

Preview text:
Hai là, tính chất phức tạp của lao động.
Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một
cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có
thể thao tác được. ( tức là bất kì người lao động nào cũng có thể làm được)
Vd: Rửa bát, giúp việc, phụ hồ, …
Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua
một quá trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Vd: Kỹ sư xây dựng , kiến trúc sư, nhà thiết kế,…
Vd: Trong một giờ lao động, kỹ sư, bác sĩ sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn
người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động giản đơn,
có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, không phải trải qua đào
tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt, cũng có thể làm được. Còn lao
động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp đòi hỏi phải
có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức
tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động
phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng
hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng
hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy
mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Đây là cơ sở
lý luận quan trọng đề cả nhà quản trị và người lao động xác định mức
thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá trình
tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
Trong quá tình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được
quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách
tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những
hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.