Tìm hiểu công cuộc đổi mới 1986 để khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với lịch sử Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Tìm hiểu công cuộc đổi mới 1986 để khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với lịch sử Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Tìm hiểu công cuộc đổi mới 1986 để khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với lịch sử Việt Nam
Họ và tên SV
:
Lớp tín chỉ
:
Mã SV
:
lOMoARcPSD| 45740413
HÀ NỘI, NĂM 2022
lOMoARcPSD| 45740413
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
I.Bối cảnh lịch sử...................................................................................................2
1. Đường lối đổi mới của Đảng…………………………………………………2
II. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990………………………………………..3
a. Đại hội VI (12-1986) mở đầu công cuộc đổi mới…………………………..3
b. Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới………………………………….3 III.
Công cuộc đổi mới 1991-1995………………………………………………5
a. Nội dung công cuộc đổi mới 1991-1995……………………………………5
b. Thành tựu và hạn chế……………………………………………………….5
IV. Công cuộc đổi mới 1996-2000………………………………………………7
a. Đại hội VIII (6/1996) đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa…………..7
b. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới..............7
V. Công cuộc đổi mới 2000 đến nay……………………………………………..9
A. Nội dung đổi mới nằm trong các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc về công tác
đối ngoại của Việt Nam từ năm 2000 đến nay(các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc IX
– XII)………………………………………………………………………………9
B. Những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt
Nam………………………………………………………………………………12
C. Những thách thức tron công tác đối ngoại của Việt Nam …………......13
KẾT LUẬN………………………………………………………………………14
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..15
lOMoARcPSD| 45740413
1
Lời mở đầu
Hiện nay, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới vẫn nói chung đang tiếp
diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” tại
các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính
quy luật khách quan, tất yếu và hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng
đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khăn.
Có nhiều tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng ở mỗi tài liệu thì mới đề cập đến một khía
cạnh của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp cho ta
thêm những thông tin quý báu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để bước đầu hình
thành cho mình những tư duy kinh tế. Qua đó giúp ta hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
I. Bối cảnh lịch sử
Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính trị, kinh tế,
hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một qui mô to lớn chưa từng thấy, tất cả
đang đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải sự phát triển, bổ sung luận cho phù hợp trước
tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đây chính sở khách quan của
đường lối đổi mới, cải cách mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt
Nam.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dòng thác" chưa từng có
trong lịch sử loài người đó chính thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc
cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã tạo ra những lực lượng sản
xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều quá trình hiện đại của xã hội loài người như:
cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường
xu thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết
chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân tộc...
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh tế
đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào quá trình phân công lao động,
hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới...
Tình hình trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay
go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển.
Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và
việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn nhân loại, ở các quốc gia
với những chế độ chính trị khác nhau. Đó vấn đề bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân
hủy diệt, đó vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường, phòng chống bệnh hiểm nghèo,
vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói...Trước nh hình đó, mỗi quốc gia, dân tộc trong việc lựa
chọn con đường phát triển của mình không thể không quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải
lOMoARcPSD| 45740413
quyết những vấn đề đó chính là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của
chính mình cũng như của toàn nhân loại"
Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác động đến sự
phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có như vậy, chủ nghĩa xã
hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là
con đường đi tới của các dân tộc.
Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm ( 1976 – 1985 ) , cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội , song
cũng gặp không ít khó khăn . Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng , trước hết là khủng
hoảng kinh tế xã hội . Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là do ta mắc phải “
sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương , chính sách lớn , sai lầm về chỉ đạo chiến lược và
tổ chức thực hiện ” .
- Để khắc phục sai lầm , khuyết điểm , đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên , Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới . Những thay đổi
của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học – kĩ thuật
trở thành xu thế thế giới ; cuộc khủng hoảng toàn diện , trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới .
1. Đường lối đổi mới của đảng
Xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhận
thức đúng đắn những đặc trưng, quy luật của kinh tế thị trường, xử lý đúng mối quan hệ giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với chiến lược phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số. Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
*Đổi mới kinh tế:
-Khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người phát huy ý chí tự lực,
tự cường, cần kiệm ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.
-Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế theo kiểu tập trung bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước. Thực hiện kế hoạch kinh tế theo phương thức hạch toán kinh doanh.
-Thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế quốc tế.
*Đổi mới về chính trị:
-Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
-Nhấn mạnh quan điểm “lấy dân làm gốc”, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới ở nước ta.
-Đối mới là nội dung là phương thức hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần chúng
theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
II. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990
a) Đại hội VI (12-1986) mở đầu công cuộc đổi mới
lOMoARcPSD| 45740413
3
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đại hội VI (15 - 18/12/86) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của
Đảng vai trò quản lý của Nhà nước.
- Khẳng định tiếp tục đường lối chung cách mạng Xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng
kinh tế - xã hội chủ nghĩa..
- Kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 đã được xây dựng một bước, nay cần rà soát lại theo tinh
thần và nội dung các văn kiện và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng; tập trung xử lý những
vấn đề còn vướng mắc, đặc biệt là tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn.
- Nhận thức đặc điểm thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ lịch sử lâu
dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và hiện đang ở chặng đầu tiên.
- Nhiệm vụ, mục tiêu: tập trung sức người, sức của thực hiện Ba chương trình kinh tế về
lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Muốn vậy thì nông - lâm - ngư nghiệp
phải được đặt đúng vị trí hàng đầu. Nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên
về vốn đầu tư, về năng lực, vật tư, lao động kỹ thuật…
b) Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới
Thành tựu:
*Kinh Tế
- Về lương thực - thực phẩm: Từ chỗ thiếu ăn, năm 1988 ta phải nhập hơn 45 vạn tấn
gạo. Đến năm 1989 đó không những vươn lên đáp được nhu cầu trong nước mà cũng có dự trữ
và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân. Sản xuất lương thực năm 1988 đạt
19,5 triệu tấn vượt năm 1987 là 2 triệu tấn; đến năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn.
- Về hàng hóa thị trường: Nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối
thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tăng hơn trước, có tiến bộ về chất lượng và
mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với thị trường, phần bao cấp của nhà nước giảm đáng kể. -
Kinh tế đối ngoại: phát triển nhanh và mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, đó góp phần
quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong kế hoạch 5 năm này, nhiều mặt
hàng có giá trị như gạo, dầu thô….Năm 1989, ta xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo (đứng hàng thứ ba
sau Thái Lan và Mỹ).Nhập khẩu của ta giảm đáng kể.
- Thành tựu quan trọng khác là ta đó kiềm chế được một bước lạm phát. Cụ thể nếu chỉ số
tăng hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là 14%, năm
1989 là 2,5%, đến năm 1989 là 4,4%.
- Thắng lợi cơ bản có ý nghĩa chiến lược lâu dài là chủ trương đổi mới của Đảng đó thật sự
phát huy quyền làm chủ kinh tế của nhõn dõn, đó khơi dậy tiềm năng và sức mạnh sáng tạo của
quần chúng để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng thêm sản phẩm
xã hội.
* Chính trị
- Bộ máy Nhà nước ở trung ương và địa phương được sắp xếp lại, theo hướng phát huy dân
chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của các cơ quan dân cử.
- Chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản
là phù hợp.
lOMoARcPSD| 45740413
* Ý nghĩa: Tóm lại , những thành tựu và ưu điểm trong bước đầu thực hiện đường lối đổi mới
(1986-1990) là rất quan trọng, chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi của
công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp.
* Khó khăn, yếu kém:
- Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động thiếu việc làm tăng,
hiệu quả kinh tế thấp, chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
- Chế độ tiền lương bất hợp lý, đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền lương
hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phận nông dân bị giảm sút.
- Sự nghiệp văn hóa có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, nhận hối lộ,
mất dân chủ, bất công xã hội và nhiều hiện tượng tiêu cực khác chưa được khắc phục.
III. Công cuộc đổi mới 1991-1995
a) Nội dung: Đại hội VII (tháng 6/1991) đã:
- Tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu; khắc phục các khó
khăn,yếu kém và điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối - Tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới
tiến lên. - Thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” và
“Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”.
- Đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995:
+ Đẩy lùi kiểm soát được lạm phát. Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
+ Ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế;
đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công
nghiệp hóa.
b) Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới
* Tiến bộ:
- Kinh tế:
+ Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng
trưởng nhanh, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm là 8,2%, công nghiệp là
13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất
khẩu 20% 1. Lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% (năm 1986) xuống còn 67,1% (năm 1991), 12,7%
(năm 1995). Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là
15,8%, năm 1995 là 27,4% 2. Lương thực không những đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước, mà
còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo 3. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và
cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối mới cho
bước phát triển tiếp theo.
+ Theo số liệu được công bố trong văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X (diễn ra từ ngày 7 đến
10-5-1996), trong 5 năm (1991-1995), Cơ cấu nền kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
+ Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu mở rộng, nguồn vốn đầu tư của nước
ngoài tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng hàng năm 26,6%, năm 1995 tăng gấp hơn
3 lần năm 1990; Du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
lOMoARcPSD| 45740413
5
+ Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ: Nạn lạm phát ở mức cao từng bước bị đẩy lùi, năm 1995 chỉ
còn 12,7%. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách được kiềm chế
- Hoạt động khoa học - công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích
nghidần với cơ chế thị trường.
- Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút. Số trường phổ
thông trong 5 năm tăng 12,6%,
- Số máy điện thoại sử dụng năm 1995 cao gấp 7 lần năm 1991,
- Chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được củng cố. Trong những năm 1991 - 1995,
chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước,
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm
vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tiếp tục thực hiện có
hiệu quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an
ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn.Chất lượng cũng như sức
chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân được củng cố.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng
đồng quốc tế Trong 5 năm 1991 - 1995, chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào;
xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực. Nước ta
trở thành thành viên của tổ chức ASEAN (7-1995), củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với
nhiều nước
Giai đoạn 1991-1995 thời kỳ mở đầu sự hợp tác, liên doanh đầu với nước ngoài trên địa bàn
tỉnh. Tính đến năm 1995, đã 12 dán đầu nước ngoài vào Quảng Ninh với tổng vốn đầu
nước ngoài hơn 140 triệu USD. Trong ảnh: Khu công nghiệp Cái Lân, một trong những trung
tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Quảng Ninh Tổng thống Bill Clinton thông báo Hoa
Kỳ quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khép lại quá khứ và mở ra tương lại cho cả hai nước. (Oa-sinh-tơn ngày 11/7/1995). Được sự giúp
đỡ của chuyên gia giáo sư Chue Shueloe hãng Sadoz Hong Kong, ngày 4/6/1992, tập thể giáo
sư, bác sĩ của Học viện Quân y 103, Bệnh viện Việt Đức đã thực hành thành công ca mổ ghép thận
đầu tiên của Việt Nam
* Hạn chế:
- Nước ta còn nghèo và kém phát triển, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quảsản
xuất kinh doanh thấp, sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Nhà nước còn thiếu
chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân - Tham nhũng, lãng phí, buôn lậu...chưa
được ngăn chặn.
- Tiêu cực trong bộ máy Nhà nước, Đảng và toàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất làtrên
lĩnh vực nhà đất, xây dựng bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu cả trong hoạt động
của nhiều cơ quan thi hành pháp luật… nghiêm trọng và kéo dài
- Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị, nông thôn và giữa các tầng lớp dân cưtăng
nhanh. Đời sống nhân dân còn khó khăn - Quản lí nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu kém
- Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm
IV. Công cuộc đổi mới 1996-2000
a. Đại hội VIII (6/1996) đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
lOMoARcPSD| 45740413
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã thông qua Phương hướng, nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000, trong đó nêu rõ: “Đẩy mạnh công cuộc đổi
mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đại hội VIII (tháng 6/1996) đã:
- Tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong thời kỳ mới
- Khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN -
Đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996-2000:
+ Đẩy mạnh đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
+ Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững. + Giải
quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện đời sống nhân dân. Nâng cao tích lũy nội bộ
từ nền kinh tế.
b. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới
* Tiến bộ:
- Kinh tế:
+ Kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng
năm 7%. Công nghiệp tăng 13.5%. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỉ trọng công nghiệp tăng 36,6%.
Nông nghiệp: sản lượng lương thực tăng 5,7% , bình quân đầu lương thực đầu người năm 2000 là
444kg. Chuyển dần tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ. Tỉ
trọng nông nghiệp giảm còn 24,3%
+ Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hình thành nền kinh tế nhiều thành phần (Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu; Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát
triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, đã góp
phần quan trọng vào cá thành tựu kinh tế - xã hội; Kinh tế tư bản tư nhân trong các nước bước
đầu phát triển, tập trung phần lớn vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản;
đầu tư vào sản xuất còn ít. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh
nghiệp quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động; Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình
thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài
đang phát triển.
+ Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. : Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất
khẩu... Phát triển xuất khẩu đạt 51,6 % tỉ USD tăng 21% trong đó xuất khẩu công nghiệp đạt 10 tỉ
USD, nông nghiệp đạt 4,3 tỉ USD. Nhập khẩu 61 tỉ USD tăng 13,3%. Có quan hệ buôn bán với
hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ , thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài
- Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Về khoa học tự nhiên và công nghệ, đã
chú trọng hơn việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ ưu tiên như
vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin... Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu
và chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh được đẩy mạnh hơn trước.
lOMoARcPSD| 45740413
7
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ
sở vật chất. ( Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới, sau một số năm giảm sút.
Tỉ lệ người biết chữ trong dân đã nâng lên đạt mức 90%; tỉ lệ trẻ em đi học trong độ tuổi phổ
cập tiểu học và số học sinh phổ thông các cấp học đều tăng; tỉ lệ lưu ban; bỏ học giảm; Mạng
lưới trường phổ thông mở rộng đều khắp các xã, phường; cơ sở vật chất được cải thiện; Các tỉnh
và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em người dân tộc; Hệ thống giáo dục đại
học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghề và loại hình đào
tạo. Các trường đại học và cao đẳng được sắp xếp lại.)
* Khó khăn và hạn chế.
- Kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao. Hiệu
quả sức cạnh tranh thấp. ( Lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, cơ sở vật chất, nhất là kết cấu hạ tầng
còn lạc hậu; trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm; nguồn nhân lực có kiến thức,
tay nghề, năng lực kinh doanh còn ít, lại chưa được sử dụng tốt; năng suất lao động xã hội tăng
chậm.)
- Kinh tế Nhà nước chưa tương xứng với vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể chưa mạnh. Các thành
phần kinh tế khác chưa được phát huy mạnh mẽ các tiềm năng, vừa chưa bảo đảm hoạt động có
trật tự, kỷ cương theo pháp luật.
- Hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.
- Tỉ lệ thất nghiệp cao, đời sống nhân dân, nhất là nông dân, ở một số vùng còn thấp. Sự phân
hoágiàu nghèo diễn ra không bình thường. Chỉ số giá tiêu dùng trên 10%/năm càng gây thêm
khó khăn cho những người có thu nhập thấp. Tình trạng tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp
chưa ngăn chặn được, có chỗ nghiêm trọng hơn. Kỷ cương, kỷ luật và trật tự xã hội còn nhiều
chỗ chưa tốt.
V. Công cuộc đổi mới 2000 đến nay
* Nội dung công cuộc xây dựng và đổi mới từ năm 2000 đến nay về mặt đối ngoại:
A. Nội dung đổi mới nằm trong các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc về công tác đối
ngoại của Việt Nam từ năm 2000 đến nay(các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc IX –
XII) a. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1.168 đại
biểu chính thức thay mặt cho 2.479.719 đảng viên cả nước.
- Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đã trình
bày 10 vấn đề, trong đó bao gồm vấn đề về mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua cũng bao gồm tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững
- Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các lĩnh
vực khác bao gồm việc “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế
lOMoARcPSD| 45740413
b. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
Được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại diện
cho 3,1 triệu đảng viên, đã tham dự lễ khai mạc.
- Báo cáo chính trị: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển” đã trình bày 12 vấn đề trong đó bao gồm vấn đề về mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
c. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Được khai mạc ngày 12/01/2011 tại Hà Nội và bế mạc vào ngày 19/01/2011.
- Trên cơ sở các văn kiện được trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Ban Chấp
hành Trung ương đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong cương lĩnh bao gồm những
định hướng lớn, trong đó có nội dung về tăng cường hoạt động đối ngoại
d. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
Diễn ra từ ngày 20 đến 28 tháng 1 năm 2016 ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia tại phường
Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
- “…toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội
lần thứ XI của Đảng, đạt được những thành quả quan trọng.- Những thành quả quan
trọng này được liệt kê, trong đó bao gồm việc “Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
Đảng và nhà nước có những nhìn nhận về những thành công đạt được trong công cuộc
xây dựng quan hệ quốc tế.
- Việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
cũng bao gồm việc thực hiện cân bằng “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”.
- Được nêu lên trong nhiệm vụ tổng quát của Đảng và Nhà nước là việc “Giữ gìn hoà
bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị
thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển và khắc phục hạn chế
lần được được liệt kê, trong đó bao gồm nhiệm vụ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng
thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới,
tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.e. Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khai mạc
sáng ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ đô Hà Nội.
- Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Diễn văn khai mạc Đại hội.
Đồng chí nhấn mạnh nhiều khía cạnh về việc tổ chức đại hội, và việc kiểm điểm sâu sắc,
toàn diện quá trình xây dựng Đảng. Một trong những vấn đề được nhắc tới bao gồm:
Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi
vào chiều sâu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
lOMoARcPSD| 45740413
9
thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước, đồng thời đóng góp tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của
thế giới và khu vực, được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế
của Đảng, Nhà nước, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường
quốc tế.
- Những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII bao gồm các việc:
Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại,
hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực
ợng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo,
vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.”
Và “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn
hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực
hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.”
Qua nội dung các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc thứ IX đến XIII có thể thấy rõ rằng
công cuộc phát triển kinh tế, xã hội và giữ gìn độc lập, hòa bình ngày càng được Đảng
và Nhà nước cho rằng có quan hệ gắn bó mật thiết, đi đôi với các hoạt động đối ngoại
và hội nhập quốc tế. Tầm quan trọng của các hoạt động ngoại giao ngày càng được
củng cố và thực hiện thường xuyên hơn, việc xây dựng quan hệ hợp tác và hòa bình
với các nước, các khu vực trên thế giới chính là việc nắm bắt cơ hội của thời đại đã và
vẫn đang liên tục tạo ra các môi trường thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, xã hội và
giữ gìn hòa bình độc lập.
B. Những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt Nam
Như đã nói ở trên thì việc đối ngoại đã tạo ra rất nhiều cơ hội thuận tiện cho việc phát
triển kinh tế, xã hội. Một số hoạt động, thành tựu nổi bật của công cuộc này đã tạo ra điều
kiện phát triển cho nền kinh tế nước nhà và rất xứng đáng được nêu tên. a. Tổng quát về
hoạt động đối ngoại, ngoại giao đã đạt được:
Về ngoại giao chính trị, ngành ngoại giao Việt Nam đã thích cực thúc đẩy mối quan hệ
song phương và đa phương giữa Việt Nam với các đối tác, góp phần củng cố vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, trên phạm vi khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và
đang củng cố vai trò và vị thế của mình trên mọi lĩnh vực, luôn nêu cao tinh thần trách
nhiệm, là thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế, chủ động xây dựng và nâng cao
hiệu quả hợp tác giữa các quốc gia.
