







Preview text:
1. Nguồn gốc
1.1. “Tứ bất tử” nghĩa là gì? Tại sao lại là Tứ?
- Tứ bất tử là những vị thánh không bao giờ chết.
( Trong văn hóa Việt Nam những giá trị vật
chất, tinh thần đều bắt nguồn bằng bộ Tứ, ví dụ: một năm có bốn mùa
Xuân – Hạ – Thu – Đông, hay Tứ trấn, An Nam tứ đại tài…Bởi vì, trong
tư duy của người Việt, bốn (tứ) là một hằng số mang tính ước lệ và có tính khái
quát về một phạm trù nào đó. Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của
một tập hợp là chọn lấy những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại. )
- Tứ bất tử gồm bốn vị thánh
- Các vị thánh này không thuộc sắc phong của một triều đại nào mà được chính
người dân Việt Nam cổ lựa chọn, được xuất hiện và định nghĩa lần đâu tiên
trong cuốn “Dư địa chí” gồm 4 vị thánh như sau: - Tản Viên Sơn Thánh
- Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng) - Chử Đồng Tử - Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Ba vị đầu có từ thời Hùng Vương, vị sau đến thời Hậu Lê mới xuất hiện (ảnh) 2. Thánh Tản Viên
2.1. Đức Thánh Tản Viên là ai?
- Tản Viên Sơn Thánh, còn gọi là Sơn Tinh, là một nhân vật trong truyền thuyết
Việt Nam, theo quan niệm dân gian là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (tức núi Tản Viên). 2.2. Nguồn gốc
Có ba quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này:
Các học giả thời phong kiến cho Tản Viên là “…hạo khí anh linh của trời đất
sinh ra”, hoặc cho “Tản Viên là một trong 50
người con theo cha xuống biển của Lạc Long Quân, Âu Cơ”.
Theo quan niệm trong dân gian thì Thánh Tản
Viên lại là người có thực, xuất thân từ tầng lớp
nghèo khổ trong dân chúng. Khi đó, Ngài vốn là
một nông dân dũng cảm, nhân hậu, thiên phú
hùng tài, trở thành Sơn thần, thủ lĩnh của muôn
loài, Sơn Tinh, thường dạy dân làm ruộng, săn
bắn, kéo vó, luyện võ và mở hội.
Bên cạnh đó, cũng tồn tại quan điểm ít phổ biến: Tản Viên Sơn Thánh là ba
anh em. Theo đó, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi
hay còn được gọi là Tam Vị Đại Vương Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần gồm
Sơn Tinh, Cao Sơn và Quý Minh. ( Hiện ba đền Thượng, Trung, Hạ tại Ba Vì
đang thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh. )
2.3. Đức Tản Viên Sơn Thánh - Tứ bất tử Việt Nam
- Ngài là vị thánh anh linh, tiêu biểu cho
người anh hùng dân tộc chống ngoại xâm
cùng nhân dân khống chế thiên tai, lũ lụt,
được nhân dân tôn kính phụng thờ liệt vào
hàng các vị thần Việt Nam bất tử trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt.
- Trong tín ngưỡng Tứ phủ, Đức Tản Viên
Sơn Thánh cũng được đưa vào hệ thống
thần linh Tứ phủ thuộc hàng vị ngôi cao – Đức Vua Cha Nhạc Phủ miền rừng
núi với màu xanh đại diện. Công lao to lớn nhất của Đức Thánh Tản phải kể đến
việc ngài cùng với Vua Cha Bát Hải Vĩnh Công Đại Vương phối hợp cùng đánh
tan giặc ngoại xâm khỏi bờ cõi Văn Lang. 2.4. Địa điểm thờ tự
- Đền Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ chính là
nơi đầu tiên thờ thánh Tản Viên.
- Các ngôi đền trên núi Ba Vì: Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ cũng thờ
Đức Thánh Tản Viên.
Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở
Ba Vì có từ rất lâu. Khoảng 250 năm trước
Công Nguyên, An Dương Vương cho lập
đền thờ đức Thánh trên núi Tản Viên, gọi là
Đền Thượng. ( Cứ ba năm một lần, vào 15
tháng giêng âm lịch, tại đây diễn ra lễ hội
lớn, với hàng vạn người tham dự.)
- Vào ngày hội lễ, nhà Vua hoặc tự thân
hoặc cử đại quan tới dâng hương. Còn ngày
nay, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và
Chính phủ cũng thường tới dự lễ tại đền chính trên núi Ba Vì, Hà Nội.
Đền Và, ở Trung Hưng, Sơn Tây, Hà Nội.
- Đền Hải Đức (Khánh Cường, Yên Khánh); chùa Lỗi Sơn (Gia Phong, Gia
Viễn); đền Kê Thượng, đền Miếu Sơn (Ninh Vân, Hoa Lư) và đền Đông
Thịnh (Bích Đào, Thành phố Ninh Bình). 3. Chử Đồng Tử
3.1. Chử Đồng Tử là ai?
- Là một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng, sống ở
thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng năm 300 TCN, thời Hùng Duệ Vương).
