Tinh hình ngoại thương - Kinh tế vĩ mô | Đại học Tôn Đức Thắng

Xuất, nhập khẩu và tỷ giá hối đoái có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Hoạt động xuất nhập khẩu phát sinh quan hệ cung cầu ngoại tệ làm biến động tăng giảm tỷ giá. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ TÀI : TÌNH HÌNH NGOẠI THƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH VỀ TỶ
GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
I. Nội dung
1. Giá trị kim ngạch xuất khẩu theo ngành, lãnh thổ
Bằng phương pháp thu thập dữ liệu được công bố, thông kê, phân tích,
liên hệ, so sánh... để đánh giá về định tính, sử dụng phương pháp kinh tế
lượng để đánh giá về định lượng, bài viết phân tích, đánh giá mối quan hệ
tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến tỷ giá ở Việt Nam
Xuất, nhập khẩu và tỷ giá hối đoái có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau. Hoạt động xuất nhập khẩu phát sinh quan hệ cung cầu ngoại tệ
làm biến động tăng giảm tỷ giá. Ngược lại, khi cần quản lý điều hành,
Nhà nước dùng chính sách tỷ giá để định hướng hoạt động xuất nhập
khẩu phát triển theo những mục tiêu đã định.
1.1. Tổng quan về mối quan hệ giữa hoạt động xuất, nhập khẩu và tỷ giá
- Xuất khẩu, còn gọi là xuất cảng (các doanh nghiệp Việt Nam bán hàng
hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp nước ngoài theo các hợp đồng mua
bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu
hàng hóa)
- Nhập khẩu, còn gọi là nhập cảng ( các doanh nghiệp Việt Nam
mua hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài theo các hợp
đồng mua bán hàng hóa bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và
chuyển khẩu hàng hóa.
- Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền tệ, tỷ giá
hối đoái phản ảnh giá trị của 1 đơn vị đồng tiền này khi trao đổi 1 đơn vị
đồng tiền khác.
1.2. Hoạt động xuất nhập khẩu và tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn
1995-2020
Diễn biến hoạt động xuất khẩu
Bảng 1: Xuất nhập khẩu và tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 1995-
2020
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước và tính toán của tác giả
Diễn biến tỷ giá hối đoái
a. Giai đoạn từ năm 1993-1999
Đồ thị 1: Tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND) giai đoạn 1993-
1999
b. Giai đoạn từ năm 2000-2006: Giai đoạn này, áp dụng cơ chế tỷ giá
neo cố định, tỷ giá bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố
được giữ xoay quanh từ mức 14.000 VND/USD lên mức 16.000
VND/USD. Năm 2005, NHNN công bố Pháp lệnh Ngoại hối và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chính thức công nhận Việt Nam thực
hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Năm 2006, thị
trường ngoại hối của Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt
đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF đã cảnh báo
NHNN cần tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh
nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn.
c. Giai đoạn từ năm 2007-2011: Đây là giai đoạn mà tỷ giá
USD/VND có nhiều biến động mạnh. Sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tự do hóa tài khoản vốn
được nới rộng dẫn đến các dòng vốn vào Việt Nam gia tăng đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự biến động của tỷ giá. Bắt đầu từ tháng 4/2008,
lượng vốn vay bằng USD, cán cân thanh toán do thâm hụt thương
mại cao và sự sụt giảm mạnh của tổng dự trữ ngoại hối đã tạo nên
lực cầu mạnh về USD. NHNN liên tục bán ngoại tệ ra để can thiệp
khi thị trường xuất hiện tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen với
khoảng cách chênh lệch lớn trong một thời gian dài. Cuối năm
2011, NHNN đã sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp để kiểm soát và
ổn định thị trường.
d. Giai đoạn từ năm 2012-2020: Giai đoạn này, tỷ giá USD/VND đã
ổn định hơn, chính sách điều hành tỷ giá của NHNN phù hợp với
diễn biến thị trường. Các giải pháp tiền tệ của NHNN đã tạo cho
thị trường ngoại tệ có những chuyển biến tích cực, thị trường tự do
thu hẹp hoạt động. Chênh lệch giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá
niêm yết của ngân hàng thương mại (NHTM) ở mức độ nhỏ, chênh
lệch 100 – 300 VND/USD. Từ đó giảm dần tâm lý găm giữ ngoại
tệ của tổ chức, cá nhân. NHNN đã mở rộng biên độ tỷ giá lên +3%
năm 2015. Ngày 31/12/2015, NHNN đã ban hành Quyết định số
2730/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá trung tâm của USD/VND,
tỷ giá tính chéo của VND với một số ngoại tệ khác. Cơ chế điều
hành tỷ giá của NHNN phù hợp với các điều kiện của Việt Nam, đề
cao tính linh hoạt và chủ động hơn với các biến động của thị
trường.
2. Giá trị kim ngạch nhập khẩu theo ngành, lãnh thổ
2.1.Công thức tính giá trị kim ngạch nhập khẩu
Tỉ lệ xuất nhập khẩu (kim ngạch xuất khẩu) = (Giá trị xuất khẩu /Giá trị
nhập khẩu) x 100%. Đơn vị tính theo %.
2.2.Tình hình giá trị kim ngạch nhập khẩu ở VN theo ngành
2.2.1. Nhập khẩu hàng hóa
Biểu đồ 3: 10 nhóm hàng có trị giá nhập khẩu cao nhất trong năm 2022
so với năm 2021.
2.2.2. Tình hình giá trị kim ngạch nhập khẩu ở việt nam
Những năm qua tình hình đại dịch chuyến biến xấu khiến các nước trên
thế giới nói chung và nước ta nói riêng nằm trong tình hình khó khăn, nhà
nhà mất việc làm. Đến năm 2022 có thể nói tình hình dịch bệnh Covid 19
đã được kiểm soát, các hoạt động buôn bán, kinh doanh đã dần dần trở
lại. Nhưng các nước thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp về mặc đại dịch
lẫn chiến tranh cũng gây ảnh hưởng đến nước nhà. Tuy nhiên trải qua rất
nhiều khó khăn, xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã từng bước
phát triển, góp phần đưa kinh tế cả nước tăng trưởng mạnh mẽ.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2022 ước đạt 371,85 tỷ USD, tăng
10,6% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 95,09
tỷ USD, tăng 6,5%, chiếm 25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 276,76 tỷ USD, tăng 12,1%,
chiếm 74,4%. Trong năm 2022 có 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 08 mặt hàng
xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 70,1%).
