



















Preview text:
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI 1: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giai
cấp công nhân hiện đại ngày nay. Từ phong trào công
nhân áo vàng ở Pháp rút ra được bài học cho công nhân
các nước xã hội chủ nghĩa và các Đảng cộng sản hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : Vũ Thu Hiền
Sinh viên thực hiện : Trần Ngọc Hưng Lớp : K23KTDTB
Mã sinh viên : 23A4070095
Hà Nội, ngày 14 tháng 6 năm 2021 MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................... 3
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 4
NỘI DUNG .................................................................................................. 6
Phần 1: Phần lý luận1.1.Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về giai cấp công ............................................................................... 6
nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân .................................... 6
1.2.Đăc điểm, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam .............................................................................................................. 9
Phần 2: Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân ................................... 11
2.1. Liên hệ thực tế .................................................................................... 11
2.1.1. Phần liên hệ thực tiễn với GCCN và PTCN thế giới hiện nay ... 11
2.1.2 Phong rào công nhân áo vàng ở Pháp và bài học rút ra cho công
nhân ở các nước XHCN và Đảng cộng sản hiện nay ............................ 15
2.2. Liên hệ bản thân ................................................................................ 18
KẾT LUẬN ............................................................................................... 19
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT *GCCN: Giai cấp công nhân
*SMLS: Sứ mệnh lịch sử
*PTCN: Phong trào công nhân *XHCN: Xã hội chủ nghĩa *CNXH: Chủ nghĩa xã hội *CNTB: Chủ nghĩa tư bản *TBCN: Tư bản chủ nghĩa MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay giai cấp công nhân có một vai trò vô cùng quan trọng trong tất cả các
nền công nghiệp họ là tầng lớp lao động chính của xã hội . Từ xưa họ chỉ chiếm
một phần rất nhỏ trong toàn bộ quy mô dân số nhưng do quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đòi hỏi cần nhiều người lao động hơn và từ đó xuất hiện GCCN
hiện đại cùng với sự giúp đỡ của máy móc họ đã nâng cao được trình độ tay
nghề cũng như tư duy trong công việc. Tuy nhiên trên thế giới đã xuất hiện rất
nhiều những phong trào biểu tình của GCCN chủ yếu là do họ bị áp bức, bóc lột,
không được đối xử công bằng như các giai cấp khác; họ đã phải đứng lên đấu
tranh để có thể nhận được cuộc sống tốt đẹp hơn; và đặc biệt gần đây đã có
phong trào áo gile vàng tại Pháp vào năm 2018 . Vậy nên để hiểu rõ hơn về
GCCN, em đã chọn đề tài: “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giai cấp
công nhân hiện đại ngày nay. Từ PTCN áo vàng ở Pháp rút ra được bài học cho
công nhân các nước xã hội chủ nghĩa và các Đảng cộng sản hiện nay.”
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm, nội dung sứ mệnh của
GCCN cùng từ đó liên hệ với giai cấp công nhân và PTCN thế giới hiện nay và
qua cuộc biểu tình tại Pháp rút ra được bài học cho công nhân tại các nước XHCN hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, tiểu luận cần giải quyết được
các nhiệm vụ cơ bản sau :
Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Phân tích đặc điểm, nội dung sứ mệnh lịch sử của GTCN Việt Nam.
Liên hệ thực tiễn với GCCN và PTCN thế giới hiện nay.
Qua PTCN áo gile vàng ở Pháp các nước XHCN và đảng Cộng sản đã rút
ra được bài học gì cho công nhân.
Qua những nhiệm vụ trên nêu quan điểm của cá nhân về GCCN,GCCN hiện đại và PTCN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Sứ mệnh lịch sử của GCCN và GCCN
hiện nay; PTCN; phong trào công nhân áo vàng tại Pháp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Tập trung nghiên cứu ở các nước XHCN, đặc biệt là Việt Nam.
Thời gian: Thế kỷ XIX đến nay.
4. Cơ sỏ lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề GCCN và
sứ mệnh lịch sử của GCCN.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật với các phương pháp như: thống nhất lôgic và lịch sử, phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ sứ mệnh của GCCN và
PTCN từ đó cung cấp cơ sở lý luận cho vấn đề GCCN của các nước XHCN
và đảng Cộng sản hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Tiểu luận có thể làm tài liệu phục vụ cho giảng dạy,học
tập và nghiên cứu, tìm hiểu trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
và các chuyên ngành khác. NỘI DUNG
Phần 1: Phần lý luận. 1.1 Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về giai cấp công
nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1.1.Giai cấp công nhân là gì ?
GCCN là sự hình thành và phát triển cùng với quá trình của nền công
nghiệp hiện đại gắn với nền đại công nghiệp, họ đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến; trong khi các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp.
1.1.2.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì?
SMLS của GCCN là nhiệm vụ mà họ thực hiện nhằm xóa bỏ chế độ
TBCN; xóa bỏ áp bức, bóc lột, nghèo nàn và giải phóng nhân dân lao
động để đi lên xây dựng XHCN và Xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.1.3.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin:
1.1.3.1. Quan điểm về Giai cấp công nhân:
Mác và Ăngghen đã sử dụng một số thuật ngữ để chi GCCN như: giai
cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp
công nhân đại công nghiệp. Dù sử dụng nhiều thuật ngữ như vậy nhưng
các nhà kinh điển vẫn trên co sở của 2 tiêu chí để phân định GCCN với các gia tầng khác:
Về phương thức lao động: là những người lao động trực tiếp hoặc gián
tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại
và xã hội hóa cao. GCCN là sự ra đời của nền đại công nghiệp nên nó
chính là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, vậy nên họ có những
phẩm chất riêng mà không giai tầng nào có được đó là: tính tiên tiến,
hiện đại; ý thức tổ chức kỷ luật cao; tác phong công nghiệp; tinh thần
khoa học; thái độ cách mạng triệt để và tinh thần quốc tế cao cả và trong
sáng. Họ lao động bằng những phương thức công nghiệp hiện đại với
các đặc điểm vô cùng nổi bật: sản xuất bằng máy móc lao động có tính
chất xã hội hóa, năng suất lao động cao và tạo ra những tiền đê của cải vật chất xã hội mới.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: GCCN chính là sản phẩm của
CNTB, trong xã hội này người dân lao động tốn tại dựa trên việc làm
thuê. Vậy nên trong quan hệ xã hội này, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ đó là
giai cấp những công nhân làm thuê không được sở hữu các tư liệu sản
xuất nên họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc
lột thặng dư. Và cũng chính vì đặc trưng này đã biến giai cấp công nhân
trở thanh giai cấp đối kháng giai cấp tư sản. Qua mâu thuẫn đó cho thấy,
tính chất đối lập không thể dung hòa giữa GCCN với giai cấp tư sản
trong phương thức sản xuất của chế độ TBCN
Từ những phân tích trên theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Song
hành cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, GCCN cũng có sự
biến đổi thường xuyên, liên tục cả về số lượng lẫn chất lượng và đặc biệt
biến đổi về cơ cấu. Vậy nên GCCN chính là một tập đoàn xã hội ổn định;
họ là một trong những lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ
chủ nghia tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tu bản, họ là người về
cơ bản là không có tư liệu sản xuất, họ bắt buộc phải làm thuê cho giai
cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hộ chủ nghĩa, kết
hợp với nhân dân lao động, họ đã làm chủ được các tư liệu sản xuất chủ
yếu và cùng hợp tác lao động cho lợi ích chung của toàn xã hội trong đó
bao gồm cả lợi ích chính đáng của mình.
1.1.3.2. Quan điểm về sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân:
Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN: đó chính là những nhiệm vụ
mà GCCN cần phải thực hiện dưới tư cách là giai cấp đi tiên phong,
dẫn đầu trong một cuộc cách mạng quan trong để xác lập hình thái
kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Họ lãnh đạo toàn bộ nhân dân lao
đọng chiến đấu, đấu tranh nhằm lật đổ, xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ
mọi sự đàn áp, áp bức, bóc lột, giải phóng cho chính bản thân mình và
lớn hơn là toàn bộ nhân dân lao động, tiến lên xây dựng XHCN và xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Nó được thể hiện ở 3 mặt
Nội dung kinh tế: GCCN là giai cấp tạo tiền đề vật chất-kỹ thuật
cho sự ra đời của xã hội mới. Họ là nhân tố hàng đầu của lực lượng
sản xuất đóng vai trò quan trọng tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất
mới, sản xuất ra của cài vật chất ngày càng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Nội dung chính trị-xã hội: GCCN cùng với rất nhiều nhân dân lao
động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tiến hành cách mạng
chính trị dể lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ
áp bức bóc lột, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, nhà nước XHCN, mang bản chất của GCCN.
Nội dung văn hóa, tư tưởng: Thực hiện sứ mệnh của mình, GCCN
đã thực hiện cuộc cánh mạng về văn hóa, tư tưởng; kế thừa, cải tạo
cái lỗi thời, lạc hậu từng bước xây dựng cái mới, tiến bộ bao gồm:
phát triển văn hóa, hình thành con người mới, đạo đức và lối sống
mới mang bản chất ưu việt của chế độ XHCN.
Qua những nội dung trên theo chủ nghĩa Mác-Lênin: sứ mệnh lịch sử
của GCCN là thông qua chính đảng tiên phong, GCCN tổ chức, lãnh
đạo nhân dân lao dộng đấu tranhh, xóa bỏ các chế dộ người bóc lột
người, xóa bỏ CNTB, giải phóng GCCN, nhân dân lao động khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
1.2. Đăc điểm, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
1.2.1. Đặc điểm của GCCN Việt Nam.
GCCN Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính sách khai thác thuộc đại
của thực dân Pháp ở Việt Nam. GCCN mang những đặc điểm chủ yếu sau:
Ra đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỷ XX. GCCN Việt Nam phát
triển chậm là do chúng ta phải chịu ách thống trị của chế độ nửa phong
kiến, nửa thuộc địa của thực dân Pháp.
GCCN là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp trong
cuộc đấu tranh chống lại tư bản thực dân và phong kiến, xóa bỏ ách
thống trị và bọc lột để giành độc lập chủ quyền, mở đường cho sự phát
triển của dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản.
GCCN Việt Nam không chỉ thể hiện tính cách mạng của mình mà
cong thể hiện sự đoàn kết dân tộc trong việc xây dựng khối liên minh
giai cấp, họ có quan hệ mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội
làm cho lợi ích của GCCN và lợi ích của dân tộc gắn chặt với nhau
cùng nhau đoàn kết chống lại quân xâm lược
Hạn chế của GCCN là số lượng còn ít, trình độ tay nghề chưa cao
chưa phù hợp với nền đại công nghiệp, chịu ảnh hưởng của tâm lý, tư
tưởng của tiểu nông nhưng trái lại họ đã hình thành ý thức chính trị của
giai cấp, sớm giác ngộ được lý tưởng, mục tiêu cách mạng.
Tuy nhiên trải qua hơn 30 năm đổi mới, cùng với những tác động của của
tình hình kinh tế Việt Nam cũng như thế giới họ đã có những biến đổi tích
cực, to lớn không chỉ trình độ mà cả đời sống tâm lí qua các nét chính sau:
GCCN hiện nay đã tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, là giai
cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa, gắn
với phát triển tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hiện nay GCCN đã da dạng về cơ cấu nghề nghiệp, có mặt trong mọi
thành phần kinh tế, trong đó có đội ngũ công nhân ở khu vực kinh tế
nhà nước là tiêu biểu đóng vai trò nòng cốt, chủ đạo.
GCCN đã ngày càng có hiểu biết cao, nắm vững khoa học-công nghệ
tiên tiến, được đào tạo theo chuẩn nghề nghiệp, học vấn, văn hóa, được
rèn luyện trong môi trường tiêu chuẩn với thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội.
Qua những đặc điểm trên cho thấy được GCCN Việt Nam đã và đang
đứng trước thời cơ phát triển cùng với những thách thức nguy cơ trong
môi trường kinh tế-xã hội đổi mới, trong đà phát triển mạnh mẽ của CMCN lần thứ tư .
1.2.2.Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện nay:
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng đã xác định được vai trò vô cùng
quan trọng của GCCN và sứ mệnh mang tính lịch sử to lớn của GCCN ở
nước ta. Để thực hiện SMLS đó, GCCN đã thể hiện được vai trò của một
giai cấp tiên phong, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới sự
lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng để giai quyết được cac nhiệm vụ
trong SMLS của GCCN Việt Nam: Nội dung kinh tế:
GCCN với số lượng đông đảo có cơ cấu ngành nghề đa dạng, tay nghề
cao, biết vận dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất họ chính là nhân
lực lao đọng chủ yếu tham gia vào phát triển nền kinh tế thị trường
hiện đại, định hướng XHCN, phát huy vai trò là lực lượng đi đầu
trong đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa làm cho nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nội dung chính trị-xã hội:
Giữ vững bản chất GCCN của Đảng và tích cực tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là những nội dung chủ yếu, nổi bật thể hiện SMLS
của GCCN về phương diện chính trị-xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ
đó, đội ngũ cán bộ đảng viên trong GCCN phải có trách nhiệm tiên
phong góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính trị-xã hội quan rọng
của Đảng đồng thời GCCN chủ động tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, xây dựng và bảo
vệ Nhà nước pháp quyền XHCN, nền dân chủ XHCN.
Nội dung văn hóa tư tưởng:
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, mà nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới XHCN,
giáo dục đạo đức cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công
nghiệp, văn minh hiện đại, xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người
Việt Nam. GCCN còn tham gia vào đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý
luận để bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , đó là
nền tảng của Đảng; chống lại những quan điểm sai trái, lệch lạc,
xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, kiên định lý
tưởng mục tiêu và con đường cách mạng độc lập dân tộc và CNXH.
Để thực hiện được nhiệm vụ này GCCN phải thường xuyên giáo dục
cho các thể hệ công nhân và lao động trẻ ở nước ta về ý thức giai cấp,
bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, củng cố
mối liên hệ mật thiết giữa GCCN với dân tộc, đoàn kết giai cấp gắn
liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
Phần 2: Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân.
2.1. Phần liên hệ thực tế:
2.1.1.Phần liên hệ thực tiễn với GCCN và PTCN thế giới hiện nay
2.1.1.1. GCCN thế giới hiện nay:
So với GCCN truyền thống ở thê kỷ XIX thì GCCN thế giới hiện nay vừa có
những điểm tương đồng và cả những điểm khác biệt, những biến đổi trong
điều kiện lịch sử mới. GCCN hiện nay là những tập đoàn người tiến hành
sản xuất và cung cấp dịch vụ bằng phương thức công nghiệp, tạo nên cơ sở
vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế giới hiện nay.Cần phải làm rõ
những điểm tương đồng và khác biệt cùng với những sự biến đổi theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin để khẳng định những giá trị của chủ nghĩa
Mác-Lênin đối với xã hội hiện nay
Thứ nhất, về những điểm tương đồng thì tương đối ổn định so với thế kỷ
XIX: GCCN hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội
hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Ở các nước phát triển lực lượn lao động bằng
phương thức công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có
sự phát triển kinh tế cao và cũng là những nước phát triển công nghiệp.
Cũng chính vì thế mà các nước đang phát triển hiện nay đều thực hiện chiến
lược công nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh tốc độ và quy mô phát triển, và đó
cũng là cơ sở khách quan để GCCN hiện nay phát triển cả về số lượng lẫn
chất lượng. Tuy nhiên, ở những nước TBCN, GCCN vẫn bị gia cấp tư sản và
CNTB bóc lột giá trị thặng dư; tình trạng này vẫn xảy ra là do quan hệ sản
xuất TBCN với chế độ sở hữu tư nhân TBCN đã sinh ra xung đột về lợi ích
giữa giai cấp tư sản và công nhân.
Thứ hai, những khác biệt và biến đổi của GCCN hiện đại:
Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển
kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Trí thức hóa và
tri thức hóa công nhân là hai mặt cảu cùng một quá trình, của xu hướng trí
tuệ hóa đối với công nhân và GCCN. Ngày nay, công nhân đã được đào tạo
chuẩn mực có trình độ, có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp
đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong nền sản xuất,
gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế tri thức. Vậy nên
trên thực tế đã có thêm nhiều cách gọi công nhân khác theo xu hướng này
như: “công nhân trí thức”, “công nhân áo trăng”, “lao động trình độ cao”,.....
Ngày nay, GCCN không chỉ hao phí lao động cơ bắp mà còn hao phí lao
động về trí lực. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và văn
hóa tinh thần của công nhân cũng ngày càng tăng, phong phú đa dạng hơn và
đòi hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần cao hơn,
Trong bối cảnh toàn cầu hóa CNTB đã có một số điều chỉnh nhất định về
phương thức quản lý, các biện pháp điều hòa mâu thuẫn xã hội, điều này
đang tác động hai mặt vào GCCN. Trên hình thức họ không còn là “vô sản”
nữa mà có thể được “trung lưu hóa” về mức sống; nhưng thực chất ở các
nước tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình sản xuất và
phân chia lợi nhuận vẫn bị phụ thuộc vào các cổ đông lớn cho nên việc làm
và lao động vẫn là yếu tố quyết định thu nhập, đời sống của GCCN hiện đại,
quyền định đoạt quá trình sản xuất, quyền quyết định cơ chế phân phối vẫn
thuộc về giai cấp tư sản. Chúng ta cần hiểu rằng khi sở hữu tư nhân tư bản
về tư liệu sản xuất vẫn tồn tại thì những thành quả của khoa học công nghệ,
trình độ kinh tế tri thức và những điều chỉnh về thể chế quản lý kinh tế và xã
hội.... trước tiên vẫn là công cụ để bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước đang
phát triển, công nhân theo xu hướng trung lưu là đang hiện thực hóa giấc mơ
xóa đói giảm nghèo để khá giả hơn như ở Trung Quốc, Đông Nam Á hoặc
Mỹ Latinh..., F.Fukuyama cho rằng: “Một tầng lớp trung lưu mạnh với một
số tài sản và giáo dục có nhiều khả năng tin tưởng vào sự cần thiết của quyền
sở hữu và trách nhiệm dân chủ. Họ muốn bảo vệ giá trị tài sản của mình khỏi
những chính phủ cướp bóc hoặc không đủ năng lực, và có thể dành thời gian
để tham gia vào chính trị bởi vì thu nhập cao hơn đảm bảo mức tốt hơn cho
sự sống còn của gia đình. Nhiều nghiên cứu xuyên quốc gia đã chỉ ra rằng
tầng lớp trung lưu có những giá trị chính trị khác so với người nghèo: họ coi
trọng dân chủ hơn, muốn tự do cá nhân nhiều hơn,....”
GCCN còn đang theo xu hướng chuyên môn thuần túy đồng hành với
tích cực hóa chính trị-xã hội. Chuyên môn thuần túy có thể hiểu là do lao
động hiện đại làm cho người công nhân bị “tha hóa”. Trong môi trường lao
động công nghiệp hiện đại khá khắc nghiệt việc công nhân có đáp ứng được
yêu cầu chuyên môn, trình độ kỹ thuật sẽ gắn liền với việc người công nhân
đó có việc làm hay không. Cũng vì lẽ đó ở nhiều nước đang phát triển về
công nghiệp đã xuất hiện một bộ phận công nhân khá lớn theo xu hướng chuyên môn thuần túy.
Ở các nước XHCN, GCCN vẫn là giai cấp giũ vai trò lãnh đạo Đảng
Cộng sản, giữ vai trò cầm quyền trong quá trình xây dựng CNXH ở một số
quốc gia XHCN. Từ khi nhà nước XHCN đầu tiên Xô-Viết ra đời, GCCN đã
trở thành giai cấp lãnh đạo giành chính quyền và xây dựng nhà nước XHCN
ở các quốc gia đi lên CNXH: ở Liên Xô và Đông Âu trước đây và các nước XHCN hiện nay.
Trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế và cách mạng
công nghiệp 4.0 cơ cấu công nhân đang thay đổi với số lượng ngày càng
tăng nhanh làm thay đổi lớn về cơ cấu trong nền sản xuất hiện đại. Cơ cấu xã
hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thu nhập giữa các bộ phận công nhân rất
khác nhau trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia.
2.1.1.2. Phong trào công nhân thế giới hiện nay.
Mác và Ăngghen đã từng nói: “Công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp
cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc, một giai cấp không
còn tính riêng biệt dân tộc nữa”. Vì vậy mà giải phóng lao động làt vấn đề xã
hội, của tất cả các nước, và để giải quyết vấn đề này phải do sự hợp tác về
mặt thực tiễn và mặt lý luận của các nước tiên tiến nhất.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN đối với sự phát triển cũa xã hội ngày càng thể
hiện rõ, bởi sự phát triển sản xuất của CNTB với sự tham gia trực tiếp của
GCCN và các lực lượng lao động lại chính là nhân tố kinh tế-xã hội thúc đẩy
sự chín muồi của các tiền đề XHCN trong lòng CNTB, đó cũng la điều kiện
để phát huy vai trò chủ thể của GCCN trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân
chủ, tiến bộ xã hội, và CNXH.Mặt khác, toàn cầu hóa hiện nay vẫn mang
đậm tính chất TBCN với những bất công và bất bình đẳng xã hội lại thúc đẩy
thêm cho cuộc đấu tranh chống chế độ bóc lột thặng dư, phấn đấu cho việc
xác lập trật tự xã hội mới công bằng, bình đẳng.
Ở các nước TBCN, mục tiếu đấu tranh trực tiếp của GCCN và lao động là
chống bất công và bất bình đẳng xã hội, mục tiêu lâu dài là giành chính
quyền về tay GCCN và nhân dân lao động, điều này đã được nêu rõ trong
cương lĩnh chính trị của các Đảng Cộng sản trong các nước TBCN.
Cuộc đấu tranh giữa ý thức hệ giữa CNXH và CNTB vô cùng quyết liệt nhất
là trong nên kinh tế thị trường và những mặt trái của nó. Một mặt nữa là khi
hệ thống XHCN tan rã phong trào cách mạng thế giới đang phải vượt qua
những thoái trào, khủng hoảng tạm thời thì niềm tin vào lý tưởng XHCN
cũng đứng trước những thử thách càng làm cho cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận giữa CNXH và CNTB trở nên phức tạp hơn. Song các giá trị đặc trưng
cho bản chất khoa học và cách mạng của GCCN vẫn mang ý nghĩa định
hướng trong cuộc đấu tranh của GCCN và quần chúng lao động chống
CNTB và lựa chọn con đường XHCN đã đạt được nhiều tiến bộ xã hội quan trọng.
Qua những phân tích trên hai nhu cầu giải phóng và phát triển vẫn đặt ra
trực tiếp và thường trực thông qua quá trình phát triển dân tộc: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”
2.1.2. Phong rào công nhân áo vàng ở Pháp và bài học rút ra cho công
nhân ở các nước XHCN và Đảng cộng sản hiện nay.
