh trừ tà hoặc tập
luyện dưỡng khí an thần. Không chỉ trong một đời, mà ngay trong một ngày 12
cũng có thể gặp biểu hiện của ba tôn giáo nơi một con người. Hơn thế nữa,
người bình dân cũng chẳng cần biết đến Nho giáo, gần gũi đối với họ trước
hết là tín ngưỡng bản địa quen thuộc của cư dân nông nghiệp với truyền thống
trọng phụ nữ, đạo Thánh Mẫu, sau nữa là Phật giáo và Đạo giáo. Thế là hình
thành một thứ “Tam giáo” bình dân, hoà quyện Đạo Phật, Đạo Lão và Đạo
Thánh Mẫu. Như vậy, sự dung hợp diễn ra không chỉ giữa từng tôn giáo ngoại
sinh với tín ngưỡng bản địa, giữa các tôn giáo ngoại sinh đã được địa phương hoá với nhau.
“Tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam thời kỳ Lý - Trần đã tạo nên được
sự ổn định, một sự nhất trí trong xã hội Việt Nam đương thời. Đây là một thời
kỳ mà văn hoá Việt Nam được bồi bổ và xây dựng thêm những nhân tố mới
khiến cho nền văn hoá dân tộc càng phong phú và đặc sắc hơn. Cả ba tôn giáo
Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều là những tôn giáo phiến thần tôn trọng tín
ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên, phù hợp với xã hội nông nghiệp với tín
ngưỡng phồn thực rất đậm, cho nên nó dễ dàng hoà bình tồn tại với nhau.
B. Sự tồn tại của “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay I.
Ba tôn giáo trong xã hội Việt Nam ngày nay 1. Nho giáo
Việt Nam tuy lấy chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng để Đảng Cộng sản lãnh đạo nước, song không loại trừ các học thuyết
triết học và chính trị xã hội khác như Nho học, có lợi cho sự phát triển và ổn
định của đất nước. Còn các nước tư bản chủ nghĩa thì từ trước đến nay vẫn
chủ trương đa nguyên lý luận đa nguyên văn hóa tư tưởng. Do đó Nho học
vẫn có lý do tiếp tục phát triển và tác động đến con người ở khu vực này. Sự
tồn tại của Nho học ngày nay không chỉ do điều kiện khách quan tạo nên mà
con do ý thức chủ quan, sự tự giác của con người trong và ngoài khu vực. Con
người ngày nay tuy mức sống vật chất cao hơn, đời sống tinh thần phong phú,
đa dạng hơn rất nhiều, song đối mặt với xã hội hiện đại, vẫn còn một số lượng
đông đảo nhớ tới tư tưởng, đạo đức, lối sống của Nho học. 13
Nho học đã để lại cho các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam một di sản
tinh thần đồ sộ như văn học, kinh dịch, sử liệu, tư tưởng, nghi thức, tập tục,
thói quen,... thể hiện lên trình độ văn hóa phát triển mà các dân tộc đó tích lũy trong mấy nghìn năm. 2. Phật giáo
Mặc dù, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và lý luận, tuy nhiên, do sự
tồn tại lâu đời mà vô tình nhiều quan điểm của đạo Phật cũng đã bén rễ trong
đời sống chính trị của Việt Nam. Nhiều quan điểm của đạo Phật được hiện
thực hóa trong một số chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Phật giáo tuy không tác động trực tiếp và việc định hướng phát triển kinh
tế xã hội ở mỗi địa phương mà chỉ là những yếu tố góp phần khai sáng mặt
nhận thức của người dân. Vì mục đích của Phật giáo là xây dựng đời sống an
lạc và giải thoát, nhưng muốn an lạc thì đời sống kinh tế phải vững mạnh,
phát triển, hài hòa. Hiểu được lời dạy của phật thì đồng bào ở một số nơi sẽ
tránh được những hủ tục lạc hậu, tốn kém nhưng giết trâu, mổ bò để cưới xin,
ma chay hay cúng giàng, cúng thần linh, ma quỷ. Khi có tiền rồi thì cần biết
tiết kiệm (tích cốc phòng cơ) để đề phòng những tình huống khẩn cấp xảy ra.
