



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206071
TR ƯỜ NG ĐẠ I H Ọ C TH ƯƠ NG M Ạ I
KHOA KINH T Ế V À KINH DOANH QU Ố C T Ế ***
Đề t à i:
T ì m hi ể u v ề con đườ ng chi vi ệ n c ủ a mi ề n B ắ c cho mi ề n Nam trong cu ộ c
kh á ng chi ế n ch ố ng M ỹ c ứ u n ướ c (1954-1975).
M ô n: L ị ch s ử Đả ng C ộ ng s ả n Vi ệ t Nam
Gi á o vi ê n h ướ ng d ẫ n: Nguy ễ n Th ị Lan Ph ươ ng
L ớ p h ọ c ph ầ n: 2161HC MI 0131
Nh ó m th ả o lu ậ n: 01
H à N ộ i – 2021. lOMoAR cPSD| 47206071 LỜI MỞ ĐẦU
Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc
liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1979). Cuộc chiến này chính thức kết
thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam
Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tiếp quản miền Nam cho đến
khi đất nước thống nhất. Nhà nước thống nhất với quốc hiệu là Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ra đời vào năm 1976.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần 21
năm, là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt và phức tạp nhất trong lịch
sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh lâu dài ấy, đế
quốc Mỹ đã nhiều keo thất bại phải bị động thay đổi chiến lược; ta đánh thắng từng
chiến lược chiến tranh của địch, giành thắng lợi từng bước làm thay đổi cục diện
chiến trường, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Căn cứ vào những bước chuyển biến chiến lược của hai bên và diễn biến thực
tế của chiến tranh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã đưa ra nhiều phương án
chi viện kịp thời cho nhân dân miền Nam ruột thịt. Chính vì vậy, nhóm 1 đã lựa chọn
phân tích đề tài: “Tìm hiểu về con đường chi viện của miền Bắc cho miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)” CHƯƠNG I:
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU
NƯỚC VÀ CHỦ TRƯƠNG HÌNH THÀNH CON ĐƯỜNG CHI VIỆN CỦA ĐẢNG TA. I.
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ đã triệt để khai thác những
điều kiện thuận lợi (về tài nguyên, nguồn nhân lực dồi dào, trình độ khoa học - kỹ
thuật cao, bị tổn thất ít hơn so với nhiều nước khác, đồng thời lợi dụng chiến tranh
để làm giàu, thu lợi nhuận từ buôn bán vũ khí...) để vươn lên trở thành một đế quốc
giàu có và hùng mạnh nhất thế giới. Để thực hiện những tham vọng của mình, ngay
từ năm 1949, đế quốc Mỹ tăng cường chạy đua vũ trang, lập khối quân sự Bắc Đại
Tây Dương NATO, đẩy mạnh chiến tranh lạnh, tiếp tay cho các thế lực đế quốc khác
trong cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa và trực tiếp nhảy vào tham gia cuộc chiến
tranh trên bán đảo Triều Tiên. Tháng 5-1950, Tổng thống Mỹ Truman chính thức
viện trợ cho Cộng hòa Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, ủng hộ
Chính phủ “quốc gia” Bảo Đại.
Tháng 12-1950, Mỹ và Pháp cùng các chính phủ “quốc gia” Việt, Miên, Lào
ký kết bản Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương. Theo đó, Mỹ cam kết sẽ viện
trợ quân sự cho chính phủ các nước này đối phó với phong trào đấu tranh giải phóng lOMoAR cPSD| 47206071
dân tộc. Bên cạnh đó, chính quyền Mỹ không ngừng gia tăng viện trợ quân sự cho
thực dân Pháp. Cụ thể, nếu năm 1952 ngân sách viện trợ của Mỹ mới chỉ chiếm 35%,
năm 1953 lên 43% thì đến năm 1954 đã tăng vọt đến 73% trong tổng ngân sách dành
cho cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp.
Tại Việt Nam, dưới áp lực của Mỹ, ngày 12-1-1954, Bảo Đại buộc phải đưa
Bửu Lộc đứng ra lập nội các mới thay thế cho nội các Nguyễn Văn Tâm (lập tháng
6-1952), nhưng nội các Bửu Lộc cũng chỉ tồn tại được sáu tháng.
Đầu tháng 7-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam Việt Nam và gây
sức ép với Pháp để cho Ngô Đình Diệm chấp chính. “Quốc trưởng” Bảo Đại lúc đó
tuy bất bình, nhưng phản ứng của ông không mang lại kết quả. Mỹ bắt đầu ra mặt
gạt Pháp ra khỏi Đông Dương, đơn phương thao túng thế cờ Việt Nam. Đó cũng là
một trong những cột mốc đánh dấu quá trình Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới
ở miền Nam Việt Nam. Đế quốc Mỹ âm mưu biến miền Nam thành căn cứ quân sự,
dùng miền Nam làm bàn đạp tiến công miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn phong
trào cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc tại khu vực Đông Nam Á.
Trước tình hình đó, nhân dân miền Nam Việt Nam không còn con đường nào
khác là phải vùng lên đấu tranh giành lại độc lập, thống nhất đất nước. II.
Chủ trương hình thành con đường chi viện.
1. Tình hình chiến tranh miền Nam Việt Nam. a) Hoàn cảnh lịch sử: ➢ Tình hình thế giới. Thuận lợi:
Sau Thế chiến II, một loạt hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời, làm thay
đổi cán cân so sánh lực lượng nghiên hẳn về các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
chống chế độ đế quốc, thực dân. Sự phá vỡ độc quyền hạt nhân của Mỹ, tiến bộ của
Liên Xô, Trung Quốc đã chứng tỏ rằng 2 khối cường quốc Xô - Mỹ đang phát triển
trong thế cân bằng lực lượng, không bên nào hơn bên nào, mở ra một thời kỳ mới -
thời kỳ hòa bình - đã xuất hiện. Khó khăn:
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ luôn nuôi tham vọng vươn
lên trở thành một đế quốc giàu có và hùng mạnh nhất thế giới. Mỹ tự đứng ra “đảm
nhận” vai trò sen đầm quốc tế để bảo vệ và cứu nguy cho cả hệ thống các nước tư
bản chủ nghĩa đang suy yếu trước sự lớn mạnh nhanh chóng của hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa. Mỹ tăng cường chạy đua vũ trang, tài trợ cho các cuộc chiến tranh
phi nghĩa ở các nước thuộc địa và trực tiếp tham gia vào chiến tranh xâm lược các
nước Đông Dương trong đó có Việt Nam. lOMoAR cPSD| 47206071
➢ Tình hình trong nước. Thuận lợi:
Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Ngày 10 – 10 – 1954, bộ đội Việt Nam
tiến vào tiếp quản Thủ đô. Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo
Cát Bà. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, tạo điều kiện cho
miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân miền Bắc đã tổ
chức một cuộc Mít tinh trọng thể chào mừng sự kiện trọng đại này. Nửa nước đã
hoàn toàn giải phóng, đánh dấu thắng lợi lớn của cuộc kháng chiến, đặt cơ sở chắc
chắn cho cuộc đấu tranh tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và hòa bình. Khó khăn:
Ở miền Nam, từ năm 1954, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của Pháp, đế quốc
Mỹ đã nhảy vào thay chân Pháp thống trị miền Nam Việt Nam. Tháng 51956, Pháp
rút quân khỏi miền Nam, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu
chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của Mỹ. Việt Nam rơi vào cảnh đất nước chia làm hai miền, có chế độ chính
trị khác nhau, miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hòa
bình thống nhất đất nước. Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Đế quốc Mỹ trở
thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam.
➢ Tình hình chiến tranh miền Nam
Việt Nam. Giai đoạn 1954 – 1960:
Những năm 1957 – 1959, Mỹ và tay sai tăng cường dùng bạo lực khủng bố
phong trào đấu tranh của quần chúng. Tháng 5/1959, chính quyền Sài Gòn ra Luật
10 – 59, đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất
nặng nề. Mỹ lê máy chém đi khắp nơi, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót, bắt bớ, trả thù
tất cả những người yêu nước kháng chiến cũ, dùng Tòa án quân sự đặc biệt để đưa
thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn giết tại chỗ. Sự đàn áp của kẻ thù làm cho mâu
thuẫn giữa nhân dân miền Nam với đế quốc Mỹ và tay sai càng phát triển gay gắt.
Cuộc đấu tranh ở miền Nam đòi hỏi phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng tiến lên.
Giai đoạn 1961 – 1965:
Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài Ngô
Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” (1961 – 1965) - một loại hình chiến tranh thực dân mới, được tiến hành
bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí, trang
bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng
và yêu nước. Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai thực hiện kế hoạch bình
định miền Nam trong vòng 18 tháng, dự định lập 17.000 ấp chiến lược là “quốc lOMoAR cPSD| 47206071
sách”. Tuy nhiên, trước các phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân miền Nam,
chiến lược này cũng nhanh chóng bị phá sản.
Giai đoạn 1965 – 1968:
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” là một loại hình chiến tranh
xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân Mỹ, quân một số nước đồng minh
Mỹ và quân đội Sài Gòn (Mỹ đưa vào miền Nam khoảng 70 vạn quân, trong đó có
gần 20 vạn quân Mỹ); nhằm nhanh chóng tạo ra ưu thế về quân sự, giành lại thế chủ
động trên chiến trường. Trong giai đoạn 1965 – 1968, Đế quốc Mỹ đã huy động lực
lượng lớn không quân và hải quân, trút hàng triệu tấn bom đạn, tàn phá, hủy hoại
nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, xóm làng, nhiều công trình công nghiệp, giao thông,
thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường học, nhà ở, giết hại nhiều dân thường ở miền Bắc
Việt Nam. Mỹ âm mưu phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam, quân và dân Việt Nam tiến
hành song song hai nhiệm vụ cách mạng: Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của Mỹ, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam; Miền Nam chiến
đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ trên các mặt trận quân sự, chính
trị ngoại giao. Kết quả là sau đòn tấn công bất ngờ của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân (1968), chính quyền Giôn-xơn phải tuyên bố ngừng ném bom
bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và bắt đầu đàm phán với Việt Nam.
Giai đoạn 1969 – 1975:
Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải chuyển sang chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến
lược “Đông Dương hóa chiến tranh”. “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng là một hình
thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay
sai là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần của Mỹ, do cố vấn Mỹ chỉ huy.
Từ tháng 4-1972, để ngăn chặn cuộc tập kích chiến lược của quân dân ta ở
miền Nam, đế quốc Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến tiến hành cuộc chiến tranh phá
hoại miền Bắc lần thứ hai hết sức ác liệt, nhất là cuộc rải thảm bom 12 ngày đêm
bằng pháo đài bay B.52 tại Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác. Trong 9
tháng chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, quân dân miền Bắc đã
bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhất là trong 12 ngày đêm cuối năm
1972, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. lOMoAR cPSD| 47206071
Thắng lợi của quân dân cả nước đã buộc đế quốc Mỹ phải trở lại bàn đàm
phán, ký kết Hiệp định Paris (27-1-1973), công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất
của nước Việt Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc,...
Ngày 29/3/1973, toán lính của Mỹ cuối rút khỏi miền Nam, nhưng Mỹ vẫn
theo đuổi mục tiêu chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, duy trì một lực lượng hải
quân và không quân ở Vịnh Bắc Bộ, Thái Lan và Guam. Trước ngày ký Hiệp định
Pari, Mỹ chuyển giao các căn cứ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài Gòn cùng với viện
trợ khẩn cấp một lượng vật chất khổng lồ. Mỹ dung túng và cùng với chính quyền
Sài Gòn phá hoại Hiệp định Paris, nhất là ba vấn đề: ngừng bắn, thả tù chính trị và
thực hiện các quyền tự do dân chủ ở miền Nam. Chính quyền Sài Gòn tiến hành
chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, mở những cuộc hành quân “bình định – lấn chiếm” vùng giải phóng.
Về phía ta, Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
21, nhận định kẻ thù vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu; xác định
nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân; khẳng định con đường cách mạng bạo lực, nắm vững chiến lược tiến
công, đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao. Cuối năm 1973, quân
và dân miền Nam đã chủ động mở các cuộc tiến công, trọng tâm là đồng bằng Sông
Cửu Long và Đông Nam Bộ, giành thắng lợi vang dội ở Đường 14 – Phước Long
(6/1/1975). Trận trinh sát chiến lược Phước Long cho thấy rõ sự suy yếu của quân
đội Sài Gòn và khả năng can thiệp của Mỹ là rất hạn chế. Giai đoạn này cuối cùng
đã kết thúc bằng sự thắng lợi của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975. Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn-Gia Định bắt
đầu. Sau 4 ngày đêm tiến công dũng mãnh, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975,
lá cờ chiến thắng đã được cắm trên dinh Độc Lập. Đảng ta đã thành công giải phóng
hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
2. Chủ trương chi viện miền Nam của Đảng
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh miền Nam, Đảng ta xác định: miền Bắc
là hậu phương lớn, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò
quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước; miền Nam là tiền tuyến
lớn, cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam. Mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam Bắc
là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát
triển. Đó là nét độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch sử và là thành công lớn của Đảng
ta; đồng thời, là nguyên nhân chủ yếu, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gay go, quyết liệt của nhân dân ta.
➢ Giai đoạn 1 (7/1954 – 12/1960): Thời kỳ giữ gìn lực lượng chuyển sang khởi
nghĩa từng phần - phong trào Đồng Khởi. lOMoAR cPSD| 47206071
Từ thực tiễn cách mạng miền Nam, lực lượng vũ trang chính quy của ta đã tập
kết ra miền Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954); Trung ương Đảng chủ trương:
“Đi đôi với xây dựng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị, phải ra sức xây dựng
lực lượng vũ trang bao gồm dân quân, du kích ở thôn, xã, bộ đội địa phương tỉnh,
huyện đến bộ đội chủ lực khu, miền, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh quân sự của
ba thứ quân để giúp sức đắc lực cho đấu tranh chính trị”. Trung ương Đảng quyết
định mở rộng hành lang vận chuyển Bắc - Nam cả trên bộ và trên biển; tăng cường
cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần và một số đơn vị chiến đấu cấp đại đội, tiểu đoàn,
nâng dần quy mô, khối lượng tiếp tế, vận chuyển vũ khí, phương tiện kỹ thuật, cung
cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam.
Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, củng cố hoà bình, tiến tới cuộc
“Đồng khởi”. “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách
mạng miền Nam, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Miền Bắc tiến
hành khôi phục kinh tế, hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Bắc (đặc biệt là Cải cách ruộng đất); cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với các thành phần kinh tế; phát triển kinh tế - xã hội.
Sự hậu thuẫn và chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy
mạnh. Đường vận tải mang tên Hồ Chí Minh được hình thành và nối dài, cả trên bộ
theo dãy Trường Sơn (đường 559) và trên biển (đường 759). Mặt khác, với những
thành tích đã đạt được, miền Bắc cổ vũ mạnh mẽ về mặt tinh thần cho cuộc đấu tranh
của đồng bào ta ở miền Nam.
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô
Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là
Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất
nước nhà”. Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng
tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam,
chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
➢ Giai đoạn 2 (1/1961 – 6/1965): Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần
phát triển thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
ở miền Nam. Với thắng lợi này, ta đã đẩy Mỹ và chính quyền Ngụy vào thế bị động
chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam. Cũng giai đoạn này, Đảng lãnh đạo tiến
hành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc (1961 - 1965). Với thắng lợi
này, cùng với kết quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1960,
đã “đưa miền Bắc tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc”. Thắng
lợi của cách mạng miền Bắc tiếp tục cổ vũ tinh thần cho quân và dân ta ở miền Nam lOMoAR cPSD| 47206071
đánh Mỹ. Mặt khác, những thành tích đã đạt được ở miền Bắc còn góp phần quan
trọng tạo ra điều kiện vật chất chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trong những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc xã hội chủ
nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cách mạng miền Nam. Tuy đường hành
quân và vận tải theo dãy Trường Sơn còn nhiều khó khăn do địch đánh phá bằng bom
mìn và địa hình hiểm trở, nhưng đã trở thành tuyến đường chiến lược huyết mạch
nối hậu phương với chiến trường, liên tục có các đoàn cán bộ, chiến sĩ cùng vũ khí
đạn dược bí mật đi “B” vào chi viện cách mạng miền Nam. Đường vận tải trên biển
đã bất chấp sự ngăn chặn của quân thù và thời tiết hiểm nguy, đã có những chiếc “tàu
không số” chở hàng chục tấn vũ khí từ miền Bắc vào tận các căn cứ ven biển Phú
Yên, Bà Rịa, Cà Mau,... cung cấp cho bộ đội, du kích chiến đấu. Đây là một thành
công lớn, có ý nghĩa chiến lược của hậu phương miền Bắc với nhiều sự hy sinh anh
dũng của cán bộ chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam trên biển Đông và dãy Trường
Sơn huyền thoại, góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại chiến
tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai giai đoạn 1961-1965… Miền
Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước với chế độ chính trị
ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.
➢ Giai đoạn 3 (7/1965 – 12/1968): Phát triển thế tiến công chiến lược, đánh bại
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại lần 1
(7/2/1965 - 1/11/1968) của Mỹ ở miền Bắc.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những
thách thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội
nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và hạ quyết tâm chiến lược.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế
thừa và phát triển sáng tạo đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã
được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960). Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc:
Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh
về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc
chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại
địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Về
mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống
Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn.
Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền
Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là
thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững chắc trong
cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là về kinh tế
và quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa tiếp lOMoAR cPSD| 47206071
tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối
với tiền tuyến lớn. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Thực hiện những nghị quyết của Đảng và theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quân và dân miền Bắc đã dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản
xuất, vừa chiến đấu, với niềm tin tưởng và quyết tâm cao độ. Thanh niên có phong
trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”, nông dân có phong trào
“Tay cày tay súng”, công nhân có phong trào “Tay búa, tay súng”, trong chiến đấu
có “Nhắm thẳng quân thù mà bắn”, trong chi viện tiền tuyến có “Thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người”, trong bảo đảm giao thông vận tải có “Xe
chưa qua, nhà không tiếc”,... Đó thực sự là một cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại hào hùng, sáng tạo với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
Nhiệm vụ chi viện tiền tuyến được hoàn thành xuất sắc, góp phần cùng quân
dân miền Nam đánh bại cuộc “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1965-1968). Chỉ tính
riêng trong năm 1967, đã có hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ (tăng 1,5 lần so với năm
1966) được tổ chức biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng
kỹ thuật bổ sung cho các chiến trường Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam bộ, nâng
tổng số quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa
phương, không kể lực lượng dân quân, du kích, tự vệ. Năm 1968, hơn 14 vạn cán
bộ, chiến sĩ từ miền Bắc hành quân vào Nam nhanh chóng tham gia cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy năm 1968.
Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở
miền Nam. Thắng lợi của quân và dân ta đã buộc đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh
phá hoại miền Bắc không điều kiện và chấp nhận đàm phán trực tiếp với ta tại Hội
nghị Pari. Cũng giai đoạn này, ở miền Bắc Đảng lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta, tiến
hành chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện cả nước có chiến tranh; đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
đế quốc Mỹ. Thắng lợi ở miền Bắc đã góp phần quan trọng bảo vệ miền Bắc, tiếp
tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, giai đoạn này, miền Bắc còn tăng cường
chi viện cho miền Nam làm tròn vai trò to lớn của hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn. Quân dân miền Bắc quyết tâm vừa đánh thắng Mỹ vừa đảm bảo sản xuất và đời
sống, vừa tích cực chi viện cho miền Nam.
➢ Giai đoạn 4 (1969 - 1975): Khôi phục kinh tế, bảo vệ Miền Bắc, đẩy mạnh
cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, miền Bắc có hòa bình, Trung ương
Đảng đã đề ra kế hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế. Miền Bắc còn hoàn
thành nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành
nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Tính tổng thể, hậu phương lOMoAR cPSD| 47206071
miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã bảo đảm 80% bộ đội chủ lực, 70% vũ khí và lương
thực, 65% thực phẩm cho chiến trường miền Nam, nhất là ở giai đoạn cuối.
Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến
mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Đáp ứng yêu cầu cấp cách mạng
đặt ra, Đảng họp Hội nghị Bộ Chính trị (30/9 - 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị
mở rộng (18/12/1974 - 8/1/1975), chính thức hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn
nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự,
chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng, toàn diện so
sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất
khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến
hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.
Thực hiện quyết tâm mà Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa
Xuân 1975 lịch sử. Chỉ ba tháng đầu năm 1975, hậu phương miền Bắc đã dốc sức
đưa vào chiến trường miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn
vật chất các loại, bảo đảm 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận
tải,... Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này không chỉ tạo nên sức mạnh
áp đảo về thế và lực so với quân địch, phục vụ tốt yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy,
mà còn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt:
kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế... chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải
phóng khi chiến tranh kết thúc. lOMoAR cPSD| 47206071 CHƯƠNG II:
CÁC CON ĐƯỜNG MIỀN BẮC CHI VIỆN CHO CHIẾN TRANH MIỀN NAM. I.
Đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ (Đường Trường Sơn) ➢ Thành lập
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
miền Bắc đã mở đường chi viện cách mạng miền Nam. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng,
ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định thành lập Đoàn 559 để
xây dựng đường Trường Sơn thành tuyến chi viện chiến lược, chuyển nhân lực, vật
lực từ miền Bắc vào phục vụ cách mạng miền Nam, cũng như cách mạng Lào và
Campuchia. Do ngày thành lập Đoàn 559 trùng với ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, từ đây, con đường Trường Sơn được mang tên “Đường Hồ Chí Minh” – cái
tên đi vào lịch sử như một huyền thoại sống về ý chí và trí tuệ, bản lĩnh của quân và
dân Việt Nam. Đoàn 559 có nhiệm vụ vừa vận chuyển, vừa mở đường hành quân.
Với phương châm “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” để đảm bảo bí
mật tối đa. Việc đảm bảo chi viện chiến trường, nối liền giữa miền Bắc với cách
mạng miền Nam, cách mạng Lào và Campuchia chủ yếu dựa vào tuyến vận tải chiến lược trên bộ.
➢ Quá trình hình thành và nhiệm vụ
Tháng 1-1961, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đưa đấu tranh vũ trang lên song
song với đấu tranh chính trị. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương chủ trương nhanh chóng tăng cường lực lượng cho Đoàn 559 nhằm mở rộng
tuyến vận tải Trường Sơn theo phương hướng kên trì giữ vững hành lang phía Đông,
khẩn trương mở đường vận tải phía Tây Trường Sơn. Đồng thời, mạnh dạn áp dụng
phương thức vận tải cơ giới, kết hợp với phương thức vận tải thô sơ (xe đạp thồ),
chú trọng khai thác đường sông.
Được tăng cường lực lượng và bằng những biện pháp tổ chức chặt chẽ, hiệu
quả, đến giữa năm 1964, Đoàn 559 đã xây dựng được địa bàn hoạt động từ Tây
Quảng Bình vào đến ngã ba Biên Giới, triển khai được một số tuyến, thành lập được
các cung trạm, xây dựng được tuyến hành lang nối liền miền Bắc với chiến trường
miền Nam. Nhờ đó, trong 4 năm thực hiện nhiệm vụ (1961-1965), Đoàn đã vận
chuyển bàn giao cho các chiến trường gần 3.000 tấn vật chất các loại, đảm bảo hành
quân cho 12.000 lượt người qua lại trên đường Trường Sơn. Từ năm 1965, Mỹ sử
dụng không quân, hải quân leo thang đánh phá miền Bắc, đưa các đơn vị quân bộ
của Mỹ và chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trước
tình hình đó, chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc. “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược” là ý chí của hậu phương miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. lOMoAR cPSD| 47206071
Từ đây, miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa tăng sức chi viện cho chiến trường
miền Nam, cho cách mạng Lào và Campuchia.
Để đảm bảo cho vận chuyển người và phương tiện chiến tranh cùng các loại
vật chất cần thiết khác vào chiến trường, Đoàn 559 được tăng cường lực lượng và
phương tiện, hình thành lực lượng binh chủng hợp thành. Lực lượng này được bố trí
thành thế trận đánh địch, đảm bảo giao thông và vận tải quân sự trên toàn tuyến theo
phương châm vừa có lực lượng tại chỗ vừa có lực lượng cơ động mạnh. Khắc phục
gian khổ, khó khăn, cán bộ, chiến sĩ thanh niên xung phong và nhân viên kỹ thuật
của Đoàn 559 đã bền bỉ, anh dũng và mưu trí đánh địch, mở đường, đảm bảo giao
thông, thực hiện nhiệm vụ trung tâm là tiếp nhận các nguồn hàng từ hậu phương
miền Bắc và nguồn thu mua ở hướng Campuchia, tổ chức vận chuyển chi viện tới
các chiến trường miền Nam và Lào, đảm bảo hành quân cho bộ đội và các đoàn cán
bộ dân-chính-đảng qua lại trên đường Trường Sơn. Trong 4 năm (19651968), Đoàn
559 đã chuyển tới chiến trường miền Nam và Lào gần 100.000 tấn vật chất, đã bảo
cho hơn 200.000 lượt người qua lại trên đường Trường Sơn, góp phần đánh bại nỗ
lực quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong những năm tiến hành chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam
Từ năm 1969-1972 là thời kỳ Mỹ triển khai một loạt biện pháp nhằm ngăn
chặn bằng được mọi nguồn tiếp tế từ bên ngoài vào miền Nam, đặc biệt là tuyến vận
tải chiến lược từ Bắc vào Nam. Mỹ đánh phá ác liệt bằng bộ binh, không quân; dội
xuống khu vực đường Trường Sơn một khối lượng bom đạn, chất độc hóa học và các
loại thiết bị điện tử hiện đại tăng gấp 4 lần thời kỳ Giôn-xơn (1965-1968) và gấp 20
lần thời kỳ 1960-1964… Cùng một lúc, bộ đội Trường Sơn phải đương đầu với điều
mà Mỹ mệnh danh là “chiến tranh ngăn chặn” và “chiến tranh hủy diệt” trong thời
kỳ “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước chủ trương
tăng cường thêm lực lượng và phương tiện để đảm bảo cho Đoàn 559 tác chiến bảo
vệ giao thông, đủ sức đối phó có hiệu quả mọi âm mưu và thủ đoạn đánh phá ngăn
chặn của địch, giữ vững sự chi viện cho chiến trường. Được tăng cường về lực lượng
và phương tiện, bộ đội Trường Sơn nhanh chóng tổ chức lại đội hình, bố trí lại thế
trận, điều chỉnh giới tuyến chiến đấu, tăng cường cho các trọng điểm… Rút kinh
nghiệm thời kỳ “Chiến tranh cục bộ”, hệ thống binh trạm, khu kho, mạng đường, các
điểm vượt, các đoạn vòng tránh và việc tổ chức cung đoạn, đội hình vận tải… cũng
được cải tiến phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng
tuyến vận tải chiến lược vẫn không ngừng được xây dựng và mở rộng, vươn sâu và
vươn xa vào các chiến trường.
Từ năm 1968-1972, Đoàn 559 đã mở thêm 4 trục đường từ Đông Trường Sơn
sang Tây Trường Sơn, bao gồm đường 18, 16, 10 và 12, tạo thành hệ thống đường
vượt khẩu chống địch ngăn chặn, nâng tổng số chiều dài tuyến đường từ 2.930km
(1968) lên tới gần 11.000km (1972), chưa kể 6.500km đường giao liên, gùi thồ. Nhờ
đó, trong 4 năm thực hiện nhiệm vụ (1969-1972), tuyến vận tải chiến lược đã vận
chuyển được tổng khối lượng vật chất đạt 118%, đảm bảo hành quân đạt 184-190% lOMoAR cPSD| 47206071
so với chỉ tiêu bàn giao cho các chiến trường và một số lượng nhân lực tăng gấp 3-6
lần so với 4 năm trước đó, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của cách mạng miền Nam
Những năm 1973-1975, nhiệm vụ của tuyến vận tải chiến lược là phải tranh
thủ thời cơ, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ vận chuyển, bảo đảm hành quân vào các
chiến trường... đảm bảo cho các quân khu thực hiện tốt việc tổ chức chiến trường,
xây dựng lực lượng dự trữ chiến lược. Đồng thời phải bảo đảm một phần nhu cầu
dân sinh kinh tế, góp phần xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng miền Nam và các
nước bạn”. Theo phương hướng đó, các lực lượng chiến đấu và công tác trên đường
Trường Sơn khẩn trương đổi mới thế trận cầu đường, đổi mới tổ chức lực lượng và
đổi mới phương thức vận chuyển nhằm đáp ứng đòi hỏi của chiến trường trong tình hình mới.