- Thời xưa, ở làng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Văn và Chử Đồng Tử, nhà
nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố. Người cha chết, dặn con cứ lấy khố
mà dùng nhưng Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn.
- Thuở ấy, Tiên Dung là con gái giai nhân tuyệt sắc của vua Hùng thứ 18. Một
hôm thuyền rồng của Tiên Dung đến thăm vùng Chử Xá. Nghe tiếng chuông
trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ
vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai
người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử.
Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Gặp Chử Đồng Tử, biết
được nguyên cớ, Tiên Dung quyết định kết duyên cùng chàng.
- Hùng vương nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung.
Làm ăn đã khấm khá, Tiên Dung để Đồng Tử đi ra biển tìm vật lạ đem về đổi lấy những thứ khác.
- Trên đường ra biển, Đồng Tử gặp được một nhà sư tên là Phật Quang và được
nhà sư truyền phép cho. Đồng Tử ở luôn lại để theo học rồi được Phật Quang
cho một cây gậy và chiếc nón có phép lạ khi xuống núi. Sau đó, Đồng Tử và
Tiên Dung rời bỏ xóm làng tìm nơi vắng vẻ để ở. Nhờ chiếc nón và cây gậy thần,
họ có được một cung điện lộng lẫy, với cả binh lính.
- Vua biết tin, cho rằng họ làm loạn, bèn sai quân đến đánh. Quân lính đến nơi
thì cả cung điện cùng Đồng Tử và Tiên Dung đã bay lên trời, chỉ còn lại bãi đất
không giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự Nhiên, còn đầm ấy là đầm Nhất Dạ.
Thấy sự kì lạ, nhân dân lập đền thờ ngay trên bãi. 3.2. Địa điểm thờ tự
Đình Chử Đồng Tử (Chử Xá, Văn Đức, Gia Lâm, Thành phố Hà Nội)
Đền Dạ Trạch (thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên)
Đền Chính Đa Hòa (thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) 3.3. Lễ hội
Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung (Chử Xá, Gia Lâm, Hà Nội)
Đây là lễ hội gắn với thiên tình sử và những huyền tích của một trong "Tứ bất tử" theo tâm thức dân gian.
Lễ hội Đa Hòa - Dạ Trạch
- Là lễ hội cầu tình yêu được tổ chức ở hai ngôi đền là đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền Hóa (xã
Dạ Trạch) cùng huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. (ảnh) 4. Phù Đổng Thiên Vương
4.1. Phù Đổng Thiên Vương là ai?
- Thánh Gióng hiệu là Phù Đổng Thiên Vương hay Sóc Thiên vương, là một
nhân vật trong truyền thuyết Việt Nam, một trong bốn vị thánh mà người Việt
gọi là Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ông được xem là tượng
trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. 4.2. Nguồn gốc
- Truyện Thánh Gióng là một câu chuyện nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ của
người Việt, hầu như bất cứ người Việt nào, từ già đến trẻ, đều biết tới câu
chuyện về Thánh Gióng đánh giặc Ân, giữ vững bờ cõi của đất Việt. Có thể nói
rằng, câu chuyện đó mang trong mình hồn cốt của dân tộc Việt, được người
Việt kế thừa, giữ gìn, truyền cho con cháu từ đời này qua đời khác.
4.3. Những di tích ở Phù Đổng có liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng
- Đền thượng: Đền thờ thánh Gióng. Theo truyền thuyết, đền đã có từ thời Hùng
Vương và được xây dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI,
Lý Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng.
- Đền Hạ: đền nằm ngoài đê, ở phía đông đền Thượng. Đền là nơi thờ mẹ Gióng,
cũng gọi là Thánh Mẫu. Trước kia, được thờ chung với Thánh Gióng ở Đền Thượng.
- Miếu Ban: Ở phía Tây đền Thượng, tên chữ là Dục Linh Từ. Miếu thờ Thánh Mẫu.
- Giá Ngự: Ở đây có hai cột trụ và một bệ xây vào đầu thế kỷ XX. Vào ngày hội
Đền, dân làng kéo ngựa thờ, gọi là ông giá từ đền Thượng đến đây trông ra khu soi bia cạnh Đền Hạ
- Mộ Trần Đô Thống: Mộ ở xóm Vận Hang, trước đền Thượng. Tục truyền Đô
Thống là một tướng của Thánh Gióng, người Phù Dực cầm đạo tiên phong
trong đoàn quân chống giặc Ân. Mộ được xây dựng bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.
4.4. Lễ hội đền Gióng tại Sóc Sơn
- Để tưởng nhớ công đức của Ngài Gióng, tại chân núi Sóc, nơi Thánh Gióng
dừng ngựa trước khi bay về trời, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và mở hội
hàng năm từ ngày mồng 6 đến ngày mồng 8 tháng giêng Âm lịch.