Phật giáo có chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, đạo đức. Những giá trị này
đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền văn hóa ở mỗi quốc gia mà nó dừng chân.
Với văn hóa Việt Nam cũng vậy. Nhờ có Phật giáo, nền văn hóa Việt Nam
càng thể hiện rõ hơn sự đa dạng, đặc sắc của mình. 3. Đạo giáo
Ngày nay, người ta nói về Đạo giáo với tư cách là một tôn giáo không còn
tồn tại nữa, tuy nhiên, những phong tục mang tư tưởng của tôn giáo này vẫn
còn tồn tại cùng với con người Việt Nam đến tận bây giờ. Ví dụ điển hình là
việc xem phong thủy, như đối với một số người, việc này vô cùng quan trọng,
khi làm chuyện lớn như mua một căn nhà, cho đến việc nhỏ nhặt như đặt một
thứ đồ nội thất ở đâu, họ đều mời thầy phong thủy đến xem và tư vấn, bởi họ 14
tin, những chuyện đó có thể làm ảnh hưởng đến những chuyện lớn hơn như
sức khỏe, tiền tài, danh vọng… Hoặc có những người tin rằng nhân tướng có
thể quyết định được số phận cuộc đời sau này, nên họ học xem tướng, và chọn
tin rằng số phận cuộc đời của họ đã được định đoạt sẵn và không thể thay đổi
- mà họ cũng không muốn thay đổi.
Tuy nhiên hầu hết những thứ thần tiên, phù thủy mà Đạo giáo hướng đến
không còn tồn tại nhiều trong đời sống hiện đại nữa. Người Việt Nam, nhất là
những người trẻ, chỉ coi những điều đó như một phần của đời sống văn hóa
tinh thần, chứ không tìm thấy sự liên hệ nhiều giữa những tư tưởng của Đạo
giáo với hiện thực. Họ là những người trẻ, năng động, mang khát khao thay
đổi thế giới, không tin vào học thuyết vô vi hay tư tưởng không muốn thay
đổi vì sợ ảnh hưởng đến sự vận hành của vũ trụ nữa.
II. “Tam giáo đồng nguyên” trong xã hội Việt Nam ngày nay
“Tam giáo đồng nguyên” đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình đất
nước ta hội nhập toàn cầu và vươn lên phát triển.
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, các nền văn hóa ngày càng có nhiều
cơ hội giao lưu, và giao thoa văn hóa trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chính
vì vậy, văn hóa được coi như “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia, dân tộc1 .2
Với nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng nguyên”, dân tộc Việt Nam tự hào gìn
giữ được bản sắc dân tộc với nhiều nét đẹp truyền thống vốn có, đồng thời
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt chặng đường vươn ra biển thế
giới, khẳng định được vị thế của nước nhà trên trường quốc tế.
“Tam giáo đồng nguyên” giúp Việt Nam tiếp cận gần gũi hơn với bạn bè
quốc tế. Đối với các nước đồng văn, đây là điều kiện thuận lợi để chính phủ
và nhân dân hai nước giao lưu thuận lợi, với nhiều điểm tương đồng trong văn
hóa, hệ tư tưởng, tôn giáo. Điều này tương tự với các quốc gia có phần đông
dân số theo Phật giáo như các nước cùng khu vực Đông Nam Á hay Nam Á.
Đối với các quốc gia còn lại, dù nền văn hóa không có nhiều nét tương đồng,
song “Tam giáo đồng nguyên” đã tạo cho mỗi người Việt Nam nền tảng phẩm
chất, đạo đức và hệ tư tưởng tiến bộ, tốt đẹp, truyền thống, giàu bản sắc dân
tộc trên mỗi bước đi hội nhập, giao lưu cùng thế giới.
