lOMoARcPSD| 57855709
HÃY TRÌNH BÀY HIỂU BIẾT VỀ CÁC TỪ KHÓA VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC
THÁI
MƯƠNG PHAI LÁI LÍN LỐC CỌN
Mương phai lái lín hệ thống nước tưới tiêu truyền cổ truyền trong canh tác ruộng
của người Thái.Đối với đồng bào dân tộc Thái, nước được đặt vào hàng đầu trong việc làm và
hệ thống đó được thâu tóm bằng thành ngữ mương, phai, lái, lín, một chỉnh thể tương đối
khép kín.Trong quá trình vận động, chỉ một mắt xích nào đó bị thay đổi đều sẽ dẫn đến hệ quả
biến đổi chung của cả hệ thống.
Khó xác định mốc thời gian cụ thể về sự xuất hiện của mương- phai- lái- lín, song
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự ra đời của nó gắn liền với lịch sử canh tác ruộng nước hàng
trăm năm của các cộng đồng trong các khu vực thung lũng lòng chảo. mương- phai- lái- lín, vì
vậy, trở thành đặc trưng văn hoá, được nhắc đến trong tục ngữ, đã đio thi ca và có mặt trong
hệ thống nghi lễ của tộc người.
Mương: Là những đường được nối từ phai đdẫn nước vào ruộng, thể chạy
men theo sườn đồi dọc các cánh đồng. Mương ba loại: mương chìm (mương đào); mương
nổi (mương đắp) ơng nửa chìm, nửa nổi. Để dòng chảy thể vượt qua khe, người ta
cắm hai hàng cọc tre cách nhau từ 50-100cm rồi ghép các thân cây tre hình hộp sau đó lót kín
bằng các phên nứa. Hiện nay, hệ thống mương này đã được bê tông hóa.
Phai:Do sinh sống ở gần các con sông, suối nên dân Tày, Thái đã sáng tạo hệ thống
“phai”- thực chất là dựng đập ngăn nước để tạo độ chênh lệch của dòng chảy, từ đó đưa nước
vào mương và từ mương chảy qua hệ thống máng dẫn bằng tre, nứa xuống các thửa ruộng bậc
thang cao khoảng 5m so với mặt suối
Lái: Nước từ mương được đưa đến những thửa ruộng riêng lẻ bằng hệ thống các phai
phụ, người Thái gọi là Lái. Hệ thống này còn tác dụng ngăn nước các đoạn mương bị vỡ
để tiếp tục dâng nước lên cao cho chảy vào ruộng hoặc dẫn nước mương vượt qua các chướng
ngại vật như đá, gốc cây...
Lín: là hệ thống dẫn nước được làm bằng tre, nứa hoặc bương, bổ làm đôi hoặc để cả
ống tùy theo vị trí sử dụng. các đường máng dùng để dẫn nước từ mương hoặc lái vào các thửa
ruộng chỗ dài hàng trăm mét. Các đường máng dùng để dẫn nước từ mương hoặc lái vào
các thửa ruộng chỗ dài hàng trăm mét. Các ống máng ngắn gọi “to” hoặc “láy” để đưa
nước vào các thửa ruộng gần mương, hoặc đưa nước từ ruộng trên xuống ruộng dưới, hay tháo
khô cho ruộng khi cần thiết. Các ống máng này thường có nắp đậy để điều tiết mực nước trong
ruộng và điều phối đồng đều nước ở ruộng trên và ruộng dưới.
Cọn: Đối với những ruộng bậc thang ở trên cao khoảng 3-4m không thể sử dụng phai
mương để lấy nước ới. Vì vậy cư dân Tày, Thái đã sáng tạo ra những chiếc cọn nước. Một
chiếc cọn thể cung cấp nước tưới cho 0,5-1ha ruộng. Cọn được làm bằng tre, gỗ, hình
dáng bánh xe, đường kính có thể lên tới 6-7m. Cơ chế vận hành của cọn nước là lợi dụng dòng
chảy xiết của suối nhờ vào phai. Lực tác động của dòng chảy xiết làm bánh xe quay, trên
vòng tròn của bánh xe người ta đặt các tấm tre làm thành cánh quạt cản nước. Mỗi bên cánh
quạt trên thân bánh xe đều có gắn các ống nứa. Khi bánh xe quay, các ống nứa này tiếp c với
dòng chảy múc nước để đưa lên cao đổ vào máng, liên tục như vậy và nước từ máng được
đưa vào ruộng.
lOMoARcPSD| 57855709
Do địa hình phức tạp, các thửa ruộng ng thung lũng độ cao thấp khác nhau
không phải thửa ruộng nào cũng gần nguồn nước chảy tự nhiên. Trong điều kiện đó, để giải
quyết nước cho sản xuất, canh tác nông nghiệp, cư dân Thái đã cùng nhau xây dựng lên một hệ
thống tưới tiêu cung cấp nước cho cả mường.
Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, cư dân Tày, Thái đã áp dụng các biện pháp kỹ
thuật mới vào sản xuất, biết thâm canh, tăng vụ; chuyển canh tác lúa theo hai vụ, từ một vụ lúa
nếp trở thành hai vụ lúa tẻ hoặc một nếp một tẻ. Hệ thống thủy nông đã được cải tạo, phù
hợp với mô hình sản xuất mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bảo tàng văn a các dân tộc Việt Nam, Tìm hiểu hệ thống “Dẫn thủy nhập điền” của nhóm
cư dân Tày, Thái qua hệ thống trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
2.Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tri thức truyền thống về khai thác, sử dụng nước của người
Thái Đen
CÁ NƯỚNG
Cá nướng (pa pỉnh tộp) là một món ăn truyền thống của người Thái, được làm từ cá
suối các gia vị, nướng trên than hồng.Pa pỉnh tộp hay còn pla pỉnh tộp,theo tiếng Thái
nghĩa là "cá nướng nguyên con", là tên gọi món cá nướng của đồng bào dân tộc Thái Tây
Bắc.
Nguyên liệu để làm món cá nướng, người Thái vùng Tây Bắc lấy những nguyên liệu
sẵn từ núi rừng món quà thiên nhiên Tây Bắc ban tặng.Nguyên liệu không thể thiếu
của món cá nướng Tây Bắc ngon đó 1 con cá sông tươi: Các bạn có thể chọn cá khoảng n
1 cân thể là chép hoặc phi nhưng người Thái thường chọn chép bởi chép suối
khi nướng lên thịt rất ngọt và thơm.
Các gia vị đi kèm để chế biến món cá nướng mà người Thái sử dụng đó là mắc khén-
đây là gia vị tạo nên hương thơm khác biệt cho món cá nướng và hạt dổi cùng với các các loại
rau như: rau mùi, rau húng, mùi tàu, thì là; hành khô, hành lá, ớt, sả tươi,..Gia vị muối,
chính, mắm, hạt nêm, dầu ăn.Cá nướng được nướng bằng vỉ nướng hoặc xiên nướng bằng
than củi
Sau đó sẽ chế các gia vị để làm hỗn hợp ướp nướng: mắc khén rửa sạch, rang
khô trên chảo khoảng 3 phút cho ra chén để nguội; hạt dổi rửa sạch, nướng trên bếp than
hoặc bếp củi 5 phút, cho ra chén để nguội; hành khô tỏi bỏ vỏ,thái lát mỏng; ớt rửa sạch bỏ
cuống băm nhuyễn; sả chỉ lấy phần bên trong bỏ phần vỏ già, rửa sạch để ráo nước,đập dập củ
sả rồi thái lát mỏng; hành lá, mùi tàu, rau húng, thì là cũng rửa sạch, để ráo nước, rồi thái nhỏ
Tiến hành làm hỗn hợp gia vị cho món cá nướng: Đầu tiên bạn cần bỏ hạt dổi và mắc
khén vào cối giã nhuyễn. Sau đó, cho hành khô, tỏi và sả trộn lẫn và giã, hốm hợp càng nhuyễn
càng tốt , rồi đổ ra chén.Tiếp theo cho lần lượt phần ớt băm, 1 thìa cà phê muối hạt to, 1/2 thìa
bột ngọt, 1 thìa canh dầu ăn vào và trộn đều hỗn hợp lên.
chế ướp để nướng: Bước 1: tươi được mổ moi hết ruột, bỏ vẩy cắt hết
vây. Dùng dao sắc khéo léo để loại bỏ phần xương sống cá và sau đó khứa những đườn ngang.
Nên khử mùi tanh của bằng cách ngâm trong nước muối pha loãng khoảng 4-> 5 phút.
Tiếp theo vớt cá ra rửa sạch với nước và để ráo.Bước 2: Sau khi cá đã ráo nước, bạn cho hỗn
hợp đã chuẩn bị bên trên ướp đều phần thịt phía trong con cá.. Tiếp tục cho phần gia vị còn lại
vào những đường đã khía. Cá nên ướp trong 30 phút cho ngấm gia vị
lOMoARcPSD| 57855709
Nướng chuẩn vị người Thái vùng Tây Bắc: nhóm bếp than hoặc củi cho hồng.Cá
được xiên vào xiên dài hoặc cho vào vỉ, nếu vỉ không to bạn có thể gập ngang thân cá sao cho
tạo thành hình tam giác để chuẩn bị nướng cá
Phết 1 ít dầu ăn vào vỉ nướng, nướng qua trên bếp lửa cho nóng vỉ để vỉ nướng đỡ
dính chặt vào cá khi chín. Nếu dùng xiên thì o cần thiết phải phết dầu ăn vào xiên. Tiếp đó, kẹp
cá vào vỉ nướng hoặc cá đã xiên cho lên than hồng, lật đều tay sao cho cá chín vàng đều.
Trong quá trình nướng cần chú ý để lửa vừa giúp cá nướng được chín từ từ, vàng đều.
Khi mỡ chảy ra, rơi xuống lửa than xèo xèo, bạn sẽ cảm nhận được hương vị thơm ngon hấp
dẫn của món cá nướng Tây Bắc của người dân tộc Thái.
Chẩm chéo- gia vị đi kèm khi thưởng thức món nướng của người Thái vùng Tây
Bắc. Pha chẩm chéo: Trộn đều 1muỗn bột canh, ½ muỗn hạt mắc khén giã, 1 quả ớt đã nướng
qua,1 ít gia vị lấy từ trong bụng cá đã nướng, vắt vào 1 trái tắc.
Hình thức ăn món cá nướng này cũng vô cùng độc đáo. Khi ăn, người ta mới lấy phần
gia vị còn thừa khi nãy xoa đều lên mình thêm lần nữa. Phần gia vị nướng cũng thể
dùng làm nước chấm với mùi thơm cay, đậm đà của mắc khén. Pa pỉnh tộp nóng hổi, đẫm gia
vị, ăn kèm xôi nếp nương là ngon nhất. Cá chắc, thơm, đẫm gia vị, quyện với xôi dẻo ngọt.
Ngày nay, người ta cũng ăn pa pỉnh tộp như một món nướng thông thường, gỡ
từng thớ cá, cuốn với bánh đa nem, rau sống, dứa, khế... chấm với nước mắm tỏi ớt, ăn kèm
bún như các món ăn dưới xuôi cũng rất hợp vị. Các nhà hàng ở thành phố thường gói cá trong
giấy bạc đnướng nhưng ngon nhất vẫn là cá nướng than hồng bởi mùi vị đặc trưng, khó
quên.
Pa pỉnh tộp còn thể hiện văn hóa của người Thái, pa pỉnh tộp được coi món ăn trang
trọng của người Thái. Vào ngày Tết, gia đình người Thái bất kể giàu hay nghèo đều phải
món cá nướng gia vị để đặt lên bàn thờ, như lời báo cáo với tổ tiên rằng con cháu có một năm
no đủ và mong một năm mới thịnh vượng. Khi có khách tới chơi nhà, gia chủ thường giục con
cháu sửa soạn mâm cơm với món cá này để thể hiện sự tôn trọng, hiếu khách. Trong đám cưới,
đám hỏi món cá nướng được dùng như lễ vật để nhà trai thưa chuyện với nhà gái
Pa pỉnh tộp còn được dùng như món quà quý để biếu người thân, bạn mang theo
những ngày đi rừng, đi nương xa nhà lâu ngày. Người Thái xưa câu: tần đem đến
không bằng pa pỉnh tộp đem cho” thể hiện sự quý giá của món ăn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo Tây Bắc TV, Cá nướng- món ăn nổi tiếng của người Thái vùng Tây Bắc
2. ngoisao.vnexpress.net/pa-pinh-top-mon-ca-nuong-la-tai-cua-nguoi-thai
ÁO CÓM
Người Thái thường mặc những bộ trang phục được làm từ vải dệt tay, với màu sắc
sặc sỡ hoa văn đa dạng. Những bộ trang phục này không chỉ để mặc trong đời sống hàng
ngày còn được sử dụng trong các dịp lễ hội hay sự kiện quan trọng. Các bộ trang phục
thường có sự kết hợp hài hòa giữa tính truyền thống và tinh thần hiện đại, giúp người Thái duy
trì bản sắc văn hóa mà vẫn dễ dàng thích nghi với xu hướng thời trang hiện nay.
Mỗi vùng miền của người Thái lại những đặc trưng riêng về kiểu dáng, màu sắc
họa tiết trên trang phục, tạo nên sự đa dạng phong phú trong văn hóa truyền thống.
lOMoARcPSD| 57855709
Người Thái Trắng thường mặc áo cóm kết hợp với váy Piêu, đây là những trang phục không
thể thiếu trong đời sống hàng ngày cũng như trong các dịp quan trọng. Trong khi đó, người
Thái Đen lại ưa chuộng những bộ trang phục gam màu trầm, tối giản nhưng toát lên vẻ
thanh lịch và tinh tế, phản ánh nét đẹp đặc trưng của cộng đồng.
Khi nhắc đến trang phục của người Thái, người ta sẽ nhớ đến ngay những bộ trang
phục cực kỳ tôn dáng, tôn lên những đường nét đẹp nhất của người phụ nữ Thái. Họ ưa thích
vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch và kín đáo, mỗi bước đi của họ đều rất uyển chuyển và nữ tính. Vì
thế mà "gái Thái" luôn có một nét đẹp kỳ lạ trong mắt của người khác.
Dân tộc Thái được chia thành hai nhóm người đó Thái Đen Thái Trắng, trang
phục áo cóm vì thế cũng có sự khác biệt. Áo Cóm của phụ nữ Thái trắng thì cổ áo có hình trái
tim, nẹp vải đen; trong khi đó, áo Cóm của người Thái đen lại được may cổ tròn, cao, ôm khít
cổ. Bộ váy áo Cóm được phụ nữ Thái sử dụng trong tất cả các hoạt động đời sống hàng ngày.
Phụ nữ Thái Đen họ ưa thích làm duyên và có trang phục khá độc đáo, nhìn chung sẽ
có áo, váy và khăn trùm đầu. Áo thì là chiếc áo cóm có thể V khá thấp, phần cổ áo và cổ tay sẽ
viên khá tinh tế, tạo dáng ôm tự nhiên vào cơ thể. Nẹp áo thường được đơn những hàng cúc,
hình com bướm, ong, ve với màu sẫm cực kỳ nổi bật.
Cúc áo gái thái thể hiện ý nghĩa sinh linh khá độc đáo, con người có trai có gái thì cúc
có có đực có cái. Phụ nữ đã có chồng thì hàng cúc sẽ là số chăn, còn đang con gái thì là cúc lẻ,
thường là 11, 13. Ở phần nách áo sẽ có một miếng vải được cắt nối một miếng vải nhỏ để ôm
phần ngực, tạo nên đường cong mỹ miều cho các cô gái.
Áo sẽ được mặc cùng với váy, váy được nhuộm chàm, làm bằng vải nhưng hoặc
satanh. Chiều dài của váy thường tùy thuộc vào chiều cao nhưng đa phần sẽ mặc đến mắt
chân.
Phần cạp váy thường sẽ có màu nhạt hơn thân váy hoặc các màu sáng, có thể là vải kẻ
thổ cẩm hay được thêu thùa, phần mép dưới váy cũng được làm bằng viền thổ cẩm hết sức tinh
tế. Mỗi chiếc váy đều lớp lót bên trong để tạo nên sự kín đáo giúp đứng dáng hơn. Một
trong những phụ kiện không thể thiếu của các gái Thái Đen chính chiếc khăn piêu. Một
chiếc khăn có hình chữ nhật khá dài, được làm bằng thổ cẩm với những đường nét hoa văn
cùng tinh xảo. Họ sẽ đội lên đầu để che đi phần tóc của mình.
Người Thái Trắng chủ yếu mặc áo màu trắng có cổ hình trái tim. Áo có hai loại là áo
ngắn tay - dành cho phụ nữ tuổi, áo độc dành cho thiếu nữ. Áo sẽ cực kỳ sát người để
làm nổi bật lên nét duyên dáng của người phụ nữ.
Váy thì thường chỉ là váy quấn, đen trơn và không có nhiều họa tiết, váy dài tới chấm
gót chân. Thắt lưng không cầu kỳ như Thái Đen mà chỉ là tấm vải cotton hoặc tơ tằm với màu
xanh hay tím nhạt. Khăn đội đầu cũng không quá cầu kỳ, chỉ có màu trắng trơn hoặc chàm đội
lên và tóc sẽ búi cao hoặc búi ra sau.
Quần áo dân tộc Thái của nam dưới hiện nay cũng khá giống với người Kinh, họ cũng
có đồ truyền thống nhưng cũng khá đơn giản. Áo của đàn ông có hai loại là cánh ngắn và cánh
dành. Áo ngắn thường được làm bằng vải chàm, xẻ trực cổ tròn. Khuy áo một làm bằng
đồng, hai tết thành các nút vải giống như quần áo xưa. Áo sẽ là một màu trơn mà không
trang trí gì đặc biệt. Chỉ là trong các dịp đặc biệt họ sẽ mặc những chiếc áo mới có đôi quả chỉ
ở đầu đường xẻ hai bên hông áo. Quần cũng chỉ là quần suông
lOMoARcPSD| 57855709
Khi mặc áo cóm, việc lựa chọn màu sắc hài hòa với váy yếu tố quan trọng để tạo
điểm nhấn tôn lên vẻ đẹp tổng thể của trang phục. Thông thường, áo cóm sẽ được kết hợp
với váy Piêu loại váy truyền thống của phụ nữ Thái, tạo nên sự cân đối tinh tế. Ngoài ra,
cách thắt hàng cúc bướm trên áo cũng là một điểm nhấn đặc trưng, không chỉ giúp trang phục
thêm gọn gàng mà còn thể hiện nét duyên dáng, phong cách riêng của người mặc.
Điểm nổi bật nhất trên chiếc áo Cóm của phụ nữ Thái đó là 2 hàng khuy bướm mang
nhiều ý nghĩa về nhân sinh. Một bên đại diện cho hàng khuy bướm đực, một bên hàng
khuy bướm cái được cài đan xen vào nhau tạo thành một đường thẳng rất đẹp nổi bật trên
nền áo. Khuy bướm thường có 13 đôi, có nhiều hình dáng khác nhau như: hình con bướm, con
nhện, con ve hay hình lá cây... Hai hàng khuy này mang ý nghĩa về sự kết hợp của âm dương,
sự trường tồn của giống nòi.
Trong bộ áo Cóm của mình hàng cúc là bộ phận quan trọng, nó tôn lên vẻ đẹp của bộ
áo cóm. Áo màu sắc thế nào thì mình chọn khuy áo cho phù hợp hay như cái đai lưng
có màu xanh thì phù hợp với nhiều loại màu áo này.
Áo cóm còn ý nghĩa về văn hóa: Giá trị văn hóa của trang phục dân tộc
Thái không chỉ nằm việc gìn giữ các bộ trang phục truyền thống mà còn việc bảo tồn những
giá trị văn hóa, phong tục tập quán đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Trang phục dân tộc Thái thường xuất hiện trong các lễ hội lớn của cộng đồng, dịp
để người dân thể hiện bản sắc văn hóa và truyền thống. Những bộ trang phục rực rỡ, sắc màu
sặc sỡ cùng với điệu múa truyền thống tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu.Trong các lễ
hội, trang phục không chỉ mang ý nghĩa về văn hóa mà còn thể hiện sự tôn trọng đối với tổ tiên,
đất trời. Đây là dịp để người Thái thể hiện lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc và khẳng định bản
sắc văn hóa của mình trong dòng chảy hội nhập toàn cầu.
Nghệ thuật dệt và thêu của người Thái là một phần quan trọng trong việc tạo ra những
bộ trang phục truyền thống. Trải qua nhiều năm tháng, nghề dệt thêu đã được gìn giữ
phát triển, trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa của cộng đồng.Mỗi sản phẩm dệt
tay đều mang dấu ấn của người thợ, từ chất liệu đến hoa văn, màu sắc. Cách dệt và thêu không
chỉ thể hiện kỹ năng mà còn bộc lộ tâm tư, tình cảm của người thực hiện. Nghệ thuật này là tài
sản quý báu, cần được gìn giữ và phát triển để không bị mai một theo thời gian.
Việc bảo tồn phát huy nét đẹp của trang phục Thái hiện nay đang gặp nhiều thách
thức nhưng cũng tạo ra nhiều hội mới. Các chương trình giáo dục hoạt động văn hóa
đang được triển khai nhằm nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ về giá trị của trang phục truyền
thống.
Bên cạnh đó, việc tổ chức các sự kiện văn hóa, trình diễn thời trang dân tộc cũng giúp
giới thiệu quảng trang phục Thái đến với công chúng trong ngoài nước. Điều này
không chỉ góp phần bảo tồn giá trị văn hóa mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cộng
đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tây Bắc TV, Trang phục truyền thống dân tộc Thái – Nét đẹp văn hóa trường tồn
2.Điện Biên TV, Áo cóm - trang phục độc đáo của phụ nữ dân tộc thái
XỐNG CHỤ XÔN XAO
Trong kho tàng văn học dân gian của người Thái Tây Bắc, truyện thơ “Xống chụ xon
xao” (Tiễn dặn người yêu) có một vị trí xứng đáng. Với mọi thế hệ người Thái Tây Bắc, “Xống
chụ xon xao” quyển ch quí nhất trong mọi quyển sách quí! Theo các nhà nghiên cứu: “Tiễn
lOMoARcPSD| 57855709
dặn người yêu” một kiệt tác nghệ thuật dân gian giá trị nhân đạo sâu sắc”, là truyện thơ
hay nhất trong kho tàng truyện thơ của các dân tộc ít người, một tác phẩm lớn trong nền văn
học Việt Nam.
Truyện thơ “Xống chụ xon xao” được lưu hành bằng những bản chép tay ở khắp vùng
Tây Bắc: Nghĩa Lộ, Sơn La, Lai Châu... Bản do Mạc Phi sưu tầm và ấn hành năm 1960 có độ
dài 1846 câu.
“Xống chụ xon xao” là một câu chuyện tình kể về đôi trai gái khi còn là hai bào thai,
họ biết nhau từ trong bụng mẹ, hai người sinh ra gần như một giờ, một ngày cùng một
bản, họ yêu nhau từ thuở ấu thơ: “Yêu nhau từ thuở mới ra đời/Trao duyên gửi nghĩa từ hồi còn
thơ”. Lớn lên đôi trẻ “Đã thương nhau quyết lấy nhau”. Chàng trai hăm hở sắm lễ vật đến nhà
người yêu để xin cưới, nguyện sẽ làm rể ngoan, xin làm gô, cun cút cổ trơn”. Nhưng cha
mẹ nàng gạt phăng đi chê chàng trai nghèo khổ. Cha mẹ nàng ép gả nàng cho một con
trai nhà giàu nhưng xấu xí. Oái ăm thay khi “Mẹ cha ưng gả khi em còn ở trên nương/Khi em
còn đang ngoài ruộng”.
Nàng “nhắm mắt đưa cn“ nhận người mẹ cha ép gả về ở “rể ngoài” trong tâm trạng
cùng đau khổ, nhưng vẫn nuôi một hy vọng mong manh, chàng trai sẽ có cách thay đổi số
phận. Chàng trai ra đi làm ăn xa, với một niềm hy vọng: “Bạc mười nén anh schuộc em về/Vải
năm trăm anh sẽ cởi em ra”.
Ác nghiệt thay, thời gian trôi đi, “bảy mùa trôi xuôi”, người kia hết làm “rể ngoài”
rồi “rể trong”, chàng trai vẫn cuối trời thăm thẳm. Khi nàng đành đưa chân làm theo ý mẹ cha
“cho con về nhà chồng” thì chàng trai trở về, “đành nhìn người yêu bước về nhà chồng”. Chàng
trai không quản nguy hiểm chạy theo người yêu, cuộc tiễn dặn của đôi bạn tình khi đau đớn tột
cùng, khi đầy phấn khích. Khi cô gái bị chồng hắt hủi, đánh đập, chàng trai vẫn ở lại để an ủi,
chăm sóc thuốc thang. Hvẫn son sắt thề nguyền: “Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy
nhau mùa đông/Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già”.
gái bị nhà chồng ghẻ lạnh: “Khi chưa lấy nhau người vồ vập/Khi chưa đón về
người xun xoe”. Khi đã là dâu thì “dâu ơi xuống sàn ăn cám”, rồi còn bị chồng đánh đập, cuối
cùng bị nhà chồng đuổi về. Nàng lại bị bán cho nhà quan. Lần này nàng rơi vào hoàn cảnh bi
phẫn bội phần, đến nỗi “ngẩn ngơ vụng dại” và bị đem ra chợ rao bán, cuối cùng bị đổi với giá
một cuộn lá dong.
Ngẫu nhiên người đổi được nàng lại người yêu cũ, song chàng không nhận ra
nàng thay đổi quá nhiều. Chỉ khi nàng mang chiếc đàn môi chàng tặng năm xưa ra thổi, chàng
trai mới nhận ra, tình yêu lại đâm chồi nẩy nụ như “hoa sớm ngậm sương/Hoa khẳm cuối dòng
nẩy non tơ” (hoa khẳm loại hoa quí trong truyền thuyết, rất đẹp chỉ nở lúc nửa đêm).
Chàng trai đưa người yêu về nhà rồi tổ chức đám cưới, một đám cưới thật hạnh phúc sau bao
năm xa cách, đau đớn và tủi nhục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo Yên Bái, Tiễn dặn người yêu Truyện thơ hay nhất trong kho tàng dan tộc ít
người
SỬ THI CHƯƠNG HAN
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, sử thi là thể loại đặc biệt chứa đựng những
giá trị văn hóa, tinh thần dân tộc sâu sắc. Một trong những sử thi nổi bật tiêu biểu cho thể
loại này sử thi Chương Han. Đây một c phẩm không chỉ kể về những chiến công anh
lOMoARcPSD| 57855709
hùng mà còn phản ánh những giá trị đạo đức, truyền thống và lý tưởng sống của dân tộc. Qua
sử thi Chương Han, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống của người xưa mà còn cảm
nhận được sự kiên cường, lòng yêu nước tinh thần đấu tranh bất khuất của người Việt qua
các thời kỳ lịch sử.
Sử thi Chương Han là một tác phẩm sử thi dân gian đặc sắc, phản ánh cuộc đời, chiến
công oanh liệt của một người anh hùng dân gian mang tên Chương Han. Nhân vật Chương Han
là một hình mẫu lý tưởng của người anh hùng trong văn học dân gian Việt Nam, được miêu tả
người sở hữu sức mạnh phi thường, lòng yêu nước sâu sắc tinh thần chiến đấu kiên cường.
Chương Han xuất thân từ một gia đình nghèo khó nhưng lại có khả năng nh đạo và sức mạnh
vô song, trở thành người đứng đầu trong các cuộc chiến bảo vệ đất nước và quê hương.
Câu chuyện của Chương Han không chỉ là hành trình của một cá nhân mà còn là hành
trình tượng trưng cho sự đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Sử thi này không chỉ phản ánh
những cuộc chiến đấu anh hùng, mà còn mang thông điệp sâu sắc về lòng trung thành, tình yêu
đất nước sự hy sinh cộng đồng. Chính thế, Chương Han đã trở thành biểu tượng cho
sự bất khuất của con người Việt Nam trong những thời kỳ gian nan, thử thách.
Cốt truyện của sử thi Chương Han xoay quanh cuộc đời và những chiến công lớn lao
của nhân vật chính Chương Han. Chương Han không chỉ một chiến binh dũng mãnh
còn là người có trái tim nhân hậu, luôn đứng lên bảo vệ dân làng, bảo vệ những giá trị tốt đẹp
của cộng đồng.
Chương Han sinh ra trong một gia đình nghèo khó, nhưng ngay từ khi còn nhỏ, anh
đã bộc lộ tài năng phi thường. Từ những ngày đầu, anh đã thể hiện sức mạnh vượt trội so với
những đứa trẻ đồng trang lứa. Không chỉ sức khỏe phi thường, Chương Han còn người
trí tuệ khả năng lãnh đạo bẩm sinh. Khi đất nước lâm vào nguy nan, khi những thế lực
xâm lược từ phương Bắc kéo đến, Chương Han đã không ngần ngại đứng lên cầm quân, bảo
vệ quê hương.
Một trong những trận chiến oanh liệt nhất trong sử thi là cuộc chiến mà Chương Han
dẫn đầu quân dân tộc chống lại quân xâm lược. Mặc dù quân địch mạnh mẽ đông đảo, nhưng
với tài lãnh đạo chiến đấu, Chương Han cùng đội quân của mình đã giành được thắng lợi
vang dội. Trận chiến này không chỉ thể hiện sức mạnh quân sự còn khẳng định ý chí quật
cường của người dân Việt Nam trước sự xâm lược của các thế lực mạnh mẽ từ bên ngoài.
Kể từ đó, Chương Han trở thành người hùng trong lòng dân tộc, niềm tự hào của
đất nước tấm gương sáng về lòng yêu nước sự hy sinh. Anh không chỉ chiến đấu
danh vọng cá nhân mà còn vì bảo vệ tự do, hạnh phúc cho đồng bào, cho quê hương.
Bên cạnh nhân vật chính Chương Han, sử thi còn khắc họa nhiều nhân vật quan
trọng khác, mỗi người đều có vai trò riêng, góp phần làm phong phú thêm nội dung và thông
điệp của tác phẩm.
Chương Han: nhân vật trung tâm của sử thi, Chương Han được xây dựng hình
mẫu anh hùng lý tưởng. Anh không chỉ mạnh mẽ về thể xác mà còn có trí tuệ sắc bén và lòng
nhân ái. Chính sự kết hợp giữa sức mạnh và trí tuệ này giúp Chương Han trở thành người dẫn
đầu trong các cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.
Những người đồng đội của Chương Han: Những người đồng đội của Chương Han là
những chiến binh kiên cường, trung thành sẵn sàng hy sinh tưởng bảo vệ quê hương.
Họ không chỉ là những chiến hữu trong các trận đánh mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết và
tinh thần đồng đội. Những người này không ngại khó khăn gian khổ, luôn sát cánh cùng Chương
Han trong từng cuộc chiến.
lOMoARcPSD| 57855709
Những kẻ xâm lược: Quân xâm lược trong sử thi được miêu tả như những thế lực hùng
mạnh, tàn bạo và luôn tìm cách chiếm đoạt đất đai của dân tộc. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ về quân
sự, nhưng khi đối đầu với người dân Việt Nam, với những người anh hùng như Chương Han,
họ cuối cùng phải thất bại. Hình ảnh quân xâm lược trong sử thi không chỉ biểu tượng của
sự áp bức mà còn là thử thách đối với lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của người dân.
Sử thi Chương Han không chỉ một tác phẩm mang tính giải trí còn chứa đựng
nhiều giá trị văn hóa nhân văn sâu sắc. Từ câu chuyện của Chương Han, người đọc thể
rút ra nhiều bài học quý giá về lòng yêu nước, sự trung thành, và tinh thần đấu tranh vì những
giá trị tốt đẹp.
Giá trị văn hóa: Sử thi này chứa đựng những yếu tố văn hóa đặc trưng của người Việt
Nam. Các nhân vật trong tác phẩm đều mang đậm dấu ấn của cộng đồng dân tộc, với những
phẩm chất như lòng nhân ái, sự đoàn kết, ý chí vững vàng. phản ánh mối quan hệ mật
thiết giữa con người thiên nhiên, giữa con người với cộng đồng, khẳng định những giá
trị đạo đức, nhân văn mà dân tộc Việt Nam luôn coi trọng.
Giá trị lịch sử:là một tác phẩm mang tính chất huyền thoại, nhưng sử thi Chương
Han vẫn phản ánh được những giá trị lịch sử quan trọng. Nó gợi nhớ về những thời kỳ mà dân
tộc Việt Nam phải đối mặt với những thử thách lớn lao từ những thế lực xâm lược, khẳng
định sức mạnh, sự kiên cường của người dân trong các cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước.
Giá trị nhân văn: Câu chuyện của Chương Han cũng truyền tải thông điệp sâu sắc về
lòng dũng cảm, sự hy sinh tinh thần chiến đấu không mệt mỏi lợi ích chung của cộng
đồng. Chương Han không chỉ một người anh hùng mạnh mẽ còn người trái tim
nhân hậu, luôn vì dân vì nước mà chiến đấu.
Sử thi Chương Han một trong những tác phẩm văn học dân gian Việt Nam tiêu biểu,
không chỉ vì cốt truyện hấp dẫn mà còn vì những giá trị sâu sắc mà nó mang lại. Chương Han
hình mẫu của người anh hùng trong lòng người Việt, đại diện cho lòng yêu nước, sự kiên
cường và tinh thần đoàn kết. Qua sử thi này, chúng ta không chỉ hiểu thêm về văn hóa và lịch
sử của dân tộc còn nhận thức hơn về những phẩm chất cao quý mỗi người cần
trong cuộc sống. Chương Han sẽ luôn là biểu tượng bất diệt trong tâm trí người dân Việt Nam
về lòng yêu nước và khát vọng tự do.
TẾT XÍP
Lễ hội Xíp hay là Tết Xíp của người Thái, tại vùng Tây Bắc. Một phong tục
giống như lễ rằm tháng 7 âm lịch của người Kinh, thể hiện tình yêu quê hương, gìn giữ bản sắc
văn hóa dân tộc mình và nhớ công ơn người khai phá tạo mường, lập bản và ăn uống, vui chơi
văn hóa văn nghệ. Theo quan niệm người Thái, người chết thì hồn bay về trời. Cuộc sống nơi
trần gian của con người được tổ tiên, thần sông, thần núi che chở nên họ rất coi trọng thờ cúng.
Tập tục sinh hoạt và yếu tố sản xuất là cơ sở hình thành nên quan niệm về Tết Xíp Xí ngày 14
tháng 7 âm lịch.
Nguồn gốc bắt đầu từ dân tộc Thái Trắng. Quá trình di cư, giao thoa văn hóa đã làm
cho Xíp trở nên phổ biến. Ngày nay nhiều dân tộc cùng ăn Tết Xíp Xí. Tuy nhiên, giá trị
lịch sử văn hóa của loại hình sinh hoạt mang tính bản địa cao. Thường vào khoảng thời
gian kết thúc vụ thu hoạch, công việc cấy cày cho vụ mùa mới vừa xong, người nông dân thực
hiện "quai khẩu púng" (thả trâu vào rừng). Thời gian này khá rảnh rang.
Tết xíp xí có 2 phần, phần “ mo” Đầu tiên là nhớ đến đất trời cho mưa thuận gió hòa,
nhớ đến ông tổ tiên phù hộ độ trì. Cúng "Nà Hoóng" (cúng trong nhà) và "cúng tế ná" (cúng
ruộng). Đồ vật cúng gồm: thịt, rượu, "khẩu cắm" (cơm nếp nhuộm màu), bánh chưng gù. Tết
lOMoARcPSD| 57855709
Xíp Xí thường không thể thiếu "nhớ tu pết" (thịt vịt), vịt gắn bó với đồng ruộng, sông suối, đời
sống sản xuất của con người. Xíp Xí cúng thịt vịt là muốn con vịt ăn hết sâu bọ hại lúa, con vịt
mang điều không may mắn, điềm xấu trôi theo dòng nước.
phần hội, Ăn uống trong gia đình, người ta trò chuyện vui vẻ, hỏi thăm tế nhị, chúc
tụng cởi mở. Với tấm lòng hiếu khách chân thànhluôn rộng mở. Vui chơi ca hát "khắp chúc
muôn" (hát chúc mừng), "khắp khoắm son cún" (hát dạy làm người), "khắp long te" (hát
trên sông), "khắp báo sao" (hát trao duyên), hát lúc ăn uống, lúc thăm nhau. Chủ nhà với cây
đàn "tính tẩu" (đàn bầu người Thái) có thể giãi bày tình cảm, ngôn từ mộc mạc, âm thanh réo
rắt, làm cho bữa tiệc không còn là say rượu mà say tình, say nghĩa.
Nghi lễ Tết "Xíp xí" góp phần củng cố sự gắn kết, thống nhất giữa các thành viên trong
gia đình cộng đồng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Từ đó những yếu tố về văn hóa truyền thống được bảo lưu và kế thừa, giúp các thế hệ
sau hiểu được về văn a truyền thống của dân tộc mình. Đây cũng nghi lễ mang đậm bản
sắc tộc người, mang yếu tố tâm linh, nhân văn, gắn kết cộng đồng sâu sắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tết Xíp xí của người Thái
2. Lễ hội Xíp xí – Wikipedia tiếng Việt
XÒE THÁI
Xòe Thái hay xòe, xe, hay ít phổ biến hơn là mố, múa xòe, múa then, hát then
[1]
loại hình văn hóa dân gian của người Thái tại Việt Nam. Ngày 15/ 12/2021 tại Phiên họp Uỷ
ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 16 của
UNESCO diễn ra tại Paris, thủ đô nước Cộng hòa Pháp, di sản Nghệ thuật Xòe Thái của Việt
Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại
Người Thái có câu:
“Không xòe, không tốt lúa Không
xòe, thóc cạn bồ
Không xòe, hoa sẽ tàn héo
Không xòe, trai gái không thành đôi”
Trong quá trình di cư của người Thái từ phương Bắc xuống phương Nam, một số bộ
phận định cư ở vùng Tây Bắc Việt Nam, họ đã mang theo những câu chuyện thần thoại, truyện
cổ tích, những bài dân ca, trang phục truyền thống những điệu Xòe sơ khai từ thời xa xưa.
Qua nhiều thế kỉ, người Thái đã không ngừng phát triển và xây dựng cho bộ tộc mình một nền
nghệ thuật xòe dân gian truyền thống.
[1]
Ban đầu các điệu múa tương tự hoặc phỏng các hoạt động trong công cuộc lao
động săn bắt, hái lượm hay những biện pháp chống chọi với mưa bão, lũ lụt, với mãnh thú để
vừa phải tự vệ vừa kiếm sống. Sau đó, người Thái đã sáng tạo ra những nhịp xòe, những động
tác nhảy múa kèm theo các dụng cụ lao động sinh hoạt nhân như nón, gậy, khăn, quạt,
đàn tính
Xòe nghĩa nhảy múa trong tiếng Thái. TheoUNESCO, Xòe ba loại chính: Xòe
nghi lễ, Xòe vòng, Xòe biểu diễn. Các điệu Xòe nghi lễ Xòe biểu diễn thường kết hợp với
các đạo cụ và được gọi theo tên đạo cụ như e khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc,
Xòe gậy, Xòe hoa…
lOMoARcPSD| 57855709
Xòe vòng phổ biến nhất, màn đồng diễn người Xòe nối thành vòng tròn trong
sự hòa đồng với tất cả mọi người. Xòe vòng múa tập thể, mở rộng dần vòng Xòe, cuốn hút
mọi người hòa cùng niềm vui mỗi dịp Tết đến, Xuân về hay trong lễ hội, cuộc vui liên hoan.
Họ nắm tay nhau, bước chân nhịp nhàng theo điệu nhạc trong không khí thân thiện, vui vẻ, hòa
đồng.
Trong các dịp lễ hội, các thành viên gia đình, cộng đồng, mỗi người một việc, cùng
nhau tham gia chuẩn bị đồ cúng, tổ chức các hoạt động tế lễ, trò chơi dân gian, cùng Xòe.
Qua đó, Xòe thể hiện sự kết nối giữa các thế hệ, tăng cường mối quan hệ thân thiết giữa các
thành viên cộng đồng, giữa các thế hệ trong và ngoài cộng đồng.
Nghệ thuật Xòe Thái tượng trưng cho cái đẹp, chứa đựng những giá trị nghệ thuật vũ
đạo, âm nhạc, ca hát, trang phục, ẩm thực quan trọng hơn sự ứng xử văn hóa của cộng
đồng người Thái. Ngày nay Nghệ thuật Xòe đã trở thành biểu tượng của lòng cởi mở, hiếu
khách, là dấu ấn văn hóa tộc người, và bản sắc văn hóa của người Thái vùng Tây Bắc Việt
Nam.
Các động c múa bản của Xòe tay giơ lên cao, mở ra, hạ xuống, nắm lấy tay
người bên cạnh cùng bước chân nhịp nhàng, người hơi ưỡn ngực, lưng ngả về phía sau.
Cách thức thể hiện của Xòe người Thái được gắn với hoàn cảnh sinh hoạt xã hội. Cho
đến nay, người Thái chủ yếu thực hành 6 điệu Xòe bản, diễn ra phổ biến trong mọi cuộc
sinh hoạt văn hóa của cộng đồng: điệu xòe Khắm khăn mơi lẩu nâng khăn mời rượu; điệu
xòe Phá xí - bổ bốn; điệu xòe Đổn hôn – Tiến lùi; điệu xòe Nhôm khăn – Tung khăn; điệu xòe
Ỏm lọm tốp mư – vòng tròn vỗ tay; điệu xòe Ỏm lọm khắm khăn – Nắm tay vòng tròn
Điệu xòe cơ bản nhất là “Khắm khăn mơi lẩu”- nghĩa là “nâng khăn mời rượu”. Đây
là điệu xòe thể hiện nét văn hóa trong giao tiếp ứng xử của đồng bào dân tộc Thái. Theo quan
niệm của người Thái thì bất cứ ai đến chơi nhà đều được đón tiếp rất trân trọng và hết sức chân
tình.
Điệu xòe thứ hai là điệu “Phá xí”, nghĩa là xòe bổ bốn, điệu múa thể hiện sự đoàn kết
của cộng đồng người Thái. Điệu xòe này có ý nghĩa biểu hiện tình cảm của mỗi cá nhân trong
cộng đồng, dù có đi 4 phương trời nhưng không bao giờ quên được nguồn cội.
Điệu Xòe tưng bừng rộn rã nhất điệu “Nhôm khăn”, hay còn gọi điệu Tung
khăn. Ra đời cùng với sự phát triển của nghề trồng bông dệt vải, xòe Nhôm khăn ý nghĩa
biểu hiện niềm vui của con người trước những thành qua lao động của mình, đồng thời thhiện
sự khéo léo của đôi bàn tay các thiếu nữ dân tộc Thái bằng những nét hoa văn tinh tế trên các
sản phẩm của nghề dệt thổ cẩm truyền thống...
Điệu xòe thứ 4 là “Khắm khen” nghĩa là cầm tay nhau, nắm tay cùng xòe. Đây là điệu
xòe cơ bản trong nghệ thuật dân vũ của dân tộc Thái, được hình thành trong quá trình lao động
từ thuở khai. Khi săn được con thú, mỗi khi niềm vui trong gia đình, cộng đồng mọi
người nắm tay nhau nhảy quanh đống lửa. Đây cũng những động tác bản đầu tiên làm
tiền đề để phát triển thành những điệu xòe tiếp theo phát triển thành những tác phẩm múa
dân gian đặc sắc. Đồng thời có ý nghĩa là biểu hiện sự gắn kết cộng đồng mỗi khi có niềm vui
cùng nhau nhảy múa và cả khi gặp khó khăn hoạn nạn, cộng đồng vẫn nắm chặt tay nhau cùng
chung sức vượt qua.
Điệu xoè thứ 5 “Đổn hôn”, nghĩa Xòe bước tiến lùi. Điệu xòe đổn hôn mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, cho dù cuộc sống có lúc buồn, lúc vui, có khi chao đảo trước sóng gió,
khó khăn. Song mọi người vẫn chung lòng hướng tới một niềm tin son sắt, cho dù vật đổi sao
dời nhưng lòng người không bao giờ thay đổi.
lOMoARcPSD| 57855709
Điệu xoè cuối cùng là “Ỏm lọm tốp mư” (Đi vòng tròn vỗ tay). Xòe "Ỏm lọm tốp mư"
kết thúc mỗi cuộc vui. Khi mọi người đã trao nhau những tình cảm chân thành, thì điệu xòe
này biểu hiện niềm hân hoan, sự thỏa mãn, đó cũng là những bước chân chếnh choáng men say
của rượu nồng và tình người ngây ngất, tiếng vỗ tay cũng nhỏ dần, thưa dần cùng ánh lửa le lói
báo hiệu đêm sắp tàn, mọi người chia tay và chào đón một ngày mới.
Nghệ thuật Xòe Thái được trao truyền trực tiếp giữa các thế hệ, các thành viên cộng
đồng, không kể tuổi, giới tính. Mọi người tham gia Xòe đều có thể học hỏi từ nhau, người này
chỉ cho người khác, nhịp nhàng cùng bước theo điệu nhạc.
Trong gia đình người Thái, trẻ em học Xòe từ ông bà, cha mẹ khi cùng họ tham dự
nghi lễ ở điện thờ ca thầy cúng, trong đám cưới, các cuộc vui, lễ hội. Các thầy cúng truyền lại
cho các con, các cháu, người kế nghiệp nghi thức cúng và các điệu Xòe nghi lễ.
cộng đồng, trong các nghi lễ, các thầy cúng truyền dạy Xòe cho các con nuôi. Ở các
cuộc Xòe cộng đồng, những nghệ nhân, bậc cao niên có năng khiếu, thuần thục Xòe hướng dẫn
cách bước chân, vung tay, nhún chân theo nhịp điệu nhạc, cách sử dụng các đạo cụ như nón,
khăn, gậy, quạt, v.v. Tham gia dạy múa Xòe, còn có sự hợp tác giữa các nghệ nhân và nghệ
múa người Thái. Họ phối hợp, trực tiếp hướng dẫn các điệu Xòe trong các đội văn nghệ, lớp
học ở các trường phổ thông, trường nghệ thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghệ thuật Xòe Thái – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
2. Xòe Thái – Wikipedia tiếng Vit
TỤC Ở RỂ
Tục ở rểmột phong tục truyền thống đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam,
trong đó có dân tộc Thái. Phong tục này không chỉ là một tập tục gia đình mà còn là một phần
quan trọng trong văn hóahội của cộng đồng người Thái. Tục ở rể đã tồn tại qua hàng trăm
năm và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống, tập quán và mối quan hệ gia đình của người Thái.
Tục rể của người Thái thể hiểu đơn giản người con trai sau khi kết hôn sẽ về
sống trong gia đình nhà vợ thay vì ở cùng gia đình mình. Đây là một tập tục có từ lâu đời, gắn
liền với truyền thống cưới hỏi của dân tộc Thái. Trong quan niệm của người Thái, tục rể
không chỉ thể hiện nh cảm, trách nhiệm của người chồng đối với gia đình vợ mà còn phản ánh
mối quan hệ giữa các gia đình trong cộng đồng.
Ý nghĩa của tục rể trong hội Thái rất sâu sắc. Trước hết, tục lệ này thể hiện sự
gắn kết giữa hai gia đình thông qua việc người con trai rời bỏ gia đình mình để sống với gia
đình vợ. Đây cũng là một cách để củng cố mối quan hệ giữa các dòng họ, giúp cho các gia đình
duy trì sự bền vững trong quan hệ hôn nhân, đồng thời tạo ra một sự hòa hợp trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, tục ở rể còn có sự liên kết chặt chẽ với nền kinh tế của cộng đồng người
Thái. Theo truyền thống, gia đình vợ thường ruộng đất, tài sản hơn gia đình chồng, thế
khi con trai về sống trong gia đình vợ, anh ta hội tham gia vào việc sản xuất, chăm sóc
ruộng nương. Điều này cũng giúp gia đình vợ phát triển kinh tế và duy trì sự thịnh vượng.
Trong cộng đồng người Thái, tục ở rể gắn liền với nghi lễ cưới hỏi đặc biệt. Các nghi
lễ cưới hỏi của người Thái rất cầu kỳ và mang đậm bản sắc dân tộc. Trước khi kết hôn, gia đình
nhà trai phải đến nhà gái để thăm hỏi, tìm hiểu và thỏa thuận các điều khoản về hôn nhân. Đây
là bước đầu tiên trong việc tiến tới quyết định kết hôn và thực hiện tục ở rể.
lOMoARcPSD| 57855709
Một trong những yếu tố quan trọng trong lễ cưới của người Thái sự thỏa thuận về
việc ở rể. Khi gia đình nhà trai đồng ý về ở rể, người con trai phải mang lễ vật đến gia đình vợ
để thể hiện sự tôn trọng và sự cam kết. Sau khi lễ cưới được tổ chức, người con trai sẽ về sống
cùng gia đình vợ, chịu trách nhiệm chăm sóc cha mẹ vợ và cùng vợ sinh sống tại đây.
Thông thường, khi người con trai về sống với gia đình vợ, anh ta sẽ sống trong một
căn nhà riêng biệt, nhưng vẫn ở gần gia đình vợ để tiện bề chăm sóc. Việc sống ở rể không chỉ
một nghĩa vụ, còn một dấu hiệu của sự trưởng thành, của sự khẳng định trách nhiệm
và vai trò của người chồng trong gia đình.
Khi về rể, người chồng không chỉ nghĩa vụ chăm sóc vợ còn phải chăm sóc
cha mẹ vợ. Người chồng sẽ phải giúp đỡ gia đình vợ trong việc lao động sản xuất, chăm sóc
ruộng đất, chăn nuôi gia súc, gia cầm làm các công việc gia đình khác. Mối quan hệ giữa
chàng rể và gia đình vợ thường rất gần gũi, thân thiết, vì người con trai không còn là một thành
viên riêng biệt trong gia đình vợ trở thành một phần không thể thiếu trong mọi hoạt động
của gia đình.
Theo truyền thống của người Thái, người chồng khi sống ở rể có trách nhiệm với cha
mẹ vợ, phải kính trọng chăm sóc họ như cha mẹ ruột. Tình cảm giữa người chồng gia
đình vợ phải được duy trì phát triển để tạo nên một mối quan hệ hài hòa. Thậm chí, trong
một số trường hợp, người chồng còn trách nhiệm thay mặt gia đình vợ giải quyết những mâu
thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng, góp phần duy trì trật tự xã hội.
Tục ở rể của người Thái không chỉ là một phong tục về gia đình mà còn là yếu tố quan
trọng trong việc xây dựng tình cảm gia đình. Mối quan hệ giữa vợ chồng và gia đình vợ thường
rất gần gũi, tạo ra một sự kết nối chặt chẽ giữa các thế hệ trong gia đình. Người chồng khi sống
ở rể sẽ có nhiều cơ hội để học hỏi kinh nghiệm từ các thế hệ trước và duy trì truyền thống văn
hóa của gia đình.
Trong khi đó, người vợ cũng trách nhiệm đối với gia đình chồng các thế hệ trước
trong nhà chồng. Mặc người vợ không sống với gia đình chồng, nhưng ấy vẫn phải tôn
trọng, chăm sóc quan tâm đến các bậc phụ huynh của chồng. Điều này tạo ra một sự hòa
thuận trong mối quan hệ giữa hai gia đình là yếu tố quan trọng giúp duy trì tình cảm gia đình
trong suốt cuộc đời.
tục ở rể có giá trị văn hóa sâu sắc, nhưng trong xã hội hiện đại, tục lệ này cũng gặp
phải một số thách thức và biến đổi. Sự thay đổi của xã hội, sự phát triển của nền kinh tế, cùng
với sự giao lưu văn a mạnh mẽ đã khiến cho tục rể không còn giữ được vị trí quan trọng
như trước. Những thế hệ trẻ ngày nay, nhất các vùng đô thị, không còn mặn với việc
sống với gia đình vợ nữa. Việc này có thể ảnh hưởng đến sự duy trì của tục lệ này trong tương
lai.
Hơn nữa, trong hội hiện đại, với những thay đổi trong quan hệ vợ chồng gia
đình, mối quan hệ giữa vợ chồng và gia đình hai bên cũng trở nên phức tạp hơn. Những vấn đề
về quyền lợi, tự do cá nhân và công việc đã khiến cho tục ở rể ít được áp dụng như trước.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng tục ở rể vẫn còn tồn tại trong nhiều gia đình người
Thái, đặc biệt là ở cácng nông thôn. Nó vẫn là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa
và gia đình của cộng đồng người Thái.
Tục rể của dân tộc Thái không chỉ một phong tục truyền thống còn một
phần không thể thiếu trong đời sống xã hội của cộng đồng này. Nó thể hiện sự gắn kết giữa hai
gia đình, giữa vợ chồng, giữa các thế hệ trong gia đình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội
hiện đại, tục lệ này đang dần thay đổi, nhưng vẫn giữ được giá trị văn hóa của một thời kỳ lịch
lOMoARcPSD| 57855709
sử. Dù có thể thay đổi theo thời gian, tục ở rể vẫn là một dấu ấn quan trọng trong nền văn hóa
của dân tộc Thái, phản ánh một truyền thống gia đình gắn kết và đoàn kết cộng đồng.
LỄ TẰNG CẨU
Lễ Tằng cẩu được tiến hành tại nhà gái, trên nhà sàn gian nhà phía buồng dâu
ngủ, trước khi làm lễ đón dâu về nhà chồng.
Sáng hôm làm lễ Tằng cẩu, nhà trai cử một đoàn sang nhà gái gồm những thiếu nữ trẻ đẹp và
các thiếu phụ khỏe mạnh, tháo vát, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán và thông thạo động tác
búi tóc ngược cho cô dâu mới. Phía nhà gái cũng có số người tương ứng, trong đó có hai thiếu
nữ làm phù dâu, thường là bạn thân của cô dâu.
Đồ vật làm lễ Tằng cẩu do bố mẹ cô dâu chuẩn bị được xếp lên mâm, bao gồm: Một
đĩa đựng 4 chén rượu, 1 chai rượu đặt bên cạnh; Một cái mẹt đựng: 2 bát gạo (xòng thuổi khảu),
2 quả trứng được đặt lên bát gạo, 2 bông hoa được cắm trên hai bát gạo, 1 cọn vải trắng (châu
đón), 1 cọn vải kẻ đỏ (châu đènh), 1 trâm cài tóc (mản cẩu), 1 xa búi tóc, 1 bộ áo cóm và váy
(xỉn sửa), 1 dây thắt lưng (sai yều), 2 vòng tay bạc (xòng pắc khen), 1 xà tích (sỏi), 1 cái gương
(ben), 1 cái lược (cản bì), 1 đôi búi tóc giả (xòng cản chọong), 1 bát nước cỏ mần trầu (thuổi
phắc nhả hút). Ngoài ra phải có: 1 cái lược để chải tóc cho cô dâu, 1 bát nước lã trong có: Sỏi
ba bến (hin xam ta), búi rau mần trầu ba vườn (tổn nhả hút xuôn) để nhúng lược vào chải tóc
cô dâu, với ý nghĩa:
Ba hòn sỏi thả vào bát nước là tượng trưng cho gia đình luôn 3 thế hcùng chung sống khỏe
mạnh, mặt khác cầu cho đôi vợ chồng trẻ vững niềm tin xây dựng tổ ấm hạnh phúc, cũng như
những hòn sỏi kia dù ngâm trong nước hay ở ngoài bãi sông suối vẫn luôn cứng cỏi không bao
giờ bị mối mọt mục nát.
Ba búi cỏ mẩn trầu thả vào bát nước tượng trưng gia đình luôn có 3 thế hệ cùng chung
sống đoàn kết, làm ăn phát đạt, lộc tài sinh sôi nảy nở, êm ấm, hạnh phúc như búi mần trầu. Từ
một gốc mần trầu, mọc nhiều nhánh mần trầu non sum suê vây quanh mần trầu mẹ thành bụi
to, tạo cho bộ rễ chắc hơn, xanh mượt, khó nhổ, cho vào bát nước chải tóc là để tóc chắc, khỏe,
mượt, dài nhanh, không bị rụng.Tất cả các thứ đã được chuẩn bị trước, đem đến đặt cạnh mâm
đồ lễ búi tóc
Mâm lễ búi tóc đã chuẩn bị xong, nghi lễ búi tóc ngược bắt đầu tiến hành, các cô, dì,
chú bác hai bên gia đình sẽ cho quà vào mâm lễ (có thể bằng hiện vật hoặc tiền) với những lời
chúc tốt đẹp cho đôi vợ chồng trẻ.
dâu mặc áo váy đẹp được mẹ dắt ra ngoài, ngồi xuống chiếu trước mâm làm lễ .
mẹ thả duỗi tóc con gái xuống cho bên nhà trai tiến hành làm thủ tục búi tóc ngược. Khi đã
chải tóc xong, mẹ hoặc dâu mời mẹ chồng (hoặc chồng) đón nhận để tiếp tục làm lễ
búi tóc ngược nhận dâu.
Người được chọn để Tằng cẩu (gọi “nai cẩu”) đứng ở phía sau ng dâu, lấy lược
nhúng vào bát nước cỏ mần trầu rồi nhẹ nhàng chải tóc từ sau gáy hớt ngược lên đằng trước
cuốn cùng đôi tóc giả búi lên đỉnh đầu, chụp xa búi tóc, rồi lấy châm bạc cài chính giữa búi
tóc, vừa chải tóc vừa câu: Ngày hôm nay mẹ chải tóc cho con để làm lễ búi tóc ngược cho
con, từ hôm nay con sẽ trở thành dâu con bên nhà mẹ, đừng có chê trách gì con nhé, từ nay trở
đi vợ chồng con phải sống hạnh phúc với nhau, sinh con trai con gái khỏe mạnh con nhé.
Khi đã búi tóc xong, “nai cẩu” thay váy áo mới xong đeo hai vòng tay vào hai tay, hoa
tai… cho dâu. Tiếp đó lấy hai bát gạo được đặt quả trứng lên đổ vào túi. Bà lấy cọn vải
đỏ giao cho cô dâu và cầm tay cô dâu trao cho chú rể,dắt tay nhau vào phòng cưới
lOMoARcPSD| 57855709
Để tượng trưng cho gia đình đông con nhiều cháu họ cho một vài đứa trẻ vào phòng cưới
(tượng trưng cho con cái họ sau này), làm xong lễ búi tóc, cho cô dâu chú rể mỗi người cầm
hai chén rượu chúc nhau, rồi mời mọi người cùng nâng chén chúc mừng. Bà mối thay mặt nhà
trai lời cảm ơn nhà gái đã sự quan tâm, đồng tình ủng hộ tạo điều kiện cho nhà trai
tiến hành làm lễ cưới cho hai con đạt kết quả tốt đẹp thành vợ, thành chồng. Sau lễ Tằng cẩu,
cô gái phải luôn búi tóc vừa để làm đẹp vừa như là một dấu hiệu thông báo cho các chàng trai
khác biết họ đã có chồng
HÁT KHẮP
Dân tộc Thái là một trong những dân tộc có nền văn hóa phong phú và đa dạng ở Việt
Nam. Trong số những giá trị văn hóa truyền thống của họ, âm nhạc đóng vai trò đặc biệt quan
trọng, thể hiện rõ nét trong các nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng và đời sống hàng ngày. Một trong
những thể loại âm nhạc nổi bật của người Thái là "hát khắp". Đây là một phần không thể thiếu
trong các lhội, sinh hoạt cộng đồng các hoạt động văn hóa của người Thái, đặc biệt
các tỉnh miền núi phía Bắc như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, và Hòa Bình.
Hát khắp là một loại hình âm nhạc truyền thống của dân tộc Thái, bao gồm những bài
hát dân gian được trình bày chủ yếu trong các dịp lễ hội, nghi lễ cúng bái, đám cưới, lễ mừng
lúa mới, hay những buổi sinh hoạt cộng đồng. Tên gọi "khắp" xuất phát từ từ "khắp" trong tiếng
Thái, có nghĩa là "hát" hoặc "ca hát". Hát khắp không chỉ là một hình thức giải trí mà còn chứa
đựng những giá trị văn hóa, tôn vinh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, thần linh và
cộng đồng.
Hát khắp thường được thhiện qua các bài hát giai điệu du dương, nhịp điệu nhẹ
nhàng, mang đậm màu sắc dân gian. Các bài hát này chủ yếu là lời ca, lời hát của người Thái,
thể hiện những cảm xúc chân thành về tình yêu, thiên nhiên, cuộc sống lao động, và các phong
tục tập quán truyền thống. Một số bài hát còn mang tính chất cầu phúc, cầu bình an cho cộng
đồng, thể hiện mong muốn của người Thái về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Điều đặc biệt trong hát khắp là sự hòa quyện giữa lời hát và những âm thanh của các
nhạc cụ dân tộc. Các nhạc cụ thường được sử dụng trong hát khắp bao gồm đàn tính, đàn môi,
sáo, và trống. Mỗi nhạc cụ này đều có những đặc trưng riêng biệt, góp phần tạo nên không khí
trang trọng và linh thiêng trong những buổi lễ, cũng như sự vui tươi, phấn khởi trong các hoạt
động cộng đồng.
Hát khắp thể được hát đơn ca hoặc hợp ca, nhưng phổ biến nhất hình thức hát
đối đáp giữa nam và nữ. Trong các dịp lễ hội, người Thái thường tổ chức các cuộc thi hát, nơi
các chàng trai gái cùng tham gia đối đáp, ca hát, thhiện tài năng sự khéo léo trong
lời ca tiếng hát. Hình thức này không chỉ thể hiện tài năng ca hát còn một cách để giao
lưu, tìm hiểu, và tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng.
Trong số các làn điệu Khắp Thái thì có lẽ hát giao duyên nam nữ (khắp báo xao), hát
ru con (khắp ú lụ), “khắp” mừng xuân, “khắp” (giống với ngâm thơ, vịnh thơ của dân tộc
Kinh) là phổ biến hơn cả. Câu “khắp” được lấy nội dung từ những câu truyện thơ của dân tộc
Thái kết hợp với vần điệu, luyến láy, tiết tấu tự do để mang cảm xúc vào mỗi câu hát. Với tình
yêu lứa đôi, hình thức khắp mượn chủ đề tình yêu để thi tài năng đối đáp giữa các cặp hát
đối.
Những điệu “khắp” thường có giai điệu mượt quà, trữ tình, bắt tai, được khán giả đón
nhận. Khắp Thái thường kết hợp cùng với “pí khui” (sáo trúc) và “pí pe” (khèn bè), giọng hát
trầm bổng cùng sáo, khèn ngân nga tạo nên một thứ âm thanh lạ, độc đáo đi vào lòng người.
lOMoARcPSD| 57855709
Hát khắp không chỉ một hình thức giải trí mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc trong
đời sống cộng đồng người Thái. Đầu tiên, hát khắp là phương tiện để gắn kết cộng đồng. Trong
các lễ hội, cuộc sống ng ngày hay những dịp quan trọng, người Thái thường tập trung lại
cùng nhau để hát khắp. Đây không chỉ là dịp để mọi người cùng vui chơi, mà còn là cơ hội để
chia sẻ, gắn với nhau hơn. Hát khắp giúp củng cố nh đoàn kết, sự gắn bó giữa các thế hệ
trong cộng đồng.
Thứ hai, hát khắp vai trò quan trọng trong các nghi lễ tôn vinh thần linh các vị
thần bảo vệ cộng đồng. Trong các buổi lễ cúng bái, người Thái thường hát khắp để mời gọi
thần linh, cầu nguyện cho mùa màng bội thu, cho sức khỏe và sự bình an. Mỗi lời hát trong hát
khắp đều mang theo những ước nguyện và khát vọng của cộng đồng.
Ngoài ra, hát khắp cũng là một phương tiện để người Thái thể hiện cảm xúc và truyền
tải thông điệp. Những bài hát khắp có thể là lời tâm sự, là tình cảm yêu đương lãng mạn, hoặc
nỗi lòng nhớ nhung, hoài niệm. Hình thức hát đối đáp trong hát khắp cũng thể hiện một cách
giao lưu, một sự đối thoại nhẹ nhàng giữa các cá nhân trong cộng đồng.
Mặc dù hát khắp là một phần quan trọng trong nền văn hóa âm nhạc của người Thái,
nhưng trong thời gian gần đây, thể loại âm nhạc này đang đứng trước những thách thức lớn.
Quá trình đô thị hóa, sự phát triển của hội hiện đại đã khiến nhiều giá trị văn a truyền
thống, bao gồm hát khắp, bị mai một. Đặc biệt thế hệ trngày nay, do ảnh hưởng của các
yếu tố văn hóa nước ngoài và sự phát triển của các phương tiện truyền thông hiện đại, ít quan
tâm đến những giá trị văn hóa truyền thống như hát khắp.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu những người yêu mến
văn hóa dân tộc đã bắt đầu chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy hát khắp. Các hoạt động như
tổ chức các lễ hội dân gian, các cuộc thi hát, và các buổi giao lưu văn hóa đã giúp làm sống lại
duy trì hát khắp trong đời sống cộng đồng. Ngoài ra, các nghệ trẻ cũng đã tìm cách kết
hợp hát khắp với các thể loại âm nhạc hiện đại, tạo ra một sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống
và hiện đại, giúp đưa hát khắp đến gần hơn với công chúng.
Hát khắp của dân tộc Thái không chỉ là một thể loại âm nhạc mà còn một phần quan
trọng trong văn hóa đời sống của cộng đồng người Thái. Những lời hát du dương, những
giai điệu nhẹ nhàng, cùng với các nhạc cụ dân tộc tạo nên một không gian âm nhạc độc đáo,
sâu lắng, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình cảm gia đình tình yêu cuộc sống của người Thái.
Bằng việc bảo tồn và phát huy giá trị của hát khắp, chúng ta không chỉ gìn giữ một nét đẹp n
hóa, mà còn giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về những giá trị truyền thống của dân tộc mình.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 57855709
HÃY TRÌNH BÀY HIỂU BIẾT VỀ CÁC TỪ KHÓA VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI
MƯƠNG PHAI LÁI LÍN LỐC CỌN
Mương phai lái lín là hệ thống nước tưới tiêu truyền cổ truyền trong canh tác ruộng
của người Thái.Đối với đồng bào dân tộc Thái, nước được đặt vào hàng đầu trong việc làm và
hệ thống đó được thâu tóm bằng thành ngữ mương, phai, lái, lín, là một chỉnh thể tương đối
khép kín.Trong quá trình vận động, chỉ một mắt xích nào đó bị thay đổi đều sẽ dẫn đến hệ quả
biến đổi chung của cả hệ thống.
Khó xác định mốc thời gian cụ thể về sự xuất hiện của mương- phai- lái- lín, song
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự ra đời của nó gắn liền với lịch sử canh tác ruộng nước hàng
trăm năm của các cộng đồng trong các khu vực thung lũng lòng chảo. mương- phai- lái- lín, vì
vậy, trở thành đặc trưng văn hoá, được nhắc đến trong tục ngữ, đã đi vào thi ca và có mặt trong
hệ thống nghi lễ của tộc người.
Mương: Là những đường được nối từ phai để dẫn nước vào ruộng, nó có thể chạy
men theo sườn đồi và dọc các cánh đồng. Mương có ba loại: mương chìm (mương đào); mương
nổi (mương đắp) và mương nửa chìm, nửa nổi. Để dòng chảy có thể vượt qua khe, người ta
cắm hai hàng cọc tre cách nhau từ 50-100cm rồi ghép các thân cây tre hình hộp sau đó lót kín
bằng các phên nứa. Hiện nay, hệ thống mương này đã được bê tông hóa.
Phai:Do sinh sống ở gần các con sông, suối nên cư dân Tày, Thái đã sáng tạo hệ thống
“phai”- thực chất là dựng đập ngăn nước để tạo độ chênh lệch của dòng chảy, từ đó đưa nước
vào mương và từ mương chảy qua hệ thống máng dẫn bằng tre, nứa xuống các thửa ruộng bậc
thang cao khoảng 5m so với mặt suối
Lái: Nước từ mương được đưa đến những thửa ruộng riêng lẻ bằng hệ thống các phai
phụ, người Thái gọi là Lái. Hệ thống này còn có tác dụng ngăn nước ở các đoạn mương bị vỡ
để tiếp tục dâng nước lên cao cho chảy vào ruộng hoặc dẫn nước mương vượt qua các chướng
ngại vật như đá, gốc cây...
Lín: là hệ thống dẫn nước được làm bằng tre, nứa hoặc bương, bổ làm đôi hoặc để cả
ống tùy theo vị trí sử dụng. các đường máng dùng để dẫn nước từ mương hoặc lái vào các thửa
ruộng có chỗ dài hàng trăm mét. Các đường máng dùng để dẫn nước từ mương hoặc lái vào
các thửa ruộng có chỗ dài hàng trăm mét. Các ống máng ngắn gọi là “to” hoặc “láy” để đưa
nước vào các thửa ruộng gần mương, hoặc đưa nước từ ruộng trên xuống ruộng dưới, hay tháo
khô cho ruộng khi cần thiết. Các ống máng này thường có nắp đậy để điều tiết mực nước trong
ruộng và điều phối đồng đều nước ở ruộng trên và ruộng dưới.
Cọn: Đối với những ruộng bậc thang ở trên cao khoảng 3-4m không thể sử dụng phai
và mương để lấy nước tưới. Vì vậy cư dân Tày, Thái đã sáng tạo ra những chiếc cọn nước. Một
chiếc cọn có thể cung cấp nước tưới cho 0,5-1ha ruộng. Cọn được làm bằng tre, gỗ, có hình
dáng bánh xe, đường kính có thể lên tới 6-7m. Cơ chế vận hành của cọn nước là lợi dụng dòng
chảy xiết của suối nhờ vào phai. Lực tác động của dòng chảy xiết làm bánh xe quay, vì trên
vòng tròn của bánh xe người ta đặt các tấm tre làm thành cánh quạt cản nước. Mỗi bên cánh
quạt trên thân bánh xe đều có gắn các ống nứa. Khi bánh xe quay, các ống nứa này tiếp xúc với
dòng chảy và múc nước để đưa lên cao đổ vào máng, liên tục như vậy và nước từ máng được đưa vào ruộng. lOMoAR cPSD| 57855709
Do địa hình phức tạp, các thửa ruộng vùng thung lũng có độ cao thấp khác nhau và
không phải thửa ruộng nào cũng gần nguồn nước chảy tự nhiên. Trong điều kiện đó, để giải
quyết nước cho sản xuất, canh tác nông nghiệp, cư dân Thái đã cùng nhau xây dựng lên một hệ
thống tưới tiêu cung cấp nước cho cả mường.
Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, cư dân Tày, Thái đã áp dụng các biện pháp kỹ
thuật mới vào sản xuất, biết thâm canh, tăng vụ; chuyển canh tác lúa theo hai vụ, từ một vụ lúa
nếp trở thành hai vụ lúa tẻ hoặc một nếp một tẻ. Hệ thống thủy nông cũ đã được cải tạo, phù
hợp với mô hình sản xuất mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Tìm hiểu hệ thống “Dẫn thủy nhập điền” của nhóm
cư dân Tày, Thái qua hệ thống trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
2.Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tri thức truyền thống về khai thác, sử dụng nước của người Thái Đen CÁ NƯỚNG
Cá nướng (pa pỉnh tộp) là một món ăn truyền thống của người Thái, được làm từ cá
suối và các gia vị, nướng trên than hồng.Pa pỉnh tộp hay còn là pla pỉnh tộp,theo tiếng Thái
có nghĩa là "cá nướng nguyên con", là tên gọi món cá nướng của đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc.
Nguyên liệu để làm món cá nướng, người Thái vùng Tây Bắc lấy những nguyên liệu
sẵn có từ núi rừng – món quà mà thiên nhiên Tây Bắc ban tặng.Nguyên liệu không thể thiếu
của món cá nướng Tây Bắc ngon đó là 1 con cá sông tươi: Các bạn có thể chọn cá khoảng hơn
1 cân có thể là chép hoặc cá rô phi nhưng người Thái thường chọn cá chép bởi cá chép suối
khi nướng lên thịt rất ngọt và thơm.
Các gia vị đi kèm để chế biến món cá nướng mà người Thái sử dụng đó là mắc khén-
đây là gia vị tạo nên hương thơm khác biệt cho món cá nướng và hạt dổi cùng với các các loại
rau như: rau mùi, rau húng, mùi tàu, thì là; hành khô, hành lá, ớt, sả tươi,..Gia vị muối, mì
chính, mắm, hạt nêm, dầu ăn.Cá nướng được nướng bằng vỉ nướng hoặc xiên và nướng bằng than củi
Sau đó sẽ sơ chế các gia vị để làm hỗn hợp ướp cá nướng: mắc khén rửa sạch, rang
khô trên chảo khoảng 3 phút và cho ra chén để nguội; hạt dổi rửa sạch, nướng trên bếp than
hoặc bếp củi 5 phút, cho ra chén để nguội; hành khô tỏi bỏ vỏ,thái lát mỏng; ớt rửa sạch bỏ
cuống băm nhuyễn; sả chỉ lấy phần bên trong bỏ phần vỏ già, rửa sạch để ráo nước,đập dập củ
sả rồi thái lát mỏng; hành lá, mùi tàu, rau húng, thì là cũng rửa sạch, để ráo nước, rồi thái nhỏ
Tiến hành làm hỗn hợp gia vị cho món cá nướng: Đầu tiên bạn cần bỏ hạt dổi và mắc
khén vào cối giã nhuyễn. Sau đó, cho hành khô, tỏi và sả trộn lẫn và giã, hốm hợp càng nhuyễn
càng tốt , rồi đổ ra chén.Tiếp theo cho lần lượt phần ớt băm, 1 thìa cà phê muối hạt to, 1/2 thìa
bột ngọt, 1 thìa canh dầu ăn vào và trộn đều hỗn hợp lên.
Sơ chế và ướp cá để nướng: Bước 1: Cá tươi được mổ moi hết ruột, bỏ vẩy cắt hết
vây. Dùng dao sắc khéo léo để loại bỏ phần xương sống cá và sau đó khứa những đườn ngang.
Nên khử mùi tanh của cá bằng cách ngâm cá trong nước muối pha loãng khoảng 4-> 5 phút.
Tiếp theo vớt cá ra rửa sạch với nước và để ráo.Bước 2: Sau khi cá đã ráo nước, bạn cho hỗn
hợp đã chuẩn bị bên trên ướp đều phần thịt phía trong con cá.. Tiếp tục cho phần gia vị còn lại
vào những đường đã khía. Cá nên ướp trong 30 phút cho ngấm gia vị lOMoAR cPSD| 57855709
Nướng cá chuẩn vị người Thái vùng Tây Bắc: nhóm bếp than hoặc củi cho hồng.Cá
được xiên vào xiên dài hoặc cho vào vỉ, nếu vỉ không to bạn có thể gập ngang thân cá sao cho
tạo thành hình tam giác để chuẩn bị nướng cá
Phết 1 ít dầu ăn vào vỉ nướng, nướng qua trên bếp lửa cho nóng vỉ để vỉ nướng đỡ
dính chặt vào cá khi chín. Nếu dùng xiên thì o cần thiết phải phết dầu ăn vào xiên. Tiếp đó, kẹp
cá vào vỉ nướng hoặc cá đã xiên cho lên than hồng, lật đều tay sao cho cá chín vàng đều.
Trong quá trình nướng cần chú ý để lửa vừa giúp cá nướng được chín từ từ, vàng đều.
Khi mỡ cá chảy ra, rơi xuống lửa than xèo xèo, bạn sẽ cảm nhận được hương vị thơm ngon hấp
dẫn của món cá nướng Tây Bắc của người dân tộc Thái.
Chẩm chéo- gia vị đi kèm khi thưởng thức món cá nướng của người Thái vùng Tây
Bắc. Pha chẩm chéo: Trộn đều 1muỗn bột canh, ½ muỗn hạt mắc khén giã, 1 quả ớt đã nướng
qua,1 ít gia vị lấy từ trong bụng cá đã nướng, vắt vào 1 trái tắc.
Hình thức ăn món cá nướng này cũng vô cùng độc đáo. Khi ăn, người ta mới lấy phần
gia vị còn thừa khi nãy xoa đều lên mình cá thêm lần nữa. Phần gia vị nướng cá cũng có thể
dùng làm nước chấm với mùi thơm cay, đậm đà của mắc khén. Pa pỉnh tộp nóng hổi, đẫm gia
vị, ăn kèm xôi nếp nương là ngon nhất. Cá chắc, thơm, đẫm gia vị, quyện với xôi dẻo ngọt.
Ngày nay, người ta cũng ăn cá pa pỉnh tộp như một món cá nướng thông thường, gỡ
từng thớ cá, cuốn với bánh đa nem, rau sống, dứa, khế... chấm với nước mắm tỏi ớt, ăn kèm
bún như các món ăn dưới xuôi cũng rất hợp vị. Các nhà hàng ở thành phố thường gói cá trong
giấy bạc để nướng nhưng ngon nhất vẫn là cá nướng than hồng bởi có mùi vị đặc trưng, khó quên.
Pa pỉnh tộp còn thể hiện văn hóa của người Thái, pa pỉnh tộp được coi là món ăn trang
trọng của người Thái. Vào ngày Tết, gia đình người Thái bất kể giàu hay nghèo đều phải có
món cá nướng gia vị để đặt lên bàn thờ, như lời báo cáo với tổ tiên rằng con cháu có một năm
no đủ và mong một năm mới thịnh vượng. Khi có khách tới chơi nhà, gia chủ thường giục con
cháu sửa soạn mâm cơm với món cá này để thể hiện sự tôn trọng, hiếu khách. Trong đám cưới,
đám hỏi món cá nướng được dùng như lễ vật để nhà trai thưa chuyện với nhà gái
Pa pỉnh tộp còn được dùng như món quà quý để biếu người thân, bạn bè mang theo
những ngày đi rừng, đi nương xa nhà lâu ngày. Người Thái xưa có câu: “ Gà tơ tần đem đến
không bằng pa pỉnh tộp đem cho” thể hiện sự quý giá của món ăn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo Tây Bắc TV, Cá nướng- món ăn nổi tiếng của người Thái vùng Tây Bắc
2. ngoisao.vnexpress.net/pa-pinh-top-mon-ca-nuong-la-tai-cua-nguoi-thai ÁO CÓM
Người Thái thường mặc những bộ trang phục được làm từ vải dệt tay, với màu sắc
sặc sỡ và hoa văn đa dạng. Những bộ trang phục này không chỉ để mặc trong đời sống hàng
ngày mà còn được sử dụng trong các dịp lễ hội hay sự kiện quan trọng. Các bộ trang phục
thường có sự kết hợp hài hòa giữa tính truyền thống và tinh thần hiện đại, giúp người Thái duy
trì bản sắc văn hóa mà vẫn dễ dàng thích nghi với xu hướng thời trang hiện nay.
Mỗi vùng miền của người Thái lại có những đặc trưng riêng về kiểu dáng, màu sắc
và họa tiết trên trang phục, tạo nên sự đa dạng và phong phú trong văn hóa truyền thống. lOMoAR cPSD| 57855709
Người Thái Trắng thường mặc áo cóm kết hợp với váy Piêu, đây là những trang phục không
thể thiếu trong đời sống hàng ngày cũng như trong các dịp quan trọng. Trong khi đó, người
Thái Đen
lại ưa chuộng những bộ trang phục có gam màu trầm, tối giản nhưng toát lên vẻ
thanh lịch và tinh tế, phản ánh nét đẹp đặc trưng của cộng đồng.
Khi nhắc đến trang phục của người Thái, người ta sẽ nhớ đến ngay những bộ trang
phục cực kỳ tôn dáng, tôn lên những đường nét đẹp nhất của người phụ nữ Thái. Họ ưa thích
vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch và kín đáo, mỗi bước đi của họ đều rất uyển chuyển và nữ tính. Vì
thế mà "gái Thái" luôn có một nét đẹp kỳ lạ trong mắt của người khác.
Dân tộc Thái được chia thành hai nhóm người đó là Thái Đen và Thái Trắng, trang
phục áo cóm vì thế cũng có sự khác biệt. Áo Cóm của phụ nữ Thái trắng thì cổ áo có hình trái
tim, nẹp vải đen; trong khi đó, áo Cóm của người Thái đen lại được may cổ tròn, cao, ôm khít
cổ. Bộ váy áo Cóm được phụ nữ Thái sử dụng trong tất cả các hoạt động đời sống hàng ngày.
Phụ nữ Thái Đen họ ưa thích làm duyên và có trang phục khá độc đáo, nhìn chung sẽ
có áo, váy và khăn trùm đầu. Áo thì là chiếc áo cóm có thể V khá thấp, phần cổ áo và cổ tay sẽ
có viên khá tinh tế, tạo dáng ôm tự nhiên vào cơ thể. Nẹp áo thường được đơn những hàng cúc,
hình com bướm, ong, ve với màu sẫm cực kỳ nổi bật.
Cúc áo gái thái thể hiện ý nghĩa sinh linh khá độc đáo, con người có trai có gái thì cúc
có có đực có cái. Phụ nữ đã có chồng thì hàng cúc sẽ là số chăn, còn đang con gái thì là cúc lẻ,
thường là 11, 13. Ở phần nách áo sẽ có một miếng vải được cắt nối một miếng vải nhỏ để ôm
phần ngực, tạo nên đường cong mỹ miều cho các cô gái.
Áo sẽ được mặc cùng với váy, váy được nhuộm chàm, làm bằng vải nhưng hoặc
satanh. Chiều dài của váy thường tùy thuộc vào chiều cao nhưng đa phần sẽ mặc đến mắt cá chân.
Phần cạp váy thường sẽ có màu nhạt hơn thân váy hoặc các màu sáng, có thể là vải kẻ
thổ cẩm hay được thêu thùa, phần mép dưới váy cũng được làm bằng viền thổ cẩm hết sức tinh
tế. Mỗi chiếc váy đều có lớp lót bên trong để tạo nên sự kín đáo và giúp đứng dáng hơn. Một
trong những phụ kiện không thể thiếu của các cô gái Thái Đen chính là chiếc khăn piêu. Một
chiếc khăn có hình chữ nhật khá dài, được làm bằng thổ cẩm với những đường nét hoa văn vô
cùng tinh xảo. Họ sẽ đội lên đầu để che đi phần tóc của mình.
Người Thái Trắng chủ yếu mặc áo màu trắng có cổ hình trái tim. Áo có hai loại là áo
ngắn tay - dành cho phụ nữ có tuổi, áo độc dành cho thiếu nữ. Áo sẽ cực kỳ bó sát người để
làm nổi bật lên nét duyên dáng của người phụ nữ.
Váy thì thường chỉ là váy quấn, đen trơn và không có nhiều họa tiết, váy dài tới chấm
gót chân. Thắt lưng không cầu kỳ như Thái Đen mà chỉ là tấm vải cotton hoặc tơ tằm với màu
xanh hay tím nhạt. Khăn đội đầu cũng không quá cầu kỳ, chỉ có màu trắng trơn hoặc chàm đội
lên và tóc sẽ búi cao hoặc búi ra sau.
Quần áo dân tộc Thái của nam dưới hiện nay cũng khá giống với người Kinh, họ cũng
có đồ truyền thống nhưng cũng khá đơn giản. Áo của đàn ông có hai loại là cánh ngắn và cánh
dành. Áo ngắn thường được làm bằng vải chàm, xẻ trực và có cổ tròn. Khuy áo một là làm bằng
đồng, hai là tết thành các nút vải giống như quần áo xưa. Áo sẽ là một màu trơn mà không có
trang trí gì đặc biệt. Chỉ là trong các dịp đặc biệt họ sẽ mặc những chiếc áo mới có đôi quả chỉ
ở đầu đường xẻ hai bên hông áo. Quần cũng chỉ là quần suông lOMoAR cPSD| 57855709
Khi mặc áo cóm, việc lựa chọn màu sắc hài hòa với váy là yếu tố quan trọng để tạo
điểm nhấn và tôn lên vẻ đẹp tổng thể của trang phục. Thông thường, áo cóm sẽ được kết hợp
với váy Piêu – loại váy truyền thống của phụ nữ Thái, tạo nên sự cân đối và tinh tế. Ngoài ra,
cách thắt hàng cúc bướm trên áo cũng là một điểm nhấn đặc trưng, không chỉ giúp trang phục
thêm gọn gàng mà còn thể hiện nét duyên dáng, phong cách riêng của người mặc.
Điểm nổi bật nhất trên chiếc áo Cóm của phụ nữ Thái đó là 2 hàng khuy bướm mang
nhiều ý nghĩa về nhân sinh. Một bên là đại diện cho hàng khuy bướm đực, một bên là hàng
khuy bướm cái được cài đan xen vào nhau tạo thành một đường thẳng rất đẹp và nổi bật trên
nền áo. Khuy bướm thường có 13 đôi, có nhiều hình dáng khác nhau như: hình con bướm, con
nhện, con ve hay hình lá cây... Hai hàng khuy này mang ý nghĩa về sự kết hợp của âm dương,
sự trường tồn của giống nòi.
Trong bộ áo Cóm của mình hàng cúc là bộ phận quan trọng, nó tôn lên vẻ đẹp của bộ
áo cóm. Áo có màu sắc thế nào thì mình chọn khuy áo cho phù hợp hay như cái đai lưng nó
có màu xanh thì phù hợp với nhiều loại màu áo này.

Áo cóm còn có ý nghĩa về văn hóa: Giá trị văn hóa của trang phục dân tộc
Thái không chỉ nằm ở việc gìn giữ các bộ trang phục truyền thống mà còn ở việc bảo tồn những
giá trị văn hóa, phong tục tập quán đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Trang phục dân tộc Thái thường xuất hiện trong các lễ hội lớn của cộng đồng, là dịp
để người dân thể hiện bản sắc văn hóa và truyền thống. Những bộ trang phục rực rỡ, sắc màu
sặc sỡ cùng với điệu múa truyền thống tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu.Trong các lễ
hội, trang phục không chỉ mang ý nghĩa về văn hóa mà còn thể hiện sự tôn trọng đối với tổ tiên,
đất trời. Đây là dịp để người Thái thể hiện lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc và khẳng định bản
sắc văn hóa của mình trong dòng chảy hội nhập toàn cầu.
Nghệ thuật dệt và thêu của người Thái là một phần quan trọng trong việc tạo ra những
bộ trang phục truyền thống. Trải qua nhiều năm tháng, nghề dệt và thêu đã được gìn giữ và
phát triển, trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa của cộng đồng.Mỗi sản phẩm dệt
tay đều mang dấu ấn của người thợ, từ chất liệu đến hoa văn, màu sắc. Cách dệt và thêu không
chỉ thể hiện kỹ năng mà còn bộc lộ tâm tư, tình cảm của người thực hiện. Nghệ thuật này là tài
sản quý báu, cần được gìn giữ và phát triển để không bị mai một theo thời gian.
Việc bảo tồn và phát huy nét đẹp của trang phục Thái hiện nay đang gặp nhiều thách
thức nhưng cũng tạo ra nhiều cơ hội mới. Các chương trình giáo dục và hoạt động văn hóa
đang được triển khai nhằm nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ về giá trị của trang phục truyền thống.
Bên cạnh đó, việc tổ chức các sự kiện văn hóa, trình diễn thời trang dân tộc cũng giúp
giới thiệu và quảng bá trang phục Thái đến với công chúng trong và ngoài nước. Điều này
không chỉ góp phần bảo tồn giá trị văn hóa mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tây Bắc TV, Trang phục truyền thống dân tộc Thái – Nét đẹp văn hóa trường tồn
2.Điện Biên TV, Áo cóm - trang phục độc đáo của phụ nữ dân tộc thái XỐNG CHỤ XÔN XAO
Trong kho tàng văn học dân gian của người Thái Tây Bắc, truyện thơ “Xống chụ xon
xao” (Tiễn dặn người yêu) có một vị trí xứng đáng. Với mọi thế hệ người Thái Tây Bắc, “Xống
chụ xon xao” là quyển sách quí nhất trong mọi quyển sách quí! Theo các nhà nghiên cứu: “Tiễn lOMoAR cPSD| 57855709
dặn người yêu” là một kiệt tác nghệ thuật dân gian có giá trị nhân đạo sâu sắc”, là truyện thơ
hay nhất trong kho tàng truyện thơ của các dân tộc ít người, một tác phẩm lớn trong nền văn học Việt Nam.
Truyện thơ “Xống chụ xon xao” được lưu hành bằng những bản chép tay ở khắp vùng
Tây Bắc: Nghĩa Lộ, Sơn La, Lai Châu... Bản do Mạc Phi sưu tầm và ấn hành năm 1960 có độ dài 1846 câu.
“Xống chụ xon xao” là một câu chuyện tình kể về đôi trai gái khi còn là hai bào thai,
họ biết nhau từ trong bụng mẹ, hai người sinh ra gần như một giờ, một ngày và ở cùng một
bản, họ yêu nhau từ thuở ấu thơ: “Yêu nhau từ thuở mới ra đời/Trao duyên gửi nghĩa từ hồi còn
thơ”. Lớn lên đôi trẻ “Đã thương nhau quyết lấy nhau”. Chàng trai hăm hở sắm lễ vật đến nhà
người yêu để xin cưới, nguyện sẽ làm rể ngoan, “xin làm gà gô, cun cút cổ trơn”. Nhưng cha
mẹ nàng gạt phăng đi vì chê chàng trai nghèo khổ. Cha mẹ nàng ép gả nàng cho một gã con
trai nhà giàu nhưng xấu xí. Oái ăm thay khi “Mẹ cha ưng gả khi em còn ở trên nương/Khi em còn đang ngoài ruộng”.
Nàng “nhắm mắt đưa chân“ nhận người mẹ cha ép gả về ở “rể ngoài” trong tâm trạng
vô cùng đau khổ, nhưng vẫn nuôi một hy vọng mong manh, chàng trai sẽ có cách thay đổi số
phận. Chàng trai ra đi làm ăn xa, với một niềm hy vọng: “Bạc mười nén anh sẽ chuộc em về/Vải
năm trăm anh sẽ cởi em ra”.
Ác nghiệt thay, thời gian trôi đi, “bảy mùa cá lũ trôi xuôi”, người kia hết làm “rể ngoài”
rồi “rể trong”, chàng trai vẫn cuối trời thăm thẳm. Khi nàng đành đưa chân làm theo ý mẹ cha
“cho con về nhà chồng” thì chàng trai trở về, “đành nhìn người yêu bước về nhà chồng”. Chàng
trai không quản nguy hiểm chạy theo người yêu, cuộc tiễn dặn của đôi bạn tình khi đau đớn tột
cùng, khi đầy phấn khích. Khi cô gái bị chồng hắt hủi, đánh đập, chàng trai vẫn ở lại để an ủi,
chăm sóc thuốc thang. Họ vẫn son sắt thề nguyền: “Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy
nhau mùa đông/Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già”.
Cô gái bị nhà chồng ghẻ lạnh: “Khi chưa lấy nhau người vồ vập/Khi chưa đón về
người xun xoe”. Khi đã là dâu thì “dâu ơi xuống sàn ăn cám”, rồi còn bị chồng đánh đập, cuối
cùng bị nhà chồng đuổi về. Nàng lại bị bán cho nhà quan. Lần này nàng rơi vào hoàn cảnh bi
phẫn bội phần, đến nỗi “ngẩn ngơ vụng dại” và bị đem ra chợ rao bán, cuối cùng bị đổi với giá một cuộn lá dong.
Ngẫu nhiên người đổi được nàng lại là người yêu cũ, song chàng không nhận ra vì
nàng thay đổi quá nhiều. Chỉ khi nàng mang chiếc đàn môi chàng tặng năm xưa ra thổi, chàng
trai mới nhận ra, tình yêu lại đâm chồi nẩy nụ như “hoa sớm ngậm sương/Hoa khẳm cuối dòng
nẩy lá non tơ” (hoa khẳm là loại hoa quí trong truyền thuyết, rất đẹp và chỉ nở lúc nửa đêm).
Chàng trai đưa người yêu về nhà rồi tổ chức đám cưới, một đám cưới thật hạnh phúc sau bao
năm xa cách, đau đớn và tủi nhục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo Yên Bái, Tiễn dặn người yêu – Truyện thơ hay nhất trong kho tàng dan tộc ít người SỬ THI CHƯƠNG HAN
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, sử thi là thể loại đặc biệt chứa đựng những
giá trị văn hóa, tinh thần dân tộc sâu sắc. Một trong những sử thi nổi bật và tiêu biểu cho thể
loại này là sử thi Chương Han. Đây là một tác phẩm không chỉ kể về những chiến công anh lOMoAR cPSD| 57855709
hùng mà còn phản ánh những giá trị đạo đức, truyền thống và lý tưởng sống của dân tộc. Qua
sử thi Chương Han, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống của người xưa mà còn cảm
nhận được sự kiên cường, lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của người Việt qua các thời kỳ lịch sử.
Sử thi Chương Han là một tác phẩm sử thi dân gian đặc sắc, phản ánh cuộc đời, chiến
công oanh liệt của một người anh hùng dân gian mang tên Chương Han. Nhân vật Chương Han
là một hình mẫu lý tưởng của người anh hùng trong văn học dân gian Việt Nam, được miêu tả
là người sở hữu sức mạnh phi thường, lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần chiến đấu kiên cường.
Chương Han xuất thân từ một gia đình nghèo khó nhưng lại có khả năng lãnh đạo và sức mạnh
vô song, trở thành người đứng đầu trong các cuộc chiến bảo vệ đất nước và quê hương.
Câu chuyện của Chương Han không chỉ là hành trình của một cá nhân mà còn là hành
trình tượng trưng cho sự đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Sử thi này không chỉ phản ánh
những cuộc chiến đấu anh hùng, mà còn mang thông điệp sâu sắc về lòng trung thành, tình yêu
đất nước và sự hy sinh vì cộng đồng. Chính vì thế, Chương Han đã trở thành biểu tượng cho
sự bất khuất của con người Việt Nam trong những thời kỳ gian nan, thử thách.
Cốt truyện của sử thi Chương Han xoay quanh cuộc đời và những chiến công lớn lao
của nhân vật chính – Chương Han. Chương Han không chỉ là một chiến binh dũng mãnh mà
còn là người có trái tim nhân hậu, luôn đứng lên bảo vệ dân làng, bảo vệ những giá trị tốt đẹp của cộng đồng.
Chương Han sinh ra trong một gia đình nghèo khó, nhưng ngay từ khi còn nhỏ, anh
đã bộc lộ tài năng phi thường. Từ những ngày đầu, anh đã thể hiện sức mạnh vượt trội so với
những đứa trẻ đồng trang lứa. Không chỉ có sức khỏe phi thường, Chương Han còn là người
có trí tuệ và khả năng lãnh đạo bẩm sinh. Khi đất nước lâm vào nguy nan, khi những thế lực
xâm lược từ phương Bắc kéo đến, Chương Han đã không ngần ngại đứng lên cầm quân, bảo vệ quê hương.
Một trong những trận chiến oanh liệt nhất trong sử thi là cuộc chiến mà Chương Han
dẫn đầu quân dân tộc chống lại quân xâm lược. Mặc dù quân địch mạnh mẽ và đông đảo, nhưng
với tài lãnh đạo và chiến đấu, Chương Han cùng đội quân của mình đã giành được thắng lợi
vang dội. Trận chiến này không chỉ thể hiện sức mạnh quân sự mà còn khẳng định ý chí quật
cường của người dân Việt Nam trước sự xâm lược của các thế lực mạnh mẽ từ bên ngoài.
Kể từ đó, Chương Han trở thành người hùng trong lòng dân tộc, là niềm tự hào của
đất nước và là tấm gương sáng về lòng yêu nước và sự hy sinh. Anh không chỉ chiến đấu vì
danh vọng cá nhân mà còn vì bảo vệ tự do, hạnh phúc cho đồng bào, cho quê hương.
Bên cạnh nhân vật chính là Chương Han, sử thi còn khắc họa nhiều nhân vật quan
trọng khác, mỗi người đều có vai trò riêng, góp phần làm phong phú thêm nội dung và thông điệp của tác phẩm.
Chương Han: Là nhân vật trung tâm của sử thi, Chương Han được xây dựng là hình
mẫu anh hùng lý tưởng. Anh không chỉ mạnh mẽ về thể xác mà còn có trí tuệ sắc bén và lòng
nhân ái. Chính sự kết hợp giữa sức mạnh và trí tuệ này giúp Chương Han trở thành người dẫn
đầu trong các cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.
Những người đồng đội của Chương Han: Những người đồng đội của Chương Han là
những chiến binh kiên cường, trung thành và sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng bảo vệ quê hương.
Họ không chỉ là những chiến hữu trong các trận đánh mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết và
tinh thần đồng đội. Những người này không ngại khó khăn gian khổ, luôn sát cánh cùng Chương
Han trong từng cuộc chiến. lOMoAR cPSD| 57855709
Những kẻ xâm lược: Quân xâm lược trong sử thi được miêu tả như những thế lực hùng
mạnh, tàn bạo và luôn tìm cách chiếm đoạt đất đai của dân tộc. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ về quân
sự, nhưng khi đối đầu với người dân Việt Nam, với những người anh hùng như Chương Han,
họ cuối cùng phải thất bại. Hình ảnh quân xâm lược trong sử thi không chỉ là biểu tượng của
sự áp bức mà còn là thử thách đối với lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của người dân.
Sử thi Chương Han không chỉ là một tác phẩm mang tính giải trí mà còn chứa đựng
nhiều giá trị văn hóa và nhân văn sâu sắc. Từ câu chuyện của Chương Han, người đọc có thể
rút ra nhiều bài học quý giá về lòng yêu nước, sự trung thành, và tinh thần đấu tranh vì những giá trị tốt đẹp.
Giá trị văn hóa: Sử thi này chứa đựng những yếu tố văn hóa đặc trưng của người Việt
Nam. Các nhân vật trong tác phẩm đều mang đậm dấu ấn của cộng đồng dân tộc, với những
phẩm chất như lòng nhân ái, sự đoàn kết, và ý chí vững vàng. Nó phản ánh mối quan hệ mật
thiết giữa con người và thiên nhiên, giữa con người với cộng đồng, và khẳng định những giá
trị đạo đức, nhân văn mà dân tộc Việt Nam luôn coi trọng.
Giá trị lịch sử: Dù là một tác phẩm mang tính chất huyền thoại, nhưng sử thi Chương
Han vẫn phản ánh được những giá trị lịch sử quan trọng. Nó gợi nhớ về những thời kỳ mà dân
tộc Việt Nam phải đối mặt với những thử thách lớn lao từ những thế lực xâm lược, và khẳng
định sức mạnh, sự kiên cường của người dân trong các cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước.
Giá trị nhân văn: Câu chuyện của Chương Han cũng truyền tải thông điệp sâu sắc về
lòng dũng cảm, sự hy sinh và tinh thần chiến đấu không mệt mỏi vì lợi ích chung của cộng
đồng. Chương Han không chỉ là một người anh hùng mạnh mẽ mà còn là người có trái tim
nhân hậu, luôn vì dân vì nước mà chiến đấu.
Sử thi Chương Han là một trong những tác phẩm văn học dân gian Việt Nam tiêu biểu,
không chỉ vì cốt truyện hấp dẫn mà còn vì những giá trị sâu sắc mà nó mang lại. Chương Han
là hình mẫu của người anh hùng trong lòng người Việt, đại diện cho lòng yêu nước, sự kiên
cường và tinh thần đoàn kết. Qua sử thi này, chúng ta không chỉ hiểu thêm về văn hóa và lịch
sử của dân tộc mà còn nhận thức rõ hơn về những phẩm chất cao quý mà mỗi người cần có
trong cuộc sống. Chương Han sẽ luôn là biểu tượng bất diệt trong tâm trí người dân Việt Nam
về lòng yêu nước và khát vọng tự do. TẾT XÍP XÍ
Lễ hội Xíp Xí hay là Tết Xíp Xí của người Thái, tại vùng Tây Bắc. Một phong tục
giống như lễ rằm tháng 7 âm lịch của người Kinh, thể hiện tình yêu quê hương, gìn giữ bản sắc
văn hóa dân tộc mình và nhớ công ơn người khai phá tạo mường, lập bản và ăn uống, vui chơi
văn hóa văn nghệ. Theo quan niệm người Thái, người chết thì hồn bay về trời. Cuộc sống nơi
trần gian của con người được tổ tiên, thần sông, thần núi che chở nên họ rất coi trọng thờ cúng.
Tập tục sinh hoạt và yếu tố sản xuất là cơ sở hình thành nên quan niệm về Tết Xíp Xí ngày 14 tháng 7 âm lịch.
Nguồn gốc bắt đầu từ dân tộc Thái Trắng. Quá trình di cư, giao thoa văn hóa đã làm
cho Xíp Xí trở nên phổ biến. Ngày nay nhiều dân tộc cùng ăn Tết Xíp Xí. Tuy nhiên, giá trị
lịch sử và văn hóa của loại hình sinh hoạt mang tính bản địa cao. Thường vào khoảng thời
gian kết thúc vụ thu hoạch, công việc cấy cày cho vụ mùa mới vừa xong, người nông dân thực
hiện "quai khẩu púng" (thả trâu vào rừng). Thời gian này khá rảnh rang.
Tết xíp xí có 2 phần, phần “ mo” Đầu tiên là nhớ đến đất trời cho mưa thuận gió hòa,
nhớ đến ông bà tổ tiên phù hộ độ trì. Cúng "Nà Hoóng" (cúng trong nhà) và "cúng tế ná" (cúng
ruộng). Đồ vật cúng gồm: thịt, rượu, "khẩu cắm" (cơm nếp nhuộm màu), bánh chưng gù. Tết lOMoAR cPSD| 57855709
Xíp Xí thường không thể thiếu "nhớ tu pết" (thịt vịt), vịt gắn bó với đồng ruộng, sông suối, đời
sống sản xuất của con người. Xíp Xí cúng thịt vịt là muốn con vịt ăn hết sâu bọ hại lúa, con vịt
mang điều không may mắn, điềm xấu trôi theo dòng nước.
Và phần hội, Ăn uống trong gia đình, người ta trò chuyện vui vẻ, hỏi thăm tế nhị, chúc
tụng cởi mở. Với tấm lòng hiếu khách chân thành và luôn rộng mở. Vui chơi ca hát "khắp chúc
muôn" (hát chúc mừng), "khắp khoắm son cún" (hát dạy làm người), "khắp long te" (hát bè
trên sông), "khắp báo sao" (hát trao duyên), hát lúc ăn uống, lúc thăm nhau. Chủ nhà với cây
đàn "tính tẩu" (đàn bầu người Thái) có thể giãi bày tình cảm, ngôn từ mộc mạc, âm thanh réo
rắt, làm cho bữa tiệc không còn là say rượu mà say tình, say nghĩa.
Nghi lễ Tết "Xíp xí" góp phần củng cố sự gắn kết, thống nhất giữa các thành viên trong
gia đình và cộng đồng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Từ đó những yếu tố về văn hóa truyền thống được bảo lưu và kế thừa, giúp các thế hệ
sau hiểu được về văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Đây cũng là nghi lễ mang đậm bản
sắc tộc người, mang yếu tố tâm linh, nhân văn, gắn kết cộng đồng sâu sắc. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tết Xíp xí của người Thái
2. Lễ hội Xíp xí – Wikipedia tiếng Việt XÒE THÁI
Xòe Thái hay xòe, xe, hay ít phổ biến hơn là mố, múa xòe, múa then, hát then[1] là
loại hình văn hóa dân gian của người Thái tại Việt Nam. Ngày 15/ 12/2021 tại Phiên họp Uỷ
ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 16 của
UNESCO diễn ra tại Paris, thủ đô nước Cộng hòa Pháp, di sản Nghệ thuật Xòe Thái của Việt
Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại Người Thái có câu:
“Không xòe, không tốt lúa Không xòe, thóc cạn bồ
Không xòe, hoa sẽ tàn héo
Không xòe, trai gái không thành đôi”
Trong quá trình di cư của người Thái từ phương Bắc xuống phương Nam, một số bộ
phận định cư ở vùng Tây Bắc Việt Nam, họ đã mang theo những câu chuyện thần thoại, truyện
cổ tích, những bài dân ca, trang phục truyền thống và những điệu Xòe sơ khai từ thời xa xưa.
Qua nhiều thế kỉ, người Thái đã không ngừng phát triển và xây dựng cho bộ tộc mình một nền
nghệ thuật xòe dân gian truyền thống.[1]
Ban đầu là các điệu múa tương tự hoặc mô phỏng các hoạt động trong công cuộc lao
động săn bắt, hái lượm hay những biện pháp chống chọi với mưa bão, lũ lụt, với mãnh thú để
vừa phải tự vệ vừa kiếm sống. Sau đó, người Thái đã sáng tạo ra những nhịp xòe, những động
tác nhảy múa kèm theo các dụng cụ lao động và sinh hoạt cá nhân như nón, gậy, khăn, quạt, đàn tính
Xòe có nghĩa là nhảy múa trong tiếng Thái. TheoUNESCO, Xòe có ba loại chính: Xòe
nghi lễ, Xòe vòng, Xòe biểu diễn. Các điệu Xòe nghi lễ và Xòe biểu diễn thường kết hợp với
các đạo cụ và được gọi theo tên đạo cụ như Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe gậy, Xòe hoa… lOMoAR cPSD| 57855709
Xòe vòng phổ biến nhất, là màn đồng diễn mà người Xòe nối thành vòng tròn trong
sự hòa đồng với tất cả mọi người. Xòe vòng là múa tập thể, mở rộng dần vòng Xòe, cuốn hút
mọi người hòa cùng niềm vui mỗi dịp Tết đến, Xuân về hay trong lễ hội, cuộc vui liên hoan.
Họ nắm tay nhau, bước chân nhịp nhàng theo điệu nhạc trong không khí thân thiện, vui vẻ, hòa đồng.
Trong các dịp lễ hội, các thành viên gia đình, cộng đồng, mỗi người một việc, cùng
nhau tham gia chuẩn bị đồ cúng, tổ chức các hoạt động tế lễ, trò chơi dân gian, và cùng Xòe.
Qua đó, Xòe thể hiện sự kết nối giữa các thế hệ, tăng cường mối quan hệ thân thiết giữa các
thành viên cộng đồng, giữa các thế hệ trong và ngoài cộng đồng.
Nghệ thuật Xòe Thái tượng trưng cho cái đẹp, chứa đựng những giá trị nghệ thuật vũ
đạo, âm nhạc, ca hát, trang phục, ẩm thực và quan trọng hơn là sự ứng xử văn hóa của cộng
đồng người Thái. Ngày nay Nghệ thuật Xòe đã trở thành biểu tượng của lòng cởi mở, hiếu
khách, là dấu ấn văn hóa tộc người, và bản sắc văn hóa của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam.
Các động tác múa cơ bản của Xòe là tay giơ lên cao, mở ra, hạ xuống, nắm lấy tay
người bên cạnh cùng bước chân nhịp nhàng, người hơi ưỡn ngực, lưng ngả về phía sau.
Cách thức thể hiện của Xòe người Thái được gắn với hoàn cảnh sinh hoạt xã hội. Cho
đến nay, người Thái chủ yếu thực hành 6 điệu Xòe cơ bản, diễn ra phổ biến trong mọi cuộc
sinh hoạt văn hóa của cộng đồng: điệu xòe Khắm khăn mơi lẩu – nâng khăn mời rượu; điệu
xòe Phá xí - bổ bốn; điệu xòe Đổn hôn – Tiến lùi; điệu xòe Nhôm khăn – Tung khăn; điệu xòe
Ỏm lọm tốp mư – vòng tròn vỗ tay; điệu xòe Ỏm lọm khắm khăn – Nắm tay vòng tròn
Điệu xòe cơ bản nhất là “Khắm khăn mơi lẩu”- nghĩa là “nâng khăn mời rượu”. Đây
là điệu xòe thể hiện nét văn hóa trong giao tiếp ứng xử của đồng bào dân tộc Thái. Theo quan
niệm của người Thái thì bất cứ ai đến chơi nhà đều được đón tiếp rất trân trọng và hết sức chân tình.
Điệu xòe thứ hai là điệu “Phá xí”, nghĩa là xòe bổ bốn, điệu múa thể hiện sự đoàn kết
của cộng đồng người Thái. Điệu xòe này có ý nghĩa biểu hiện tình cảm của mỗi cá nhân trong
cộng đồng, dù có đi 4 phương trời nhưng không bao giờ quên được nguồn cội.
Điệu Xòe tưng bừng và rộn rã nhất là điệu “Nhôm khăn”, hay còn gọi là điệu Tung
khăn. Ra đời cùng với sự phát triển của nghề trồng bông dệt vải, xòe Nhôm khăn có ý nghĩa
biểu hiện niềm vui của con người trước những thành qua lao động của mình, đồng thời thể hiện
sự khéo léo của đôi bàn tay các thiếu nữ dân tộc Thái bằng những nét hoa văn tinh tế trên các
sản phẩm của nghề dệt thổ cẩm truyền thống...
Điệu xòe thứ 4 là “Khắm khen” nghĩa là cầm tay nhau, nắm tay cùng xòe. Đây là điệu
xòe cơ bản trong nghệ thuật dân vũ của dân tộc Thái, được hình thành trong quá trình lao động
từ thuở sơ khai. Khi săn được con thú, mỗi khi có niềm vui trong gia đình, cộng đồng mọi
người nắm tay nhau nhảy quanh đống lửa. Đây cũng là những động tác cơ bản đầu tiên làm
tiền đề để phát triển thành những điệu xòe tiếp theo và phát triển thành những tác phẩm múa
dân gian đặc sắc. Đồng thời có ý nghĩa là biểu hiện sự gắn kết cộng đồng mỗi khi có niềm vui
cùng nhau nhảy múa và cả khi gặp khó khăn hoạn nạn, cộng đồng vẫn nắm chặt tay nhau cùng chung sức vượt qua.
Điệu xoè thứ 5 là “Đổn hôn”, nghĩa là Xòe bước tiến lùi. Điệu xòe đổn hôn mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, cho dù cuộc sống có lúc buồn, lúc vui, có khi chao đảo trước sóng gió,
khó khăn. Song mọi người vẫn chung lòng hướng tới một niềm tin son sắt, cho dù vật đổi sao
dời nhưng lòng người không bao giờ thay đổi. lOMoAR cPSD| 57855709
Điệu xoè cuối cùng là “Ỏm lọm tốp mư” (Đi vòng tròn vỗ tay). Xòe "Ỏm lọm tốp mư"
kết thúc mỗi cuộc vui. Khi mọi người đã trao nhau những tình cảm chân thành, thì điệu xòe
này biểu hiện niềm hân hoan, sự thỏa mãn, đó cũng là những bước chân chếnh choáng men say
của rượu nồng và tình người ngây ngất, tiếng vỗ tay cũng nhỏ dần, thưa dần cùng ánh lửa le lói
báo hiệu đêm sắp tàn, mọi người chia tay và chào đón một ngày mới.
Nghệ thuật Xòe Thái được trao truyền trực tiếp giữa các thế hệ, các thành viên cộng
đồng, không kể tuổi, giới tính. Mọi người tham gia Xòe đều có thể học hỏi từ nhau, người này
chỉ cho người khác, nhịp nhàng cùng bước theo điệu nhạc.
Trong gia đình người Thái, trẻ em học Xòe từ ông bà, cha mẹ khi cùng họ tham dự
nghi lễ ở điện thờ của thầy cúng, trong đám cưới, các cuộc vui, lễ hội. Các thầy cúng truyền lại
cho các con, các cháu, người kế nghiệp nghi thức cúng và các điệu Xòe nghi lễ.
Ở cộng đồng, trong các nghi lễ, các thầy cúng truyền dạy Xòe cho các con nuôi. Ở các
cuộc Xòe cộng đồng, những nghệ nhân, bậc cao niên có năng khiếu, thuần thục Xòe hướng dẫn
cách bước chân, vung tay, nhún chân theo nhịp điệu nhạc, cách sử dụng các đạo cụ như nón,
khăn, gậy, quạt, v.v. Tham gia dạy múa Xòe, còn có sự hợp tác giữa các nghệ nhân và nghệ sĩ
múa người Thái. Họ phối hợp, trực tiếp hướng dẫn các điệu Xòe trong các đội văn nghệ, lớp
học ở các trường phổ thông, trường nghệ thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghệ thuật Xòe Thái – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
2. Xòe Thái – Wikipedia tiếng Việt TỤC Ở RỂ
Tục ở rể là một phong tục truyền thống đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
trong đó có dân tộc Thái. Phong tục này không chỉ là một tập tục gia đình mà còn là một phần
quan trọng trong văn hóa xã hội của cộng đồng người Thái. Tục ở rể đã tồn tại qua hàng trăm
năm và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống, tập quán và mối quan hệ gia đình của người Thái.
Tục ở rể của người Thái có thể hiểu đơn giản là người con trai sau khi kết hôn sẽ về
sống trong gia đình nhà vợ thay vì ở cùng gia đình mình. Đây là một tập tục có từ lâu đời, gắn
liền với truyền thống cưới hỏi của dân tộc Thái. Trong quan niệm của người Thái, tục ở rể
không chỉ thể hiện tình cảm, trách nhiệm của người chồng đối với gia đình vợ mà còn phản ánh
mối quan hệ giữa các gia đình trong cộng đồng.
Ý nghĩa của tục ở rể trong xã hội Thái rất sâu sắc. Trước hết, tục lệ này thể hiện sự
gắn kết giữa hai gia đình thông qua việc người con trai rời bỏ gia đình mình để sống với gia
đình vợ. Đây cũng là một cách để củng cố mối quan hệ giữa các dòng họ, giúp cho các gia đình
duy trì sự bền vững trong quan hệ hôn nhân, đồng thời tạo ra một sự hòa hợp trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, tục ở rể còn có sự liên kết chặt chẽ với nền kinh tế của cộng đồng người
Thái. Theo truyền thống, gia đình vợ thường có ruộng đất, tài sản hơn gia đình chồng, vì thế
khi con trai về sống trong gia đình vợ, anh ta có cơ hội tham gia vào việc sản xuất, chăm sóc
ruộng nương. Điều này cũng giúp gia đình vợ phát triển kinh tế và duy trì sự thịnh vượng.
Trong cộng đồng người Thái, tục ở rể gắn liền với nghi lễ cưới hỏi đặc biệt. Các nghi
lễ cưới hỏi của người Thái rất cầu kỳ và mang đậm bản sắc dân tộc. Trước khi kết hôn, gia đình
nhà trai phải đến nhà gái để thăm hỏi, tìm hiểu và thỏa thuận các điều khoản về hôn nhân. Đây
là bước đầu tiên trong việc tiến tới quyết định kết hôn và thực hiện tục ở rể. lOMoAR cPSD| 57855709
Một trong những yếu tố quan trọng trong lễ cưới của người Thái là sự thỏa thuận về
việc ở rể. Khi gia đình nhà trai đồng ý về ở rể, người con trai phải mang lễ vật đến gia đình vợ
để thể hiện sự tôn trọng và sự cam kết. Sau khi lễ cưới được tổ chức, người con trai sẽ về sống
cùng gia đình vợ, chịu trách nhiệm chăm sóc cha mẹ vợ và cùng vợ sinh sống tại đây.
Thông thường, khi người con trai về sống với gia đình vợ, anh ta sẽ sống trong một
căn nhà riêng biệt, nhưng vẫn ở gần gia đình vợ để tiện bề chăm sóc. Việc sống ở rể không chỉ
là một nghĩa vụ, mà còn là một dấu hiệu của sự trưởng thành, của sự khẳng định trách nhiệm
và vai trò của người chồng trong gia đình.
Khi về ở rể, người chồng không chỉ có nghĩa vụ chăm sóc vợ mà còn phải chăm sóc
cha mẹ vợ. Người chồng sẽ phải giúp đỡ gia đình vợ trong việc lao động sản xuất, chăm sóc
ruộng đất, chăn nuôi gia súc, gia cầm và làm các công việc gia đình khác. Mối quan hệ giữa
chàng rể và gia đình vợ thường rất gần gũi, thân thiết, vì người con trai không còn là một thành
viên riêng biệt trong gia đình vợ mà trở thành một phần không thể thiếu trong mọi hoạt động của gia đình.
Theo truyền thống của người Thái, người chồng khi sống ở rể có trách nhiệm với cha
mẹ vợ, phải kính trọng và chăm sóc họ như cha mẹ ruột. Tình cảm giữa người chồng và gia
đình vợ phải được duy trì và phát triển để tạo nên một mối quan hệ hài hòa. Thậm chí, trong
một số trường hợp, người chồng còn có trách nhiệm thay mặt gia đình vợ giải quyết những mâu
thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng, góp phần duy trì trật tự xã hội.
Tục ở rể của người Thái không chỉ là một phong tục về gia đình mà còn là yếu tố quan
trọng trong việc xây dựng tình cảm gia đình. Mối quan hệ giữa vợ chồng và gia đình vợ thường
rất gần gũi, tạo ra một sự kết nối chặt chẽ giữa các thế hệ trong gia đình. Người chồng khi sống
ở rể sẽ có nhiều cơ hội để học hỏi kinh nghiệm từ các thế hệ trước và duy trì truyền thống văn hóa của gia đình.
Trong khi đó, người vợ cũng có trách nhiệm đối với gia đình chồng và các thế hệ trước
trong nhà chồng. Mặc dù người vợ không sống với gia đình chồng, nhưng cô ấy vẫn phải tôn
trọng, chăm sóc và quan tâm đến các bậc phụ huynh của chồng. Điều này tạo ra một sự hòa
thuận trong mối quan hệ giữa hai gia đình và là yếu tố quan trọng giúp duy trì tình cảm gia đình trong suốt cuộc đời.
Dù tục ở rể có giá trị văn hóa sâu sắc, nhưng trong xã hội hiện đại, tục lệ này cũng gặp
phải một số thách thức và biến đổi. Sự thay đổi của xã hội, sự phát triển của nền kinh tế, cùng
với sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ đã khiến cho tục ở rể không còn giữ được vị trí quan trọng
như trước. Những thế hệ trẻ ngày nay, nhất là ở các vùng đô thị, không còn mặn mà với việc
sống với gia đình vợ nữa. Việc này có thể ảnh hưởng đến sự duy trì của tục lệ này trong tương lai.
Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, với những thay đổi trong quan hệ vợ chồng và gia
đình, mối quan hệ giữa vợ chồng và gia đình hai bên cũng trở nên phức tạp hơn. Những vấn đề
về quyền lợi, tự do cá nhân và công việc đã khiến cho tục ở rể ít được áp dụng như trước.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng tục ở rể vẫn còn tồn tại trong nhiều gia đình người
Thái, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Nó vẫn là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa
và gia đình của cộng đồng người Thái.
Tục ở rể của dân tộc Thái không chỉ là một phong tục truyền thống mà còn là một
phần không thể thiếu trong đời sống xã hội của cộng đồng này. Nó thể hiện sự gắn kết giữa hai
gia đình, giữa vợ chồng, và giữa các thế hệ trong gia đình. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội
hiện đại, tục lệ này đang dần thay đổi, nhưng vẫn giữ được giá trị văn hóa của một thời kỳ lịch lOMoAR cPSD| 57855709
sử. Dù có thể thay đổi theo thời gian, tục ở rể vẫn là một dấu ấn quan trọng trong nền văn hóa
của dân tộc Thái, phản ánh một truyền thống gia đình gắn kết và đoàn kết cộng đồng. LỄ TẰNG CẨU
Lễ Tằng cẩu được tiến hành tại nhà gái, trên nhà sàn ở gian nhà phía buồng cô dâu
ngủ, trước khi làm lễ đón dâu về nhà chồng.
Sáng hôm làm lễ Tằng cẩu, nhà trai cử một đoàn sang nhà gái gồm những thiếu nữ trẻ đẹp và
các thiếu phụ khỏe mạnh, tháo vát, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán và thông thạo động tác
búi tóc ngược cho cô dâu mới. Phía nhà gái cũng có số người tương ứng, trong đó có hai thiếu
nữ làm phù dâu, thường là bạn thân của cô dâu.
Đồ vật làm lễ Tằng cẩu do bố mẹ cô dâu chuẩn bị được xếp lên mâm, bao gồm: Một
đĩa đựng 4 chén rượu, 1 chai rượu đặt bên cạnh; Một cái mẹt đựng: 2 bát gạo (xòng thuổi khảu),
2 quả trứng được đặt lên bát gạo, 2 bông hoa được cắm trên hai bát gạo, 1 cọn vải trắng (châu
đón), 1 cọn vải kẻ đỏ (châu đènh), 1 trâm cài tóc (mản cẩu), 1 xa búi tóc, 1 bộ áo cóm và váy
(xỉn sửa), 1 dây thắt lưng (sai yều), 2 vòng tay bạc (xòng pắc khen), 1 xà tích (sỏi), 1 cái gương
(ben), 1 cái lược (cản bì), 1 đôi búi tóc giả (xòng cản chọong), 1 bát nước cỏ mần trầu (thuổi
phắc nhả hút). Ngoài ra phải có: 1 cái lược để chải tóc cho cô dâu, 1 bát nước lã trong có: Sỏi
ba bến (hin xam ta), búi rau mần trầu ba vườn (tổn nhả hút xuôn) để nhúng lược vào chải tóc cô dâu, với ý nghĩa:
Ba hòn sỏi thả vào bát nước là tượng trưng cho gia đình luôn có 3 thế hệ cùng chung sống khỏe
mạnh, mặt khác cầu cho đôi vợ chồng trẻ vững niềm tin xây dựng tổ ấm hạnh phúc, cũng như
những hòn sỏi kia dù ngâm trong nước hay ở ngoài bãi sông suối vẫn luôn cứng cỏi không bao
giờ bị mối mọt mục nát.
Ba búi cỏ mẩn trầu thả vào bát nước tượng trưng gia đình luôn có 3 thế hệ cùng chung
sống đoàn kết, làm ăn phát đạt, lộc tài sinh sôi nảy nở, êm ấm, hạnh phúc như búi mần trầu. Từ
một gốc mần trầu, mọc nhiều nhánh mần trầu non sum suê vây quanh mần trầu mẹ thành bụi
to, tạo cho bộ rễ chắc hơn, xanh mượt, khó nhổ, cho vào bát nước chải tóc là để tóc chắc, khỏe,
mượt, dài nhanh, không bị rụng.Tất cả các thứ đã được chuẩn bị trước, đem đến đặt cạnh mâm đồ lễ búi tóc
Mâm lễ búi tóc đã chuẩn bị xong, nghi lễ búi tóc ngược bắt đầu tiến hành, các cô, dì,
chú bác hai bên gia đình sẽ cho quà vào mâm lễ (có thể bằng hiện vật hoặc tiền) với những lời
chúc tốt đẹp cho đôi vợ chồng trẻ.
Cô dâu mặc áo váy đẹp được mẹ dắt ra ngoài, ngồi xuống chiếu trước mâm làm lễ .
Bà mẹ thả duỗi tóc con gái xuống cho bên nhà trai tiến hành làm thủ tục búi tóc ngược. Khi đã
chải tóc xong, mẹ hoặc dì cô dâu mời mẹ chồng (hoặc cô chồng) đón nhận để tiếp tục làm lễ
búi tóc ngược nhận dâu.
Người được chọn để Tằng cẩu (gọi là “nai cẩu”) đứng ở phía sau lưng cô dâu, lấy lược
nhúng vào bát nước cỏ mần trầu rồi nhẹ nhàng chải tóc từ sau gáy hớt ngược lên đằng trước
cuốn cùng đôi tóc giả búi lên đỉnh đầu, chụp xa búi tóc, rồi lấy châm bạc cài chính giữa búi
tóc, vừa chải tóc vừa có câu: Ngày hôm nay mẹ chải tóc cho con để làm lễ búi tóc ngược cho
con, từ hôm nay con sẽ trở thành dâu con bên nhà mẹ, đừng có chê trách gì con nhé, từ nay trở
đi vợ chồng con phải sống hạnh phúc với nhau, sinh con trai con gái khỏe mạnh con nhé.
Khi đã búi tóc xong, “nai cẩu” thay váy áo mới xong đeo hai vòng tay vào hai tay, hoa
tai… cho cô dâu. Tiếp đó lấy hai bát gạo được đặt quả trứng lên đổ vào túi. Bà cô lấy cọn vải
đỏ giao cho cô dâu và cầm tay cô dâu trao cho chú rể,dắt tay nhau vào phòng cưới lOMoAR cPSD| 57855709
Để tượng trưng cho gia đình đông con nhiều cháu họ cho một vài đứa trẻ vào phòng cưới
(tượng trưng cho con cái họ sau này), làm xong lễ búi tóc, cho cô dâu chú rể mỗi người cầm
hai chén rượu chúc nhau, rồi mời mọi người cùng nâng chén chúc mừng. Bà mối thay mặt nhà
trai có lời cảm ơn nhà gái đã có sự quan tâm, đồng tình ủng hộ và tạo điều kiện cho nhà trai
tiến hành làm lễ cưới cho hai con đạt kết quả tốt đẹp thành vợ, thành chồng. Sau lễ Tằng cẩu,
cô gái phải luôn búi tóc vừa để làm đẹp vừa như là một dấu hiệu thông báo cho các chàng trai
khác biết họ đã có chồng HÁT KHẮP
Dân tộc Thái là một trong những dân tộc có nền văn hóa phong phú và đa dạng ở Việt
Nam. Trong số những giá trị văn hóa truyền thống của họ, âm nhạc đóng vai trò đặc biệt quan
trọng, thể hiện rõ nét trong các nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng và đời sống hàng ngày. Một trong
những thể loại âm nhạc nổi bật của người Thái là "hát khắp". Đây là một phần không thể thiếu
trong các lễ hội, sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động văn hóa của người Thái, đặc biệt là ở
các tỉnh miền núi phía Bắc như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, và Hòa Bình.
Hát khắp là một loại hình âm nhạc truyền thống của dân tộc Thái, bao gồm những bài
hát dân gian được trình bày chủ yếu trong các dịp lễ hội, nghi lễ cúng bái, đám cưới, lễ mừng
lúa mới, hay những buổi sinh hoạt cộng đồng. Tên gọi "khắp" xuất phát từ từ "khắp" trong tiếng
Thái, có nghĩa là "hát" hoặc "ca hát". Hát khắp không chỉ là một hình thức giải trí mà còn chứa
đựng những giá trị văn hóa, tôn vinh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, thần linh và cộng đồng.
Hát khắp thường được thể hiện qua các bài hát có giai điệu du dương, nhịp điệu nhẹ
nhàng, mang đậm màu sắc dân gian. Các bài hát này chủ yếu là lời ca, lời hát của người Thái,
thể hiện những cảm xúc chân thành về tình yêu, thiên nhiên, cuộc sống lao động, và các phong
tục tập quán truyền thống. Một số bài hát còn mang tính chất cầu phúc, cầu bình an cho cộng
đồng, thể hiện mong muốn của người Thái về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Điều đặc biệt trong hát khắp là sự hòa quyện giữa lời hát và những âm thanh của các
nhạc cụ dân tộc. Các nhạc cụ thường được sử dụng trong hát khắp bao gồm đàn tính, đàn môi,
sáo, và trống. Mỗi nhạc cụ này đều có những đặc trưng riêng biệt, góp phần tạo nên không khí
trang trọng và linh thiêng trong những buổi lễ, cũng như sự vui tươi, phấn khởi trong các hoạt động cộng đồng.
Hát khắp có thể được hát đơn ca hoặc hợp ca, nhưng phổ biến nhất là hình thức hát
đối đáp giữa nam và nữ. Trong các dịp lễ hội, người Thái thường tổ chức các cuộc thi hát, nơi
các chàng trai và cô gái cùng tham gia đối đáp, ca hát, thể hiện tài năng và sự khéo léo trong
lời ca tiếng hát. Hình thức này không chỉ thể hiện tài năng ca hát mà còn là một cách để giao
lưu, tìm hiểu, và tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng.
Trong số các làn điệu Khắp Thái thì có lẽ hát giao duyên nam nữ (khắp báo xao), hát
ru con (khắp ú lụ), “khắp” mừng xuân, “khắp” xư (giống với ngâm thơ, vịnh thơ của dân tộc
Kinh) là phổ biến hơn cả. Câu “khắp” được lấy nội dung từ những câu truyện thơ của dân tộc
Thái kết hợp với vần điệu, luyến láy, tiết tấu tự do để mang cảm xúc vào mỗi câu hát. Với tình
yêu lứa đôi, hình thức khắp là mượn chủ đề tình yêu để thi tài năng đối đáp giữa các cặp hát đối.
Những điệu “khắp” thường có giai điệu mượt quà, trữ tình, bắt tai, được khán giả đón
nhận. Khắp Thái thường kết hợp cùng với “pí khui” (sáo trúc) và “pí pe” (khèn bè), giọng hát
trầm bổng cùng sáo, khèn ngân nga tạo nên một thứ âm thanh lạ, độc đáo và đi vào lòng người. lOMoAR cPSD| 57855709
Hát khắp không chỉ là một hình thức giải trí mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc trong
đời sống cộng đồng người Thái. Đầu tiên, hát khắp là phương tiện để gắn kết cộng đồng. Trong
các lễ hội, cuộc sống hàng ngày hay những dịp quan trọng, người Thái thường tập trung lại
cùng nhau để hát khắp. Đây không chỉ là dịp để mọi người cùng vui chơi, mà còn là cơ hội để
chia sẻ, gắn bó với nhau hơn. Hát khắp giúp củng cố tình đoàn kết, sự gắn bó giữa các thế hệ trong cộng đồng.
Thứ hai, hát khắp có vai trò quan trọng trong các nghi lễ tôn vinh thần linh và các vị
thần bảo vệ cộng đồng. Trong các buổi lễ cúng bái, người Thái thường hát khắp để mời gọi
thần linh, cầu nguyện cho mùa màng bội thu, cho sức khỏe và sự bình an. Mỗi lời hát trong hát
khắp đều mang theo những ước nguyện và khát vọng của cộng đồng.
Ngoài ra, hát khắp cũng là một phương tiện để người Thái thể hiện cảm xúc và truyền
tải thông điệp. Những bài hát khắp có thể là lời tâm sự, là tình cảm yêu đương lãng mạn, hoặc
là nỗi lòng nhớ nhung, hoài niệm. Hình thức hát đối đáp trong hát khắp cũng thể hiện một cách
giao lưu, một sự đối thoại nhẹ nhàng giữa các cá nhân trong cộng đồng.
Mặc dù hát khắp là một phần quan trọng trong nền văn hóa âm nhạc của người Thái,
nhưng trong thời gian gần đây, thể loại âm nhạc này đang đứng trước những thách thức lớn.
Quá trình đô thị hóa, sự phát triển của xã hội hiện đại đã khiến nhiều giá trị văn hóa truyền
thống, bao gồm hát khắp, bị mai một. Đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay, do ảnh hưởng của các
yếu tố văn hóa nước ngoài và sự phát triển của các phương tiện truyền thông hiện đại, ít quan
tâm đến những giá trị văn hóa truyền thống như hát khắp.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu và những người yêu mến
văn hóa dân tộc đã bắt đầu chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy hát khắp. Các hoạt động như
tổ chức các lễ hội dân gian, các cuộc thi hát, và các buổi giao lưu văn hóa đã giúp làm sống lại
và duy trì hát khắp trong đời sống cộng đồng. Ngoài ra, các nghệ sĩ trẻ cũng đã tìm cách kết
hợp hát khắp với các thể loại âm nhạc hiện đại, tạo ra một sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống
và hiện đại, giúp đưa hát khắp đến gần hơn với công chúng.
Hát khắp của dân tộc Thái không chỉ là một thể loại âm nhạc mà còn là một phần quan
trọng trong văn hóa và đời sống của cộng đồng người Thái. Những lời hát du dương, những
giai điệu nhẹ nhàng, cùng với các nhạc cụ dân tộc tạo nên một không gian âm nhạc độc đáo,
sâu lắng, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình cảm gia đình và tình yêu cuộc sống của người Thái.
Bằng việc bảo tồn và phát huy giá trị của hát khắp, chúng ta không chỉ gìn giữ một nét đẹp văn
hóa, mà còn giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về những giá trị truyền thống của dân tộc mình.