- Quần thể khu di tích đền Sóc, thuộc thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn,
Hà Nội. bao gồm 6 công trình: đền Hạ (tức đền Trình), chùa Đại Bi, đền Mẫu,
đền Thượng (tức đền Sóc), tượng đài Thánh Gióng và nhà bia. Trong đó, đền
Thượng là nơi thờ Thánh Gióng và tổ chức lễ hội với đầy đủ các nghi lễ truyền
thống như: lễ mộc dục; lễ rước; lễ dâng hương; lễ hóa voi và ngựa…
- Hội Gióng đền Sóc Sơn là một lễ hội lớn hàng năm với sự tham gia của nhiều
làng lân cận trong vùng và được người dân chuẩn bị từ rất sớm. 5. Bà Chúa Liễu Hạnh 5.1. Bà Chúa Liễu Hạnh
- Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã
được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp
nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", "Chế Thắng
Bảo Hòa Diệu Đại Vương” và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi
thành đạo là Mã Vàng Bồ Tát.
- Bà chính là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu.
Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà. 5.2. Nguồn gốc
5.2.1. Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ nhất:
Truyền thuyết kể rằng lần đầu tiên Thánh Mẫu Liễu Hạnh sinh ra là con gái của
một cặp vợ chồng già người Nam Định, một cặp vợ chồng luôn sống khiêm
nhường và làm việc thiện, nhưng họ vẫn không có con trong hơn 40 năm. Vào
ngày rằm tháng hai năm ấy, vợ chồng ông được báo mộng rằng Ngọc Hoàng cho
người con gái thứ hai của mình đầu thai làm con của nhà này. Sau đó, người phụ
nữ sinh một cô con gái vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu.
5.2.2. Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ hai:
Công chúa Liễu Hạnh sinh lần thứ hai là con gái của Lê Thái Công, bà Trần Thị
Phúc, cũng quê ở Nam Định và được đặt tên là Lê Giang Tiên.
Lần này Thánh Mẫu Liễu Hạnh lấy Tiên sinh là Trần Đạo Lang, sinh được một
trai một gái tên là Nhân, Hoa. Nhưng đến năm 21 tuổi (Đinh Sửu 1577) thì bà
đột ngột qua đời, tuy không bệnh tật gì.
5.2.3. Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ ba:
Dân gian cho rằng vì kiếp trước chưa trọn vẹn, còn nghĩa cũ nên vào năm Canh
Dần (1650) bà đã hạ thế tại làng Tây Mỗ, Thanh Hóa. Ngày 10 tháng 10, bà kết
duyên cùng Tiên sinh Mai Thanh Lâm (vốn là ông Trần Đào Lang chuyển kiếp).
Thời gian này, trong lúc thiên hạ loạn lạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, đời sống
nhân dân cơ cực nên Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã đi khắp nơi cứu dân trừng trị kẻ
ác. Đó là lý do tại sao người ta xây dựng một ngôi đền ở vùng quê này.
5.3. Địa điểm thờ tụng
- Đền Thánh Mẫu Liễu Hạnh(Quảng Bình)
Dưới chân đèo Ngang có một ngôi miếu nhỏ nằm ven đường cái thờ công chúa
Liễu Hạnh. Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh bên dãy Hoành Sơn là di tích về sự
giáng thế của bà vào năm đó. Tổng diện tích đền khoảng 350 m², hướng mặt ra
biển và phía sau là vùng Hoành Sơn. Từ ngoài vào trong có cổng đền, đến bức
bình phong, tam quan, trụ lân và cuối cùng là đền Đường, đền Hậu.
- Phủ Tây Hồ ( Hà Nội )
Phủ Dầy (hay Phủ Giầy hay Phủ Giày) là một quần thể di tích tâm linh đạo Mẫu
nằm ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Chùa được xây dựng vào
năm Cảnh Trì nhà Lê (1663-1671).
Lễ giỗ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Lễ giỗ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh diễn ra vào ngày mồng 3 tháng 3 Âm lịch
hàng năm. Vào ngày này, các đền phủ trên khắp cả nước đều tổ chức lễ hội.
Nhân dân làm lễ để tỏ lòng biết ơn với Thánh Mẫu và cầu mong sự may mắn,
bình an đến với gia đình mình.
Lễ Hầu đồng – Tín ngưỡng thờ Mẫu
Nghi lễ Hầu Đồng trong lễ hội giỗ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một nghi lễ quan
trọng của tín ngưỡng thờ Mẫu. Hầu đồng vốn là một hình thức kết hợp hát chầu
văn và diễn xướng dân gian để đưa cậu đồng/ cô đồng vào trạng thái thoát tục và
giao tiếp với thần thánh. Thần linh giáng thế vào họ và giao tiếp với những cung
văn hầu để truyền đạt những ý niệm riêng hay là dịp để ban phước, ban lộc cho người dự lễ.
Document Outline
- -Các ngôi đền trên núi Ba Vì: Đền Thượng, Đền Trung
- Đền Và, ở Trung Hưng, Sơn Tây, Hà Nội.
- 5.2.1.Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ nhất:
- 5.2.2.Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế lần thứ hai: