Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam - Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam | Đại Học Hà Nội

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam - Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam | Đại Học Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1 Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay
Quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ta là vấn đề được Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm và đã trở thành chính sách nhất quán, xuyên suốt. Một
trong những cơ sở của chính sách ấy là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng. Là một nhà chính trị,
một nhà cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc đảm bảo quyền
con người và trong đó có quyền tự do tự do tín ngưỡng với tính đặc thù riêng
của nó. Việc khẳng định quyền tự do tín ngưỡng trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng của người Việt và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân
dân được đề cập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ngưỡng là một nhân tố góp
phần bảo đảm cho sự phát triển và cho sự thành công của cách mạng nước ta.
Đồng thời cũng đảm bảo cho tín ngưỡng được phát triển theo đúng pháp luật.
Quán triệt tư tưởng đó của chủ tịch Hồ chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo vào trong công cuộc đổi mới đất nước.
Được hình thành từ nền kinh tế nông nghiệp trong xã hội phụ quyền xa
xưa, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt tồn tại, biến đổi, và phát triển
cùng với những thăng trầm của lịch sử. Sau 1975, nước ta giành được độc lập
hoàn toàn, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế mà đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội, của người Việt có nhiều thay đổi.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Chúng ta đang phấn đấu phát huy nội lực, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên
ngoài, chú trọng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Với quan điểm đổi mới toàn diện đồng bộ cùng những giải pháp
đúng đắn phù hợp về văn hóa – xã hội đã giúp Việt Nam có những bước tiến
đáng kể. Sự nghiệp kinh tế văn hóa, giáo dục đạt nhiều thành tựu to lớn, trình
độ dân trí được nâng cao…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong xã hội cũng
phát sinh những mặt yếu kém. Mặt trái của cơ chế thị trường như quy luật
cạnh tranh, sự đề cao sức mạnh của đồng tiền, tình trạng phân hóa giàu nghèo,
tệ tham nhũng, quan liêu, chạy theo lợi ích vật chất mà xem nhẹ giá trị đạo
đức văn hóa truyền thống đã tác động xấu đến nhiều lĩnh vực trong xã hội.
Tình hình thế giới cũng có nhiều biến đổi to lớn. Đó là sự tan rã của các
nước Xã hội chủ nghĩa Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi đó là sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng toàn
cầu hóa về kinh tế văn hóa, sự trỗi dậy của các tín ngưỡng tôn giáo truyền
thống, sự phát triến của các tôn giáo mới…
Tất cả những điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa xã hội trên là những
yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay.
Phải khẳng định rằng trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của các tầng lớp nhân dân,
đáp ứng phần nào nhu cầu tâm linh của nhân dân. Các hình thức sinh hoạt văn
hóa truyền thống, như các nghi lễ thờ cúng tổ tiên được khôi phục và phát
triển. Nhằm khai thác kế thừa truyền thống và phát huy những giá trị văn hóa
đã được chung đúc từ hàng nghìn năm nay.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt gắn với đời thường, gắn với
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, được chú trọng nhiều hơn
Xuất phát từ quan niệm “trần sao, âm vậy”, việc thắp hương thờ cúng
tổ tiên đã trở thành quen thuộc, phổ biến trong mỗi gia đình người dân Việt. Thực
hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên ngoài trách nhiệm đạo lý vốn là truyền
thống có hình thức giản dị, không mất nhiều thời gian, lại thiết thực trước là
thờ cúng tổ tiên, sau là con cháu được thụ lộc, con cháu nhớ tổ tiên thì cúng
bái cũng là tỏ lòng hiếu thảo của mình đối với tổ tiên. Vì thế truyền thống này
dễ đời thường hóa trong mọi gia đình, dù nông dân hay trí thức, dù con trưởng
hay con thứ, giàu hay nghèo, trai hay gái…phù hợp với quy luật tình cảm và
bản chất tự nhiên của con người. Do đó, khi làm bất cứ việc gì người ta cũng
thường xuyên thắp hương khấn vái tổ tiên phù hộ như: ốm đau, bệnh tật, sinh
nở, buôn bán, học hành, thi cử, gia đình nề nếp, con cái ngoan ngoãn…
Đời thường hóa không chỉ ở mỗi gia đình mà còn gắn với sinh hoạt văn
hóa cộng đồng. Ở nhiều nơi, đã có việc làm thiết thực, nhiều phong trào quần
chúng như: phát huy đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa, xây
dựng gia đình, làng, xã văn hóa khu dân cư kiểu mẫu”… tưởng niệm các anh
hùng dân tộc như: hội Đền Hùng, hội Đền Gióng…nêu rõ truyền thống đánh
giặc giữ làng, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bước đầu hình thành một số nghi
thức mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội, cải tạo phong tục tập quán lạc hậu
được quần chúng nhân dân hưởng ứng và tham gia tích cực.
Giá trị văn hóa của nghi lễ thờ cúng tổ tiên còn thể hiện ở tư tưởng coi
trọng đạo đức gia đình, trọng tình cảm trên dưới của con người. Điều chỉnh
hành vi cư xử giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc từ đó nhân lên tình
yêu quê hương đất nước, trung thành với cách mạng, với Tổ quốc. Từ chỗ
coi trọng tình cảm huyết thống “chung giọt máu đào”, người Việt nâng
lên thành tình cảm của một cộng đồng dân tộc, cùng chung một bọc “đồng
bào”. Vì thế, mọi người Việt Nam bất kỳ ở đâu cũng thân ái, tin cậy, đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau.
Hơn thế nữa là trong xã hội hiện nay, cơ chế thị trường mở, văn hóa
phương Tây du nhập mạnh mẽ thì nền văn hóa cũng như đạo đức của con
người cũng bị xói mòn dần đi. Chính vì thế cần phát huy giá trị tích cực của
văn hóa truyền thống để giáo dục cho thế hệ trẻ lối sống đạo đức, lành mạnh.
Trong văn hóa truyền thống đấy thì không thể không nói đến tín ngưỡng thờ
cũng tổ tiên của người Việt. Từ những tác động của xã hội và nhu cầu về tâm
linh của con người ngày một tăng lên thì thờ cũng tổ tiên được chú trọng
nhiều hơn.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay vận động theo xu hướng phục hồi
lại truyền thống. Những năm qua, đời sống tín ngưỡng tôn giáo trong nhân dân ta
có chiều hướng phát triển rất đa dạng và phức tạp với những biểu hiện vừa tích
cực, vừa tiêu cực. Cái hay, cái dở, cái lành mạnh và không lành mạnh luôn
đan xen nhau. Biểu hiện của mặt tích cực là các cá nhân có xu hướng tự tu
dưỡng, giữ gìn đạo đức, hướng thiện, phục thiện trong hoàn cảnh xã hội nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp, hệ thống các giá trị chuẩn mực đang bị đảo lộn,
đạo đức xã hội xuống cấp… Đó còn là xu hướng quay trở lại gìn giữ những
giá trị tích cực của các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, góp phần làm tăng thêm tình
cảm cộng đồng, khôi phục lại những biểu tượng văn hóa truyền thống, là biểu
hiện của đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành
truyền thống tốt đẹp. Ngày giỗ, ngày tết là ngày anh em xa gần hội tụ, gia
đình đông đủ quay quần bên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ đến công đức của
tổ tiên và công lao của ông bà cha mẹ, mọi người đều như thấy trách nhiệm
của mình phải cố gắng hơn nữa để đền đáp công ơn tổ tiên làm rạng danh
truyền thống gia đình quê hương, đất nước.
Với người Việt hiện nay, việc thờ cúng tổ tiên ở các cấp độ được biểu
hiện như một hoạt động văn hóa mang tính xã hội và giáo dục. Nó được thể
hiện xu hướng chủ đạo trong sự vận động của các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của
người Việt hiện nay. Người tham gia nghi lễ thờ cúng tổ tiên càng có điều
kiện để bình tâm, thư thái, thăm hỏi động viên nhau, chăm lo cho gia đình
dòng họ, làng xã và cao hơn là dân tộc.
Người Việt xưa nay thờ cúng tổ tiên biểu hiện không cốt ở lễ vật nhiều
hay ít mà cốt ở lòng thành, lòng hiếu thảo, biết ơn thành kính. Vì vậy, nó đã
đáp ứng được phần nào nhu cầu tâm lý tinh thần tâm linh của các cá nhân và
cộng đồng người Việt.
Kính hiếu, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ và phấn đấu học tập rèn
luyện để làm rạng rỡ truyền thống gia đình họ tộc, quê hương là một truyền
thống lẽ sống của thế hệ trẻ. Và với thế hệ trẻ hiện nay lòng hiếu thảo đó
không chỉ dừng lại ở việc trở thành con ngoan hiếu thảo mà còn trở thành một
công dân tốt. Chính vì vậy, thế hệ trẻ phải tự học tập, rèn luyện, để nắm bắt
những tri thức mới, dám nghĩ dám làm, dám phá bỏ định kiến, vượt lên những
hạn chế truyền thống để kết hợp những tinh hoa của thời đại với dân tộc. Từ
đó, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, xu hướng tìm
về nguồn cội tổ tiên, là con cháu của một họ tộc đều có trách nhiệm báo đền
ơn nghĩa với ông bà tổ tiên. Nhiều họ đã sửa sang xây lại nhà thờ họ, khôi
phục lại việc họ, tìm và viết lại gia phả, tổ chức ngày giỗ họ. Sự phục hưng,
phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của dòng họ không chỉ tạo niềm
vui, sự phấn khởi, niềm tự hào trong mỗi thành viên trong họ tộc mà còn có ý
nghĩa sâu sắc. Tuy cuộc sống mới có nhiều tác động và làm biến đổi đối với các
nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong dòng họ, nhưng dòng họ vẫn có một vai trò
to lớn trong xã hội hiện nay. Nhu cầu tình cảm huyết thống, tâm linh đã khiến
mọi thành viên trong dòng họ cố gắng sống tốt hơn.
Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dòng họ hiện nay đã có phần giản
đơn, song phần ý thức tâm linh vẫn được đề cao. Qua đây có thể thấy xuất
phát từ những quan niệm đúng đắn, từ mối liên hệ huyết thống sâu nặng trong
gia đình cũng như trong họ tộc, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên đã góp phần làm
phong phú đời sống tinh thần của người Việt. Đó cũng là việc bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống chống lại làn sóng xâm lăng về văn
hóa khi đất nước vận hành cơ chế thị trường.
Bên cạnh những nét đẹp truyền thống được bảo tồn và phát huy, thì
thờ cúng tổ tiên của người Việt trong những năm gần đây còn có những quan
niệm sai lệch, những biểu hiện chưa tốt như các hủ tục cũ theo hướng mê tín.
Xuất phát từ nhu cầu văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tâm linh, mà hiện
nay dòng người hành hương ngày một lớn, địa chỉ hành hương ngày một
rộng, thời gian hành hương ngày một dài nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh.
Trong lễ hội, cái ranh giới giữa tín ngưỡng thành tâm, tự nguyện với sự mê
muội đôi khi rất mỏng manh. Trong gia đình, nhiều người vì quá tin vào sự
tồn tại của tổ tiên, thần thánh nên làm bất cứ việc gì cũng khấn vái gia tiên,
thần thánh. Tự mình khấn vái, cầu xin chưa đủ, chưa yên tâm, họ còn mời
thầy cúng lễ về nhà. Việc làm này vừa tốn kém thời gian, tiền của và sức
khỏe. Không ít người không phân biệt được giữa tình cảm tâm linh tôn kính,
biết ơn, nhu cầu bày tỏ và phụng thờ những người có công với sự mê tín. Cứ
tin và làm theo sự chỉ dẫn của một số kẻ buôn thần bán thánh.
Cũng có những người trong đời thường không quan tâm rèn luyện giữ
gìn phẩm chất đạo đức cá nhân, không chú trọng làm điều nhân nghĩa mà ham bói
toán, dâng sớ cầu xin cho mình những điều mà không chỉ thánh thần, mà
bất cứ người nào có lương tri đều không thể chấp nhận được. Lại có người bất
hiếu với cha mẹ, nhân dân, bất tín với bạn bè… chỉ chăm lo đi lễ chùa cầu xin
thăng quan tiến chức, thì chẳng những trái với đạo đức cách mạng mà còn trái
với đạo đức tôn giáo, tín ngưỡng.
Trong các lễ hội cấp làng xã, cũng như cấp quốc gia, hiện tượng mê tín
dị đoan cũng thể hiện khá rõ nét. Những sinh hoạt tâm linh gần gũi với tôn
giáo như ma chay, lễ hội, đình đám, bói toán, tử vi, tướng số… bung ra một
cách tràn lan. Gọi hồn cũng là một biểu hiện của mê tín dị đoan của người
Việt. Có người quan niệm cô hồn là khâu trung gian, là người có khả năng
liên hệ được giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, giữa con người ở cuộc đời
thực và thế giới vô hình, giữa người sống và người chết, giữa địa ngục và trần
gian. Ở các gia đình thường gọi hồn thông qua các thầy cúng, thầy phù thủy
để người nhà đã chết nhập hồn vào người nào đó và nói lên những lời của
người đã chết.
Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm
đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó
còn làm cho chính những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào
chính mình trở nên bạc nhược, thụ động, hèn kém trong cuộc sống. Vấn đề
trên bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau như do nhận thức của một số
cá nhân còn hạn chế, do ảnh hưởng của thói quen, tâm lý lạc hậu, do sự tác
động của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự buông lỏng quản lý, giáo dục
của một số cấp, nghành…
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đang ngày càng bị lợi dụng và hoạt động
mê tín dị đoan. Từ niềm tin mê muội, cuồng nhiệt, viển vông dựa trên sự suy
luận nhảm nhí, bậy bạ đã xuất hiện các hiện tượng gọi hồn, đốt vàng mã, lợi dụng
nhà ngoại cảm, mời thầy cúng bốc bát nhang, cúng giỗ, cầu siêu… trong
các hoạt động thờ cúng tổ tiên. Xu hướng này cũng có chiều hướng gia tăng
trong những năm tới đã và đang ảnh hướng tới đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, đến trật tự an ninh và an toàn xã hội.
Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm
đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó
còn làm cho chính những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào
chính mình trở nên bạc nhược, thụ động.Hình thức thực dụng, phô trương lãng phí
của các hoạt động thờ cúng
tổ tiên.
Hiện tượng đốt vàng mã tràn lan, nhất là dịp lễ tết, ma chay, giỗ chạp.
Vào dịp tháng bảy (âm lịch) hàng năm, người ta sẵn sàng mua nhiều đồ vàng
mã gồm nhiều kiểu đồ dung như: giày dép, quần áo, bát đĩa… và cả những
tiện nghi thời hiện đại: ô tô, xe máy, đô la, tủ lạnh, nhà lầu, xe hơi, máy bay…
Những hàng mã loại này có giá trị rất lớn, nhưng cũng chỉ dùng để đốt đi, gửi
xuống cõi âm, theo như người ta tin là cho người thân mang theo xuống âm
phủ để sử dụng và mong tổ tiên phù hộ cho họ được lại nhiều như thế.
Tương tự như trên, việc sản xuất ra các loại giấy tiền (gọi là tiền âm
phủ) và những tờ giấy màu vàng màu bạc, tượng trưng cho vàng bạc thật để
hóa vàng cho người mất. Hiện nay người ta vẫn chưa thống kê cụ thể chính
xác về mức độ thiệt hại do đốt vàng mã gây nên, đó là một thiệt hại khá lớn
gây lãng phí và ô nhiễm môi trường. Vấn đề này đã trở thành phổ biến, khiến
cho mọi người lo ngại và là sự nhức nhối của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện
tượng đốt vàng mã tràn lan, lãng phí xảy ra hầu như là ở khu vực thành phố.
Không ít người trong cuộc sống quan niệm tiền là cái quyết định tất cả,
không chỉ trong quan hệ kinh tế, xã hội, mà trong đời sống tình cảm do những
lẽ sống của những người này mà có nhiều sai lệch, quan hệ gia đình, mẫu tử,
tình yêu, quan hệ vợ chồng, anh chị em bị đồng tiền làm cho mất giá trị nhân
văn của nó. Thời nay, với niềm tin về thế giới âm hồn vĩnh hằng, không hiếm
những người con khi cha mẹ còn sống thì đối xử vô tâm bội bạc, nhưng khi
chết thì làm đám ma linh đình, xây mồ mả cúng tế hoành tráng, như thể việc
chăm sóc người tốt quan trọng hơn người sống. Hoặc người ta coi việc phụng
thờ âm hồn là hoàn toàn có thể bù đắp, chuộc lỗi cho mọi thiếu hụt, sai sót
của thế giới trần gian.
Việc đề cao ghi nhớ công ơn ông bà tổ tiên trong dòng họ là điều đáng
quý, nên làm. Song cũng chính việc này mà cũng làm nảy sinh những quan
niệm không đúng, những hiện tượng tiêu cực, không ít những người lấy mâm
cao cỗ đầy, lợi dụng chức quyền để biến việc tang lễ, giỗ chạp, mừng thọ của
ông bà cha mẹ thành dịp kinh doanh thu tiền. Tôn kính người đã khuất mang
ý nghĩa đạo đức nhưng đi cùng với nó là những lễ vật quá tốn kém, rườm rà,
bày vẽ. Vì thế mà tùy vào điều kiện giàu nghèo nếu không nó sẽ trở thành
gánh nặng, thành cái cớ vì mục đích khác. Sự phục hồi dòng họ với các loại
hình tín ngưỡng đôi khi dẫn đến những hiện tượng không đúng như xôi thịt
linh đình, tốn thời gian, tiền của công sức.
Giỗ lớn hay bé, cuối cùng cũng chỉ là trước cúng sau cấp. Việc tôn vinh
người sáng nghiệp, nêu gương bậc tiền liệt, đoàn kết sum họp bà con họ hàng,
anh em, giáo dục truyền thống, nêu tiêu chí phấn đấu cho các thành viên gia
tộc, dần dần bị mai một.
Người Việt vốn quan niệm hệ thống mồ mả ứng với thế giới vong hồn
có tác động trực tiếp lên thế giới người còn sống. Người ta tin rằng mọi hiện
tượng vui - buồn, sướng - khổ, phúc - họa nơi trần gian đều có tính hệ quả,
chịu sự chi phối mạnh mẽ từ thế giới âm hồn. Ai chăm sóc tốt phần mộ thì có thể
hưởng lợi, được tổ tiên ông bà phù hộ, ban phúc lộc, nếu không dễ bị
giáng họa… Các khái niệm mộ kết, mộ phát, động mồ động mả… là ví dụ
điển hình của niềm tin tín ngưỡng thể hiện sự ràng buộc sâu sắc giữa dương
gian và cõi âm. Như thế, trong sự cầu cúng tổ tiên, săn sóc mồ mả, bên cạnh
sự tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân là mục đích mưu cầu lợi ích cho bản thân
gia đình người còn sống. Nói cách khác, tính vụ lợi và thực dụng luôn song
hành cùng cái gọi “uống nước nhớ nguồn”, thể hiện tính hai mặt hiện hữu
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mới hiểu tại sao người ta có
thể lao tâm khổ tứ đến vậy với chuyện mồ mả.
Vì thế cho nên xu hướng đua đòi xây mồ mả với quy mô ngày càng lớn
đã dẫn đến diện tích đất canh tác bị thu hẹp dần để nhường chỗ cho diện tích
đất nghĩa trang. Số tiền chi cho đám tang, xây cất mồ mả khá lớn, có gia đình
phải dùng nhiều xe tải để chở vòng hoa, câu đối; cũng có ngôi mộ xây cất cầu
kỳ với kinh phí từ hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng, những ngôi mộ
xây bình thường cũng phải lên tới 5 – 7 triệu đồng. Những hiện tượng đó trở
thành vấn đề nhức nhối, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, lối
sống cần kiệm, giản dị của dân tộc, phá hoại thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng
xấu tới đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Trong những năm tới, xu
hướng này có khả năng phát triển hơn nếu các cấp các nghành buông lỏng
quản lý, thiếu giáo dục về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội.
Một hiện tượng đáng nói hiện nay đó là tổ chức dòng họ, gia tộc đang
có chiều hướng lấn át cộng đồng làng xã (chính quyền dòng họ, chi bộ dòng
họ) theo xu hướng từ xa xưa “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Chính
điều này đã và đang diễn ra một sâu rộng, làm ảnh hưởng đến đời sống của
cộng đồng dân cư, điều này nhiều khi là do lối sống ích kỷ, co cụm, tiểu nông
mà ra.
Một vấn đề đặt ra trong xã hội hiện nay là con gái có được quyền thờ
cúng tổ tiên.
Từ lâu, thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo
đức và nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan trọng trong đời
sống tâm linh của người Việt Nam, đặc biệt là cuộc sống ở các làng quê. Theo
phong tục, con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ chức. Nếu con trai
trưởng không còn thì việc cúng giỗ sẽ do cháu đích tôn tổ chức (khi nào
trưởng nam không có con trai nối dõi thì mới đến con thứ). Con trai có trách
nhiệm thờ cúng cha mẹ và tổ tiên, con gái đi lấy chồng thì phải theo chồng, có
trách nhiệm thờ phụng tổ tiên nhà chồng. Trong thời đại ngày nay, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng của người Việt Nam, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
đã dần dần không còn có sự phân biệt giữa nam và nữ, bởi một lẽ không phải
gia đình nào cũng có con trai và việc thờ cúng không nhất thiết phải giao cho
con trai trưởng (hay cháu đích tôn) đảm nhiệm. Theo quan niệm xưa cũ nhiều
gia đình vẫn mang nặng tư tưởng sinh con trai để nối dõi tông đường, hương
khói tổ tiên. Chuyện giao nhiệm vụ thờ cúng gia tiên cho con trai đã thành
một nếp nghĩ, một thói quen thậm chí như một chuẩn mực văn hóa nhưng đã
lâu đời trong xã hội Việt Nam khi từ mẫu quyền chuyển sang phụ quyền. Sau
khi có chính sách kế hoạch hóa gia đình thì chuyện coi trọng đẻ con trai được
nhiều người chú trọng. Thậm chí có những hành động vi phạm pháp luật như
chọn giới tính hay hủy cả thai khi nó không phải là con trai. Đây là một tập
tính cũ, vi phạm pháp luật không phù hợp với xã hội hiện đại. Vấn đề này dẫn
đến sự bất thường về tỷ lệ giới tính. Các cụ thường hay nói con cái do trời
sinh, mà trời sinh thì phải có nam, có nữ. Thế nhưng, vì chỉ nghĩ đến trọng
nam và khi nam nhiều hơn nữ gây ra sự bất ổn trong xã hội. Nó đã và đang
dẫn tới những phức tạp không chỉ trong chuyện giới tính nữa mà cả trong cả kinh
tế, chính trị và xã hội. Đâu là nguyên do dẫn đến sự bất bình thường đó.
Điều này xuất phát từ quan niệm đàn ông là trụ cột gia đình dẫn đến quan
niệm chỉ có con trai mới làm việc thờ cúng tổ tiên và được phép làm việc đó.
Trong khi có nhiều phụ nữ, từ cổ xưa đến bây giờ họ rất có hiếu với cha mẹ,
tổ tiên. Tất nhiên so sánh thì khập khiễng nhưng không có nghĩa là cái hiếu
của phụ nữ ít hơn nam giới. Do vậy, cần phải coi như thế nào là chuẩn mực
văn hóa, cái chuẩn mực nào là đúng và cần lưu giữ, còn cái chuẩn mực nào
cần phải thay đổi. Đây là tư tưởng phong kiến của chế độ phụ quyền không
còn phù hợp với xã hội hiện đại. Nhưng việc chỉ coi trọng con trai là quan
niệm lâu đời, thậm chí có thời kỳ ghi thành luật trong chế độ phong kiến, tội
lớn nhất trong dân gian là không đẻ được con trai để nối dõi tông đường.
Tư tưởng đó ăn sâu đến cả nghìn năm không dễ xóa bỏ, thay đổi.
Chúng ta đang đổi mới nên bây giờ nhận thức đã khá lên nhiều và chúng ta có
thái độ lạc quan về vấn đề này. Chúng ta không được chùn bước và phải tiếp
tục thay đổi để một ngày nào đó quan niệm cũ bị bỏ đi. Nam có quyền kính
hiếu với ông cha tổ tiên thì nữ cũng vậy. Thậm chí trên cuộc sống nhiều
người nữ đã biết giữ gìn truyền thống tổ tiên. Tóm lại, đây là một quan niệm
cũ, về đúng hay sai thì ta chưa bàn nhưng bây giờ với đời sống hiện đại và
tình hình thực tế thì nữ đã và đang làm rất tốt vai trò thờ cúng tổ tiên. Nhưng
con cái là trời cho, nhiều gia đình sinh con một bề đã “tập huấn” con gái biết
thờ cúng gia tiên. Bởi trước kia, các gia đình thường có cấu trúc tam đại, tứ
đại đồng đường, anh em trai có gia đình nhưng vẫn sống chung với nhau và
sống chung cùng bố mẹ. Mọi cúng giỗ do con trai trưởng của gia đình, dòng
họ đảm trách. Mảnh đất gia đình dòng trưởng sinh sống cũng là mảnh đất của
cha ông để lại. Tính chất đó quy định trách nhiệm cúng giỗ trao cho dòng
trưởng. Ngày nay, hệ thống gia đình hạt nhân, con cái không ở cùng cha mẹ, anh
chị em không sống chung trong một ngôi nhà. Quan niệm ai cúng người
đó được hưởng lộc nên mọi gia đình đều có ban thờ gia tiên. Như vậy, trọng
trách cúng giỗ không còn chỉ là con trai trưởng, trưởng họ, trưởng tộc. Nhu
cầu cúng giỗ tổ tiên là nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình gồm cả nam
và nữ.
Như vậy, qua thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay, có
thể thấy thờ cúng tổ tiên đang được khôi phục và phát triển nhanh từ nông
thôn đến thành thị. Song bên cạnh những giá trị tích cực cần phải giữ gìn và
phát huy ý thức tâm linh để tưởng nhớ công ơn của tổ tiên, giáo dục truyền
thống gia đình cho con cháu, chăm lo lưu giữ, tôn tạo phần mộ, xây dựng tu
sửa nơi thờ tự tổ tiên, phục hồi các nghi lễ truyền thống, không gian thiêng,
thời gian thiêng… Thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ thờ cúng tổ tiên hiện nay
đang có nhiều diễn biến phức tạp, tiêu cực cần phải khắc phục như:
một bộ phận tuyệt đối hóa giá trị tâm linh của thờ cúng tổ tiên nên bị lợi dụng
vào mục đích mê tín gây lãng phí tiền bạc của Nhà nước và nhân dân; đề cao
quan hệ cộng đồng huyết thống, xem nhẹ các quan hệ xã hội khác dẫn đến
dẫn đến cục bộ, hẹp hòi… Đồng thời du nhập một số lễ nghi, lễ vật không
phù hợp ảnh hưởng đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân như: đua
nhau sắm sửa vàng mã trong các dịp lễ, tết; nạn phong bì… làm biến dạng ý
nghĩa nhân văn sâu sắc của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tạo điểu kiện cho tư
tưởng cơ hội, trục lợi, vì mục đích buôn thần bán thánh.
2 Một số giải pháp để phát huy những giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt trong điều kiện ngày nay
Như chúng ta đã thấy thì tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên của người Việt
đang được khôi phục và phát triển nhanh, mang lại những giá trị tích cực như
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện đạo đức truyền thống của người Việt.
Tuy nhiên bên cạnh những giá trị tích cực đó còn tồn tại những biểu
hiện sai lệch về loại hình tín ngưỡng này. Để việc bảo tồn và phát huy những
giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, theo tác giả cần phải quan tâm
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường các biện pháp tổ chức, quản lý hành chính kết hợp
với tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân
Sự tồn tại những hoạt động trong các lễ hội cổ truyền, trong tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là các hoạt động thương mại hóa trong lễ hội là một
hiện tượng không lành mạnh, cần sớm loại bỏ vì nó đã gây ra những hậu quả
nghiêm trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Về phía nhà nước và các cơ quan chức năng phải có sự quản lý giám
sát chặt chẽ các hoạt động tổ chức, kinh doanh trong lễ hội. Muốn vậy cần
phải phân trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, ban ngành tránh hiện tượng
chồng chéo chức năng nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, cũng cần phải giáo dục ý thức của người dân. Vì nếu chỉ
thắt chặt công tác quản lý mà không kết hợp với tuyên truyền giáo dục ý thức
tự giác cho nhân dân thì sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực. Người dân sẽ
không tự giác chấp hành, vì lợi nhuận mà tiếp tục vi phạm: “buôn thần bán
thánh”. Đồng thời du nhập một số lễ nghi, lễ vật không phù hợp ảnh hưởng
đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân như: đua nhau sắm sửa vàng mã
trong các dịp lễ, tết; nạn phong bì… làm biến dạng ý nghĩa nhân văn sâu sắc
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tạo điểu kiện cho tư tưởng cơ hội, trục
lợi. Cần kiên trì giáo dục, hạn chế những yếu tố thiếu lành mạnh, mê tín dị
đoan trong tổ chức tang ma, giỗ chạp, lễ hội như: xem bói, xem quẻ, cúng gọi
hồn…; cần làm cho mọi người thấy rõ những nguy hại của việc lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc và Nhà nước Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý, nghiêm trị những kẻ lợi
dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối
trật tự công cộng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, xây dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa mới muốn tành công phải dựa vào lòng dân, phải “làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động của xã hội, và từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa
học phát triển”
Trên cơ sở đẩy mạnh phong trào thi đua “Toàn dân xây dựng đời sống
văn hóa”, xây dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh là điều kiện
không thể thiếu được và góp phần phát huy những giá trị tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhất là trong nghi lễ
thờ cúng tổ tiên. Môi trường văn hóa – xã hội đầu tiên phải bàn đến là môi
trường gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội là cái nôi con người được sinh
ra và nuôi dưỡng, là môi trường quan trọng hình thành nhân cách, giáo dục
nếp sống, đạo lý cho con người. Giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia
đình truyền thống cho mọi người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, nhằm nâng cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân – gia đình – làng xóm – tổ quốc; giáo dục lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, sự tinh tế trong ứng xử, trong lối sống, cái tiến
bộ trong văn hóa của các dân tộc, đi liền với sự đấu tranh chống cái lạc hậu,
lỗi thời trong phong tục, lề thói cũ.
Để tạo ra môi trường sống lành mạnh ở gia đình và xã hội, trước hết
chúng ta phải chú ý tới các điều kiện tồn tại của gia đình như nhà ở, việc
làm… Đồng thời xây dựng các quan hệ ứng xử sao cho thích hợp với mọi lứa
tuổi, với vai trò và trách nhiệm của mỗi thành viên trong trật tự gia đình: kính
trọng ông bà, nhớ ơn cha mẹ, thương yêu con cháu, anh em họ hàng. Xây
dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh, cần xây dựng nếp sống văn
minh trong cộng đồng làng, xã, phường… thu hẹp khoảng cách giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt cần
sự thực hiện nghiêm túc chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền tự do tín
ngưỡng của công dân, tham gia tích cực xây dựng nếp sống mới lành mạnh,
văn minh trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội, hạn chế và loại bỏ những hủ tục.
Ba là, chăm lo đời sống vật chất, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân
dân.
Để góp phần chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân, trước tiên Đảng
và Nhà nước ta phải đảm bảo việc làm đầy đủ và hợp lý cho người lao động,
cải thiện các điều kiện làm việc cho người lao động. Vì trong chủ nghĩa xã
hội, lao động là quyền xã hội cơ bản của con người, quyết định nguồn thu
nhập và khẳng định giá trị của con người. Cùng với vấn đề việc làm hợp lý thì
quyền được hưởng thụ những thành quả lao động của mình cũng là một mặt
hết sức quan trọng của cuộc sống con người. Con người được đặt vào vị trí
trung tâm của các chương trình kinh tế - xã hội, hay nói cách khác, chính sách
kinh tế của Đảng và Nhà nước hướng vào cải thiện các điều kiện sinh hoạt vật
chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Thực tế những năm qua, chính sách mở cửa của nền kinh tế đã tạo ra
những biến đổi to lớn về đời sống cho nhân dân. Đảng và Nhà nước ta thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức kinh doanh ở nước ta,
xác lập củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản
xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với xóa đói giảm nghèo, để
không diễn ra sự chênh lệch quá đáng về mức sống, về trình độ phát triển giữa
các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền. Chăm lo, nâng cao đời sống vật chất
cho nhân dân là giải pháp cơ bản, lâu dài đòi hỏi sự cố gắng của toàn Đảng,
toàn dân. Bên cạnh chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, đồng thời không
ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đòi hỏi phải không ngừng
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao
động trên tất cả các lĩnh vực, đảm bảo công bằng xã hội. Mục tiêu mà Đảng ta
xác định đó là kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân
chủ, con người phát triển toàn diện. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã - hội. Nâng cao đời sống tinh thần cho nhân
dân trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
| 1/18

Preview text:

1 Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay
Quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ta là vấn đề được Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm và đã trở thành chính sách nhất quán, xuyên suốt. Một
trong những cơ sở của chính sách ấy là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng. Là một nhà chính trị,
một nhà cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc đảm bảo quyền
con người và trong đó có quyền tự do tự do tín ngưỡng với tính đặc thù riêng
của nó. Việc khẳng định quyền tự do tín ngưỡng trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng của người Việt và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân được đề cập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ngưỡng là một nhân tố góp
phần bảo đảm cho sự phát triển và cho sự thành công của cách mạng nước ta.
Đồng thời cũng đảm bảo cho tín ngưỡng được phát triển theo đúng pháp luật.
Quán triệt tư tưởng đó của chủ tịch Hồ chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo vào trong công cuộc đổi mới đất nước.
Được hình thành từ nền kinh tế nông nghiệp trong xã hội phụ quyền xa
xưa, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt tồn tại, biến đổi, và phát triển
cùng với những thăng trầm của lịch sử. Sau 1975, nước ta giành được độc lập
hoàn toàn, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế mà đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội, của người Việt có nhiều thay đổi.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Chúng ta đang phấn đấu phát huy nội lực, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên
ngoài, chú trọng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Với quan điểm đổi mới toàn diện đồng bộ cùng những giải pháp
đúng đắn phù hợp về văn hóa – xã hội đã giúp Việt Nam có những bước tiến
đáng kể. Sự nghiệp kinh tế văn hóa, giáo dục đạt nhiều thành tựu to lớn, trình
độ dân trí được nâng cao…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong xã hội cũng
phát sinh những mặt yếu kém. Mặt trái của cơ chế thị trường như quy luật
cạnh tranh, sự đề cao sức mạnh của đồng tiền, tình trạng phân hóa giàu nghèo,
tệ tham nhũng, quan liêu, chạy theo lợi ích vật chất mà xem nhẹ giá trị đạo
đức văn hóa truyền thống đã tác động xấu đến nhiều lĩnh vực trong xã hội.
Tình hình thế giới cũng có nhiều biến đổi to lớn. Đó là sự tan rã của các
nước Xã hội chủ nghĩa Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi đó là sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng toàn
cầu hóa về kinh tế văn hóa, sự trỗi dậy của các tín ngưỡng tôn giáo truyền
thống, sự phát triến của các tôn giáo mới…
Tất cả những điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa xã hội trên là những
yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay.
Phải khẳng định rằng trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của các tầng lớp nhân dân,
đáp ứng phần nào nhu cầu tâm linh của nhân dân. Các hình thức sinh hoạt văn
hóa truyền thống, như các nghi lễ thờ cúng tổ tiên được khôi phục và phát
triển. Nhằm khai thác kế thừa truyền thống và phát huy những giá trị văn hóa
đã được chung đúc từ hàng nghìn năm nay.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt gắn với đời thường, gắn với
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, được chú trọng nhiều hơn
Xuất phát từ quan niệm “trần sao, âm vậy”, việc thắp hương thờ cúng
tổ tiên đã trở thành quen thuộc, phổ biến trong mỗi gia đình người dân Việt. Thực
hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên ngoài trách nhiệm đạo lý vốn là truyền
thống có hình thức giản dị, không mất nhiều thời gian, lại thiết thực trước là
thờ cúng tổ tiên, sau là con cháu được thụ lộc, con cháu nhớ tổ tiên thì cúng
bái cũng là tỏ lòng hiếu thảo của mình đối với tổ tiên. Vì thế truyền thống này
dễ đời thường hóa trong mọi gia đình, dù nông dân hay trí thức, dù con trưởng
hay con thứ, giàu hay nghèo, trai hay gái…phù hợp với quy luật tình cảm và
bản chất tự nhiên của con người. Do đó, khi làm bất cứ việc gì người ta cũng
thường xuyên thắp hương khấn vái tổ tiên phù hộ như: ốm đau, bệnh tật, sinh
nở, buôn bán, học hành, thi cử, gia đình nề nếp, con cái ngoan ngoãn…
Đời thường hóa không chỉ ở mỗi gia đình mà còn gắn với sinh hoạt văn
hóa cộng đồng. Ở nhiều nơi, đã có việc làm thiết thực, nhiều phong trào quần
chúng như: phát huy đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa, xây
dựng gia đình, làng, xã văn hóa khu dân cư kiểu mẫu”… tưởng niệm các anh
hùng dân tộc như: hội Đền Hùng, hội Đền Gióng…nêu rõ truyền thống đánh
giặc giữ làng, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bước đầu hình thành một số nghi
thức mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội, cải tạo phong tục tập quán lạc hậu
được quần chúng nhân dân hưởng ứng và tham gia tích cực.
Giá trị văn hóa của nghi lễ thờ cúng tổ tiên còn thể hiện ở tư tưởng coi
trọng đạo đức gia đình, trọng tình cảm trên dưới của con người. Điều chỉnh
hành vi cư xử giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc từ đó nhân lên tình
yêu quê hương đất nước, trung thành với cách mạng, với Tổ quốc. Từ chỗ
coi trọng tình cảm huyết thống “chung giọt máu đào”, người Việt nâng
lên thành tình cảm của một cộng đồng dân tộc, cùng chung một bọc “đồng
bào”. Vì thế, mọi người Việt Nam bất kỳ ở đâu cũng thân ái, tin cậy, đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau.
Hơn thế nữa là trong xã hội hiện nay, cơ chế thị trường mở, văn hóa
phương Tây du nhập mạnh mẽ thì nền văn hóa cũng như đạo đức của con
người cũng bị xói mòn dần đi. Chính vì thế cần phát huy giá trị tích cực của
văn hóa truyền thống để giáo dục cho thế hệ trẻ lối sống đạo đức, lành mạnh.
Trong văn hóa truyền thống đấy thì không thể không nói đến tín ngưỡng thờ
cũng tổ tiên của người Việt. Từ những tác động của xã hội và nhu cầu về tâm
linh của con người ngày một tăng lên thì thờ cũng tổ tiên được chú trọng nhiều hơn.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay vận động theo xu hướng phục hồi
lại truyền thống. Những năm qua, đời sống tín ngưỡng tôn giáo trong nhân dân ta
có chiều hướng phát triển rất đa dạng và phức tạp với những biểu hiện vừa tích
cực, vừa tiêu cực. Cái hay, cái dở, cái lành mạnh và không lành mạnh luôn
đan xen nhau. Biểu hiện của mặt tích cực là các cá nhân có xu hướng tự tu
dưỡng, giữ gìn đạo đức, hướng thiện, phục thiện trong hoàn cảnh xã hội nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp, hệ thống các giá trị chuẩn mực đang bị đảo lộn,
đạo đức xã hội xuống cấp… Đó còn là xu hướng quay trở lại gìn giữ những
giá trị tích cực của các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, góp phần làm tăng thêm tình
cảm cộng đồng, khôi phục lại những biểu tượng văn hóa truyền thống, là biểu
hiện của đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành
truyền thống tốt đẹp. Ngày giỗ, ngày tết là ngày anh em xa gần hội tụ, gia
đình đông đủ quay quần bên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ đến công đức của
tổ tiên và công lao của ông bà cha mẹ, mọi người đều như thấy trách nhiệm
của mình phải cố gắng hơn nữa để đền đáp công ơn tổ tiên làm rạng danh
truyền thống gia đình quê hương, đất nước.
Với người Việt hiện nay, việc thờ cúng tổ tiên ở các cấp độ được biểu
hiện như một hoạt động văn hóa mang tính xã hội và giáo dục. Nó được thể
hiện xu hướng chủ đạo trong sự vận động của các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của
người Việt hiện nay. Người tham gia nghi lễ thờ cúng tổ tiên càng có điều
kiện để bình tâm, thư thái, thăm hỏi động viên nhau, chăm lo cho gia đình
dòng họ, làng xã và cao hơn là dân tộc.
Người Việt xưa nay thờ cúng tổ tiên biểu hiện không cốt ở lễ vật nhiều
hay ít mà cốt ở lòng thành, lòng hiếu thảo, biết ơn thành kính. Vì vậy, nó đã
đáp ứng được phần nào nhu cầu tâm lý tinh thần tâm linh của các cá nhân và
cộng đồng người Việt.
Kính hiếu, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ và phấn đấu học tập rèn
luyện để làm rạng rỡ truyền thống gia đình họ tộc, quê hương là một truyền
thống lẽ sống của thế hệ trẻ. Và với thế hệ trẻ hiện nay lòng hiếu thảo đó
không chỉ dừng lại ở việc trở thành con ngoan hiếu thảo mà còn trở thành một
công dân tốt. Chính vì vậy, thế hệ trẻ phải tự học tập, rèn luyện, để nắm bắt
những tri thức mới, dám nghĩ dám làm, dám phá bỏ định kiến, vượt lên những
hạn chế truyền thống để kết hợp những tinh hoa của thời đại với dân tộc. Từ
đó, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, xu hướng tìm
về nguồn cội tổ tiên, là con cháu của một họ tộc đều có trách nhiệm báo đền
ơn nghĩa với ông bà tổ tiên. Nhiều họ đã sửa sang xây lại nhà thờ họ, khôi
phục lại việc họ, tìm và viết lại gia phả, tổ chức ngày giỗ họ. Sự phục hưng,
phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của dòng họ không chỉ tạo niềm
vui, sự phấn khởi, niềm tự hào trong mỗi thành viên trong họ tộc mà còn có ý
nghĩa sâu sắc. Tuy cuộc sống mới có nhiều tác động và làm biến đổi đối với các
nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong dòng họ, nhưng dòng họ vẫn có một vai trò
to lớn trong xã hội hiện nay. Nhu cầu tình cảm huyết thống, tâm linh đã khiến
mọi thành viên trong dòng họ cố gắng sống tốt hơn.
Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dòng họ hiện nay đã có phần giản
đơn, song phần ý thức tâm linh vẫn được đề cao. Qua đây có thể thấy xuất
phát từ những quan niệm đúng đắn, từ mối liên hệ huyết thống sâu nặng trong
gia đình cũng như trong họ tộc, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên đã góp phần làm
phong phú đời sống tinh thần của người Việt. Đó cũng là việc bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống chống lại làn sóng xâm lăng về văn
hóa khi đất nước vận hành cơ chế thị trường.
Bên cạnh những nét đẹp truyền thống được bảo tồn và phát huy, thì
thờ cúng tổ tiên của người Việt trong những năm gần đây còn có những quan
niệm sai lệch, những biểu hiện chưa tốt như các hủ tục cũ theo hướng mê tín.
Xuất phát từ nhu cầu văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tâm linh, mà hiện
nay dòng người hành hương ngày một lớn, địa chỉ hành hương ngày một
rộng, thời gian hành hương ngày một dài nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh.
Trong lễ hội, cái ranh giới giữa tín ngưỡng thành tâm, tự nguyện với sự mê
muội đôi khi rất mỏng manh. Trong gia đình, nhiều người vì quá tin vào sự
tồn tại của tổ tiên, thần thánh nên làm bất cứ việc gì cũng khấn vái gia tiên,
thần thánh. Tự mình khấn vái, cầu xin chưa đủ, chưa yên tâm, họ còn mời
thầy cúng lễ về nhà. Việc làm này vừa tốn kém thời gian, tiền của và sức
khỏe. Không ít người không phân biệt được giữa tình cảm tâm linh tôn kính,
biết ơn, nhu cầu bày tỏ và phụng thờ những người có công với sự mê tín. Cứ
tin và làm theo sự chỉ dẫn của một số kẻ buôn thần bán thánh.
Cũng có những người trong đời thường không quan tâm rèn luyện giữ
gìn phẩm chất đạo đức cá nhân, không chú trọng làm điều nhân nghĩa mà ham bói
toán, dâng sớ cầu xin cho mình những điều mà không chỉ thánh thần, mà
bất cứ người nào có lương tri đều không thể chấp nhận được. Lại có người bất
hiếu với cha mẹ, nhân dân, bất tín với bạn bè… chỉ chăm lo đi lễ chùa cầu xin
thăng quan tiến chức, thì chẳng những trái với đạo đức cách mạng mà còn trái
với đạo đức tôn giáo, tín ngưỡng.
Trong các lễ hội cấp làng xã, cũng như cấp quốc gia, hiện tượng mê tín
dị đoan cũng thể hiện khá rõ nét. Những sinh hoạt tâm linh gần gũi với tôn
giáo như ma chay, lễ hội, đình đám, bói toán, tử vi, tướng số… bung ra một
cách tràn lan. Gọi hồn cũng là một biểu hiện của mê tín dị đoan của người
Việt. Có người quan niệm cô hồn là khâu trung gian, là người có khả năng
liên hệ được giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, giữa con người ở cuộc đời
thực và thế giới vô hình, giữa người sống và người chết, giữa địa ngục và trần
gian. Ở các gia đình thường gọi hồn thông qua các thầy cúng, thầy phù thủy
để người nhà đã chết nhập hồn vào người nào đó và nói lên những lời của người đã chết.
Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm
đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó
còn làm cho chính những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào
chính mình trở nên bạc nhược, thụ động, hèn kém trong cuộc sống. Vấn đề
trên bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau như do nhận thức của một số
cá nhân còn hạn chế, do ảnh hưởng của thói quen, tâm lý lạc hậu, do sự tác
động của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự buông lỏng quản lý, giáo dục
của một số cấp, nghành…
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đang ngày càng bị lợi dụng và hoạt động
mê tín dị đoan. Từ niềm tin mê muội, cuồng nhiệt, viển vông dựa trên sự suy
luận nhảm nhí, bậy bạ đã xuất hiện các hiện tượng gọi hồn, đốt vàng mã, lợi dụng
nhà ngoại cảm, mời thầy cúng bốc bát nhang, cúng giỗ, cầu siêu… trong
các hoạt động thờ cúng tổ tiên. Xu hướng này cũng có chiều hướng gia tăng
trong những năm tới đã và đang ảnh hướng tới đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, đến trật tự an ninh và an toàn xã hội.
Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm
đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó
còn làm cho chính những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào
chính mình trở nên bạc nhược, thụ động.Hình thức thực dụng, phô trương lãng phí
của các hoạt động thờ cúng tổ tiên.
Hiện tượng đốt vàng mã tràn lan, nhất là dịp lễ tết, ma chay, giỗ chạp.
Vào dịp tháng bảy (âm lịch) hàng năm, người ta sẵn sàng mua nhiều đồ vàng
mã gồm nhiều kiểu đồ dung như: giày dép, quần áo, bát đĩa… và cả những
tiện nghi thời hiện đại: ô tô, xe máy, đô la, tủ lạnh, nhà lầu, xe hơi, máy bay…
Những hàng mã loại này có giá trị rất lớn, nhưng cũng chỉ dùng để đốt đi, gửi
xuống cõi âm, theo như người ta tin là cho người thân mang theo xuống âm
phủ để sử dụng và mong tổ tiên phù hộ cho họ được lại nhiều như thế.
Tương tự như trên, việc sản xuất ra các loại giấy tiền (gọi là tiền âm
phủ) và những tờ giấy màu vàng màu bạc, tượng trưng cho vàng bạc thật để
hóa vàng cho người mất. Hiện nay người ta vẫn chưa thống kê cụ thể chính
xác về mức độ thiệt hại do đốt vàng mã gây nên, đó là một thiệt hại khá lớn
gây lãng phí và ô nhiễm môi trường. Vấn đề này đã trở thành phổ biến, khiến
cho mọi người lo ngại và là sự nhức nhối của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện
tượng đốt vàng mã tràn lan, lãng phí xảy ra hầu như là ở khu vực thành phố.
Không ít người trong cuộc sống quan niệm tiền là cái quyết định tất cả,
không chỉ trong quan hệ kinh tế, xã hội, mà trong đời sống tình cảm do những
lẽ sống của những người này mà có nhiều sai lệch, quan hệ gia đình, mẫu tử,
tình yêu, quan hệ vợ chồng, anh chị em bị đồng tiền làm cho mất giá trị nhân
văn của nó. Thời nay, với niềm tin về thế giới âm hồn vĩnh hằng, không hiếm
những người con khi cha mẹ còn sống thì đối xử vô tâm bội bạc, nhưng khi
chết thì làm đám ma linh đình, xây mồ mả cúng tế hoành tráng, như thể việc
chăm sóc người tốt quan trọng hơn người sống. Hoặc người ta coi việc phụng
thờ âm hồn là hoàn toàn có thể bù đắp, chuộc lỗi cho mọi thiếu hụt, sai sót
của thế giới trần gian.
Việc đề cao ghi nhớ công ơn ông bà tổ tiên trong dòng họ là điều đáng
quý, nên làm. Song cũng chính việc này mà cũng làm nảy sinh những quan
niệm không đúng, những hiện tượng tiêu cực, không ít những người lấy mâm
cao cỗ đầy, lợi dụng chức quyền để biến việc tang lễ, giỗ chạp, mừng thọ của
ông bà cha mẹ thành dịp kinh doanh thu tiền. Tôn kính người đã khuất mang
ý nghĩa đạo đức nhưng đi cùng với nó là những lễ vật quá tốn kém, rườm rà,
bày vẽ. Vì thế mà tùy vào điều kiện giàu nghèo nếu không nó sẽ trở thành
gánh nặng, thành cái cớ vì mục đích khác. Sự phục hồi dòng họ với các loại
hình tín ngưỡng đôi khi dẫn đến những hiện tượng không đúng như xôi thịt
linh đình, tốn thời gian, tiền của công sức.
Giỗ lớn hay bé, cuối cùng cũng chỉ là trước cúng sau cấp. Việc tôn vinh
người sáng nghiệp, nêu gương bậc tiền liệt, đoàn kết sum họp bà con họ hàng,
anh em, giáo dục truyền thống, nêu tiêu chí phấn đấu cho các thành viên gia
tộc, dần dần bị mai một.
Người Việt vốn quan niệm hệ thống mồ mả ứng với thế giới vong hồn
có tác động trực tiếp lên thế giới người còn sống. Người ta tin rằng mọi hiện
tượng vui - buồn, sướng - khổ, phúc - họa nơi trần gian đều có tính hệ quả,
chịu sự chi phối mạnh mẽ từ thế giới âm hồn. Ai chăm sóc tốt phần mộ thì có thể
hưởng lợi, được tổ tiên ông bà phù hộ, ban phúc lộc, nếu không dễ bị
giáng họa… Các khái niệm mộ kết, mộ phát, động mồ động mả… là ví dụ
điển hình của niềm tin tín ngưỡng thể hiện sự ràng buộc sâu sắc giữa dương
gian và cõi âm. Như thế, trong sự cầu cúng tổ tiên, săn sóc mồ mả, bên cạnh
sự tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân là mục đích mưu cầu lợi ích cho bản thân
gia đình người còn sống. Nói cách khác, tính vụ lợi và thực dụng luôn song
hành cùng cái gọi “uống nước nhớ nguồn”, thể hiện tính hai mặt hiện hữu
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mới hiểu tại sao người ta có
thể lao tâm khổ tứ đến vậy với chuyện mồ mả.
Vì thế cho nên xu hướng đua đòi xây mồ mả với quy mô ngày càng lớn
đã dẫn đến diện tích đất canh tác bị thu hẹp dần để nhường chỗ cho diện tích
đất nghĩa trang. Số tiền chi cho đám tang, xây cất mồ mả khá lớn, có gia đình
phải dùng nhiều xe tải để chở vòng hoa, câu đối; cũng có ngôi mộ xây cất cầu
kỳ với kinh phí từ hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng, những ngôi mộ
xây bình thường cũng phải lên tới 5 – 7 triệu đồng. Những hiện tượng đó trở
thành vấn đề nhức nhối, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, lối
sống cần kiệm, giản dị của dân tộc, phá hoại thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng
xấu tới đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Trong những năm tới, xu
hướng này có khả năng phát triển hơn nếu các cấp các nghành buông lỏng
quản lý, thiếu giáo dục về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Một hiện tượng đáng nói hiện nay đó là tổ chức dòng họ, gia tộc đang
có chiều hướng lấn át cộng đồng làng xã (chính quyền dòng họ, chi bộ dòng
họ) theo xu hướng từ xa xưa “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Chính
điều này đã và đang diễn ra một sâu rộng, làm ảnh hưởng đến đời sống của
cộng đồng dân cư, điều này nhiều khi là do lối sống ích kỷ, co cụm, tiểu nông mà ra.
Một vấn đề đặt ra trong xã hội hiện nay là con gái có được quyền thờ cúng tổ tiên.
Từ lâu, thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo
đức và nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan trọng trong đời
sống tâm linh của người Việt Nam, đặc biệt là cuộc sống ở các làng quê. Theo
phong tục, con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ chức. Nếu con trai
trưởng không còn thì việc cúng giỗ sẽ do cháu đích tôn tổ chức (khi nào
trưởng nam không có con trai nối dõi thì mới đến con thứ). Con trai có trách
nhiệm thờ cúng cha mẹ và tổ tiên, con gái đi lấy chồng thì phải theo chồng, có
trách nhiệm thờ phụng tổ tiên nhà chồng. Trong thời đại ngày nay, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng của người Việt Nam, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
đã dần dần không còn có sự phân biệt giữa nam và nữ, bởi một lẽ không phải
gia đình nào cũng có con trai và việc thờ cúng không nhất thiết phải giao cho
con trai trưởng (hay cháu đích tôn) đảm nhiệm. Theo quan niệm xưa cũ nhiều
gia đình vẫn mang nặng tư tưởng sinh con trai để nối dõi tông đường, hương
khói tổ tiên. Chuyện giao nhiệm vụ thờ cúng gia tiên cho con trai đã thành
một nếp nghĩ, một thói quen thậm chí như một chuẩn mực văn hóa nhưng đã
lâu đời trong xã hội Việt Nam khi từ mẫu quyền chuyển sang phụ quyền. Sau
khi có chính sách kế hoạch hóa gia đình thì chuyện coi trọng đẻ con trai được
nhiều người chú trọng. Thậm chí có những hành động vi phạm pháp luật như
chọn giới tính hay hủy cả thai khi nó không phải là con trai. Đây là một tập
tính cũ, vi phạm pháp luật không phù hợp với xã hội hiện đại. Vấn đề này dẫn
đến sự bất thường về tỷ lệ giới tính. Các cụ thường hay nói con cái do trời
sinh, mà trời sinh thì phải có nam, có nữ. Thế nhưng, vì chỉ nghĩ đến trọng
nam và khi nam nhiều hơn nữ gây ra sự bất ổn trong xã hội. Nó đã và đang
dẫn tới những phức tạp không chỉ trong chuyện giới tính nữa mà cả trong cả kinh
tế, chính trị và xã hội. Đâu là nguyên do dẫn đến sự bất bình thường đó.
Điều này xuất phát từ quan niệm đàn ông là trụ cột gia đình dẫn đến quan
niệm chỉ có con trai mới làm việc thờ cúng tổ tiên và được phép làm việc đó.
Trong khi có nhiều phụ nữ, từ cổ xưa đến bây giờ họ rất có hiếu với cha mẹ,
tổ tiên. Tất nhiên so sánh thì khập khiễng nhưng không có nghĩa là cái hiếu
của phụ nữ ít hơn nam giới. Do vậy, cần phải coi như thế nào là chuẩn mực
văn hóa, cái chuẩn mực nào là đúng và cần lưu giữ, còn cái chuẩn mực nào
cần phải thay đổi. Đây là tư tưởng phong kiến của chế độ phụ quyền không
còn phù hợp với xã hội hiện đại. Nhưng việc chỉ coi trọng con trai là quan
niệm lâu đời, thậm chí có thời kỳ ghi thành luật trong chế độ phong kiến, tội
lớn nhất trong dân gian là không đẻ được con trai để nối dõi tông đường.
Tư tưởng đó ăn sâu đến cả nghìn năm không dễ xóa bỏ, thay đổi.
Chúng ta đang đổi mới nên bây giờ nhận thức đã khá lên nhiều và chúng ta có
thái độ lạc quan về vấn đề này. Chúng ta không được chùn bước và phải tiếp
tục thay đổi để một ngày nào đó quan niệm cũ bị bỏ đi. Nam có quyền kính
hiếu với ông cha tổ tiên thì nữ cũng vậy. Thậm chí trên cuộc sống nhiều
người nữ đã biết giữ gìn truyền thống tổ tiên. Tóm lại, đây là một quan niệm
cũ, về đúng hay sai thì ta chưa bàn nhưng bây giờ với đời sống hiện đại và
tình hình thực tế thì nữ đã và đang làm rất tốt vai trò thờ cúng tổ tiên. Nhưng
con cái là trời cho, nhiều gia đình sinh con một bề đã “tập huấn” con gái biết
thờ cúng gia tiên. Bởi trước kia, các gia đình thường có cấu trúc tam đại, tứ
đại đồng đường, anh em trai có gia đình nhưng vẫn sống chung với nhau và
sống chung cùng bố mẹ. Mọi cúng giỗ do con trai trưởng của gia đình, dòng
họ đảm trách. Mảnh đất gia đình dòng trưởng sinh sống cũng là mảnh đất của
cha ông để lại. Tính chất đó quy định trách nhiệm cúng giỗ trao cho dòng
trưởng. Ngày nay, hệ thống gia đình hạt nhân, con cái không ở cùng cha mẹ, anh
chị em không sống chung trong một ngôi nhà. Quan niệm ai cúng người
đó được hưởng lộc nên mọi gia đình đều có ban thờ gia tiên. Như vậy, trọng
trách cúng giỗ không còn chỉ là con trai trưởng, trưởng họ, trưởng tộc. Nhu
cầu cúng giỗ tổ tiên là nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình gồm cả nam và nữ.
Như vậy, qua thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay, có
thể thấy thờ cúng tổ tiên đang được khôi phục và phát triển nhanh từ nông
thôn đến thành thị. Song bên cạnh những giá trị tích cực cần phải giữ gìn và
phát huy ý thức tâm linh để tưởng nhớ công ơn của tổ tiên, giáo dục truyền
thống gia đình cho con cháu, chăm lo lưu giữ, tôn tạo phần mộ, xây dựng tu
sửa nơi thờ tự tổ tiên, phục hồi các nghi lễ truyền thống, không gian thiêng,
thời gian thiêng… Thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ thờ cúng tổ tiên hiện nay
đang có nhiều diễn biến phức tạp, tiêu cực cần phải khắc phục như:
một bộ phận tuyệt đối hóa giá trị tâm linh của thờ cúng tổ tiên nên bị lợi dụng
vào mục đích mê tín gây lãng phí tiền bạc của Nhà nước và nhân dân; đề cao
quan hệ cộng đồng huyết thống, xem nhẹ các quan hệ xã hội khác dẫn đến
dẫn đến cục bộ, hẹp hòi… Đồng thời du nhập một số lễ nghi, lễ vật không
phù hợp ảnh hưởng đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân như: đua
nhau sắm sửa vàng mã trong các dịp lễ, tết; nạn phong bì… làm biến dạng ý
nghĩa nhân văn sâu sắc của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tạo điểu kiện cho tư
tưởng cơ hội, trục lợi, vì mục đích buôn thần bán thánh.
2 Một số giải pháp để phát huy những giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt trong điều kiện ngày nay
Như chúng ta đã thấy thì tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên của người Việt
đang được khôi phục và phát triển nhanh, mang lại những giá trị tích cực như
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện đạo đức truyền thống của người Việt.
Tuy nhiên bên cạnh những giá trị tích cực đó còn tồn tại những biểu
hiện sai lệch về loại hình tín ngưỡng này. Để việc bảo tồn và phát huy những
giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, theo tác giả cần phải quan tâm
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường các biện pháp tổ chức, quản lý hành chính kết hợp
với tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân
Sự tồn tại những hoạt động trong các lễ hội cổ truyền, trong tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là các hoạt động thương mại hóa trong lễ hội là một
hiện tượng không lành mạnh, cần sớm loại bỏ vì nó đã gây ra những hậu quả
nghiêm trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Về phía nhà nước và các cơ quan chức năng phải có sự quản lý giám
sát chặt chẽ các hoạt động tổ chức, kinh doanh trong lễ hội. Muốn vậy cần
phải phân trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, ban ngành tránh hiện tượng
chồng chéo chức năng nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, cũng cần phải giáo dục ý thức của người dân. Vì nếu chỉ
thắt chặt công tác quản lý mà không kết hợp với tuyên truyền giáo dục ý thức
tự giác cho nhân dân thì sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực. Người dân sẽ
không tự giác chấp hành, vì lợi nhuận mà tiếp tục vi phạm: “buôn thần bán
thánh”. Đồng thời du nhập một số lễ nghi, lễ vật không phù hợp ảnh hưởng
đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân như: đua nhau sắm sửa vàng mã
trong các dịp lễ, tết; nạn phong bì… làm biến dạng ý nghĩa nhân văn sâu sắc
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tạo điểu kiện cho tư tưởng cơ hội, trục
lợi. Cần kiên trì giáo dục, hạn chế những yếu tố thiếu lành mạnh, mê tín dị
đoan trong tổ chức tang ma, giỗ chạp, lễ hội như: xem bói, xem quẻ, cúng gọi
hồn…; cần làm cho mọi người thấy rõ những nguy hại của việc lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc và Nhà nước Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý, nghiêm trị những kẻ lợi
dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối
trật tự công cộng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, xây dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa mới muốn tành công phải dựa vào lòng dân, phải “làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động của xã hội, và từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển”
Trên cơ sở đẩy mạnh phong trào thi đua “Toàn dân xây dựng đời sống
văn hóa”, xây dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh là điều kiện
không thể thiếu được và góp phần phát huy những giá trị tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhất là trong nghi lễ
thờ cúng tổ tiên. Môi trường văn hóa – xã hội đầu tiên phải bàn đến là môi
trường gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội là cái nôi con người được sinh
ra và nuôi dưỡng, là môi trường quan trọng hình thành nhân cách, giáo dục
nếp sống, đạo lý cho con người. Giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia
đình truyền thống cho mọi người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, nhằm nâng cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân – gia đình – làng xóm – tổ quốc; giáo dục lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, sự tinh tế trong ứng xử, trong lối sống, cái tiến
bộ trong văn hóa của các dân tộc, đi liền với sự đấu tranh chống cái lạc hậu,
lỗi thời trong phong tục, lề thói cũ.
Để tạo ra môi trường sống lành mạnh ở gia đình và xã hội, trước hết
chúng ta phải chú ý tới các điều kiện tồn tại của gia đình như nhà ở, việc
làm… Đồng thời xây dựng các quan hệ ứng xử sao cho thích hợp với mọi lứa
tuổi, với vai trò và trách nhiệm của mỗi thành viên trong trật tự gia đình: kính
trọng ông bà, nhớ ơn cha mẹ, thương yêu con cháu, anh em họ hàng. Xây
dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh, cần xây dựng nếp sống văn
minh trong cộng đồng làng, xã, phường… thu hẹp khoảng cách giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt cần
sự thực hiện nghiêm túc chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền tự do tín
ngưỡng của công dân, tham gia tích cực xây dựng nếp sống mới lành mạnh,
văn minh trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội, hạn chế và loại bỏ những hủ tục.
Ba là, chăm lo đời sống vật chất, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân.
Để góp phần chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân, trước tiên Đảng
và Nhà nước ta phải đảm bảo việc làm đầy đủ và hợp lý cho người lao động,
cải thiện các điều kiện làm việc cho người lao động. Vì trong chủ nghĩa xã
hội, lao động là quyền xã hội cơ bản của con người, quyết định nguồn thu
nhập và khẳng định giá trị của con người. Cùng với vấn đề việc làm hợp lý thì
quyền được hưởng thụ những thành quả lao động của mình cũng là một mặt
hết sức quan trọng của cuộc sống con người. Con người được đặt vào vị trí
trung tâm của các chương trình kinh tế - xã hội, hay nói cách khác, chính sách
kinh tế của Đảng và Nhà nước hướng vào cải thiện các điều kiện sinh hoạt vật
chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Thực tế những năm qua, chính sách mở cửa của nền kinh tế đã tạo ra
những biến đổi to lớn về đời sống cho nhân dân. Đảng và Nhà nước ta thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức kinh doanh ở nước ta,
xác lập củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản
xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với xóa đói giảm nghèo, để
không diễn ra sự chênh lệch quá đáng về mức sống, về trình độ phát triển giữa
các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền. Chăm lo, nâng cao đời sống vật chất
cho nhân dân là giải pháp cơ bản, lâu dài đòi hỏi sự cố gắng của toàn Đảng,
toàn dân. Bên cạnh chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, đồng thời không
ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đòi hỏi phải không ngừng
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao
động trên tất cả các lĩnh vực, đảm bảo công bằng xã hội. Mục tiêu mà Đảng ta
xác định đó là kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân
chủ, con người phát triển toàn diện. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã - hội. Nâng cao đời sống tinh thần cho nhân
dân trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.