2.1.2.1. Phong trào công nhân áo vàng ở Pháp
Do những người dân thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động cảm
thấy bị đối xử không công bằng về sự tăng giá nhiên liệu, chi phí sinh
hoạt cao cùng những gánh nặng không cân xứng trong việc cải cách
thuế của chính phủ. Cho nên vào ngày 17/11/2018 gần 290.000 người
biểu tình mặc áo vàng (áo khoác bảo hộ phản quang mà các tài xế phải
mang theo trong xe) đã tràn xuống khắp các đường phố trên khắp nước
Pháp để biểu tình. Chính phủ Pháp đã buộc phải có những giải pháp để
làm giảm tình hình căng thẳng lúc bây giờ như: Tổng thống Macron sẽ đề
xuất một cơ chế để điều chỉnh tăng thuế nhiên liệu, tổ chức tham vấn quốc
gia trong ba tháng, thủ tướng Philippe nỗ lực tìm cách nói chuyện với những
người biểu tình áo vàng nhưng cuộc gặp đã không thể diễn ra. Phong trào
biểu tình kéo dài khiến chính phủ Pháp phải có những nhượng bộ rõ rệt hơn
như việc hoãn tăng thuế nhiên liệu trong vòng 6 tháng. Sang đến năm 2019
thì quy mô các cuộc biểu tình đã có phần giảm xuống là do những người
biểu tình tập trung hơn vào việc yêu cầu tổng thống Macron từ chức và yêu
sách “Trưng cầu về sáng kiến công dân” và chính phủ Pháp cũng có biện
pháp cứng rắn khi bắt giữ một thủ lĩnh của phong trào. Nếu đây chỉ là cuộc
biểu tình thông thường thì dã không thu hút sự nhiều sự chú ý từ cộng động
quốc tế đến thế vì biểu tình được hợp pháp hóa và diễ ra thường xuyẻn ở
Pháp. Nhưng cuộc biểu tình lần này không chỉ có quy mô lớn hơn mà còn có
tính chất khác: thứ nhất phong trào không có tổ chức lãnh đạo, chính phủ
Pháp gặp khó khăn trong đàm phán với người biểu tình vì họ không có một
tổ chức cụ thể đại diện cho phong trào; thứ hai, đó là biểu tình nhưng kèm
theo bạo loạn. Các hành động phá hoại của công, tài sản cá nhân đều là hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, dù có tổ chức lỏng lẻo thì những cuộc biểu tình này đã huy
động được một lực lượng đông đảo người dân tham gia, tác động lớn đến
tình hình chính trị - xã hội của nước Pháp.
Thứ tư, phong trào cũng có sức ảnh hưởng lan rộng đến các quốc gia
khác: một số cuộc biểu tình cũng diễn ra ở Bỉ, Hà Lan để phản đối một
chính sách nào đó của chính phủ.
2.1.2.2. Bài học rút ra cho công nhân ở các nước XHCN và Đảng cộng sản hiện nay.
Từ phong trào công nhân áo vàng ở Pháp cho thấy điều người dân
quan tâm nhất là giá cả, chi phí sinh hoạt, phúc lợi xã hội nên mục tiêu
của mỗi quốc gia bao giờ cũng là bảo đảm và nâng cao đời sống vật
chất của người dân lao động. Để thực việc đó thì các nước XHCN và
Đảng cộng sản hiện nay cần:
Các cơ quan đoàn thể cần phải đồng bộ chính sách tiền lương
bằng cách tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật
khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở để tăng lương và người sử
dụng lao động cần phối hợp với các tổ chức công đoàn của cơ quan
mình chú ý đến chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
Đảng cần đã khuyến khích người sử dụng lao động áp dụng các
kỹ thuật, hệ thống quản lý hiện đại bằng công nghệ tiên tiến, công
nghệ cao thân thiện với môi trường vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh nhằm cải thiện điều kiện lao động, bảo đảm an toàn, vệ sinh
lao động. Để thực hiện một các hiệu quả chính phủ phải thường
xuyên cử lực lượng thường xuyên xuống thanh tra, kiểm tra các cơ
sở sản xuất, hoạt động kinh doanh.
Cần chủ động hơn nữa trong công tác đại diện, chăm lo, bảo vệ
quyền lợi cho người lao động; gắn bó mật thiết và thường xuyên
lắng nghe ý kiến nhân dân lao động để có những đề xuất với Đảng,
với chính phủ trong việc ban hành, sửa đổi các chính sách đối với
người lao động và tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi chính sách.
Bảo đảm cho GCCN được hưởng đầy đủ những phúc lợi xã hội
và an sinh xã hội như là: y tế, giáo dục, trợ cấp,...... Bên cạnh đó
cần giảm thuế một số mặt hàng thiết yếu, giảm chi phí sinh hoạt,
đặc biệt là đối với những người dân lao động có hoàn cảnh khó thì
cần có những chính sách xóa đói giảm nghèo, những trợ cấp thiết
thực để họ có thể trang trải và cải thiện cuộc sống ngày một tốt hơn.