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với
năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 125,79 tỷ USD, tăng
10%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 234,86 tỷ USD, tăng 7,5%.
Trong năm 2022 có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 06 mặt hàng nhập
khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 52,1%).
Nhờ những nỗ lực từ phía cả khu vực công và cộng đồng doanh nghiệp,
hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu trơng thời gian qua đã có
những kết quả rực rỡ nhập khẩu góp phần quan trọng vào phát triển kinh
tế, cải kiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá,
kiểm soát lạm phát, tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm
và thu nhập cho hàng triệu lao động và tạo động lực đổi mới sáng tạo
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Dựa trên thống kê, nước ta xuất khẩu rất nhiều mặc hàng và thông qua đó
cũng cho thấy rằng nước ta là một trong những nước đạt tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm ở nhiều lĩnh vực.
Sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế
Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ một nền kinh tế khép kín đã trở thành
một bộ phận năng động của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam
tiếp tục tăng trưởng, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao,
tỷ lệ đói nghèo giảm, và ngày càng là một trong những điểm đến hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song nền
kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại, năng lực
cạnh tranh còn yếu trên nhiều mặt. Mức thu nhập của Việt Nam còn thấp,
ngay cả so với các nước láng giềng trong khu vực. Theo Diễn đàn kinh tế
thế giới, khoảng cách thu nhập của người dân Việt Nam so với mức trung
bình của các nước đang phát triển tại châu Á ngày càng doãng ra. Hơn
nữa, những bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang hiện hữu cho thấy tăng trưởng
của Việt Nam còn mong manh. Bên cạnh đó, những diễn biến và thay đổi
của môi trường bên ngoài đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ngày
càng tác động nhiều hơn tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, trong giai
đoạn mới cần đặt năng lực cạnh tranh (NLCT) và hiệu quả bền vững làm
trung tâm khi lựa chọn định hướng chiến lược và mô hình tăng trưởng
cho nền kinh tế.
Trong thời gian qua, các khía cạnh khác nhau về năng lực cạnh tranh
quốc gia đã được nhiều tổ chức nghiên cứu và đo lường. Việc tìm hiểu
phương pháp luận và hệ thống chỉ số của các báo cáo xếp hạng NLCT
trên thế giới giúp cho các nhà hoạch định chính sách cũng như người dân
hiểu và nhận thức rõ hơn về NLCT quốc gia và vận dụng các chỉ số xếp
hạng một cách phù hợp khi phân tích NLCT quốc gia. Đề tài đã tham
khảo các phương pháp luận và hệ thống các chỉ 36 số đánh giá năng lực
cạnh tranh quốc gia của một vài tổ chức và quốc gia trên thế giới như
Diễn đàn kinh tế thế giới, Viện Phát triển quản lý quốc tế Thụy Sĩ, Liên
minh châu Âu và Hội đồng năng lực cạnh tranh của Ireland. Báo cáo
cũng tham khảo các chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh như Báo cáo
mức độ thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thế giới;
Xếp hạng môi trường kinh doanh của tạp chí Forbes; Báo cáo chỉ số tự do
kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall; Chỉ số quản trị toàn
cầu của Ngân hàng thế giới; Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ chức
minh bạch quốc tế,… Trên cơ sở đó, nghiên cứu lựa chọn khái niệm năng
lực cạnh tranh và cách tiếp cận đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia phù
hợp cho Việt Nam.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Tại thời điểm này, môi
trường kinh doanh Việt Nam không có yếu tố cạnh tranh, các DN được
Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả khi
làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước. Chính cơ chế
này đã tạo ra sự trì trệ, ỷ lại của các thành phần kinh tế, dẫn đến năng lực
cạnh tranh quốc gia yếu kém. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
đánh dấu bước chuyển bằng cơ chế, chính sách đổi mới thể chế; nền kinh
tế thị trường bắt đầu được hình thành, vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với DN mà còn đối với người
tiêu dùng, cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh của quốc gia và đạt được nhiều kết quả tích
cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập, so với các nước trong khu vực,
năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn có những khoảng cách nhất định.
Bài viết làm rõ năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam thông qua 3 góc
độ: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu; Hệ số tín nhiệm quốc gia; Xếp
hạng môi trường kinh doanh trong những năm gần đây của Việt Nam.
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) công bố hàng năm nhằm đánh giá và xếp hạng các nền kinh tế
trên thế giới về khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF, năm 2017,
Việt Nam xếp hạng thứ 55/137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2016
và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF công bố GCI. Với
thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như: Lào (98);
Campuchia (94); Philipinnes (56), nhưng còn khoảng cách rất xa so với
Singapore (3); Malaysia (23); Thái Lan (32); Indonesia (36) và các nền
kinh tế lớn của châu Á là Nhật Bản (9); Hàn Quốc (26); Trung Quốc (27);
Ấn Độ (40).
Trải qua 10 năm, GCI của Việt Nam cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng
68/131 năm 2007 đã lên 55/137 năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới
của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019,
WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp
thứ 67/141 nền kinh tế. Đánh giá của WEF về chi tiết 12 tiêu chí của Việt
Nam cho thấy, 8/12 tiêu chí của Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc.
Đáng chú ý trong số đó, trụ cột ứng dụng công nghệ thông tin tăng điểm
và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69
điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành
phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như thuê bao internet
cáp quang, thuê bao di động, số người sử dụng internet…). Tiếp đến là trụ
cột thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ
số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương
mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.
Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí
89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần
(ngoại trừ phá sản DN), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các DN
đổi mới sáng tạo, DN có ý tưởng đột phá. Trụ cột năng lực đổi mới sáng
tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trụ cột thể chế tăng 0,3
điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm
các chỉ số thể hiện mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng
mạnh.
Tuy nhiên, với 12 trụ cột này thì còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị
trí không đổi. Cụ thể, trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm
số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64). Trụ cột hệ thống tài
chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột cơ sở hạ tầng tăng 0,5
điểm, nhưng giảm 2 bậc. trụ cột y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm
xuống 80,5 điểm), do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71). Mặt
khác, có 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột
có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm:
Thể chế (89), cơ sở hạ tầng (77), y tế (71), kỹ năng (93), thị trường sản
phẩm (79), thị trường lao động (83), mức độ năng động trong kinh doanh
(89) và năng lực đổi mới sáng tạo (76).
Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như:
Dấu hiệu tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, hiện đứng ở gần cuối bảng
(thứ 101), giảm 10 bậc so với năm 2018 (thứ 91); Mức độ tiếp xúc với
nước uống không an toàn có dấu hiệu tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95),
giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82); Hiệu quả dịch vụ cảng biển tuy
không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83)… Đáng chú ý là trong
trụ cột hệ thống tài chính, chỉ số nguồn vốn cho DN nhỏ và vừa
(DNNVV) giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có
thứ hạng 85). Kết quả này cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn
đối với các DNNVV. Bên cạnh đó, mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo
hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế, dẫn
tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần nào
phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định
và thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư còn thận trọng khi đầu tư vào Việt
Nam.
Mặc dù, năng lực cạnh tranh quốc gia đã đạt được những tiến bộ nhất
định nhưng cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam
đạt được chỉ ở vị trí trung bình thấp, các chỉ số về thể chế, hạ tầng, chi
phí ngoài pháp luật còn xếp ở thứ hạng rất thấp và hạn chế năng lực cạnh
tranh quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của DN và sản phẩm, dịch
vụ. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng cho thấy, 54% DN xác nhận phải chi
ngoài pháp luật để “bôi trơn” trong giải quyết các thủ tục hành chính.
3. Sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế
Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ một nền kinh tế khép kín đã trở thành
một bộ phận năng động của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam
tiếp tục tăng trưởng, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao,
tỷ lệ đói nghèo giảm, và ngày càng là một trong những điểm đến hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song nền
kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại, năng lực
cạnh tranh còn yếu trên nhiều mặt. Mức thu nhập của Việt Nam còn thấp,
ngay cả so với các nước láng giềng trong khu vực. Theo Diễn đàn kinh tế
thế giới, khoảng cách thu nhập của người dân Việt Nam so với mức trung
bình của các nước đang phát triển tại châu Á ngày càng doãng ra. Hơn
nữa, những bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang hiện hữu cho thấy tăng trưởng
của Việt Nam còn mong manh. Bên cạnh đó, những diễn biến và thay đổi
của môi trường bên ngoài đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ngày
càng tác động nhiều hơn tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, trong giai
đoạn mới cần đặt năng lực cạnh tranh (NLCT) và hiệu quả bền vững làm
trung tâm khi lựa chọn định hướng chiến lược và mô hình tăng trưởng
cho nền kinh tế.
Trong thời gian qua, các khía cạnh khác nhau về năng lực cạnh tranh
quốc gia đã được nhiều tổ chức nghiên cứu và đo lường. Việc tìm hiểu
phương pháp luận và hệ thống chỉ số của các báo cáo xếp hạng NLCT
trên thế giới giúp cho các nhà hoạch định chính sách cũng như người dân
hiểu và nhận thức rõ hơn về NLCT quốc gia và vận dụng các chỉ số xếp
hạng một cách phù hợp khi phân tích NLCT quốc gia. Đề tài đã tham
khảo các phương pháp luận và hệ thống các chỉ 36 số đánh giá năng lực
cạnh tranh quốc gia của một vài tổ chức và quốc gia trên thế giới như
Diễn đàn kinh tế thế giới, Viện Phát triển quản lý quốc tế Thụy Sĩ, Liên
minh châu Âu và Hội đồng năng lực cạnh tranh của Ireland. Báo cáo
cũng tham khảo các chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh như Báo cáo
mức độ thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thế giới;
Xếp hạng môi trường kinh doanh của tạp chí Forbes; Báo cáo chỉ số tự do
kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall; Chỉ số quản trị toàn
cầu của Ngân hàng thế giới; Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ chức
minh bạch quốc tế,… Trên cơ sở đó, nghiên cứu lựa chọn khái niệm năng
lực cạnh tranh và cách tiếp cận đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia phù
hợp cho Việt Nam.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Tại thời điểm này, môi
trường kinh doanh Việt Nam không có yếu tố cạnh tranh, các DN được
Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả khi
làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước. Chính cơ chế
này đã tạo ra sự trì trệ, ỷ lại của các thành phần kinh tế, dẫn đến năng lực
cạnh tranh quốc gia yếu kém. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
đánh dấu bước chuyển bằng cơ chế, chính sách đổi mới thể chế; nền kinh
tế thị trường bắt đầu được hình thành, vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với DN mà còn đối với người
tiêu dùng, cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh của quốc gia và đạt được nhiều kết quả tích
cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập, so với các nước trong khu vực,
năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn có những khoảng cách nhất định.
Bài viết làm rõ năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam thông qua 3 góc
độ: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu; Hệ số tín nhiệm quốc gia; Xếp
hạng môi trường kinh doanh trong những năm gần đây của Việt Nam.
3.1.Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) công bố hàng năm nhằm đánh giá và xếp hạng các nền kinh tế
trên thế giới về khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF, năm 2017,
Việt Nam xếp hạng thứ 55/137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2016
và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF công bố GCI. Với
thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như: Lào (98);
Campuchia (94); Philipinnes (56), nhưng còn khoảng cách rất xa so với
Singapore (3); Malaysia (23); Thái Lan (32); Indonesia (36) và các nền
kinh tế lớn của châu Á là Nhật Bản (9); Hàn Quốc (26); Trung Quốc (27);
Ấn Độ (40).
Trải qua 10 năm, GCI của Việt Nam cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng
68/131 năm 2007 đã lên 55/137 năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới
của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019,
WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp
thứ 67/141 nền kinh tế. Đánh giá của WEF về chi tiết 12 tiêu chí của Việt
Nam cho thấy, 8/12 tiêu chí của Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc.
Đáng chú ý trong số đó, trụ cột ứng dụng công nghệ thông tin tăng điểm
và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69
điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành
phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như thuê bao internet
cáp quang, thuê bao di động, số người sử dụng internet…). Tiếp đến là trụ
cột thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ
số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương
mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.
Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí
89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần
(ngoại trừ phá sản DN), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các DN
đổi mới sáng tạo, DN có ý tưởng đột phá. Trụ cột năng lực đổi mới sáng
tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trụ cột thể chế tăng 0,3
điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm
các chỉ số thể hiện mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng
mạnh.
Tuy nhiên, với 12 trụ cột này thì còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị
trí không đổi. Cụ thể, trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm
số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64). Trụ cột hệ thống tài
chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột cơ sở hạ tầng tăng 0,5
điểm, nhưng giảm 2 bậc. trụ cột y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm
xuống 80,5 điểm), do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71). Mặt
khác, có 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột
có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm:
Thể chế (89), cơ sở hạ tầng (77), y tế (71), kỹ năng (93), thị trường sản
phẩm (79), thị trường lao động (83), mức độ năng động trong kinh doanh
(89) và năng lực đổi mới sáng tạo (76).
Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như:
Dấu hiệu tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, hiện đứng ở gần cuối bảng
(thứ 101), giảm 10 bậc so với năm 2018 (thứ 91); Mức độ tiếp xúc với
nước uống không an toàn có dấu hiệu tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95),
giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82); Hiệu quả dịch vụ cảng biển tuy
không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83)… Đáng chú ý là trong
trụ cột hệ thống tài chính, chỉ số nguồn vốn cho DN nhỏ và vừa
(DNNVV) giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có
thứ hạng 85). Kết quả này cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn
đối với các DNNVV. Bên cạnh đó, mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo
hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế, dẫn
tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần nào
phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định
và thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư còn thận trọng khi đầu tư vào Việt
Nam.
Mặc dù, năng lực cạnh tranh quốc gia đã đạt được những tiến bộ nhất
định nhưng cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam
đạt được chỉ ở vị trí trung bình thấp, các chỉ số về thể chế, hạ tầng, chi
phí ngoài pháp luật còn xếp ở thứ hạng rất thấp và hạn chế năng lực cạnh
tranh quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của DN và sản phẩm, dịch
vụ. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng cho thấy, 54% DN xác nhận phải chi
ngoài pháp luật để “bôi trơn” trong giải quyết các thủ tục hành chính.
3.2.Hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam
Hệ số tín nhiệm quốc gia là chỉ số cơ bản được các nhà đầu tư quốc tế sử
dụng như là một yếu tố xác định mức độ rủi ro khi đầu tư vào một quốc
gia, do đó, kết quả xếp hạng tín nhiệm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
huy động vốn của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Năm 2005, hệ số
tín nhiệm của Việt Nam được Moody’s xếp hạng ở mức ổn định Ba3.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới các
năm 2007 - 2008 đã có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt
Nam: Lạm phát và rủi ro tài chính tăng cao; các cú sốc mạnh về lãi suất,
tình hình nợ xấu luôn ở mức cảnh báo. Vì vậy, Moody’s đã giảm hệ số
xếp hạng tín nhiệm tài chính của Việt Nam xuống mức B1 trong năm
2010 và năm 2011; năm 2012 tiếp tục giảm một bậc ở mức B2 và là mức
thấp nhất so với một số quốc gia trong khu vực. Năm 2013, theo S&P,
Việt Nam có hệ số tín nhiệm tài chính thấp nhất so với một số nước
ASEAN và Hàn Quốc, ở mức BB-, là mức ít bị ảnh hưởng trong ngắn hạn
nhưng phải đối mặt với sự không ổn định đang gây bất lợi cho hoạt động
kinh doanh, các điều kiện tài chính và kinh tế.
Thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô từ năm 2012 - 2014 đã
đánh dấu bước ngoặt mới về mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.
Moody’s đã nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam lên mức B1 (so với mức
B2 năm 2012); S&P và Fitch’s tiếp tục duy trì xếp hạng tín nhiệm ở mức
BB- với triển vọng được đánh giá là ổn định và tích cực. Năm 2017, Việt
Nam tiếp tục ổn định vĩ mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao,
lạm phát được kiểm soát; nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất; dự trữ ngoại hối của
Việt Nam tiếp tục được cải thiện; đảm bảo an toàn nợ công và tái cơ cấu
khu vực DN Nhà nước... Trên cơ sở đó, Fitch’s đưa hệ số tín nhiệm của
Việt Nam ở mức BB-, mức triển vọng tín nhiệm đã được nâng lên từ “ổn
định” lên mức“tích cực”. Trong năm 2018, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng
trưởng tích cực, Moody’s đã nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam
lên mức Ba3 từ mức B1 của năm 2017 và thay đổi triển vọng từ mức tích
cực sang mức ổn định. Fitch’s cũng nâng hạng tín nhiệm cho Việt Nam từ
BB- (năm 2017) lên BB.
Ngày 09/4/2020, Tổ chức Fitch Ratings (Fitch) thông báo giữ nguyên xếp
hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức BB và điều chỉnh triển
vọng sang Ổn định. Tổ chức này cũng đánh giá cao việc Việt Nam củng
cố tình hình tài khóa và tích lũy dự trữ ngoại hối, góp phần tăng mức đệm
dự phòng trước những rủi ro vĩ mô. Fitch cũng dự báo, đà tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam sẽ quay trở lại vào năm 2021, với mức tăng trưởng
dự kiến là 7,3% do nhu cầu trong nước và nước ngoài dần hồi phục theo
xu hướng toàn cầu và khu vực. Đáng chú ý, ngay trong tháng 4/2020,
Fitch đã có động thái điều chỉnh đánh giá tín nhiệm tiêu cực đối với 19
nước trên toàn cầu, trong đó 12 quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm và 7 quốc
gia bị hạ triển vọng.
3.3. Xếp hạng về môi trường kinh doanh
Theo Báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh “Doing Business 2018”
của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam tiếp tục được tăng hạng về môi trường
kinh doanh khi xếp hạng thứ 68 trên 190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với
đánh giá trong năm 2017, là mức tăng bậc nhiều nhất trong 10 năm qua
của Việt Nam, trong đó có 8/10 chỉ số tăng điểm và 6/10 chỉ số tăng bậc.
Điều này khẳng định môi trường kinh doanh, thuận lợi hóa kinh doanh
của Việt Nam năm 2018 đã được cải thiện. Những lĩnh vực mà Việt Nam
được đánh giá có nhiều cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng hơn là tiếp
cận điện năng, tiếp cận tín dụng, nộp thuế, giao thương quốc tế và thực
hiện hợp đồng. 10 lĩnh vực của Việt Nam có thứ hạng xếp trong khoảng
từ 20 đến 129, được đánh giá cao nhất vẫn là giải quyết thủ tục cấp giấy
phép/cấp phép xây dựng (xếp thứ 20) và thấp nhất là xử lý khi mất khả
năng thanh toán (129).
So sánh tương quan vị thế của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực
ASEAN, Việt Nam đứng sau 4 quốc gia về môi trường kinh doanh là
Singarpore (đứng vị trí thứ 2 thế giới về môi trường kinh doanh);
Malaysia (24); Thái Lan (26); Brunei (56) và cao hơn các nước như:
Indonesia (72); Philippinnnes (113); Campuchia (135); Lào (141);
Mianma (171).
Tháng 10/2019, Ngân hàng Thế giới công bố kết quả xếp hạng Môi
trường kinh doanh “Doing Business 2020”. Đáng chú ý, trong lần xếp
hạng này, Việt Nam tăng 1,2 điểm (từ 68,6 lên 69,8 điểm), nhưng giảm 1
bậc xếp hạng chung (từ vị trí 69 xuống vị trí 70). Có nghĩa là các nền
kinh tế khác đang đi nhanh và mạnh hơn Việt Nam. Ngay trong số 5 chỉ
tiêu tăng điểm của Việt Nam năm 2020, Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ghi
nhận có 2 cải cách là nộp thuế và tiếp cận tín dụng.
4. Tình hình tỷ giá hối đoái và tác động của nó
4.1.Tỉ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền tệ, tỉ giá hối
đoái phản ánh giá trị của một đơn vị đồng tiền mày khi trao đổi một đơn
vị đồng tiền khác.
Tỷ giá hối đoái là mức giá tại thời điểm đồng tiền của một quốc gia hay
khu vực có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của nước khác. Theo đó,
tỉ giá được tính bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Khi tỉ giá
giảm đồng nghĩa với việc đồng nội tệ lên giá, ngược lại tỉ giá tăng đồng
nội tệ giảm còn ngoại tệ sẽ lên giá. Ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ
tỉ giá để điều tiết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: Cán cân thương mại
( xuất nhập khẩu), lạm phát, ổn định giá vàng, ổn định lãi suất thị trường
Trong rổ ngoại tệ của Việt Nam giao dịch trên thị trường ngoại hối và
ngoại thương thì USD là đồng ngoại tệ chiếm tỉ trọng lớn nhất, được
Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) chọn là loại ngoại tệ trung tâm trong
quản lí điều hành chính sách tỉ giá. Tỉ giá giữa USD và VND là tỉ giá
ngoại tệ bình quân hàng năm được trao đổi trên thị trường của các ngân
hàng thương mại, trên cơ sở tham chiếu tỉ giá trung tâm bình quân hằng
năm do NHNN công bố
4.2.Mối quan hệ giữa xuất, nhập khẩu và tỉ giá hối đoái
Hoạt động xuất khẩu mang về ngoại tệ cho quốc giá, làm gia tăng nguồn
cung cấp ngoại tệ một cách dồi dào, do đó làm giảm tỉ giá hối đoái. Khi tỉ
giá hối đối thấp, tức giá trị đồng ngoại tệ cao sẽ làm cho giá cả hàng hóa
Việt Nam ở nước ngoài tăng lên, đắt hơn so với hàng hóa nước khác, làm
giảm tính cạnh tranh, hạn chế lượng tiêu thu, từ đó hạn chế sự phát triển
của hoạt động xuất khẩu
Tuy nhiên, khi tỉ giá hối đoái cao, tức đồng tiền nội tệ thấp sẽ làm cho giá
cả hàng hóa của Việt Nam ở nước ngoài thấp, rẻ hơn so với hàng hóa của
nước khác, làm tăng tính cạnh tranh, tiêu thụ hàng hóa nhanh, từ đó tạo
điều kiện để mở rộng phát triển hoạt động xuất khẩu
Đây là một trong những lí do khiến các nước phá giá đồng nội tệ để thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, việc làm như vậy sẽ dẫn đến nhiều
điều kiện khác nên chính phủ các nước không thể thực hiện việc phá giá
đồng nội tệ một cách dễ dàng.
Hoạt động nhập khẩu là việc chi ngoại tệ ra nước ngoài để mua hàng hóa
và dịch vụ về trong nước, khi gia tăng nhập khẩu sẽ làm gia tăng cầu
ngoại tệ, do đó có tác động làm gia tăng tỉ giá hối đoái. Khi tỉ giá hối đoái
cao, làm cho giá cả hàng hóa dịch vụ nhập khẩu trong nước đắt đỏ hơn so
với hàng hóa trong nước, làm giảm tính cạnh tranh, hạn chế lượng tiêu
thụ, từ đó hạn chế sự phát triển của hoạt động nhập khẩu, đồng thời tạo
điều kiện để thúc đẩy sản xuất trong nước
Ngược lại, tỉ giá hối đoái thấp, hàng hóa nhập khẩu có giá bán rẻ hơn
hàng hóa trong nước, tăng khả năng cạnh tranh, có lợi cho nhà nhập khẩu
nhưng làm hạn chế phát triển sản xuất trong nước.
Vì vậy chính phủ có các nước thường dùng chính sách nâng cao tỉ
giá, tức phá giá đồng nội tệ để hạn chế hàng nhập khẩu nhằm
khuyết khích phát triển sản xuất trong nước
4.3.Diễn biến của tỉ giá hối đoái trong giai đoạn từ 1993 đến 2020
a. Giai đoạn từ năm 1993 - 1999
b. Giai đoạn từ năm 2000 - 2006: Giai đoạn này, áp dụng cơ chế tỉ giá
neo cố định, tỉ giá bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố
được giữ xoay quanh từ mức 14.000 VND/USD lên mức 16.000
VND/USD. Năm 2005, NHNN công bố pháp lệnh Ngoại hối và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF) chính thức công nhận Việt Nam thực
hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Năm 2006, thị
trường ngoại hối Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt
đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới ( WB) và IMF đã cảnh báo
NHNN cần tăng cường sự linh hoạt của tỉ giá trong bối cảnh nguồn
vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn.
c. Giai đoạn từ năm 2007 - 2011: Đây là giai đoạn mà tỉ giá
USD/VND có nhiều biến động mạnh. Sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế Giới ( WTO), tự do hóa tài khoản vốn
được nới rộng dẫn đến các dòng vốn vào Việt Nam gia ăng đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự biến động của tỉ giá. Bắt đầu từ tháng 4/2008,
lượng vốn vay bằng USD, cán cân thanh toán do thâm hụt thương
mại cao và sự sụt giảm mạnh của tổng sự trữ ngoại hối đã tạo nên
lực cầu mạnh về USD. NHNN liên tục bán ngoại tệ ra để can thiệp
khi thị trường xuất hiện tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen với
khoảng cách chênh lệnh lớn trong một thời gian dài, Cuối năm
2011, NHNN đã sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp để kiểm soát và
ổn định thị trường
d. Giai đoạn từ năm 2012 - 2020: Giai đoạn này tỉ giá USD/VND đã
ổn định hơn, chính sách điều hành tỉ giá của NHNN phù hợp với
diễn biến thị trường. Các giải pháp tiền tệ của NHNN đã tạo ra cho
thị trường ngoại tệ có những chuyển biến tích cực, thị trường tự do
thu hẹp hoạt động. Chênh lệch giữa tỉ giá liên ngân hàng và tỉ giá
niêm yết của ngân hàng thương mại ( NHTM) ở mức độ nhỏ,
chênh lệch 100- 300 USD/VND. Từ đó giảm dần tâm lí giam giữ
ngoại tệ của tổ chức, cá nhân. NHNN đã mở rộng biên độ tỉ giá lên
+3% năm 2015. Ngày 31/12/2015, NHNN đã ban hành quyết định
số 2730/QĐ - NHNN về việc công bố tỉ giá trung tâm của
USD/VND, tỉ giá tính chéo của VND với một số ngoại tệ khác. Cơ
chế điều hành tỉ giá của NHNN phù hợp với các điều kiện của Việt
Nam, đè cao tính linh hoạt và chủ động hơn với các biến động của
thị trường.
4.4.Mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu với tỷ giá giai đoạn 1995-
2020
4.5.Mối quan hệ giữa tỉ giá và xuất khẩu
4.6.Mối quan hệ giữa tỉ giá và nhập khẩu
4.7.Ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái đến các quan hệ kinh tế quốc tế
4.7.1. Ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu hàng hóa
Tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng nghĩa là đồng nội tệ giảm
giá, giá sản phẩm của quốc gia đó trên thị trường quốc tế giảm, kích thích
xuất khẩu, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng nghĩa là đồng nội tệ giảm
giá, giá sản phẩm của quốc tế trên thị trường nội địa tăng (tức là chi phí
hàng hóa nhập khẩu bằng nội tệ sẽ tăng) làm hạn chế nhập khẩu, trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Ngược lại, khi tỉ giá hối đoái giữa đồng ngoại tệ so với nội tệ giảm nghĩa
là đồng nội tệ tăng giá, lúc đó sẽ hạn chế xuất khẩu và kích thích nhập
khẩu, trong điều kiện tất cả các yếu tố khác không đổi.
Như vậy, khi đồng tiền giảm giá khuyến khích xuất khẩu vì lúc đó, xuất
khẩu sẽ có lợi hơn, nhung lại mang lại bất lợi cho nhập khẩu do vậy sẽ
hạn chế nhập khẩu. Khi đồng tiền tăng giá sẽ hạn chế xuất khẩu vì lúc đó
xuất khẩu sẽ bị bất lợi nhưng lúc đó nhập khẩu sẽ có lợi hơn.
4.7.2. Ảnh hưởng tới đầu tư nước ngoài
Khi tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng —> nội tệ giảm giá trị
—> kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nước và hạn chế đầu tư từ
trong nước ra nước ngoài, trong điều kiện tất cả các nhân tố khác không
đổi.
Ngược lại, khi tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ giảm, tức là nội
tệ tăng giá —> kích thích đầu tư ra nước ngoài và hạn chế đầu tư vào
trong nước.
4.7.3. Ảnh hưởng tới nợ nước ngoài và dịch vụ thu ngoại tệ của
các quốc gia
Khi đồng tiền giảm giá làm cho số nợ của quốc gia tính bằng ngoại tệ
tăng lên và ngược lại khi đồng tiền quốc gia tăng giá sẽ làm giảm số nợ
của quốc gia.
Các dịch vụ thu ngoại tệ như khách du lịch, khi đồng tiền giảm giá sẽ
khuyến khích các khách du lịch vì họ có thể tiêu dùng nhiều hơn các loại
hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, khi đồng tiền tăng giá sẽ hạn chế trong
thu hút khách du lịch vì họ sẽ tiêu dùng ít hơn các loại hàng hóa và dịch
vụ.
Qua phân tích trên đây, chúng ta đã thấy được sự thay đổi của tỉ giá hối
đoái có tác động mạnh đến hai lĩnh vực được xem xét, đó là thương mại
quốc tế và đầu tư quốc tế. Sự tác động đó khi lợi về mặt này thì lại bất lợi
về mặt kia. Song, tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các quốc gia có
những biện pháp điều chỉnh thích hợp sao có lợi cho tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
4.8.Tỉ giá hối đoái ảnh hưởng bởi các yếu tố
- Cung – cầu ngoại tệ
- Cán cân thanh toán quốc tế
- Lạm phát
- Lãi suất
- Nợ công
- Thu nhập
- Thâm hụt tài khoản vãng lai
- Tỷ lệ trao đổi thương mại
- Tình hình chính trị
- Tình hình kinh tế
5. Chính sách ngoại thương và chính sách về tỷ giá hối đoái của
chính phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng - phát triển
hiện nay
5.1. Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá Việt Nam:
a. Giai đoạn thả nổi tỷ giá 1989-1993:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam qua các năm 1989-1993
Năm Tỷ giá USD/VND Lạm phát
Giá chính
thức của nhà
nước
Giá thị
trường tự do
Tăng giảm
%
1989 4.200 4.570 +8.80 +34.070
1990 6.650 7.550 +13.50 +67.50
1991 12.720 12.550 -0.02 +68.00
1992 10.720 10.550 -0.02 +17.50
1993 10.835 10.736 -0.01 +5.20
b. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt Nam qua các năm 1993-1996
Năm Tỷ giá
USD/VND
So sánh % năm
trước
Tốc độ lạm phát
(%)
1993 10.835,00 100% 5.2
1994 11.050,00 +1.98% 14.7
1995 11.040,00 0% 12.7
1996 11.060,00 +0.18% 4.5
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu của các năm (đơn vị tính: triệu USD)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh
1 2 3 4=3-2
1993 2.985 3.924 -939
1994 4.054 5.825 -1.771
1995 5.448,9 8.155,4 -2.706,5
1996 7.255 11.143 -3.888
c. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế
thị trường (1992-1997)
Vào giai đoạn cuối năm 1992, nhờ có việc can thiệp của ngân hàng nhà
nước trên thị trường ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái VND/USD dần bình ổn
làm cho nguồn ngoại tệ của các ngân hàng được giải phóng từ hoạt động
nhập khẩu và hướng nhiều đến hoạt động xuất khẩu. Đồng thời ngoại tệ ở
bên ngoài vào tăng làm cho cung cầu ngoại tệ đảo lộn so với cùng kì mọi
năm nên giá ngoại tệ biến động lớn và biên độ giá trung bình trên thị
trường tiền tệ tự do Hà Nội năm 1993 là 10.300 – 10.400. Tình trạng
USD giảm giá đã gây tác động tiêu cực đối với xuất khẩu và gây nhập
siêu vượt ngưỡng cho phép nên ngân hàng nhà nước đã quyết định điều
chỉnh để nâng giá đồng USD. Trong tất cả những ngày mua bán của mọi
quý 1 năm 1993 thì hệ thống ngân hàng đều mua đô la Mỹ để ngăn cản sự
mất giá của đồng bạc này. Từ tháng 3/1993 USD bắt đầu tăng mạnh hơn
nhằm ngăn chặn sự lên xuống giá một cách đều đặn (tại đây bàn đến mức
giá danh nghĩa VND/USD)
Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã đạt được một mức độ ổn định
đáng kể cả trên phương diện quy mô cũng và cấu trúc hệ thống thì hai
trung tâm giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng gia
nhập thị trường giao dịch ngày càng nhanh. Phạm vi và quy mô giao dịch
cũng được mở rộng và tăng cường. Trước thực trạng mới ngân hàng nhà
nước đã cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hình thành và thay vai trò
của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên ngân hàng có qui mô rộng
hơn và có tính chất thị trường khách quan và linh động hơn nên tỷ giá hối
đoái theo cô chế điều tiết của ngân hàng nhà nước cũng ngày càng gần
với thực tiễn hơn bao giờ hết. Đồng thời thông qua thị trường ngoại tệ
ngân hàng nhà nước đã nắm chắc hơn cầu tổng quát của nền kinh tế thị
trường đối với ngoại tệ theo các giai đoạn để điều chỉnh kịp thời tỷ giá
hối đoái.Ngân hàng nhà nước đã sử dụng thị trường liên ngân hàng nhằm
xác định tín hiệu của tỷ giá hối đoái và áp dụng tỷ giá chính thức công bố
mỗi phiên cùng biên độ giới hạn tỷ giá áp dụng đối với từng ngân hàng
| 1/24

Preview text:

ĐỀ TÀI : TÌNH HÌNH NGOẠI THƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH VỀ TỶ
GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM I. Nội dung
1. Giá trị kim ngạch xuất khẩu theo ngành, lãnh thổ
Bằng phương pháp thu thập dữ liệu được công bố, thông kê, phân tích,
liên hệ, so sánh... để đánh giá về định tính, sử dụng phương pháp kinh tế
lượng để đánh giá về định lượng, bài viết phân tích, đánh giá mối quan hệ
tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến tỷ giá ở Việt Nam
Xuất, nhập khẩu và tỷ giá hối đoái có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau. Hoạt động xuất nhập khẩu phát sinh quan hệ cung cầu ngoại tệ
làm biến động tăng giảm tỷ giá. Ngược lại, khi cần quản lý điều hành,
Nhà nước dùng chính sách tỷ giá để định hướng hoạt động xuất nhập
khẩu phát triển theo những mục tiêu đã định.
1.1. Tổng quan về mối quan hệ giữa hoạt động xuất, nhập khẩu và tỷ giá
- Xuất khẩu, còn gọi là xuất cảng (các doanh nghiệp Việt Nam bán hàng
hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp nước ngoài theo các hợp đồng mua
bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa)
- Nhập khẩu, còn gọi là nhập cảng ( các doanh nghiệp Việt Nam
mua hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài theo các hợp
đồng mua bán hàng hóa bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa.
- Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền tệ, tỷ giá
hối đoái phản ảnh giá trị của 1 đơn vị đồng tiền này khi trao đổi 1 đơn vị đồng tiền khác.
1.2. Hoạt động xuất nhập khẩu và tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn 1995-2020
Diễn biến hoạt động xuất khẩu
Bảng 1: Xuất nhập khẩu và tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 1995- 2020
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước và tính toán của tác giả
Diễn biến tỷ giá hối đoái
a. Giai đoạn từ năm 1993-1999
Đồ thị 1: Tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND) giai đoạn 1993- 1999
b. Giai đoạn từ năm 2000-2006: Giai đoạn này, áp dụng cơ chế tỷ giá
neo cố định, tỷ giá bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố
được giữ xoay quanh từ mức 14.000 VND/USD lên mức 16.000
VND/USD. Năm 2005, NHNN công bố Pháp lệnh Ngoại hối và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chính thức công nhận Việt Nam thực
hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Năm 2006, thị
trường ngoại hối của Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt
đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF đã cảnh báo
NHNN cần tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh
nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn.
c. Giai đoạn từ năm 2007-2011: Đây là giai đoạn mà tỷ giá
USD/VND có nhiều biến động mạnh. Sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tự do hóa tài khoản vốn
được nới rộng dẫn đến các dòng vốn vào Việt Nam gia tăng đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự biến động của tỷ giá. Bắt đầu từ tháng 4/2008,
lượng vốn vay bằng USD, cán cân thanh toán do thâm hụt thương
mại cao và sự sụt giảm mạnh của tổng dự trữ ngoại hối đã tạo nên
lực cầu mạnh về USD. NHNN liên tục bán ngoại tệ ra để can thiệp
khi thị trường xuất hiện tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen với
khoảng cách chênh lệch lớn trong một thời gian dài. Cuối năm
2011, NHNN đã sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp để kiểm soát và ổn định thị trường.
d. Giai đoạn từ năm 2012-2020: Giai đoạn này, tỷ giá USD/VND đã
ổn định hơn, chính sách điều hành tỷ giá của NHNN phù hợp với
diễn biến thị trường. Các giải pháp tiền tệ của NHNN đã tạo cho
thị trường ngoại tệ có những chuyển biến tích cực, thị trường tự do
thu hẹp hoạt động. Chênh lệch giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá
niêm yết của ngân hàng thương mại (NHTM) ở mức độ nhỏ, chênh
lệch 100 – 300 VND/USD. Từ đó giảm dần tâm lý găm giữ ngoại
tệ của tổ chức, cá nhân. NHNN đã mở rộng biên độ tỷ giá lên +3%
năm 2015. Ngày 31/12/2015, NHNN đã ban hành Quyết định số
2730/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá trung tâm của USD/VND,
tỷ giá tính chéo của VND với một số ngoại tệ khác. Cơ chế điều
hành tỷ giá của NHNN phù hợp với các điều kiện của Việt Nam, đề
cao tính linh hoạt và chủ động hơn với các biến động của thị trường.