Tháng 11 năm 1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch thiết kế, mở
rộng tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Lực lượng công binh của Đoàn 559 và
ngành vận tải miền Nam được huy động làm đường. Từ 8 trung đoàn và 65 tiểu đoàn
năm 1972, lực lượng công binh của Đoàn 559 đã tăng lên 1 sư đoàn, 17 trung đoàn
và 40 tiểu đoàn với tổng quân số bằng 36.341 người. Bên cạnh lực lượng công binh,
lực lượng mở đường còn bao gồm 2.741 thanh niên xung phong và dân công hỏa
tuyến... Đồng thời Nhà nước và quân đội còn tăng cường thêm phương tiện cho Đoàn
559, bao gồm hàng nghìn xe máy các loại , xe lu, máy ép hơi, máy nghiền đá, máy
san ủi.... Khí thế chiến thắng trên khắp chiến trường cùng với việc lực lượng và
phương tiện được bổ sung, được tổ chức chặt chẽ đã tạo nên sức mạnh mới, giúp
Đoàn 559 nhanh chóng mở thêm 3.480km đường cơ giới và các trục dọc men theo
Đông và Tây Trường Sơn. Các tuyến đường ngang hỗ trợ cũng được khai thông. Các
tuyến đường bộ phía Đông và Tây được sửa chữa, bảo dưỡng, mở rộng, bảo đảm cho
việc vận chuyển cơ giới theo đội hình lớn, hoạt động liên lạc cả mùa khô và mùa mưa, cả ngày và đêm.
Để chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, bộ đội Trường Sơn phối
hợp với các đơn vị bạn đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt và bức rút các vị trí khống chế
hành lang phía Đông, mở rộng tuyến hành lang Đông Trường Sơn. Trong khi đó, các
chiến trường khác cũng đẩy mạnh tác chiến mở rộng địa bàn, xây dựng mạng đường
chiến dịch nối từ các trục của tuyến 559 tới các vùng giáp ranh, áp sát các vùng hậu
phương và vùng kiểm soát của địch. Dọc theo các tuyến vận chuyển, hệ thống hậu
cần, khu kho, trạm cấp phát xăng dầu, trạm sửa chữa, quân y, thông tin... của Đoàn
559 được triển khai, bố trí tiếp cận với các căn cứ hậu cần của các chiến trường, các
quân khu, tạo thành thế trận hậu cần vững chắc… Vào giai đoạn cuối cuộc chiến
tranh, khu vực đường Trường Sơn trở thành căn cứ chiến lược rộng rãi lớn nối liền
hậu phương miền Bắc với hậu phương tại chỗ của cách mạng miền Nam; gắn vùng
Nam Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia, Nam Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ thành thế
trận hậu phương trực tiếp của các binh đoàn chủ lực. lOMoAR cPSD| 47206071
Qua 16 năm xây dựng, từ lối mòn giao liên bí mật len lỏi dưới các triển rừng,
với phương thức vận tải thô sơ, gùi thổ là chủ yếu, tuyến vận tải chiến lược phát triển
thành hệ thống trục dọc và trục ngang, ngày càng vươn xa tới các chiến trường, vươn
sâu vào các hướng chiến dịch. Buổi đầu, lực lượng công tác trên tuyến chỉ có một số
đơn vị nhỏ lẻ, tổ chức thành các “trạm đường dây với nhiệm vụ soi đường, dẫn quân,
gùi thổ luồn sâu qua các vùng địch chiếm”. Dần dần, trước yêu cầu chi viện chiến
trường ngày càng tăng, không gian chi viện ngày càng rộng, địch đánh phá ngăn chặn
quyết liệt, lực lượng chiến đấu và công tác trên tuyến không ngừng lớn mạnh. Không
chỉ xây dựng và hoàn chỉnh thể trận giao liên vận tải, bộ đội Trường Sơn còn thực
hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược với việc tác chiến, mở rộng
khu vực hành lang, xây dựng địa bàn vững mạnh, xem đó là một điều kiện quan trọng
làm thất bại các hoạt động ngăn chặn, phá hoại của địch; khắc phục tác động tiêu cực
của địa hình và thời tiết đối với nhịp độ mở đường và vận chuyển. ➢ Ý nghĩa
Trong 16 năm chiến đấu gian khổ, ác liệt, cả Trường Sơn sáng ngời chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, lực lượng nào, đơn vị nào cũng có những sự tích anh hùng; con
đường nào, địa điểm nào cũng là mảnh đất thiêng rực lửa chiến công. Ghi vào trang
sử vàng đường Trường Sơn là lực lượng công binh, chiến sĩ, nhân viên, thanh niên
xung phong, dân công hoả tuyến suốt ngày đêm đảm bảo an toàn cho tuyến đường.
Những câu chuyện về thanh niên xung phong đã đi vào âm nhạc với tất cả sự bi tráng
của chiến tranh. Có rất nhiều câu chuyện, nhiều bài hát, tác phẩm văn học đã viết về
Đường Trường Sơn như những khúc tráng ca: Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây;
Lá đỏ; Ðêm Trường Sơn nhớ Bác….
Quyết định xây dựng đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh và thực hiện
thắng lợi quyết định đó là một quyết định lịch sử, một thành công lớn lao trong chỉ
đạo chiến lược, điều hành chiến tranh của Đảng và Nhà nước ta; có ý nghĩa lớn nhất
trong 5 con đường chi viện từ Bắc vào Nam. Đó là biểu hiện của ý chí, sức mạnh, trí
thông minh, lòng dũng cảm của con người Việt Nam trong những năm chống Mỹ;
biểu hiện ngời sáng của tình đoàn kết chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng
Việt Nam với cách mạng Lào, Cam-pu-chia. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nhận
định: “Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm,
của khí phách anh hùng. Đó là con đường nối liền Nam - Bắc, thống nhất nước nhà,
là con đường tương lai giàu có của Tổ quốc ta. Đó cũng là con đường đoàn kết của
các dân tộc của ba nước Đông Dương”. Đường Trường Sơn năm xưa, đã phát triển
thành đường Hồ Chí Minh dài rộng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam hôm nay! Tuyến đường Trường Sơn trở thành huyết mạch nối liền hậu phương
miền Bắc với tiền tuyến Miền Nam, nối dài ý chí, khát vọng của dân tộc. Đây cũng
là “giao lộ” chung của ba nước Đông Dương trong cuộc chiến đấu trường kỳ bảo vệ
độc lập dân tộc. Một thế hệ đã gửi lại thanh xuân, máu xương giữa núi rừng Trường
Sơn trùng điệp, ngút ngàn để huyền thoại bắt đầu. Từ sau khi kết thúc chiến tranh,
Việc xây dựng đường Hồ Chí Minh vẫn được nhà nước ta đẩy mạnh. Con đường từ lOMoAR cPSD| 47206071
Cao Bằng tới mũi Cà Mau trên “nền móng” đường Trường Sơn xưa đã tạo nên một
sức bật mới trong phát triển kinh tế của cả nước nói chung và đồng bào Trường Sơn
nói riêng. Đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tầm quan trọng
đặc biệt trong tạo đà phát triển cho khu vực rộng lớn phía Tây đất nước. II.
Con đường xăng dầu ➢ Thành lập
Con đường chi viện thứ hai là con đường xăng dầu, với tổng chiều dài tới
5.000 km, để vận chuyển nhiên liệu suốt từ biên giới Việt - Trung và các cảng biển
miền Bắc vào đến tận Nam Bộ. Trong một lần đại tướng Võ Nguyên Giáp đi làm
việc tại Liên Xô, ông đã được Liên Xô viện trợ cho 2 bộ đường ống dẫn xăng dầu dã
chiến, loại phi 10 cm, mỗi bộ dài 100 km. Song, hệ thống đường ống này tuy đưa về
Việt Nam nhưng cũng chỉ cất trong kho bởi chưa biết dùng vào việc gì. Từ khi chiến
trường phía Nam có những phát triển sôi động, một lần họp với các tướng tá, Đại
tướng gợi ý rằng hiện có 2 bộ đường ống xăng dầu do Liên Xô viện trợ, đề nghị mọi
người suy nghĩ xem có thể sử dụng tại chiến trường hay không. Trung tướng Đinh
Đức Thiện hưởng ứng ngay, nhận lời và hứa với đại tướng sẽ tìm hiểu và khẩn trương
thực thi. Bắt đầu tiến hành từ tháng 4/1968 với mật danh “Công trường Thủy lợi 01”.
➢ Quá trình hình thành và nhiệm vụ
Nửa đầu năm 1968, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc diễn ra vô cùng ác
liệt, tuyến ống đầu tiên bắt đầu từ Nam Thanh (Nam Đàn) đến Nga Lộc (Hà Tĩnh)
do Trung tá Mai Trọng Phước, thuộc Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần chỉ huy dài
42km, gọi là tuyến X42 để đưa xăng vượt qua “tam giác lửa” Vinh - Nam Đàn Linh
Cảm. Từ Quảng Bình, đường ống được phân ra làm hai ngả: Một ngả vượt Tây
Trường Sơn, qua đèo Mụ Giạ, sang Lào và đi tiếp xuống tận Hạ Lào, rồi vượt qua
biên giới Lào và Campuchia để vào tới Nam Bộ. Ngả còn lại đi tiếp theo đường Đông
Trường Sơn qua Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, qua Tây Nguyên,
vượt Kontum, xuống Bình Phước. Và tuyến X42 ở trên là thử nghiệm thành công
đầu tiên làm cơ sở để đưa đường ống vào Trường Sơn.
Ngày 1-11-1968, ngay sau khi đế quốc Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền
Bắc, Công trường 18 nhận nhiệm vụ xây dựng tuyến đường ống vượt Trường Sơn
theo trục đường 12 qua đèo Mụ Giạ (gọi là tuyến Hướng Tây) vào đến bản Ka Vát
dài 80km. Đúng Giao thừa Tết Kỷ Dậu (16-2-1969), xăng vào đến bản Na Tông trên
đất Lào. Đây là lần đầu tiên xăng đường ống vượt Trường Sơn và có mặt trên tuyến
vận tải chiến lược. Sau đó, tuyến này được nối thông với Vinh, do Binh trạm 169
thuộc Tổng cục Hậu cần. Ngày 9-3-1969, lần đầu tiên 4 tiểu đoàn đường ống vận
hành liên tuyến từ Vinh vào tận Bản Sôi với tổng chiều dài 325km
Để rút ngắn quãng đường đưa xăng vào mặt trận, tháng 3-1969, ta chuyển
hướng thi công tuyến vượt Trường Sơn sang trục đường 18, sát với Vĩ tuyến 17. Sau
nhiều cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt, ngày 22-12-1969, xăng đến Bản Cọ. lOMoAR cPSD| 47206071
Đây là sự kiện rất quan trọng vì nó đánh dấu sự hiện diện của xăng đường ống đến
Vĩ tuyến 17 sát chiến trường. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đã có mặt chứng kiến sự
kiện này và động viên bộ đội. Từ Bản Cọ, tuyến ống tiếp tục phát triển sâu vào trong.
Mùa khô 1970-1971, Trung đoàn 592, trung đoàn đường ống đầu tiên của Đoàn 559
đảm nhiệm thi công, quản lý vận hành 135km tuyến đường, gồm tuyến dọc từ điểm
đầu tuyến 559 trên đường 18 đến nam sông Sê La-nông và tuyến ngang từ Bản Cọ
đến bản Na Lai trên trục đường 128. Nhờ hai tuyến này mà trong Chiến dịch Đường
9-Nam Lào, xăng được cấp phát đầy đủ cho cả chiến dịch và cho việc vận chuyển vào Nam.
Mùa khô 1971-1972, Trung đoàn đường ống 532 được thành lập để thi công
và vận hành nối tiếp Trung đoàn 592. Đến hết tháng 2-1973, Trung đoàn 532 đã thi
công và vận hành tuyến ống 144km từ nam Sê La-nông đến cách Sekong 24km. Nhờ
tuyến ống mới phát triển của Trung đoàn 532, chúng ta đã hình thành được thế trận
bảo đảm xăng dầu trên hai trục đường huyết mạch của tuyến chi viện chiến lược là
đường 128 và đường 22. Đặc biệt, xe của Binh trạm 34 không phải vượt dốc “12
cua” hay dốc “Tử thần” để ra Mường Noòng lấy xăng nữa.
Sau Hiệp định Paris, đường ống có bước phát triển vượt bậc. Bộ đội đường
ống có 4 trung đoàn. Từ Quảng Trị có hai tuyến chạy dọc đông và tây Trường Sơn
gặp nhau ở bản Plei Khốc, ngã ba biên giới. Đường ống chạy dọc theo biên giới Việt
Nam-Campuchia (đường ống Tây Trường Sơn) vào đến Bù Gia Mập trên đất Bình
Phước (Đông Trường Sơn). Nhờ vậy, xăng dầu được cấp trực tiếp cho các xe vận tải
chở tiếp trên những tuyến ngắn từ miền Đông đến miền Tây. Và nhờ xăng đường
ống, chúng ta đã bảo đảm cho hàng vạn xe vận tải và binh khí kỹ thuật mỗi ngày
hành quân trên đường Trường Sơn mùa khô 1974-1975. 21 giờ 30 phút ngày 14-3-
1975, xăng đã vào đến Bù Gia Mập. Từ đây, xăng được chuyển đến hai kho hàng tại
làng 7 và làng 9 ở thượng nguồn Sông Bé phục vụ đại quân từ cánh tây tiến về Sài
Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ hai trung đoàn ban đầu, bộ đội xăng dầu
Trường Sơn đã phát triển lên thành 4 trung đoàn là các trung đoàn 671, 592, 532,
537 và một số phân đội độc lập. Có thể coi đây như một binh chủng xăng dầu trong
đội hình Binh chủng hợp thành trên chiến trường Trường Sơn.
Ngoài chiều dài tuyến dẫn dầu từ Bến Quang, Quảng Bình vào tới Bù Gia
Mập, Bình Phước có tổng chiều dài 1.445km, thì tính tổng hệ thống đường ống dẫn
từ các ngả Lạng Sơn, Móng Cái vào Nhân Mục (Hà Nội) rồi từ đây vào Quảng Bình
với nhiều nhánh hợp lưu, nhánh phân chia, các đoạn song song, đoạn nối ngang…
tổng chiều dài của đường ống lên tới 5.000km!
Như các binh chủng khác trên Trường Sơn, bộ đội đường ống cũng chịu đựng
mọi gian khổ hy sinh. Thêm vào đó, họ làm việc trong môi trường xăng chì độc hại,
nhiều người trong họ sau này phải chịu những di chứng đau lòng. Hàng trăm cán bộ,
chiến sĩ đã ngã xuống trên tuyến đường ống khi khảo sát, thi công, khi vận hành, cứu
tuyến. Có thể nêu lên vài ví dụ về sự hy sinh đó: Tại Trạm bơm T15, khi đang nối lOMoAR cPSD| 47206071
tuyến thì máy bay địch đến, Trung đội trưởng Quy-Trạm trưởng yêu cầu anh em vào
hầm trú ẩn, một mình anh siết những con ốc cuối cùng. Toàn thân anh tắm trong xăng
phun ra từ ống, nơi anh đứng là một hố bom đầy xăng. Giữa lúc đó, địch rải bom bi,
Quy hy sinh giữa biển lửa trong sự xót xa của đồng đội. Trung úy Cát hy sinh trên
đường khảo sát. Trước khi hy sinh còn dặn đồng đội: “Nhờ các anh mang tấm huân
chương này về cho con trai tôi và nói với nó hãy noi theo gương chiến đấu của bố”...
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đã đánh giá: “Nếu đường Trường Sơn là huyền thoại thì
đường ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại đó”. ➢ Ý nghĩa
Con đường xăng dầu có ý nghĩa rất đặc biệt và quan trọng trong việc chi viện
cho chiến trường miền Nam. Bảo đảm cho hàng vạn xe vận tải và binh khí kỹ thuật
mỗi ngày hành quân trên đường Trường Sơn. Xăng dầu được chuyển từ Bắc vào
Nam đã cung cấp nhiên liệu cho hoạt động trên các chiến trường trong những năm
đánh Mỹ, góp phần quan trọng vào những trận chiến đấu, chiến dịch thắng lớn. Đây
cũng là con đường đầy huyền thoại mà người Mỹ không thể nào biết rõ, bởi họ không
thể tưởng tượng được rằng trong điều kiện kỹ thuật của Việt Nam, lại bị bom đạn
đánh phá liên tục bất cứ ở điểm nào mà Việt Nam vẫn hình thành được một đường
ống dẫn xăng dầu dài hàng nghìn ki lô mét, lại còn nối với nhiều cảng nhỏ để tiếp
nhận xăng dầu từ các tàu biển...
III. Con đường trên biển (Đường Hồ Chí Minh trên biển) ➢ Thành lập
Tháng 7/1959, Tiểu đoàn 603 trực thuộc Đoàn 559 được thành lập, có nhiệm
vụ nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển bằng đường biển chi viện vũ khí cho
chiến trường miền Nam. Để giữ bí mật, Tiểu đoàn lấy tên là “Tập đoàn đánh cá Sông
Gianh”. Thuyền được nguỵ trang giống thuyền đánh cá của ngư dân miền Nam để
vượt biển. Đường Hồ Chí Minh trên biển được chính thức thành lập ngày
23/10/1961, do Hải quan nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam thực hiện bí mật trên biển Đông, để vận chuyển vũ khí và tăng cường nguồn
nhân lực từ miền Bắc vào chi viện miền Nam. Thực hiện chủ trương của Trung ương
Đảng và Tổng Quân ủy, đường vận tải trên biển được chỉ huy xây dựng cùng với
đường mòn Hồ Chí Minh.
➢ Quá trình hình thành và nhiệm vụ
Cuối năm 1959, Tiểu đoàn 603 tổ chức chuyến thuyền vượt biển đầu tiên vào
chiến trường Khu V nhưng không thành công, do vậy Tổng Quân ủy quyết định cho
Tiểu đoàn 603 ngừng hoạt động để tìm phương án mới.
Đầu năm 1960, Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn
trương nghiên cứu đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện
cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5; Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền
Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến, bãi lOMoAR cPSD| 47206071
và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền Bắc, vừa thăm dò, nắm tình hình địch,
nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí để kịp thời cung cấp cho cách mạng miền Nam.
Từ giữa năm 1961 - 1962, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa đã cử 5 thuyền gỗ từ miền Nam ra
miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ
khí, dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ Bắc vào Nam. Ngày
23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải
thủy, đồng chí Trung tá Đoàn Hồng Phước làm Đoàn trưởng. Lực lượng của Đoàn
ban đầu có 38 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 20 đồng chí thuộc các thuyền của Bến
Tre, Trà Vinh và Liên khu V vừa điều ra. Cuối năm 1961, Đề án công tác của Đoàn
đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh thông qua.
Từ 1962 – 1965 đường vận tải trên biển nhận nhiệm vụ táo bạo - bất ngờ vận
chuyển chi viện chiến trường, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ. Thực hiện chủ trương của của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương,
Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ Bắc
vào Nam. Nghiên cứu, khảo sát bến xong, thuyền Bạc Liêu tiếp tục quay trở ra miền
Bắc; chuyến đi trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam đã thành công. Trung tuần tháng
8/1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết “Mở đường vận chuyển chiến
lược trên biển”. Để bảo đảm bí mật, những chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải hoán
thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàn tàu
đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đoàn tàu không số” được ra đời.
Đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên đã rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng); ngày
16/10 tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau), 30 tấn vũ khí từ hậu phương miền Bắc đã
được chuyển đến chiến trường miền Nam an toàn. Sau thắng lợi chuyến đi đầu tiên,
3 chuyến tiếp theo lần lượt vào Nam. Trong hai tháng, 4 chuyến tàu của Đoàn 759
đã vận chuyển được 111 tấn vũ khí cho Khu 9 an toàn. Những chuyến tàu thành công
đã khẳng định chúng ta có thể vận chuyển bằng đường biển lâu dài, cần phải có
những phương tiện vận chuyển tốt hơn đi trong mọi thời tiết. Quân ủy Trung ương
chủ trương nhanh chóng đầu tư, trang bị cho Đoàn 759 loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50
tấn đến 100 tấn. Cuối năm 1962, Bộ Tổng Tư lệnh đề nghị Xưởng đóng tàu III (Hải
Phòng) thuộc Bộ Giao thông vận tải đảm nhiệm việc đóng tàu vỏ sắt.
Ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí lên đường đến bến
Trà Vinh an toàn. Nhờ tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ý thức trách nhiệm cao, tinh thần
vững vàng và trình độ chuyên môn giỏi, những chuyến đi của Đoàn đều hoàn thành
tốt nhiệm vụ và giữ được bí mật. Chỉ trong 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến
hàng vào Nam Bộ, vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường, đạt hệ số vận
chuyển cao. Phát huy kết quả vận chuyển bằng đường biển chi viện cho chiến trường
Nam Bộ, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở bến đón tàu. Đoàn 759 được lệnh
chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa. Tháng 8/1963, lOMoAR cPSD| 47206071
Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn 759 trực thuộc Cục Hải quân. Ngày
29/01/1964, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125
trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân.
Cuối năm 1964, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh
Hải quân nghiên cứu mở rộng tuyến vận tải đường biển vào các bến thuộc địa bàn
Khu 5. Ngày 21/9/1964, Tàu 401 được lệnh lên đường vào Khu 5 và cập bến Lộ Diêu
sáng ngày 01/11/1964, toàn bộ vũ khí được cất giấu an toàn. Do mắc cạn, Tàu 401
bị hỏng nặng và được đốt cháy để xóa dấu vết. Trước tình hình trên, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chỉ thị: Không sử dụng bến Lộ Diêu nữa mà tìm cách đưa hàng vào
bến mới ở Phú Yên. Có vũ khí từ miền Bắc chuyển vào, tháng 12/1964, Bộ Tư lệnh
Khu V đã mở các đợt tác chiến tiêu diệt quân chủ lực ngụy, hỗ trợ cho quần chúng
nổi dậy phá kìm, diệt ác, giải phóng một số vùng ở đồng bằng Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa. Công việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy
ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô ngày 16/2/1965. Con đường vận chuyển chiến
lược trên biển không còn giữ được bí mật. Biết rõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần
tiễu, phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi
viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy
Trung ương quyết định tạm ngừng việc vận chuyển bằng đường biển vào miền Nam
để nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển mới, phù hợp với tình hình.
Từ 1965 – 1972, đoàn vận tải trên biển phải vượt qua nhiều thử thách ác liệt,
khắc phục khó khăn, tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến trường, góp phần đánh
thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong điều
kiện yếu tố bí mật của tuyến đường biển không còn và bị địch kiềm toả gắt gao, công
tác chuẩn bị cho chuyến mở đường được tiến hành khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo.
Trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, từ ngày 2327/02/1968,
Bộ Tư lệnh Hải quân sử dụng 4 tàu: 165, 56, 54 và 235 lên đường làm nhiệm vụ chi
viện cho chiến trường và làm phân tán sự đối phó của địch. Kết thúc giai đoạn vận
chuyển cực kỳ ác liệt, Đoàn 125 đã tổ chức 37 chuyến vận chuyển, trong đó có 17
chuyến thành công, chở 310 tấn vũ khí cho chiến trường.
Trước thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc và tổn thất nặng nề
trên chiến trường miền Nam, ngày 31/3/1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền
Bắc. Theo chỉ thị của Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 tham gia “Chiến dịch
Vận chuyển VT5” (vận chuyển hàng hóa, vũ khí từ Hải Phòng vào Sông Gianh –
Quảng Bình) và từ đây sẽ được các lực lượng vận chuyển vào chiến trường miền
Nam bằng đường bộ. Với phương châm chỉ đạo: “Chuẩn bị chu đáo, tranh thủ thời
cơ, làm nhanh, gọn, liên tục, an toàn, đi gần bờ, dựa vào dân”, từ ngày 03/11/1968
đến ngày 29/01/1969, vượt qua hàng rào phong tỏa dày đặc thủy lôi và bom từ trường
của Mỹ, Đoàn 125 đã huy động 364 lượt tàu, vận chuyển 21.737 tấn hàng, đạt
217,37% kế hoạch. Tháng 7/1969, sau khi rút kinh nghiệm từ những chuyến đi trước
đó, Đoàn 125 sử dụng Tàu 42 cải trang thành tàu nghiên cứu biển, đi trinh sát để tìm
phương thức vận chuyển mới. Từ kết quả của chuyến đi trinh sát, Quân ủy Trung lOMoAR cPSD| 47206071
ương và Bộ Quốc phòng nhận định tình hình và quyết định chuẩn bị đợt vận chuyển
lớn vào chiến trường Khu 5, 6, 8 và Khu 9. Ngày 27/7/1971, Quân khu 9 thành lập
đoàn vận tải S950, đến năm 1972 đổi tên là Đoàn 371. Từ năm 1971 đến năm 1972,
Đoàn đã tổ chức 37 chuyến đi, vận chuyển được 620 tấn vũ khí vào chiến trường Khu 9 an toàn.
Giai đoạn 1973 – 1975, tuyến đường vận tải biển trực tiếp tham gia Chiến dịch
Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, thành lập
thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàu mới, tăng cường huấn luyện nâng cao trình độ mọi mặt
và rèn luyện ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, sẵn sàng lên đường khi có lệnh.
Với tinh thần trách nhiệm cao, trong 2 năm 1973 và 1974, Đoàn đã huy động 380
lượt tàu ra khơi, chuyên chở trên 43.000 tấn hàng, đưa 2.042 lượt cán bộ, chiến sĩ từ
hậu phương ra tiền tuyến và từ đất liền ra các đảo, vượt qua chặng đường 158.292 hải lý an toàn.
Cuối năm 1974, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 vận chuyển vũ khí
và bộ đội vào sâu hơn nữa, sát hơn nữa nơi ta mở chiến dịch. Đoàn 125 đã huy động
toàn bộ lực lượng thực hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếu vào chiến
trường (mật danh T5) và vận chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với
tinh thần “Thần tốc, táo bạo chở người và vũ khí vào mặt trận”. Trong tháng
3,4/1975, Đoàn đã vận chuyển 17.473 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến
trường; 40 xe tăng và 7.886 tấn vũ khí, nhiên liệu... góp phần giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Ngày 04/4/1975, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Hải quân khẩn
trương chuẩn bị lực lượng để giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Từ ngày
14-29/4/1975, các lực lượng của ta đã nhanh chóng giải phóng và tiếp quản các đảo
Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa lớn. Tiếp đó, Đoàn 125 tham
gia giải phóng một số đảo ở miền Trung và vùng biển Tây Nam. ➢ Ý nghĩa con đường
Đường Hồ Chí Minh trên biển – bước phát triển mới của nghệ thuật chiến
tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, đã góp phần quan trọng trong sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là tuyến Hậu cần chiến lược
trên biển bảo đảm thời gian nhanh hơn, kịp thời hơn, vũ khí trang bị đồng bộ và đạt
hiệu quả cao, nên sớm phát huy được hiệu quả. Tuyến chi viện chiến lược trên biển
còn vận chuyển nhanh chóng và an toàn những loại “hàng đặc biệt” , đó là những
ngoại tệ mạnh, những loại máy móc thiết bị quý hiếm... Và đặc biệt hơn cả là đã đưa
đón an toàn tuyệt đối hàng trăm cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội và
các chuyên gia đầu ngành tăng cường cho chiến trường; hiệp đồng tác chiến với cánh
quân vũ trang khác trong cuộc chiến cuối cùng giải phóng biển đảo thân yêu của Tổ
Quốc. Từ năm 1975 đến nay, cùng với thực hiện nhiệm vụ vận tải biển, các tàu vận
tải Hải quân đã tham gia nhiều chuyến trực bảo vệ chủ quyền trên biển, kịp thời phát