Để được hưởng những quyền lợi đó thì người lao động trong thời
kỳ mới phải học tập và trau dồi thêm tri thức, kỹ năng; nâng cao
trình độ sản xuất; có bản lĩnh cùng với lòng tự tôn dân tộc; lao động
một cách sáng tạo; tác phong công nghiệp và có việc làm bền vững.
Những điều đó sẽ có đóng góp vô cùng to lớn vào sức mạnh của
toàn Đảng, toàn dân vì sự phồn thịnh của đất nước và hạnh phúc
của chính những người lao động.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp, Đảng và chính
phủ luôn phải đề phòng, cảnh giác và có những biện pháp mạnh để
ngăn chặn các phần tử khủng bố, thế lực thù địch, quân phản động
lợi dụng lôi kéo, kích động người dân có những hành vi vi phạm
pháp luật, gây ra những cuộc biểu tình quy mô lớn làm mất an ninh
trật tự của đất nước.
2.2. Liên hệ bản thân:
Qua những phân tích trên đã cho em thấy GCCN có một vai trò vô cùng
quan trọng trong xã hội hiện đại và họ cũng mang sứ mệnh rất to lớn trong
công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay. Họ là lực lượng tiên
phong đi đầu trong sản xuất với sự rộng mở về tri thức, trình độ tay nghề
cao và khả năng áp dụng thành tựu của khoa học-kĩ thuật tốt. Cơ cấu
GCCN cũng đang thay đổi, số lượng ngày càng tăng đi đôi là chất lượng
cũng tăng một cách đáng kể Sự phát triển của công nhân gắn liền với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với cải cách và sự hội nhập của
kinh tế thế giới. Đối với các nước XHCN, GCCN đã trở thành giai cấp lãnh đạo.
Là sinh viên chúng em là chủ nhân tương lai của đất nước phải có đạo
đức trong sáng và lối sống lành mạnh tích cực học tập, rèn luyện nâng cao
trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng, có lòng
yêu nước với, có lập trường kiên định cùng với niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tích cực tham gia xây
dựng Đảng, nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Phải
biết nắm bắt thời cơ, luôn tạo cơ hội cho bản thân mình, sẵn sàng thử thách
bản thân trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. KẾT LUẬN
Qua những phân tích lý luận trên theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
cho ta thấy được tầm quan trọng trong xã hội hiện nay tại Việt Nam cũng như
trên toàn thế giới. Sứ mệnh lịch sử của họ là đưa đất nước phát triển về mọi mặt
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đưa đất nước vào hội nhập
kinh tế toàn cầu. Nhất là đối với các nước XHCN họ lại có vai trò quan trọng
hơn nữa là trở thành giai cấp lãnh đạo của Đảng và toàn dân. Vậy nên nhà nước
và chính phủ cần phải có những chính sách phù hợp đối với giai cấp này. Bản
thân em hy vọng với những giải pháp phù hợp từ chính phủ thì GCCN sẽ ngày
một nâng cao được trình độ tay nghệ, tri thức góp phần thúc đẩy năng suất lao
động gày một năng suất và hiện đại hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học NXB Học viện ngân hàng
2. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học GS.TS Hoàng Chí Bảo
3. http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/nam-xu-huong-bien-dong-cua-giai-cap-
cong-nhan-tren-the-gioi-hien-nay.html
4. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/819840/
nhung-nhan-thuc-moi-ve-giai-cap-cong-nhan-hien-nay*.aspx
5. https://tuoitre.vn/vi-dau-con-gian-ao-khoac-vang-o-phap- 20181204153230927.htm
6. http://baochinhphu.vn/Chi-dao-quyet-dinh-cua-Chinh-phu-Thu-tuong-Chinh-
phu/Tung-buoc-cai-thien-nang-cao-doi-song-nguoi-lao-dong/418826.vgp
7. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/816338/ view_content