Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
30 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

73 37 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45734214
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Lý luận chính trị
BÀI TẬP LỚN MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986
đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử
Họ và tên : Nguyễn Mai Phương
Mã sinh viên : 11214829
Giáo viên hướng dẫn: TS Lê Thị Hoa
Hà Nội, tháng 9 năm 2022
lOMoARcPSD| 45734214
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................................... 2
MỞ
ĐẦU.............................................................................................................................2 .... 4
NỘI
DUNG.........................................................................................................................3I.
QUAN ĐIỂN LỊCH SỬ CỤ THỂ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM 5
1. Cơ sở lý luận chung.............................................................................................3 . 5
2. Biện chứng của kinh tế và chính trị ........................................................................ 7
II. THỰC TIỄN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM ........................................ 8
1. Tính tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới ..................................................... 8
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Mam về công cuộc đổi mới .......................... 9
3. Đánh
giá.............................................................................................................113.1. Thành
tựu ............................................................................................................................. 12
3.1.1. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh .............................................................. 12
3.1.2. Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội ...................... 13
3.1.3. Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao ................. 15
3.2. Hạn chế ................................................................................................................... 16
3.2.1. Hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản
về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế chưa cao.......................................................................................... 16
3.2.2. Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở
thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội .......................... 17
3.2.3. Lĩnh vực văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chưa có nhiều đột phá, hiệu
quả chưa cao ...................................................................................................... 18
3.2.4. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập ... 19
3.2.5. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có mặt,
có nơi chưa được phát huy đầy đ .................................................................... 20
3.2.6. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế ....................... 21
3.3. Nguyên nhân ........................................................................................................... 22
3.3.1. Nguyên nhân thành công ........................................................................ 22
lOMoARcPSD| 45734214
3
3.3.2. Nguyên nhân hạn chế .............................................................................. 23
4. Bài học kinh nghiệm ..................................................................................................... 24
5. Các giải pháp đề xuất .................................................................................................... 25
KẾT LUẬN.......................................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................29
lOMoARcPSD| 45734214
4
MỞ ĐẦU
Trong những năm 80 của thế kỷ trước, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống
Mỹ các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, đất ớc ta phải đối
mặt với vô vàn khó khăn, thách thức. Những hạn chế của mô hình kinh tế tập trung kế hoạch hóa
cùng với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch đã làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng.
Trong bối cảnh đó, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật",
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, đánh dấu ớc ngoặt quan trọng trên con đường qđộ lên Chủ nghĩa hội
Việt Nam.
Có thể nói, đổi mới chính là một cuộc vận động mang tính cách mạng để thay cái cũ bằng
cái mới tốt hơn. ng cuộc đổi mới mang tính toàn diện, hệ thống, sâu sắc, liên tục được chuẩn
bị một cách bài bản, khoa học, được triển khai một cách sâu rộng đồng bộ, cụ thể chắc chắn.
Đổi mới để phát triển, nhưng nhất thiết phải giữ tính nguyên tắc, đảm bảo sự ổn định, theo đúng
định hướng Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn.
Ngày nay nhìn lại, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, có thể tự hào khẳng định rằng
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân
cả về vật chất tinh thần được cải thiện rệt. Năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng
ngày càng được củng cố. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay.
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được mới chỉ ớc khởi đầu. Chặng đường phía trước
vẫn còn rất gian nan, đầy khó khăn, thử thách. Chính vậy công cuộc đổi mới theo định hướng
hội chnghĩa ở nước ta thời gian tới phải được tiếp tục đẩy mạnh toàn diện. Trong bối cảnh
đó, sự lãnh đạo của Đảng ta, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng.
Qua đó, em xin phép nhấn mạnh và làm rõ đề tài:” Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của
Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử.
lOMoARcPSD| 45734214
5
NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂN LỊCH SỬ CỤ THỂ ĐỐI VỚI
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận chung
Sau hơn 35 năm đổi mới kể từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn. Điều đó đã khẳng định sự đúng đắn của dân tộc ta khi lựa chọn con đường đi n chủ nghĩa
xã hội. Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử phù hợp
với nguyên lí của sự phát triển, chỉ có chủ nghĩa hội mới giành cho nước ta quyền độc lập tự
chủ đưa nước ta tiến lên xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh. Trong lịch sử nhân loại đã chứng
minh không phải bất kì một quốc gia nào cũng tuần tự trải qua các hình thế kinh tế - xã hội đã có
trong lịch sử. Việc lựa chọn bỏ qua các hình thái kinh tế- hội của một quốc gia tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể của quốc gia ấy và một số điều kiện tác động bên ngoài.
Cuộc cách mạng khoa học - thuộc đã tạo ra nhiều hội cho các nước chậm phát triển
vươn mình lên sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.ở nước ta đầy đủ điều kiện cho
phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa hội, kết hợp sức mạnh đân tộc với sức
mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội tiên tiến, công bằng,văn minh.
Đối với nhân loại hiện nay việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan, điều này thể hiện sự ra đời của một loạt hệ thống các nước hội chủ nghĩa Đông
Âu, Liên Xô, Trung Quốc và một số nơi trên thế giới, vì vậy việc lựa chọn con đương đi lên chủ
nghĩa hội nước ta phù hợp với nguyên của sự phát triển nằm trong mối liên hệ phổ
biến đối với phong trào cách mạng trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, xét trên quan điểm lịch sử cụ thể, nước ta đi lên chủ nghĩa hội từ một xuất
phát điểm rất thấp. Là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa mới thoát ra khỏi ách kìm kẹp nô lệ của
thực dân, phong kiến, Đảng ta đã chỉ điều này trong cương lĩnh đi lên chủ nghĩa hội : " Nước
ta quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua chế đbản, từ một hội vốn thuộc địa nửa phong
kiến, lực lượng sản xuất rất thấp". Điều này nghĩa là, khi xét về tính chất trình độ của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện ở hai đặc trưng sau đây:
lOMoARcPSD| 45734214
6
Một : Lực lượng sản xuất thấp rất thấp, quy định tính tất yếu kinh tế- xã hội của hội
ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi cho sự phát triển của tự nhiên.
Hai là: Trong quan hệ sản xuất, tồn tại nhiều thành phần tàn dư quan hệ sản xuất ý thức
tưởng, tâm lí do chế độ thực dân phong kiến để lại, đó một khó khăn trở ngại lớn khi nước ta
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước đây chúng ta đã sai lầm, nóng vội, chủ quan duy ý chí nhất loạt xây dựng quan hệ
sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Làm như vậy là đẩy quan
hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, không phù hợp với mối quan hệ biện
chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là phản quy luật, chưa nhận thức đượctình
hình đặc điểm của đất nước.
Với quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng Cộng Sản Việt Nam ý thức rằng cần xác định cho
đúng điểm xuất phát, đặc điểm, điều kiện nhất hiện trạng của đất nước để từ đó đề ra các
bước đi cụ thể cho tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội. Đảng ta kiên trì và trung thành
với chủ nghĩa Mác – Lênincho rằng quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ cản trở và kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Đai hội Đảng VI đã bổ xung phát triển quan điểm đó bằng một kết luận
cực kì quan trọng rằng:" Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, những yếu tố đi quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất".
Chính kết luận này đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của nước ta thông qua việc từng
bước điều chỉnh thiết lập lại các quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, dẫn đến thừa nhận và thực hiện
trên thực tế nhiều loại hình sở hữu, hình thành phát triển nền kinh tế thị trường định ớng
xã hội chủ nghĩa đã từng bước khắc phục tính kém hiệu quả, thiếu động lực của cách quản lí tập
trung, quan liêu bao cấp tràn lan vốn cản trở sự năng động của cả người quản lí lẫn lao động trực
tiếp trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời, việc đó cũng tạo điều kiện thu hút vốn đầu của
nước ngoài cùng các công nghệ khoa học thuật. Những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế
các lĩnh vực khác không tách rời đổi mới trong lĩnh vực chính trị, mà một trong những nét nổi bạt
nhất là quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, chính từ sự đổi mới này quần chúng nhân dân
đã thực sự tham gia vào nhiều đời sống sinh hoạt xã hội một cách thực chất, góp phần to lớn vào
việc ổn định chính trị, chống lại các tệ nạn xã hội và sự đe doạ tới an ninh xã hội.
lOMoARcPSD| 45734214
7
Sự tăng trưởng nhanh chóng ổn định của kinh tế, thành công của nước ta trong công cuộc
xoá đói giảm nghèo; sự ổn định, công bằng xã hội của nước ta sau 35 năm đổi mới chính là minh
chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của công cuộc đổi mới toàn diện và sâu rộng của đất nước ta.
Công cuộc đổi mới của nước ta còn gặp nhiều nguy thách thức, tuy nhiên dưới sự
lãnh đạo của Đảng và nhà nước chắc chắn công cuộc đổi mới của đất nước sẽ đi tới thành công.
2. Biện chứng của kinh tế và chính trị
Kinh tế chính trị hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa sở hạ tầng kiến trúc
thượng tầng. Trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế chính trị thì kinh tế nắm giữ vai trò
quyết định chính trị bởi vì những lí do sau đây:
Kinh tế nội dung vật chất của chính trị, còn chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế.
Kết cấu kinh tế của một xã hội là tổng hợp tất cả các mối quan hệ sản xuất có trong xã hội, những
mối quan hệ sản xuất này nội dung trực tiếp nảy sinh ra các mối quan hệ chính trị. Các mối
quan hệ chính trị là sự cô đọng của các mối quan hệ sản xuất.
sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sinh ra hệ thống chính trị ơng ứng và quy
định tính chất của hệ thống đó. Điều này có thể thấy rõ trong lịch sử nhân loại, các kiểu nhà nước
mà loài người trải qua đều được xây dựng trên một nền tảng phương thức sản xuất đặc trưng của
hội đó. Nói theo một cách khác thì tính chất hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản
ánh tính chất xã hội của giai cấp thống trị, bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp của
cơ sở hạ tầng. Từ đó ta có thể đưa đến khẳng định sự biến đổi căn bản của kinh tế đưa đến sự biến
đổi căn bản của chính trị.
Tuy kinh tế nắm giữ vai trò quyết định chính trị nhưng chính trị có tính đọc lập tương đối,
nó có tác động ảnh ởng trở lại đối với kinh tế thông qua quyền lực nhà nước các sức mạnh
vật chất tương ứng khác. Nhà nước có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hoá những tất yếu
của kinh tế. Ăngghen nói:" Bạo lực (tức quyền lực Nhà nước) cũng một sức mạnh kinh tế.
Sau khi giành được chính quyền, bất cứ giai cấp nào muốn giành được quyền thống trị vững chắc
toàn xã hội thì giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển kinh tế trên quy mô toàn xã
hội. Kinh tế vững mạnh thì nhà nước được ng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm
phương tiện vật chất để củng cố địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp thống trị.
lOMoARcPSD| 45734214
8
Như vậy giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó có tác động qua
lại hỗ trợ cho nhau, hai mặt cốt lõi trong mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng
sở hạ tầng.
II. THỰC TIỄN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM
1. Tính tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới
Sau 35 năm đổi mới chúng ta thể khẳng định đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu
biện chứng của quy luật mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. Trước đây do
không xác định được hoàn cảnh cụ thể của đất nước, chúng ta áp dụng chủ quan máy móc duy ý
chí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội của đất ớc, áp
dụng quan hệ sản xuất của đất nước xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đối
với nước ta trong khi trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém, chưa phát triển. Việc
đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa nước ta đi vào
trì trệ, khủng hoảng. Việc đổi mới kinh tế, đổi mới quan hệ sản xuất thừa nhận nền kinh tế thị
trường tức là thừa nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một tất yếu không thể tránh khỏi.
Đảng ta đã xác định:" Nước ta đi lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế đbản chủ nghĩa".
Nhưng bỏ qua ở đây là bỏ qua sự bóc lột của giai cấp tư sản và sự thống trị của Nhà nước tư bản,
chứ không thể bỏ qua, phủ nhận những thành tựu tiến bộ của Chủ nghĩa bản. Việc chấp nhận
kinh tế thị trường, chấp nhận đa dạng hoá loại hình sở hữu là khách quan phù hợp với nguyên
của sự phát triển.
Kể từ thập kỉ 80 trở đi, xu hướng toàn cầu hoá tác động mạnh mẽ tới tất cả các nước trên
thế giới, hầu hết tất cả các quốc gia trong thế giới bản các ớc hội chủ nghĩa đều tiến
hành đổi mới kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới.Trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa, nhiều quốc gia nLiên Xô, Đông Âu và Trung Quốc đã tiến hành đổi mới, tuy nhiên do
những đường lối sai lầm nên công cuộc đổi mới kinh tế ở Liên Xô và Đông Âu không thành công
dẫn đến sụp đổ về hệ thống chính trị, chỉ có Trung Quốc là thành công, và đã để lại nhiều bài học
kinh nghiệm cho chúng ta. Đứng trước làn sóng đổi mới hội nhập đó, Việt Nam không thể
đứng ngoài cuộc chỉ có đổi mới, tham gia hội nhập thì chúng ta mới có thể vươn lên đứng ngang
tầm với các cường quốc trên thế giới.
lOMoARcPSD| 45734214
9
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất
thật tương ứng. Phương thức sản xuất chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xác lập trên cơ sở nền tảng vật
chất-kĩ thuật tiên tiến, với lực lượng sản xuất phát triển rất cao. Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa hội cần phải xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội, mà muốn xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội nhất
thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất, đồng thời phải xây dựng
quan hệ sản xuất phợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất. Muốn vậy không thể
áp dụng hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, mà phải phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như đã trình bày trên, giữa kinh tế chính trị mối liên hệ biện chứng với nhau. Do
đó quá trình đổi mới kinh tế phải tiến hành đồng bộ với đổi mới chính trị. Việc đổi mới kinh tế sẽ
tạo ra tiền đề cho đổi mới chính trị, quá trình đổi mới chính trị stác động tích cực đối với đổi
mới kinh tế, là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế ở ớc ta. Việc đổi mới
chính trị theo hướng tăng cường thực thi dân chủ của nhân dân hoàn toàn đúng đắn, nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân, nhân dân làm chủ, tăng cường thực thi dân chủ
tức sẽ phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, huy động được sức dân vào quá trình đổi
mới kinh tế của đất nước.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Mam về công cuộc đổi mới
Với tinh thần dũng cảm, dám nhìn thẳng vào sự thật, bắt dầu từ đại hội Đảng lần thứ VI,
Đảng ta đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đất nước.
Một trong những quan điểm chủ trương quan trọng của Đảng trong công cuộc đổi mới của nước
ta đó tiến hành phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tại đại hội VI Đảng ta đã tiến hành xem xét
lại một cách căn bản vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và đã đưa ra quan điểm về nền kinh tế nhiều
thành phần:"Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích
luỹ tập trung vốn của nhà nước tranh thủ vốn của nước ngoài, cần chính sách sử dụng
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế". (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng
tại đại hội VI).
Quan điểm xây dựng một nề kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ điều kiện kịch sử cụ thể
của Việt Nam, với lực lực lượng sản xuất còn thấp kém, chậm phát triển,trong hội còn tồn tại
lOMoARcPSD| 45734214
10
nhiều thành phần kinh tế loại hình sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế ấy còn chưa
xoá bỏ được.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng hoá các loại hình sở hữu là đúng với
nguyên của sự phát triển yêu cầu của mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan
hệ sản xuất. Việc sử dụng tất cả các thành phần kinh tế sẽ phát huy được sức mạnh của toàn dân
vào việc phát triển kinh tế. Thông qua sự cạnh tranh của các thành phần kinh tế sẽ tạo được động
lực để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Cùng với quan điểm về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bắt đầu từ đại hội Đảng
IX, Đảng ta bắt đầu sử dụng khái niệm "Kinh tế thị trương định hướng hội chủ nghĩa" đó
một nền kinh tế dựa trên cơ sơ kết hợp sự năng động của kinh tế thị trường với ưu thế của chế độ
chính trị tiên tiến. Kết hợp mặt tích cực của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước
nhằm khắc phục những tiêu cực của kinh tế thị trường (tính tự phát, quáng...). Đại hội Đảng
IX đã đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xem đó là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo tính chất Xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đổi mới nền kinh tế chúng ta phải
thực hiện tốt những quan điểm sau đây:
Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế hội, cải thiện đời sống nhân dân
làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế các hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh.
Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Việc đảm bảo tính chất hội chủ nghĩa phụ thuộc quan trong vào vai trò của nền kinh tế nhà
nước kinh tế tập thể. Phải tạo điều kiện để các nhà kinh doanh nhân yên tâm đầu kinh
doanh lâu dài, áp dụng linh hoạt và sáng tạo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội,
từng bước thực hiện công bằng hội. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu dựa trên
nguyên tắc phân phối theo lao động. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn nhưng
không thbiến thành quan hệ thống trị, c lột. Tiến hành phân phối phân phối lại một cách
hợp lí, Đảng ta không coi mục tiêu phát triển tăng trưởng kinh tế mục tiêu trên nhất mục
lOMoARcPSD| 45734214
11
đích trên hết đó chính là yếu tố con người. Việc phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội. Không thể chờ đến khi tăng trưởng kinh tế đến trình độ cao mới thực hiện công bằng
xã hội, càng không thể hi sinh tiến bộ công bằng hội đchạy theo lợi ích tăng trưởng kinh
tế.
Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đi đôi với mở cửa, hội nhập quốc tế. Đây là một
trong những điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế của mỗi thành phần kinh tế cũng như
toàn bộ nền kinh tế.
Cùng với những quan điểm trong đổi mới kinh tế, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm
về đổi mới chính trị, để tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng, nhà nước, xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân n, tạo điều kiện cho kinh tế phát
triển.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa bản chất của chế độ chính trị nước ta. Xây dựng nền dân chủ
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của cách mạng nước ta. Để thực hiện được điều đó,
cùng với việc nâng cao nhận thức, thống nhất tư tưởng, phải có cơ cấu tổ chức cấu vận hành
một cách khoa học, muốn vậy chúng ta phải tiến hành đổi mới cấu tổ chức của hệ thống
chính trị. Hệ thống chính trị nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, mặt trận tổ quốc cac đoàn
thể chính trị - xã hội, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước đóng vai trò quản lý, mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết của dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì qua độ lên chủ nghĩahội khẳng định:" Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Báo cáo chính trị của Đại hội VII đã chỉ rõ:" Thực
chất của công cuộc đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị nước ta xây dựng một nền dan
chủ xã hội chủ nghĩa". Có thể khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới.
Với cách thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt Nam phải thực sự một Nhà nước của dân, do dân dân, bao nhiêu lợi
ích vì dân, bao nhiêu quyền lợi ở nhân dân. Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải bảo
đảm nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất, nhưng phải sự phân công rành mạch
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp,
lOMoARcPSD| 45734214
12
hành pháp pháp; nâng cao hiệu lực hiệu quả thống nhất TW địa phương. Đổi mới bộ
máy Nhà nước làm cho bộ máy nhà ớc thực sự là thiết chế phục vụ nhân n, hoạt động theo
phương châm việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
Để công cuộc đổi mới được thành công, Đảng ta cần nầng cao vai trò lãnh đạo và năng lực
cầm quyền của Đảng. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập chúng
ta phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng coi đây vấn đề nguyên tắc, vấn đề sống còn, đảm bảo
sự phát triển của đất nước theo đinh hướng hội chủ nghĩa, không có sự lãnh đạo của Đảng thì
không thể nói đến xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế Đảng phải tiếp thục đổi mới tư duy
luận, làm tốt công tác tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ trí tuệ năng lực lãnh đạo chính trị,
năng lực cầm quyền, đơi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng phat huy dân chủ giữ
vững kỉ luật, tăng ờng đoàn kêt thống nhất làm trong sạch nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng
viên.
Đảng ta nêu nguy lớn nhất của Đảng cầm quyền sự sai lầm về đường lối, tệ quan
liêu xa dân tha hoá biến chất, đi đến mất phương hướng chính trị. Trong điều kiện kinh tế thị
trường toàn cầu hoá cần cảnh giác giai pháp khắc phục nguy nói trrên, Đảng kiên định
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mac- Lênin, kiên định nguyên tắc tổ chức của Đảng là nguyên
tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ việc phát huy dân chủ trong Đảng, kỉ cương của Đảng chỉ
có một Đảng lãnh đạo là Đảng cộng sản, không chấp nhận" Đa nguyên, đa đảng".
3. Đánh giá
3.1. Thành tựu
3.1.1. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như
trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt
4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau
đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm
2020 - 2022, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm
thì đến năm 2022 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất tinh thần
lOMoARcPSD| 45734214
13
được cải thiện rõ rệt, m 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm
2022 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu liên tục được cải
thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2022,
trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu với
tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm
để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công
nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông
sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như phê, gạo, hạt
điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác
cũng bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến
hoạt động thương mại đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam năm 2022 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ
USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn
tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy kim ngạch năng lực xuất khẩu, đứng
thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
3.1.2. Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc ng trưởng kinh tế đã bản gắn kết hài hòa
với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ ng bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên
môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển. Từ chNhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển
trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham
gia tạo việc làm; từ chkhông chấp nhận sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích
mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của
Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn ợng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58%
lOMoARcPSD| 45734214
14
năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% m 2010, 7% năm 2015 còn ới 3% năm 2020
(theo chuẩn nghèo đa chiều).
Quy giáo dục tiếp tục được phát triển, sở vật chất được nâng cao, chất ợng đào
tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt
Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng
thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu
học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á
thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu
tiên, Việt Nam 4 sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới.
Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Năng lực của hệ thống các sở y tế được củng cố phát triển. Nhờ đó, người dân dễ
dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được
chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam một
trong sít quốc gia hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ
được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát
được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin
phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19...
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực
hiện. Đến nay, diện thụ ởng chính sách an sinh hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được
nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người
hưởng các chế độ bảo hiểm hội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm hội phối hợp với
ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo
hiểm y tế, bình quân mỗi năm trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo
hiểm y tế.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ
nguồn” do các cấp các đoàn thể, các tổ chức hội, các doanh nghiệp toàn thể nhân dân
lOMoARcPSD| 45734214
15
thực hiện và ởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
3.1.3. Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp
độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế;
tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết WTO. Đến nay, đã 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế thị
trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã kết 15 FTA khu vực song phương
đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA Việt Nam tham gia độ phủ rộng hầu
hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó
15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung
tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các
FTA sẽ mang lại những hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, ng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng thành viên chủ động, tích cực trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích
cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế
tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các quan quan trọng của Liên
hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, y ban Di sản Thế giới của
UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm
kỳ 2016 - 2018.
Đặc biệt, năm 2021 - 2022, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN Chtịch AIPA. Trong bối cảnh
cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song
Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới.
lOMoARcPSD| 45734214
16
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường
lối đổi mới của Đảng ta đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch sử kết
tinh sức sáng tạo của Đảng nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa hội của
nước ta phù hợp với thực tiễn Việt Nam xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3.2. Hạn chế
3.2.1. Hoàn thiện thể chế, đổi mới hình tăng trưởng, cấu lại nền kinh tế, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về hình tăng
trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao
Thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa
được tháo gỡ. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất ợng luật pháp chính sách còn
thấp. Môi trường đầu kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột
phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển,
điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết
vùng còn lỏng lẻo.
Năng lực trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia
công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỉ lệ nội địa hoá thấp,
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm
lại; chất lượng nhiều dịch vụ thấp.
Nhiều doanh nghiệp nnước thực hiện tái cấu đổi mới chế quản trị còn chậm;
thoái vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực
hiện; hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, ng phí còn lớn; tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp, giải ngân đầu công còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp nhân
quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu. Nhiều doanh nghiệp có
vốn đầu nước ngoài công nghtrung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công
nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển. Kinh tế hợp tác phát triển yếu, kinh tế tập thể
chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ.
Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Một
số loại thtrường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận
lOMoARcPSD| 45734214
17
hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển thiếu đồng bộ.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao. Vốn vay nước ngoài giải ngân chậm, sử dụng
còn dàn trải, lãng phí. Thu hút đầu trực tiếp ớc ngoài còn thiếu chọn lọc; sự kết nối chuyển
giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Xuất
khẩu tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng còn thấp; việc bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa,
xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất cập.
3.2.2. Đổi mới giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Đổi mới duy hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra; một s
nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục
đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông giữa các
trình độ, các phương thức giáo dục đào tạo. Nội dung, chương trình giáo dục đào tạo còn
nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh
doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và
kỹ năng người học. Giáo dục "làm người", đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cấu chính
sách đãi ngộ. Quản nhà nước quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế. Nguy cơ tái
mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ cao; thiếu giải pháp đồng bộ sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,
ngành địa phương. chế chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học công nghệ còn
nặng về hành chính hoá, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút
nhân tài. Đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao, chưa xuất phát từ yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chưa có chính sách hợp về vay vốn, thuế, hỗ trợ phát triển, tạo
động lực để doanh nghiệp đầu đổi mới công nghệ. Hệ thống thông tin, thống kê khoa học
công nghệ chưa đápng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến lược, chính sách. Bảo
hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt yêu cầu; chưa gắn kết chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên, khoa học - công
lOMoARcPSD| 45734214
18
nghệ và khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý luận chính trị để phục vụ phát triển nhanh và bền
vững đất nước.
3.2.3. Lĩnh vực văn hoá, hội, bảo vmôi trường chưa nhiều đột phá, hiệu quả chưa
cao
Văn hoá chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế chính trị, chưa thật sự trở thành
nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây
dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn chiều hướng coi trọng chức năng giải trí
đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc
công cuộc đổi mới, tác dụng tích cực đối với con người. Môi trường văn hoá, hội tiếp tục
bị ô nhiễm bởi các tệ nạn hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa
các vùng, miền còn lớn, đời sống văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, ng xa
còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản văn hoá còn nhiều bất cập, lúng túng,
chậm trễ trong việc thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá
chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy
lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hoá, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ
thống thông tin đại chúng còn nhiều hạn chế; một số quan báo chí biểu hiện xa rời tôn chỉ
và thương mại hoá; quản lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn
hoá chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng
văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại mặt còn
nhiều hạn chế.
Quản phát triển hội giải quyết một số vấn đề hội chưa được quan tâm đúng
mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá; thể chế
quản hội còn nhiều bất cập; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn hội...
chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có
giải pháp để xử hữu hiệu vấn đề phân hoá giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng, kiểm soát
xử các mâu thuẫn hội, xung đột hội phát sinh. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, mặt còn bất cập. Chính sách tiền
lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội chưa thật sự hiệu quả; thụ hưởng
của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hoà.
lOMoARcPSD| 45734214
19
Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khậu còn thấp. Vai trò, trách nhiệm các cấp, các
ngành, cộng đồng doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi
trường gây hậu quả nghiêm trọng. Các chế tài để ngăn ngừa, xử các hành vi vi phạm chưa đủ
sức răn đe và thiếu hiệu quả. Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi
khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo, bất cập.
Chất lượng công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên còn hạn chế. Xu hướng chạy
theo lợi nhuận lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chưa được khắc phục. Chậm chuyển
đổi cấu sử dụng ng lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, năng ợng mới, tiết
kiệm. Chất lượng môi trường tiếp tục xuống cấp; thích ứng với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng
túng. Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm. Ngành công nghiệp dịch
vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác chậm phát triển, còn lạc hậu. Tình trạng nhập khẩu công
nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu không đạt chuẩn về môi trường chậm được
khắc phục.
3.2.4. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập
Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc lúc, nơi hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình
hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh lúc chưa thật chủ động. An ninh trên một số
địa bàn, lĩnh vực chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn phức tạp, nhất là an ninh mạng, an ninh trong
đầu nước ngoài; nhiều yếu tố ảnh hưởng đến an ninh, an toàn con người chưa được quan tâm
giải quyết triệt để; xử lý khiếu kiện đông người về đất đai và một số tình huống phức tạp nảy sinh
ở một số địa bàn sở lúc, có nơi còn bị động, lúng túng. Công tác quản lý, bảo đảm an toàn
thông tin, an ninh mạng còn hạn chế. Việc kết hợp kinh tế, văn hoá, hội với quốc phòng, an
ninh ở một số địa phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về
lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt.
Hoạt động đối ngoại hội nhập quốc tế mặt, lúc chưa theo kịp diễn biến của tình
hình, chưa lường hết những tác động bất lợi. Chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ
lợi ích đan xen với các đối tác quan trọng. Sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong công
tác đối ngoại chưa chặt chẽ, thường xuyên.
lOMoARcPSD| 45734214
20
3.2.5. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dân chủ hội chủ nghĩa có mặt, có nơi chưa
được phát huy đầy đủ
Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc chưa
được phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp
nhân dân cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện hội chưa đều. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến,
kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính
đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân lúc, nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu
hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới
Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội, giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước một số mặt chưa nên còn
lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được
phát huy mạnh mẽ.
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu
thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ,
xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải ch hành chính, cải
cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng,
nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số
lượng cán bộ cấp xã đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn còn quá lớn; phẩm
chất, năng lực, uy tín còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
| 1/30

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45734214
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Lý luận chính trị
BÀI TẬP LỚN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986
đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử
Họ và tên : Nguyễn Mai Phương Mã sinh viên : 11214829
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh - LLTT1101(122)_34
Giáo viên hướng dẫn: TS Lê Thị Hoa
Hà Nội, tháng 9 năm 2022 lOMoAR cPSD| 45734214 MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................................... 2 MỞ
ĐẦU.............................................................................................................................2 .... 4 NỘI
DUNG.........................................................................................................................3I.
QUAN ĐIỂN LỊCH SỬ CỤ THỂ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM 5
1. Cơ sở lý luận chung.............................................................................................3 . 5
2. Biện chứng của kinh tế và chính trị ........................................................................ 7
II. THỰC TIỄN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM ........................................ 8
1. Tính tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới ..................................................... 8
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Mam về công cuộc đổi mới .......................... 9 3. Đánh
giá.............................................................................................................113.1. Thành
tựu ............................................................................................................................. 12
3.1.1. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh .............................................................. 12
3.1.2. Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội ...................... 13
3.1.3. Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao ................. 15
3.2. Hạn chế ................................................................................................................... 16
3.2.1. Hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản
về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế chưa cao.......................................................................................... 16
3.2.2. Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở
thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội .......................... 17
3.2.3. Lĩnh vực văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chưa có nhiều đột phá, hiệu
quả chưa cao ...................................................................................................... 18
3.2.4. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập ... 19
3.2.5. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có mặt,
có nơi chưa được phát huy đầy đủ .................................................................... 20
3.2.6. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế ....................... 21
3.3. Nguyên nhân ........................................................................................................... 22
3.3.1. Nguyên nhân thành công ........................................................................ 22 2 lOMoAR cPSD| 45734214
3.3.2. Nguyên nhân hạn chế .............................................................................. 23
4. Bài học kinh nghiệm ..................................................................................................... 24
5. Các giải pháp đề xuất .................................................................................................... 25
KẾT LUẬN.......................................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................29 3 lOMoAR cPSD| 45734214 MỞ ĐẦU
Trong những năm 80 của thế kỷ trước, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống
Mỹ và các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, đất nước ta phải đối
mặt với vô vàn khó khăn, thách thức. Những hạn chế của mô hình kinh tế tập trung kế hoạch hóa
cùng với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch đã làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng.
Trong bối cảnh đó, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật",
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể nói, đổi mới chính là một cuộc vận động mang tính cách mạng để thay cái cũ bằng
cái mới tốt hơn. Công cuộc đổi mới mang tính toàn diện, hệ thống, sâu sắc, liên tục và được chuẩn
bị một cách bài bản, khoa học, được triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, cụ thể và chắc chắn.
Đổi mới để phát triển, nhưng nhất thiết phải giữ tính nguyên tắc, đảm bảo sự ổn định, theo đúng
định hướng Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn.
Ngày nay nhìn lại, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, có thể tự hào khẳng định rằng
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân
cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
ngày càng được củng cố. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được mới chỉ là bước khởi đầu. Chặng đường phía trước
vẫn còn rất gian nan, đầy khó khăn, thử thách. Chính vì vậy công cuộc đổi mới theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian tới phải được tiếp tục đẩy mạnh toàn diện. Trong bối cảnh
đó, sự lãnh đạo của Đảng ta, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Qua đó, em xin phép nhấn mạnh và làm rõ đề tài:” Tìm hiểu về công cuộc đổi mới của
Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nguyên nhân thành công và bài học kinh nghiệm lịch sử. “ 4 lOMoAR cPSD| 45734214 NỘI DUNG I.
QUAN ĐIỂN LỊCH SỬ CỤ THỂ ĐỐI VỚI
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận chung
Sau hơn 35 năm đổi mới kể từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn. Điều đó đã khẳng định sự đúng đắn của dân tộc ta khi lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử phù hợp
với nguyên lí của sự phát triển, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giành cho nước ta quyền độc lập tự
chủ đưa nước ta tiến lên xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh. Trong lịch sử nhân loại đã chứng
minh không phải bất kì một quốc gia nào cũng tuần tự trải qua các hình thế kinh tế - xã hội đã có
trong lịch sử. Việc lựa chọn và bỏ qua các hình thái kinh tế- xã hội của một quốc gia tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể của quốc gia ấy và một số điều kiện tác động bên ngoài.
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuộc đã tạo ra nhiều cơ hội cho các nước chậm phát triển
vươn mình lên sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.ở nước ta có đầy đủ điều kiện cho
phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh đân tộc với sức
mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội tiên tiến, công bằng,văn minh.
Đối với nhân loại hiện nay việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan, điều này thể hiện ở sự ra đời của một loạt hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu, Liên Xô, Trung Quốc và một số nơi trên thế giới, vì vậy việc lựa chọn con đương đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với nguyên lí của sự phát triển và nằm trong mối liên hệ phổ
biến đối với phong trào cách mạng trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, xét trên quan điểm lịch sử cụ thể, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất
phát điểm rất thấp. Là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa mới thoát ra khỏi ách kìm kẹp nô lệ của
thực dân, phong kiến, Đảng ta đã chỉ rõ điều này trong cương lĩnh đi lên chủ nghĩa xã hội : " Nước
ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, lực lượng sản xuất rất thấp". Điều này có nghĩa là, khi xét về tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện ở hai đặc trưng sau đây: 5 lOMoAR cPSD| 45734214
Một là: Lực lượng sản xuất thấp rất thấp, quy định tính tất yếu kinh tế- xã hội của xã hội
ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi cho sự phát triển của tự nhiên.
Hai là: Trong quan hệ sản xuất, tồn tại nhiều thành phần tàn dư quan hệ sản xuất ý thức tư
tưởng, tâm lí do chế độ thực dân phong kiến để lại, đó là một khó khăn trở ngại lớn khi nước ta
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước đây chúng ta đã sai lầm, nóng vội, chủ quan duy ý chí nhất loạt xây dựng quan hệ
sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Làm như vậy là đẩy quan
hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, không phù hợp với mối quan hệ biện
chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là phản quy luật, chưa nhận thức được rõ tình
hình đặc điểm của đất nước.
Với quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng Cộng Sản Việt Nam ý thức rõ rằng cần xác định cho
đúng điểm xuất phát, đặc điểm, điều kiện và nhất là hiện trạng của đất nước để từ đó đề ra các
bước đi cụ thể cho tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội. Đảng ta kiên trì và trung thành
với chủ nghĩa Mác – Lênincho rằng quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ cản trở và kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Đai hội Đảng VI đã bổ xung và phát triển quan điểm đó bằng một kết luận
cực kì quan trọng rằng:" Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất".
Chính kết luận này đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của nước ta thông qua việc từng
bước điều chỉnh và thiết lập lại các quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, dẫn đến thừa nhận và thực hiện
trên thực tế nhiều loại hình sở hữu, hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã từng bước khắc phục tính kém hiệu quả, thiếu động lực của cách quản lí tập
trung, quan liêu bao cấp tràn lan vốn cản trở sự năng động của cả người quản lí lẫn lao động trực
tiếp trong sản xuất và kinh doanh. Đồng thời, việc đó cũng tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư của
nước ngoài cùng các công nghệ và khoa học kĩ thuật. Những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế và
các lĩnh vực khác không tách rời đổi mới trong lĩnh vực chính trị, mà một trong những nét nổi bạt
nhất là quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, chính từ sự đổi mới này mà quần chúng nhân dân
đã thực sự tham gia vào nhiều đời sống sinh hoạt xã hội một cách thực chất, góp phần to lớn vào
việc ổn định chính trị, chống lại các tệ nạn xã hội và sự đe doạ tới an ninh xã hội. 6 lOMoAR cPSD| 45734214
Sự tăng trưởng nhanh chóng ổn định của kinh tế, thành công của nước ta trong công cuộc
xoá đói giảm nghèo; sự ổn định, công bằng xã hội của nước ta sau 35 năm đổi mới chính là minh
chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của công cuộc đổi mới toàn diện và sâu rộng của đất nước ta.
Công cuộc đổi mới của nước ta còn gặp nhiều nguy cơ và thách thức, tuy nhiên dưới sự
lãnh đạo của Đảng và nhà nước chắc chắn công cuộc đổi mới của đất nước sẽ đi tới thành công.
2. Biện chứng của kinh tế và chính trị
Kinh tế và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế nắm giữ vai trò
quyết định chính trị bởi vì những lí do sau đây:
Kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Kết cấu kinh tế của một xã hội là tổng hợp tất cả các mối quan hệ sản xuất có trong xã hội, những
mối quan hệ sản xuất này là nội dung trực tiếp nảy sinh ra các mối quan hệ chính trị. Các mối
quan hệ chính trị là sự cô đọng của các mối quan hệ sản xuất.
Cơ sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sinh ra hệ thống chính trị tương ứng và quy
định tính chất của hệ thống đó. Điều này có thể thấy rõ trong lịch sử nhân loại, các kiểu nhà nước
mà loài người trải qua đều được xây dựng trên một nền tảng phương thức sản xuất đặc trưng của
xã hội đó. Nói theo một cách khác thì tính chất xã hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản
ánh tính chất xã hội của giai cấp thống trị, bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp của
cơ sở hạ tầng. Từ đó ta có thể đưa đến khẳng định sự biến đổi căn bản của kinh tế đưa đến sự biến
đổi căn bản của chính trị.
Tuy kinh tế nắm giữ vai trò quyết định chính trị nhưng chính trị có tính đọc lập tương đối,
nó có tác động ảnh hưởng trở lại đối với kinh tế thông qua quyền lực nhà nước và các sức mạnh
vật chất tương ứng khác. Nhà nước có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hoá những tất yếu
của kinh tế. Ăngghen nói:" Bạo lực (tức là quyền lực Nhà nước) cũng là một sức mạnh kinh tế.
Sau khi giành được chính quyền, bất cứ giai cấp nào muốn giành được quyền thống trị vững chắc
toàn xã hội thì giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển kinh tế trên quy mô toàn xã
hội. Kinh tế vững mạnh thì nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm
phương tiện vật chất để củng cố địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp thống trị. 7 lOMoAR cPSD| 45734214
Như vậy giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó có tác động qua
lại và hỗ trợ cho nhau, và là hai mặt cốt lõi trong mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. II.
THỰC TIỄN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM
1. Tính tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới
Sau 35 năm đổi mới chúng ta có thể khẳng định đổi mới kinh tế là phù hợp với yêu cầu
biện chứng của quy luật mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trước đây do
không xác định được hoàn cảnh cụ thể của đất nước, chúng ta áp dụng chủ quan máy móc duy ý
chí lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước, áp
dụng quan hệ sản xuất của đất nước xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đối
với nước ta trong khi trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém, chưa phát triển. Việc
đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa nước ta đi vào
trì trệ, khủng hoảng. Việc đổi mới kinh tế, đổi mới quan hệ sản xuất thừa nhận nền kinh tế thị
trường tức là thừa nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một tất yếu không thể tránh khỏi.
Đảng ta đã xác định:" Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa".
Nhưng bỏ qua ở đây là bỏ qua sự bóc lột của giai cấp tư sản và sự thống trị của Nhà nước tư bản,
chứ không thể bỏ qua, phủ nhận những thành tựu tiến bộ của Chủ nghĩa tư bản. Việc chấp nhận
kinh tế thị trường, chấp nhận đa dạng hoá loại hình sở hữu là khách quan phù hợp với nguyên lý của sự phát triển.
Kể từ thập kỉ 80 trở đi, xu hướng toàn cầu hoá tác động mạnh mẽ tới tất cả các nước trên
thế giới, hầu hết tất cả các quốc gia trong thế giới tư bản và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến
hành đổi mới kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới.Trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa, nhiều quốc gia như Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc đã tiến hành đổi mới, tuy nhiên do
những đường lối sai lầm nên công cuộc đổi mới kinh tế ở Liên Xô và Đông Âu không thành công
dẫn đến sụp đổ về hệ thống chính trị, chỉ có Trung Quốc là thành công, và đã để lại nhiều bài học
kinh nghiệm cho chúng ta. Đứng trước làn sóng đổi mới và hội nhập đó, Việt Nam không thể
đứng ngoài cuộc chỉ có đổi mới, tham gia hội nhập thì chúng ta mới có thể vươn lên đứng ngang
tầm với các cường quốc trên thế giới. 8 lOMoAR cPSD| 45734214
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất kĩ
thật tương ứng. Phương thức sản xuất chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xác lập trên cơ sở nền tảng vật
chất-kĩ thuật tiên tiến, với lực lượng sản xuất phát triển rất cao. Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội, mà muốn xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội nhất
thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất, đồng thời phải xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Muốn vậy không thể
áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, mà phải phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như đã trình bày ở trên, giữa kinh tế và chính trị có mối liên hệ biện chứng với nhau. Do
đó quá trình đổi mới kinh tế phải tiến hành đồng bộ với đổi mới chính trị. Việc đổi mới kinh tế sẽ
tạo ra tiền đề cho đổi mới chính trị, quá trình đổi mới chính trị sẽ tác động tích cực đối với đổi
mới kinh tế, là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Việc đổi mới
chính trị theo hướng tăng cường thực thi dân chủ của nhân dân là hoàn toàn đúng đắn, vì nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân, nhân dân làm chủ, tăng cường thực thi dân chủ
tức là sẽ phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, huy động được sức dân vào quá trình đổi
mới kinh tế của đất nước.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Mam về công cuộc đổi mới
Với tinh thần dũng cảm, dám nhìn thẳng vào sự thật, bắt dầu từ đại hội Đảng lần thứ VI,
Đảng ta đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đất nước.
Một trong những quan điểm chủ trương quan trọng của Đảng trong công cuộc đổi mới của nước
ta đó là tiến hành phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tại đại hội VI Đảng ta đã tiến hành xem xét
lại một cách căn bản vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và đã đưa ra quan điểm về nền kinh tế nhiều
thành phần:"Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích
luỹ tập trung vốn của nhà nước và tranh thủ vốn của nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế". (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội VI).
Quan điểm xây dựng một nề kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ điều kiện kịch sử cụ thể
của Việt Nam, với lực lực lượng sản xuất còn thấp kém, chậm phát triển,trong xã hội còn tồn tại 9 lOMoAR cPSD| 45734214
nhiều thành phần kinh tế và loại hình sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế ấy còn chưa xoá bỏ được.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng hoá các loại hình sở hữu là đúng với
nguyên lí của sự phát triển và yêu cầu của mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Việc sử dụng tất cả các thành phần kinh tế sẽ phát huy được sức mạnh của toàn dân
vào việc phát triển kinh tế. Thông qua sự cạnh tranh của các thành phần kinh tế sẽ tạo được động
lực để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Cùng với quan điểm về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bắt đầu từ đại hội Đảng
IX, Đảng ta bắt đầu sử dụng khái niệm "Kinh tế thị trương định hướng Xã hội chủ nghĩa" đó là
một nền kinh tế dựa trên cơ sơ kết hợp sự năng động của kinh tế thị trường với ưu thế của chế độ
chính trị tiên tiến. Kết hợp mặt tích cực của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước
nhằm khắc phục những tiêu cực của kinh tế thị trường (tính tự phát, mù quáng...). Đại hội Đảng
IX đã đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xem đó là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo tính chất Xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đổi mới nền kinh tế chúng ta phải
thực hiện tốt những quan điểm sau đây:
Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân
làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh.
Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Việc đảm bảo tính chất xã hội chủ nghĩa là phụ thuộc quan trong vào vai trò của nền kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể. Phải tạo điều kiện để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư kinh
doanh lâu dài, áp dụng linh hoạt và sáng tạo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội,
từng bước thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu dựa trên
nguyên tắc phân phối theo lao động. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn nhưng
không thể biến thành quan hệ thống trị, bóc lột. Tiến hành phân phối và phân phối lại một cách
hợp lí, Đảng ta không coi mục tiêu phát triển tăng trưởng kinh tế là mục tiêu trên nhất mà mục 10 lOMoAR cPSD| 45734214
đích trên hết đó chính là yếu tố con người. Việc phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội. Không thể chờ đến khi tăng trưởng kinh tế đến trình độ cao mới thực hiện công bằng
xã hội, càng không thể hi sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo lợi ích tăng trưởng kinh tế.
Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đi đôi với mở cửa, hội nhập quốc tế. Đây là một
trong những điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế của mỗi thành phần kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Cùng với những quan điểm trong đổi mới kinh tế, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm
về đổi mới chính trị, để tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng, nhà nước, xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta. Xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của cách mạng nước ta. Để thực hiện được điều đó,
cùng với việc nâng cao nhận thức, thống nhất tư tưởng, phải có cơ cấu tổ chức và cơ cấu vận hành
một cách khoa học, muốn vậy chúng ta phải tiến hành đổi mới cơ cấu và tổ chức của hệ thống
chính trị. Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, mặt trận tổ quốc và cac đoàn
thể chính trị - xã hội, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước đóng vai trò quản lý, mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết của dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định:" Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Báo cáo chính trị của Đại hội VII đã chỉ rõ:" Thực
chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng một nền dan
chủ xã hội chủ nghĩa". Có thể khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Với tư cách là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam phải thực sự là một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, bao nhiêu lợi
ích vì dân, bao nhiêu quyền lợi ở nhân dân. Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải bảo
đảm nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng phải có sự phân công rành mạch và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, 11 lOMoAR cPSD| 45734214
hành pháp và tư pháp; nâng cao hiệu lực hiệu quả thống nhất ở TW và địa phương. Đổi mới bộ
máy Nhà nước làm cho bộ máy nhà nước thực sự là thiết chế phục vụ nhân dân, hoạt động theo
phương châm việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
Để công cuộc đổi mới được thành công, Đảng ta cần nầng cao vai trò lãnh đạo và năng lực
cầm quyền của Đảng. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập chúng
ta phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng coi đây là vấn đề nguyên tắc, vấn đề sống còn, đảm bảo
sự phát triển của đất nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, không có sự lãnh đạo của Đảng thì
không thể nói gì đến xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế Đảng phải tiếp thục đổi mới tư duy lí
luận, làm tốt công tác tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị,
năng lực cầm quyền, đơi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phat huy dân chủ giữ
vững kỉ luật, tăng cường đoàn kêt thống nhất làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên.
Đảng ta nêu rõ nguy cơ lớn nhất của Đảng cầm quyền là sự sai lầm về đường lối, tệ quan
liêu xa dân tha hoá biến chất, đi đến mất phương hướng chính trị. Trong điều kiện kinh tế thị
trường và toàn cầu hoá cần cảnh giác và có giai pháp khắc phục nguy cơ nói trrên, Đảng kiên định
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mac- Lênin, kiên định nguyên tắc tổ chức của Đảng là nguyên
tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ việc phát huy dân chủ trong Đảng, kỉ cương của Đảng chỉ
có một Đảng lãnh đạo là Đảng cộng sản, không chấp nhận" Đa nguyên, đa đảng". 3. Đánh giá
3.1. Thành tựu
3.1.1. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như
trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt
4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau
đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm
2020 - 2022, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm
thì đến năm 2022 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần 12 lOMoAR cPSD| 45734214
được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm
2022 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải
thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2022,
trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với
tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm
để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công
nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông
sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt
điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác
cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến
hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam năm 2022 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ
USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn
tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng
thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
3.1.2. Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa
với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và
môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển
trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham
gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích
mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của
Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% 13 lOMoAR cPSD| 45734214
năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020
(theo chuẩn nghèo đa chiều).
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào
tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt
Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng
thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu
học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và
thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu
tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới.
Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ
dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được
chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một
trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ
được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát
được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin
phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19...
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực
hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được
nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp với
ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo
hiểm y tế, bình quân mỗi năm có trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ
nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân 14 lOMoAR cPSD| 45734214
thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
3.1.3. Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp
độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế;
tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và
đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu
hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có
15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung
tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các
FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích
cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế
tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên
hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của
UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018.
Đặc biệt, năm 2021 - 2022, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh
vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song
Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới. 15 lOMoAR cPSD| 45734214
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết
tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3.2. Hạn chế
3.2.1. Hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng
trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa
được tháo gỡ. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn
thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột
phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển,
điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo.
Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia
công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỉ lệ nội địa hoá thấp,
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm
lại; chất lượng nhiều dịch vụ thấp.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện tái cơ cấu và đổi mới cơ chế quản trị còn chậm;
thoái vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực
hiện; hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn; tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp, giải ngân đầu tư công còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có
quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu. Nhiều doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công
nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển. Kinh tế hợp tác phát triển yếu, kinh tế tập thể
chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ.
Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Một
số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận 16 lOMoAR cPSD| 45734214
hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển thiếu đồng bộ.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao. Vốn vay nước ngoài giải ngân chậm, sử dụng
còn dàn trải, lãng phí. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu chọn lọc; sự kết nối và chuyển
giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Xuất
khẩu tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng còn thấp; việc bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa,
xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất cập.
3.2.2. Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Đổi mới tư duy và hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra; một số
nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và
đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông giữa các
trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo còn
nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh
doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và
kỹ năng người học. Giáo dục "làm người", đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính
sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế. Nguy cơ tái
mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ cao; thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,
ngành và địa phương. Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn
nặng về hành chính hoá, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút
nhân tài. Đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao, chưa xuất phát từ yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chưa có chính sách hợp lý về vay vốn, thuế, hỗ trợ phát triển, tạo
động lực để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Hệ thống thông tin, thống kê khoa học và
công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến lược, chính sách. Bảo
hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt yêu cầu; chưa gắn kết chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên, khoa học - công 17 lOMoAR cPSD| 45734214
nghệ và khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý luận chính trị để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.
3.2.3. Lĩnh vực văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao
Văn hoá chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành
nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây
dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí
đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc
công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Môi trường văn hoá, xã hội tiếp tục
bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa
các vùng, miền còn lớn, đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn nhiều bất cập, lúng túng,
chậm trễ trong việc thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá
chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy
lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hoá, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ
thống thông tin đại chúng còn nhiều hạn chế; một số cơ quan báo chí có biểu hiện xa rời tôn chỉ
và thương mại hoá; quản lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn
hoá chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng bá
văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại có mặt còn nhiều hạn chế.
Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng
mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá; thể chế
quản lý xã hội còn nhiều bất cập; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn xã hội...
chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có
giải pháp để xử lý hữu hiệu vấn đề phân hoá giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng, kiểm soát và
xử lý các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội phát sinh. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền
lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội chưa thật sự hiệu quả; thụ hưởng
của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hoà. 18 lOMoAR cPSD| 45734214
Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp. Vai trò, trách nhiệm các cấp, các
ngành, cộng đồng và doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi
trường gây hậu quả nghiêm trọng. Các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ
sức răn đe và thiếu hiệu quả. Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi
khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo, bất cập.
Chất lượng công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên còn hạn chế. Xu hướng chạy
theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chưa được khắc phục. Chậm chuyển
đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới, tiết
kiệm. Chất lượng môi trường tiếp tục xuống cấp; thích ứng với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng
túng. Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm. Ngành công nghiệp và dịch
vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác chậm phát triển, còn lạc hậu. Tình trạng nhập khẩu công
nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu không đạt chuẩn về môi trường chậm được khắc phục.
3.2.4. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập
Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình
hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động. An ninh trên một số
địa bàn, lĩnh vực chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn phức tạp, nhất là an ninh mạng, an ninh trong
đầu tư nước ngoài; nhiều yếu tố ảnh hưởng đến an ninh, an toàn con người chưa được quan tâm
giải quyết triệt để; xử lý khiếu kiện đông người về đất đai và một số tình huống phức tạp nảy sinh
ở một số địa bàn cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng. Công tác quản lý, bảo đảm an toàn
thông tin, an ninh mạng còn hạn chế. Việc kết hợp kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an
ninh ở một số địa phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về
lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt.
Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt, có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình
hình, chưa lường hết những tác động bất lợi. Chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ
lợi ích đan xen với các đối tác quan trọng. Sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong công
tác đối ngoại chưa chặt chẽ, thường xuyên. 19 lOMoAR cPSD| 45734214
3.2.5. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có mặt, có nơi chưa
được phát huy đầy đủ
Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa
được phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp
nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến,
kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính
đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu
hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới
Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội, giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt chưa rõ nên còn
lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu
thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ,
xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải
cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng,
nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số
lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn còn quá lớn; phẩm
chất, năng lực, uy tín còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. 20