Về ngoại giao kinh tế, ngành Ngoại giao Việt Nam chủ động đóng góp tích cực trong quá
trình ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do, góp phần giúp Việt Nam đa dạng
hoá thị trường và sản phẩm, đưa hàng hoá Việt Nam ra thế giới. Thời gian qua, ngành
lOMoARcPSD| 45740413
Ngoại giao đã đôn đốc triển khai và đưa các hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực đi
vào thực chất, đạt hiệu quả.
Về ngoại giao văn hoá, các cơ quan đại diện Việt Nam đã tích cực phối hợp với các đơn vị
trong nước cũng như chính quyền, người dân sử tại để tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao
văn hoá với sự đa dạng về nội dung, hình thức, góp phần giới thiệu, quảng bá hiệu quả về
đường lối, chính sách, tiềm năng, thế mạnh cũng như về lịch sử, vẻ đẹp văn hoá, đất nước
và con người Việt Nam. Trong thời gian qua, các cơ quan đại diện Việt Nam đã chủ động
tổ chức các chương trình giao lưu trong khuôn khổ Chương trình Ngày Việt Nam ở nước
ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2010.
Nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài và các
cơ quan trong nước, công tác bảo hộ công dân tại nước ngoài thời gian qua đã đạt được
những kết quả tích cực.
b. Một số thành tựu đối ngoại đáng được nêu tên
- Việt Nam đã tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định
thương mại song phương với Mỹ năm 2001, gia nhập một loạt các cơ chế đa phương
quan trọng như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Việt Nam đã đăng cai
các hội nghị cấp cao của, ASEM (2005), APEC (2006), là Ủy viên không thường trực
của Hội đồng Bảo an (HÐBA) Liên Hợp Quốc (LHQ) các nhiệm kỳ 2008 - 2009 và
2020 - 2021, Chủ tịch ASEAN vào các năm 1998, 2010 và 2020…
- Hiệp định EVFTAgiữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực từ tháng
8/2020 đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Chỉ trong năm
2021, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỷ USD, tăng trưởng 14,8%,
trong đó, Việt Nam xuất sang EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2020.
C. Những thách thức tron công tác đối ngoại của Việt Nam
Trong thời gian tới, Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn,
đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của ngành Ngoại giao trong công cuộc phát triển đất nước.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng một số quốc gia lớn và sự thay đổi về tương quan lực
lượng giữa các cường quốc, xu hướng đa cực, đa trung tâm vẫn sẽ tiếp tục giữ vị trí chủ
đạo và diễn biến ngày một phức tạp hơn.
- Xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa sẽ tiếp tục là xu hướng tất yếu. Các cơ chế hợp tác
khu vực và các hiệp định thương mại tự do sẽ tiếp tục phát huy vai trò của mình trong
thời gian tới, tuy nhiên, những cơ chế hợp tác hiện hành có thể sẽ gặp phải những khó
khăn nhất định khi chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân túy đã và đang nổi lên ở nhiều
quốc gia, gây cản trở nhất định đến xu hướng tự do hóa và tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến
các quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào hoạt động xuất, nhập khẩu, trong đó có
Việt Nam.
Hoà bình và an ninh trên thế giới đang bị đe doạ bởi các vấn đề an ninh truyền thống và
phi truyền thống. Chiến tranh và xung đột nội bộ vẫn tiếp tục xảy ra trên nhiều lục địa,
quốc gia, đe doạ cuộc sống và sự ổn định của người dân.Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi
truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố… vẫn
sẽ là mối nguy hàng đầu, thách thức nỗ lực hợp tác của các quốc gia. Tình hình dịch
Covid-19 hiện nay cũng đã gióng hồi chuông cảnh báo về những đại dịch mới có thể xảy
lOMoARcPSD| 45740413
11
ra trong tương lai, đòi hỏi các quốc gia phải luôn sẵn sàng để ứng phó. Bên cạnh đó, hoạt
động khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia cũng ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường
hơn khi mà các tổ chức tội phạm lợi dụng những lỗ hổng của cuộc cách mạng công nghệ
4.0 để thực hiện âm mưu chống phá, lật đổ chính quyền.
Đối với vấn đề an ninh khu vực, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục sẽ đóng vai
trò trọng tâm trong chính sách của các nước lớn. Việt Mỹ và các đồng minh gia tăng hợp
tác quân sự trong khu vực này có nguy cơ tạo ra một cuộc chạy đua về quân sự, đặc biệt
là khu vực biển Đông, nơi đang xảy ra các vụ tranh cháp chủ quyền biển đảo giữa
Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam
Kết luận:
Về mục tiêu, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dù cách diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung
Đảng ta đều xác định rõ được mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Cụ thể
là: Đại hội VI xác định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VII (năm
1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong
đó xác định: Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về
bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa
phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh. Đại hội XI thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
xác định: Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo
cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại.
Về nội dung, Đại hội VI của Đảng năm 1986 xác định nội dung với nhiệm vụ của những năm còn
lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu
tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan
hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển
biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu quốc phòng và an ninh. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta
xác định nội dung cơ bản là: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân
lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân các nước trên thế giới.
Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được thực tiễn xây dựng và phát
triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định là đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Tuy nhiên, quá độ lên CNXH ở nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan
xen nhau và diễn biến phức tạp, không thể xem thường. Những thành tựu đạt được trong hơn 35
năm đổi mới là to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh
về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo
lOMoARcPSD| 45740413
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong những thập niên tới, như Đại hội XIII
của Đảng đã đề ra: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện
đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao”. Có thể khẳng định, sự đúng đắn của quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới nước ta gần 30 năm qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-cong-cuoc-doi-
moikinh-te-dat-nuoc-1491890466
2. http://www.baohagiang.vn/Dang-trong-cuoc-song-hom-nay/202001/doi-moi-nam-
1986bai-hoc-tu-doi-moi-tu-duy-cua-dang-754134/
3. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/821806/bai-
hocve-xay-dung%2C-chinh-don-dang-qua-35-nam-doi-moi.aspx
4. https://baoquangninh.com.vn/bai-16-giai-doan-1991-1995-nhung-con-so-an-
tuong2204897.html\
5. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-
thuxii/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-cong-san-viet-nam-3
| 1/16

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Tìm hiểu công cuộc đổi mới 1986 để khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với lịch sử Việt Nam Họ và tên SV : Lớp tín chỉ : Mã SV : lOMoAR cPSD| 45740413 HÀ NỘI, NĂM 2022 lOMoAR cPSD| 45740413 Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
I.Bối cảnh lịch sử...................................................................................................2
1. Đường lối đổi mới của Đảng…………………………………………………2
II. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990………………………………………..3
a. Đại hội VI (12-1986) mở đầu công cuộc đổi mới…………………………..3
b. Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới………………………………….3 III.
Công cuộc đổi mới 1991-1995………………………………………………5
a. Nội dung công cuộc đổi mới 1991-1995……………………………………5
b. Thành tựu và hạn chế……………………………………………………….5
IV. Công cuộc đổi mới 1996-2000………………………………………………7
a. Đại hội VIII (6/1996) đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa…………..7
b. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới..............7
V. Công cuộc đổi mới 2000 đến nay……………………………………………..9
A. Nội dung đổi mới nằm trong các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc về công tác
đối ngoại của Việt Nam từ năm 2000 đến nay(các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc IX
– XII)………………………………………………………………………………9
B. Những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt
Nam………………………………………………………………………………12
C. Những thách thức tron công tác đối ngoại của Việt Nam …………......13
KẾT LUẬN………………………………………………………………………14
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..15 lOMoAR cPSD| 45740413 Lời mở đầu
Hiện nay, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới vẫn nói chung đang tiếp
diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” tại
các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính
quy luật khách quan, tất yếu và hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng
đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khăn.
Có nhiều tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng ở mỗi tài liệu thì mới đề cập đến một khía
cạnh của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp cho ta
thêm những thông tin quý báu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để bước đầu hình
thành cho mình những tư duy kinh tế. Qua đó giúp ta hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
I. Bối cảnh lịch sử
Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính trị, kinh tế, xã
hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một qui mô to lớn chưa từng thấy, tất cả
đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự phát triển, bổ sung lí luận cho phù hợp mà trước
tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của
đường lối đổi mới, cải cách mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dòng thác" chưa từng có
trong lịch sử loài người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc
cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã tạo ra những lực lượng sản
xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều quá trình hiện đại của xã hội loài người như:
cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường
xu thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết
chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân tộc...
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh tế
và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào quá trình phân công lao động,
hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới...
Tình hình trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay
go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển.
Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và
việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn nhân loại, ở các quốc gia
với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân
hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường, phòng chống bệnh hiểm nghèo,
vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói...Trước tình hình đó, mỗi quốc gia, dân tộc trong việc lựa
chọn con đường phát triển của mình không thể không quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải 1 lOMoAR cPSD| 45740413
quyết những vấn đề đó chính là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của
chính mình cũng như của toàn nhân loại"
Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác động đến sự
phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có như vậy, chủ nghĩa xã
hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là
con đường đi tới của các dân tộc.
Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm ( 1976 – 1985 ) , cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội , song
cũng gặp không ít khó khăn . Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng , trước hết là khủng
hoảng kinh tế xã hội . Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là do ta mắc phải “
sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương , chính sách lớn , sai lầm về chỉ đạo chiến lược và
tổ chức thực hiện ” .
- Để khắc phục sai lầm , khuyết điểm , đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên , Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới . Những thay đổi
của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học – kĩ thuật
trở thành xu thế thế giới ; cuộc khủng hoảng toàn diện , trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới .
1. Đường lối đổi mới của đảng
Xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhận
thức đúng đắn những đặc trưng, quy luật của kinh tế thị trường, xử lý đúng mối quan hệ giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với chiến lược phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số. Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển,
trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
*Đổi mới kinh tế:
-Khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người phát huy ý chí tự lực,
tự cường, cần kiệm ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.
-Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế theo kiểu tập trung bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước. Thực hiện kế hoạch kinh tế theo phương thức hạch toán kinh doanh.
-Thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế quốc tế.
*Đổi mới về chính trị:
-Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
-Nhấn mạnh quan điểm “lấy dân làm gốc”, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới ở nước ta.
-Đối mới là nội dung là phương thức hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần chúng
theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
II. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990
a) Đại hội VI (12-1986) mở đầu công cuộc đổi mới lOMoAR cPSD| 45740413
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam -
Đại hội VI (15 - 18/12/86) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của
Đảng vai trò quản lý của Nhà nước. -
Khẳng định tiếp tục đường lối chung cách mạng Xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng
kinh tế - xã hội chủ nghĩa.. -
Kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 đã được xây dựng một bước, nay cần rà soát lại theo tinh
thần và nội dung các văn kiện và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng; tập trung xử lý những
vấn đề còn vướng mắc, đặc biệt là tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn. -
Nhận thức đặc điểm thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ lịch sử lâu
dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và hiện đang ở chặng đầu tiên. -
Nhiệm vụ, mục tiêu: tập trung sức người, sức của thực hiện Ba chương trình kinh tế về
lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Muốn vậy thì nông - lâm - ngư nghiệp
phải được đặt đúng vị trí hàng đầu. Nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên
về vốn đầu tư, về năng lực, vật tư, lao động kỹ thuật…
b) Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới Thành tựu: *Kinh Tế -
Về lương thực - thực phẩm: Từ chỗ thiếu ăn, năm 1988 ta phải nhập hơn 45 vạn tấn
gạo. Đến năm 1989 đó không những vươn lên đáp được nhu cầu trong nước mà cũng có dự trữ
và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân. Sản xuất lương thực năm 1988 đạt
19,5 triệu tấn vượt năm 1987 là 2 triệu tấn; đến năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn. -
Về hàng hóa thị trường: Nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối
thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tăng hơn trước, có tiến bộ về chất lượng và
mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với thị trường, phần bao cấp của nhà nước giảm đáng kể. -
Kinh tế đối ngoại:
phát triển nhanh và mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, đó góp phần
quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong kế hoạch 5 năm này, nhiều mặt
hàng có giá trị như gạo, dầu thô….Năm 1989, ta xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo (đứng hàng thứ ba
sau Thái Lan và Mỹ).Nhập khẩu của ta giảm đáng kể. -
Thành tựu quan trọng khác là ta đó kiềm chế được một bước lạm phát. Cụ thể nếu chỉ số
tăng hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là 14%, năm
1989 là 2,5%, đến năm 1989 là 4,4%. -
Thắng lợi cơ bản có ý nghĩa chiến lược lâu dài là chủ trương đổi mới của Đảng đó thật sự
phát huy quyền làm chủ kinh tế của nhõn dõn, đó khơi dậy tiềm năng và sức mạnh sáng tạo của
quần chúng để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng thêm sản phẩm xã hội. * Chính trị -
Bộ máy Nhà nước ở trung ương và địa phương được sắp xếp lại, theo hướng phát huy dân
chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của các cơ quan dân cử. -
Chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. 3 lOMoAR cPSD| 45740413
* Ý nghĩa: Tóm lại , những thành tựu và ưu điểm trong bước đầu thực hiện đường lối đổi mới
(1986-1990) là rất quan trọng, chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi của
công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp.
* Khó khăn, yếu kém: -
Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động thiếu việc làm tăng,
hiệu quả kinh tế thấp, chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. -
Chế độ tiền lương bất hợp lý, đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền lương
hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phận nông dân bị giảm sút. -
Sự nghiệp văn hóa có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, nhận hối lộ,
mất dân chủ, bất công xã hội và nhiều hiện tượng tiêu cực khác chưa được khắc phục.
III. Công cuộc đổi mới 1991-1995
a) Nội dung: Đại hội VII (tháng 6/1991) đã:
- Tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu; khắc phục các khó
khăn,yếu kém và điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối - Tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới
tiến lên. - Thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” và
“Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”.
- Đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995:
+ Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát. Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
+ Ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế;
đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa.
b) Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới * Tiến bộ: - Kinh tế:
+ Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng
trưởng nhanh, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm là 8,2%, công nghiệp là
13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất
khẩu 20% 1. Lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% (năm 1986) xuống còn 67,1% (năm 1991), 12,7%
(năm 1995). Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là
15,8%, năm 1995 là 27,4% 2. Lương thực không những đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước, mà
còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo 3. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và
cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối mới cho
bước phát triển tiếp theo.
+ Theo số liệu được công bố trong văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X (diễn ra từ ngày 7 đến
10-5-1996), trong 5 năm (1991-1995), Cơ cấu nền kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
+ Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu mở rộng, nguồn vốn đầu tư của nước
ngoài tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng hàng năm 26,6%, năm 1995 tăng gấp hơn
3 lần năm 1990; Du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh lOMoAR cPSD| 45740413
+ Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ: Nạn lạm phát ở mức cao từng bước bị đẩy lùi, năm 1995 chỉ
còn 12,7%. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách được kiềm chế
- Hoạt động khoa học - công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích
nghidần với cơ chế thị trường.
- Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút. Số trường phổ
thông trong 5 năm tăng 12,6%,
- Số máy điện thoại sử dụng năm 1995 cao gấp 7 lần năm 1991,
- Chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được củng cố. Trong những năm 1991 - 1995,
chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước,
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm
vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tiếp tục thực hiện có
hiệu quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an
ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn.Chất lượng cũng như sức
chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân được củng cố.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng
đồng quốc tế Trong 5 năm 1991 - 1995, chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào;
xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực. Nước ta
trở thành thành viên của tổ chức ASEAN (7-1995), củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước
Giai đoạn 1991-1995 là thời kỳ mở đầu sự hợp tác, liên doanh đầu tư với nước ngoài trên địa bàn
tỉnh. Tính đến năm 1995, đã có 12 dự án đầu tư nước ngoài vào Quảng Ninh với tổng vốn đầu tư
nước ngoài là hơn 140 triệu USD. Trong ảnh: Khu công nghiệp Cái Lân, một trong những trung
tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Quảng Ninh Tổng thống Bill Clinton thông báo Hoa
Kỳ quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khép lại quá khứ và mở ra tương lại cho cả hai nước. (Oa-sinh-tơn ngày 11/7/1995). Được sự giúp
đỡ của chuyên gia giáo sư Chue Shueloe và hãng Sadoz Hong Kong, ngày 4/6/1992, tập thể giáo
sư, bác sĩ của Học viện Quân y 103, Bệnh viện Việt Đức đã thực hành thành công ca mổ ghép thận đầu tiên của Việt Nam * Hạn chế:
- Nước ta còn nghèo và kém phát triển, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quảsản
xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Nhà nước còn thiếu
chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân - Tham nhũng, lãng phí, buôn lậu...chưa được ngăn chặn.
- Tiêu cực trong bộ máy Nhà nước, Đảng và toàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất làtrên
lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động
của nhiều cơ quan thi hành pháp luật… nghiêm trọng và kéo dài
- Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị, nông thôn và giữa các tầng lớp dân cưtăng
nhanh. Đời sống nhân dân còn khó khăn - Quản lí nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu kém
- Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm
IV. Công cuộc đổi mới 1996-2000
a. Đại hội VIII (6/1996) đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 5 lOMoAR cPSD| 45740413
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã thông qua Phương hướng, nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000, trong đó nêu rõ: “Đẩy mạnh công cuộc đổi
mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đại hội VIII (tháng 6/1996) đã:
- Tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong thời kỳ mới
- Khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN -
Đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996-2000:
+ Đẩy mạnh đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
+ Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững. + Giải
quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện đời sống nhân dân. Nâng cao tích lũy nội bộ từ nền kinh tế.
b. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới * Tiến bộ: - Kinh tế:
+ Kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng
năm 7%. Công nghiệp tăng 13.5%. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỉ trọng công nghiệp tăng 36,6%.
Nông nghiệp: sản lượng lương thực tăng 5,7% , bình quân đầu lương thực đầu người năm 2000 là
444kg. Chuyển dần tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ. Tỉ
trọng nông nghiệp giảm còn 24,3%
+ Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hình thành nền kinh tế nhiều thành phần (Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu; Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát
triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, đã góp
phần quan trọng vào cá thành tựu kinh tế - xã hội; Kinh tế tư bản tư nhân trong các nước bước
đầu phát triển, tập trung phần lớn vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản;
đầu tư vào sản xuất còn ít. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh
nghiệp quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động; Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình
thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài đang phát triển.
+ Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. : Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất
khẩu... Phát triển xuất khẩu đạt 51,6 % tỉ USD tăng 21% trong đó xuất khẩu công nghiệp đạt 10 tỉ
USD, nông nghiệp đạt 4,3 tỉ USD. Nhập khẩu 61 tỉ USD tăng 13,3%. Có quan hệ buôn bán với
hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ , thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài
- Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Về khoa học tự nhiên và công nghệ, đã
chú trọng hơn việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ ưu tiên như
vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin... Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu
và chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh được đẩy mạnh hơn trước. lOMoAR cPSD| 45740413
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ
sở vật chất. ( Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới, sau một số năm giảm sút.
Tỉ lệ người biết chữ trong dân đã nâng lên đạt mức 90%; tỉ lệ trẻ em đi học trong độ tuổi phổ
cập tiểu học và số học sinh phổ thông các cấp học đều tăng; tỉ lệ lưu ban; bỏ học giảm; Mạng
lưới trường phổ thông mở rộng đều khắp các xã, phường; cơ sở vật chất được cải thiện; Các tỉnh
và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em người dân tộc; Hệ thống giáo dục đại
học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghề và loại hình đào
tạo. Các trường đại học và cao đẳng được sắp xếp lại.)
* Khó khăn và hạn chế.
- Kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao. Hiệu
quả sức cạnh tranh thấp. ( Lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, cơ sở vật chất, nhất là kết cấu hạ tầng
còn lạc hậu; trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm; nguồn nhân lực có kiến thức,
tay nghề, năng lực kinh doanh còn ít, lại chưa được sử dụng tốt; năng suất lao động xã hội tăng chậm.)
- Kinh tế Nhà nước chưa tương xứng với vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể chưa mạnh. Các thành
phần kinh tế khác chưa được phát huy mạnh mẽ các tiềm năng, vừa chưa bảo đảm hoạt động có
trật tự, kỷ cương theo pháp luật.
- Hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.
- Tỉ lệ thất nghiệp cao, đời sống nhân dân, nhất là nông dân, ở một số vùng còn thấp. Sự phân
hoágiàu nghèo diễn ra không bình thường. Chỉ số giá tiêu dùng trên 10%/năm càng gây thêm
khó khăn cho những người có thu nhập thấp. Tình trạng tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp
chưa ngăn chặn được, có chỗ nghiêm trọng hơn. Kỷ cương, kỷ luật và trật tự xã hội còn nhiều chỗ chưa tốt.
V. Công cuộc đổi mới 2000 đến nay
* Nội dung công cuộc xây dựng và đổi mới từ năm 2000 đến nay về mặt đối ngoại:
A. Nội dung đổi mới nằm trong các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc về công tác đối
ngoại của Việt Nam từ năm 2000 đến nay(các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc IX –
XII) a. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX

• Diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1.168 đại
biểu chính thức thay mặt cho 2.479.719 đảng viên cả nước.
• - Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đã trình
bày 10 vấn đề, trong đó bao gồm vấn đề về mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
• - Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua cũng bao gồm tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững
• - Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các lĩnh
vực khác bao gồm việc “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” 7 lOMoAR cPSD| 45740413
b. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
• Được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại diện
cho 3,1 triệu đảng viên, đã tham dự lễ khai mạc.
• - Báo cáo chính trị: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển
” đã trình bày 12 vấn đề trong đó bao gồm vấn đề về mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
c. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
• Được khai mạc ngày 12/01/2011 tại Hà Nội và bế mạc vào ngày 19/01/2011.
• - Trên cơ sở các văn kiện được trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Ban Chấp
hành Trung ương đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong cương lĩnh bao gồm những
định hướng lớn, trong đó có nội dung về tăng cường hoạt động đối ngoại
d. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
• Diễn ra từ ngày 20 đến 28 tháng 1 năm 2016 ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia tại phường
Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
• - “…toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội
lần thứ XI của Đảng, đạt được những thành quả quan trọng.” - Những thành quả quan
trọng này được liệt kê, trong đó bao gồm việc “Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
” –
Đảng và nhà nước có những nhìn nhận về những thành công đạt được trong công cuộc
xây dựng quan hệ quốc tế.
• - Việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
cũng bao gồm việc thực hiện cân bằng “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”.
• - Được nêu lên trong nhiệm vụ tổng quát của Đảng và Nhà nước là việc “Giữ gìn hoà
bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị
thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

• - Các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển và khắc phục hạn chế
lần được được liệt kê, trong đó bao gồm nhiệm vụ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng
thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới,
tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
e. Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII

• Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khai mạc
sáng ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ đô Hà Nội.
• - Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Diễn văn khai mạc Đại hội.
Đồng chí nhấn mạnh nhiều khía cạnh về việc tổ chức đại hội, và việc kiểm điểm sâu sắc,
toàn diện quá trình xây dựng Đảng. Một trong những vấn đề được nhắc tới bao gồm:
Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi
vào chiều sâu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
lOMoAR cPSD| 45740413
thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước, đồng thời đóng góp tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của
thế giới và khu vực, được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế
của Đảng, Nhà nước, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.

• - Những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII bao gồm các việc:
Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại,
hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực
lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo,
vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.”

Và “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn
hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực
hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.”

Qua nội dung các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc thứ IX đến XIII có thể thấy rõ rằng
công cuộc phát triển kinh tế, xã hội và giữ gìn độc lập, hòa bình ngày càng được Đảng
và Nhà nước cho rằng có quan hệ gắn bó mật thiết, đi đôi với các hoạt động đối ngoại
và hội nhập quốc tế. Tầm quan trọng của các hoạt động ngoại giao ngày càng được
củng cố và thực hiện thường xuyên hơn, việc xây dựng quan hệ hợp tác và hòa bình
với các nước, các khu vực trên thế giới chính là việc nắm bắt cơ hội của thời đại đã và
vẫn đang liên tục tạo ra các môi trường thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, xã hội và
giữ gìn hòa bình độc lập.
B. Những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt Nam
• Như đã nói ở trên thì việc đối ngoại đã tạo ra rất nhiều cơ hội thuận tiện cho việc phát
triển kinh tế, xã hội. Một số hoạt động, thành tựu nổi bật của công cuộc này đã tạo ra điều
kiện phát triển cho nền kinh tế nước nhà và rất xứng đáng được nêu tên. a. Tổng quát về
hoạt động đối ngoại, ngoại giao đã đạt được:

• Về ngoại giao chính trị, ngành ngoại giao Việt Nam đã thích cực thúc đẩy mối quan hệ
song phương và đa phương giữa Việt Nam với các đối tác, góp phần củng cố vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, trên phạm vi khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và
đang củng cố vai trò và vị thế của mình trên mọi lĩnh vực, luôn nêu cao tinh thần trách
nhiệm, là thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế, chủ động xây dựng và nâng cao
hiệu quả hợp tác giữa các quốc gia.
• Về ngoại giao kinh tế, ngành Ngoại giao Việt Nam chủ động đóng góp tích cực trong quá
trình ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do, góp phần giúp Việt Nam đa dạng
hoá thị trường và sản phẩm, đưa hàng hoá Việt Nam ra thế giới. Thời gian qua, ngành 9 lOMoAR cPSD| 45740413
Ngoại giao đã đôn đốc triển khai và đưa các hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực đi
vào thực chất, đạt hiệu quả.
• Về ngoại giao văn hoá, các cơ quan đại diện Việt Nam đã tích cực phối hợp với các đơn vị
trong nước cũng như chính quyền, người dân sử tại để tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao
văn hoá với sự đa dạng về nội dung, hình thức, góp phần giới thiệu, quảng bá hiệu quả về
đường lối, chính sách, tiềm năng, thế mạnh cũng như về lịch sử, vẻ đẹp văn hoá, đất nước
và con người Việt Nam. Trong thời gian qua, các cơ quan đại diện Việt Nam đã chủ động
tổ chức các chương trình giao lưu trong khuôn khổ Chương trình Ngày Việt Nam ở nước
ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2010.
• Nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài và các
cơ quan trong nước, công tác bảo hộ công dân tại nước ngoài thời gian qua đã đạt được
những kết quả tích cực.
b. Một số thành tựu đối ngoại đáng được nêu tên
- Việt Nam đã tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định
thương mại song phương với Mỹ năm 2001, gia nhập một loạt các cơ chế đa phương
quan trọng như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Việt Nam đã đăng cai
các hội nghị cấp cao của, ASEM (2005), APEC (2006), là Ủy viên không thường trực
của Hội đồng Bảo an (HÐBA) Liên Hợp Quốc (LHQ) các nhiệm kỳ 2008 - 2009 và
2020 - 2021, Chủ tịch ASEAN vào các năm 1998, 2010 và 2020…
- Hiệp định EVFTAgiữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực từ tháng
8/2020 đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Chỉ trong năm
2021, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỷ USD, tăng trưởng 14,8%,
trong đó, Việt Nam xuất sang EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2020.
C. Những thách thức tron công tác đối ngoại của Việt Nam
Trong thời gian tới, Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn,
đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của ngành Ngoại giao trong công cuộc phát triển đất nước.
• Cùng với sự phát triển nhanh chóng một số quốc gia lớn và sự thay đổi về tương quan lực
lượng giữa các cường quốc, xu hướng đa cực, đa trung tâm vẫn sẽ tiếp tục giữ vị trí chủ
đạo và diễn biến ngày một phức tạp hơn.
• - Xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa sẽ tiếp tục là xu hướng tất yếu. Các cơ chế hợp tác
khu vực và các hiệp định thương mại tự do sẽ tiếp tục phát huy vai trò của mình trong
thời gian tới, tuy nhiên, những cơ chế hợp tác hiện hành có thể sẽ gặp phải những khó
khăn nhất định khi chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân túy đã và đang nổi lên ở nhiều
quốc gia, gây cản trở nhất định đến xu hướng tự do hóa và tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến
các quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào hoạt động xuất, nhập khẩu, trong đó có Việt Nam.
• Hoà bình và an ninh trên thế giới đang bị đe doạ bởi các vấn đề an ninh truyền thống và
phi truyền thống. Chiến tranh và xung đột nội bộ vẫn tiếp tục xảy ra trên nhiều lục địa,
quốc gia, đe doạ cuộc sống và sự ổn định của người dân.Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi
truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố… vẫn
sẽ là mối nguy hàng đầu, thách thức nỗ lực hợp tác của các quốc gia. Tình hình dịch
Covid-19 hiện nay cũng đã gióng hồi chuông cảnh báo về những đại dịch mới có thể xảy lOMoAR cPSD| 45740413
ra trong tương lai, đòi hỏi các quốc gia phải luôn sẵn sàng để ứng phó. Bên cạnh đó, hoạt
động khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia cũng ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường
hơn khi mà các tổ chức tội phạm lợi dụng những lỗ hổng của cuộc cách mạng công nghệ
4.0 để thực hiện âm mưu chống phá, lật đổ chính quyền.
• Đối với vấn đề an ninh khu vực, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục sẽ đóng vai
trò trọng tâm trong chính sách của các nước lớn. Việt Mỹ và các đồng minh gia tăng hợp
tác quân sự trong khu vực này có nguy cơ tạo ra một cuộc chạy đua về quân sự, đặc biệt
là khu vực biển Đông, nơi đang xảy ra các vụ tranh cháp chủ quyền biển đảo giữa
Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam Kết luận:
Về mục tiêu, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dù cách diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung
Đảng ta đều xác định rõ được mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Cụ thể
là: Đại hội VI xác định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VII (năm
1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong
đó xác định: Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ
bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa
phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh. Đại hội XI thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
xác định: Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo
cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Về nội dung, Đại hội VI của Đảng năm 1986 xác định nội dung với nhiệm vụ của những năm còn
lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu
tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan
hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển
biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu quốc phòng và an ninh. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta
xác định nội dung cơ bản là: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân
lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân các nước trên thế giới.
Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được thực tiễn xây dựng và phát
triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định là đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Tuy nhiên, quá độ lên CNXH ở nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan
xen nhau và diễn biến phức tạp, không thể xem thường. Những thành tựu đạt được trong hơn 35
năm đổi mới là to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh
về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo 11 lOMoAR cPSD| 45740413
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong những thập niên tới, như Đại hội XIII
của Đảng đã đề ra: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện
đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao”. Có thể khẳng định, sự đúng đắn của quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới nước ta gần 30 năm qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-cong-cuoc-doi-
moikinh-te-dat-nuoc-1491890466 2.
http://www.baohagiang.vn/Dang-trong-cuoc-song-hom-nay/202001/doi-moi-nam-
1986bai-hoc-tu-doi-moi-tu-duy-cua-dang-754134/ 3.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/821806/bai-
hocve-xay-dung%2C-chinh-don-dang-qua-35-nam-doi-moi.aspx 4.
https://baoquangninh.com.vn/bai-16-giai-doan-1991-1995-nhung-con-so-an- tuong2204897.html\ 5.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-
thuxii/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-cong-san-viet-nam-3