12 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam 15
Bên cạnh những yếu tố trên, “Tam giáo đồng nguyên” hướng tâm con
người Việt Nam đến những điều thiện lành, với những hệ tư tưởng tốt đẹp
trong đời sống, xã hội. Chính điều này đã đưa Việt Nam trở thành một trong
những quốc gia thân thiện nhất, có chỉ số hạnh phúc cao nhất. Những nụ cười
người Việt Nam trao cho bạn bè quốc tế đã làm cảm mến họ biết bao, đồng
thời hình ảnh Việt Nam hạnh phúc, thân thiện với nụ cười đã trở thành đề tài ý
nghĩa nóng hổi trên nhiều diễn đàn quốc tế.
Quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới đặt ra nhiều thách thức, không
chỉ về gìn giữ bản sắc riêng mà còn là giữ vững nền độc lập, tự chủ, bảo vệ
chủ quyền Tổ quốc, đảm bảo hòa bình khu vực và mối quan hệ tốt đẹp, thân
thiện với các quốc gia khác. Chính những tư tưởng trong “Tam giáo đồng
nguyên” của riêng Việt Nam trở thành cơ sở vững chắc để xây dựng và củng
cố “tinh thần Đại Việt” độc lập tự chủ, “phi Hoa, phi Ấn”, khác biệt với Đông
Nam Á về văn hóa, truyền thống nhưng vẫn hài hòa với các quốc gia khác13.
Thực tế lịch sử đã minh chứng rõ nét, từ thế kỷ XV khi nhân dân Đại Việt lấy
chí nhân, đại nghĩa để tha thứ và đưa giặc Minh về nước khiến chúng dù cay
đắng thất bại cũng phải cảm kích. Trong suốt thế kỷ XX, Việt Nam ta cũng đã
đánh tan những kẻ thù sừng sỏ có tiếng toàn cầu như thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ và quân Trung Quốc gây chiến tranh xâm lược đất nước ta, ấy vậy chỉ đến
cuối những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã thiết lập lại quan hệ ngoại
giao với các quốc gia này. Cũng nhờ ảnh hưởng từ “Tam giáo đồng nguyên”,
đường lối đối ngoại của Việt Nam luôn xoay quanh những yếu tố như “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, chủ quyền đất liền và biển đảo, luôn đặt lợi ích dân tộc là
trên hết, trước hết, độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng.
Ngày nay, nước ta, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thiết lập quan
hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với ba nước lớn, quan hệ Đối tác Chiến lược
và quan hệ Đối tác Toàn diện với gần 30 quốc gia. Năm 2019, Việt Nam cũng
trúng cử vị trí Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
với số phiếu bầu kỷ lục chưa từng có 192/193, chứng tỏ vị thế nước nhà và
13 Di sản văn hóa trong thời đại của chúng ta - Tạp chí điện tử Thế giới Di sản 16
mối quan hệ của nước ta với các quốc gia khác. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng
được giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức khu vực, thế giới, được
chọn là địa điểm tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2,...
Nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng nguyên” đã tạo điều kiện cho nước ta
hội nhập sâu rộng với quốc tế. Điều này dẫn tới nhiều cơ hội to lớn, tác động
mạnh mẽ đến động lực công nghiệp hóa-hiện đại hóa của nước ta. Trước hết,
Việt Nam có cơ hội tiếp cận, giao lưu và học hỏi khoa học công nghệ, từ đó
ứng dụng trong đời sống, sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng
nhu cầu và yêu cầu về nhân lực, tài lực và vật lực phụng sự cho sự nghiệp
phát triển của Tổ quốc. Không chỉ vậy, Việt Nam còn ngày càng trở nên hấp
dẫn hơn với các nhà đầu tư quốc tế. FDI của Việt Nam năm 2019 (trước đại
dịch Covid-19) đạt trên 38 tỷ USD, gấp đôi năm 2012, và dù trong đại dịch,
nguồn FDI có xu hướng giảm nhẹ theo tình hình chung nhưng các chuyên gia
vẫn đánh giá rất cao tiềm năng Việt Nam. Quan hệ thương mại của nước ta
đối với các quốc gia trên thế giới cũng phát triển nhanh chóng, trở thành đối
tác tin cậy của thế giới và là đối tác lớn, quan trọng trong chính sách của
nhiều quốc gia như Mỹ, Trung Quốc,...
Cốt lõi hơn nữa, “Tam giáo đồng nguyên” tạo cho người Việt Nam những
mục tiêu phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp, trong đó có tinh thần dân tộc,
chủ nghĩa ái quốc, đức tính siêng năng cần cù, chịu khó, dũng cảm, sáng tạo,
đoàn kết, tương thân tương ái. Đảng và Nhà nước cũng vận dụng nhiều yếu tố
trong “Tam giáo đồng nguyên” khi thực thi các chính sách kinh tế, xã hội;
đồng thời các lãnh đạo, cán bộ Đảng, Nhà nước, quân đội, công an luôn đề
cao tư tưởng trung với Đảng, hiếu với dân, từ đó có được một xã hội ổn định,
phát triển, nhân dân đặt niềm tin tưởng, yên tâm lớn lao vào đường lối chính sách.
Chính vì vậy, người Việt Nam thích nghi tốt với thời kỳ đổi mới, sáng tạo,
học hỏi và vận dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, thúc đẩy thành công
tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước sau 35 năm Đổi Mới, đi lên
theo con đường chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo, Việt
Nam cần tiếp tục giáo dục và vận dụng linh hoạt “Tam giáo đồng nguyên” để
đạt được mục tiêu chiến lược đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: 17
Năm 2025 vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến 2030, kỷ niệm 100
năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao1 .4
14 Nghị quyết Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam 18 KÉT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu lý luận và phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn
của vấn đề “Tam giáo đồng nguyên trong xã hội Việt Nam thời phong kiến và
sự tồn tại của nó trong xã hội Việt Nam ngày nay” có thể thấy: Tôn giáo là
một sản phẩm tinh thần tâm linh của con người. Sự dung hòa “Tam giáo” là
một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình cảm và việc làm của
người dân và đến thời kỳ Lý - Trần thì được chính quyền công nhận rộng rãi.
Dung hòa “Tam giáo” không chỉ trong đời sống xã hội của người dân mà tồn
tại trên cả bộ phận bên trên tức bộ phận quý tộc phong kiến. “Tam giáo đồng
nguyên” đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình đất nước ta hội nhập
toàn cầu và vươn lên phát triển. Với nền tảng văn hóa “Tam giáo đồng
nguyên”, dân tộc Việt Nam tự hào gìn giữ được bản sắc dân tộc với nhiều nét
đẹp truyền thống vốn có, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong
suốt chặng đường vươn ra biển thế giới, khẳng định được vị thế của nước nhà
trên trường quốc tế. “Tam giáo đồng nguyên” còn đưa Việt Nam tiếp cận gần
gũi hơn với bạn bè quốc tế.
Qua đây, tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, dân tộc
Việt Nam cần bảo tồn những nền văn hóa tôn giáo vốn có. Tập trung nâng cao
nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn
xã hội về vấn đề tôn giáo. Trong đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà
nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà
tu hành và tín đồ các tôn giáo. Thông qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa
những người có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa
những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Đồng thời, tạo cơ sở để
đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt động mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn
giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc dân tộc và nhân dân. Thứ hai, cần phân
biệt rõ đâu là hủ tục, đâu là điểm mạnh cần phát huy của những tôn giáo để từ
đó tạo tiền đề phát triển xã hội, đất nước. Không phải tất cả những sản phẩm
nảy sinh từ các tôn giáo đều mang ý nghĩa tích cực, đã có một số hoạt động
không còn phù hợp trong thời đại ngày nay. Vì vậy, Nhà nước cần tỉnh táo,
sáng suốt lựa chọn và sẵn sàng loại bỏ những tập tục ảnh hưởng tiêu cực đến 19