2. Giá trị kim ngạch nhập khẩu theo ngành, lãnh thổ
2.1.Công thức tính giá trị kim ngạch nhập khẩu
Tỉ lệ xuất nhập khẩu (kim ngạch xuất khẩu) = (Giá trị xuất khẩu /Giá trị
nhập khẩu) x 100%. Đơn vị tính theo %.

2.2.Tình hình giá trị kim ngạch nhập khẩu ở VN theo ngành
2.2.1. Nhập khẩu hàng hóa
Biểu đồ 3: 10 nhóm hàng có trị giá nhập khẩu cao nhất trong năm 2022 so với năm 2021.
2.2.2. Tình hình giá trị kim ngạch nhập khẩu ở việt nam
Những năm qua tình hình đại dịch chuyến biến xấu khiến các nước trên
thế giới nói chung và nước ta nói riêng nằm trong tình hình khó khăn, nhà
nhà mất việc làm. Đến năm 2022 có thể nói tình hình dịch bệnh Covid 19
đã được kiểm soát, các hoạt động buôn bán, kinh doanh đã dần dần trở
lại. Nhưng các nước thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp về mặc đại dịch
lẫn chiến tranh cũng gây ảnh hưởng đến nước nhà. Tuy nhiên trải qua rất
nhiều khó khăn, xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã từng bước
phát triển, góp phần đưa kinh tế cả nước tăng trưởng mạnh mẽ.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2022 ước đạt 371,85 tỷ USD, tăng
10,6% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 95,09
tỷ USD, tăng 6,5%, chiếm 25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 276,76 tỷ USD, tăng 12,1%,
chiếm 74,4%. Trong năm 2022 có 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 08 mặt hàng
xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 70,1%).
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với
năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 125,79 tỷ USD, tăng
10%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 234,86 tỷ USD, tăng 7,5%.
Trong năm 2022 có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 06 mặt hàng nhập
khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 52,1%).
Nhờ những nỗ lực từ phía cả khu vực công và cộng đồng doanh nghiệp,
hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu trơng thời gian qua đã có
những kết quả rực rỡ nhập khẩu góp phần quan trọng vào phát triển kinh
tế, cải kiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá,
kiểm soát lạm phát, tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm
và thu nhập cho hàng triệu lao động và tạo động lực đổi mới sáng tạo
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Dựa trên thống kê, nước ta xuất khẩu rất nhiều mặc hàng và thông qua đó
cũng cho thấy rằng nước ta là một trong những nước đạt tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm ở nhiều lĩnh vực.
Sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế
Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ một nền kinh tế khép kín đã trở thành
một bộ phận năng động của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam
tiếp tục tăng trưởng, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao,
tỷ lệ đói nghèo giảm, và ngày càng là một trong những điểm đến hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song nền
kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại, năng lực
cạnh tranh còn yếu trên nhiều mặt. Mức thu nhập của Việt Nam còn thấp,
ngay cả so với các nước láng giềng trong khu vực. Theo Diễn đàn kinh tế
thế giới, khoảng cách thu nhập của người dân Việt Nam so với mức trung
bình của các nước đang phát triển tại châu Á ngày càng doãng ra. Hơn
nữa, những bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang hiện hữu cho thấy tăng trưởng
của Việt Nam còn mong manh. Bên cạnh đó, những diễn biến và thay đổi
của môi trường bên ngoài đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ngày
càng tác động nhiều hơn tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, trong giai
đoạn mới cần đặt năng lực cạnh tranh (NLCT) và hiệu quả bền vững làm
trung tâm khi lựa chọn định hướng chiến lược và mô hình tăng trưởng cho nền kinh tế.
Trong thời gian qua, các khía cạnh khác nhau về năng lực cạnh tranh
quốc gia đã được nhiều tổ chức nghiên cứu và đo lường. Việc tìm hiểu
phương pháp luận và hệ thống chỉ số của các báo cáo xếp hạng NLCT
trên thế giới giúp cho các nhà hoạch định chính sách cũng như người dân
hiểu và nhận thức rõ hơn về NLCT quốc gia và vận dụng các chỉ số xếp
hạng một cách phù hợp khi phân tích NLCT quốc gia. Đề tài đã tham
khảo các phương pháp luận và hệ thống các chỉ 36 số đánh giá năng lực
cạnh tranh quốc gia của một vài tổ chức và quốc gia trên thế giới như
Diễn đàn kinh tế thế giới, Viện Phát triển quản lý quốc tế Thụy Sĩ, Liên
minh châu Âu và Hội đồng năng lực cạnh tranh của Ireland. Báo cáo
cũng tham khảo các chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh như Báo cáo
mức độ thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thế giới;
Xếp hạng môi trường kinh doanh của tạp chí Forbes; Báo cáo chỉ số tự do
kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall; Chỉ số quản trị toàn
cầu của Ngân hàng thế giới; Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ chức
minh bạch quốc tế,… Trên cơ sở đó, nghiên cứu lựa chọn khái niệm năng
lực cạnh tranh và cách tiếp cận đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia phù hợp cho Việt Nam.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Tại thời điểm này, môi
trường kinh doanh Việt Nam không có yếu tố cạnh tranh, các DN được
Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả khi
làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước. Chính cơ chế
này đã tạo ra sự trì trệ, ỷ lại của các thành phần kinh tế, dẫn đến năng lực
cạnh tranh quốc gia yếu kém. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
đánh dấu bước chuyển bằng cơ chế, chính sách đổi mới thể chế; nền kinh
tế thị trường bắt đầu được hình thành, vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với DN mà còn đối với người
tiêu dùng, cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh của quốc gia và đạt được nhiều kết quả tích
cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập, so với các nước trong khu vực,
năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn có những khoảng cách nhất định.
Bài viết làm rõ năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam thông qua 3 góc
độ: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu; Hệ số tín nhiệm quốc gia; Xếp
hạng môi trường kinh doanh trong những năm gần đây của Việt Nam.
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) công bố hàng năm nhằm đánh giá và xếp hạng các nền kinh tế
trên thế giới về khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF, năm 2017,
Việt Nam xếp hạng thứ 55/137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2016
và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF công bố GCI. Với
thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như: Lào (98);
Campuchia (94); Philipinnes (56), nhưng còn khoảng cách rất xa so với
Singapore (3); Malaysia (23); Thái Lan (32); Indonesia (36) và các nền
kinh tế lớn của châu Á là Nhật Bản (9); Hàn Quốc (26); Trung Quốc (27); Ấn Độ (40).
Trải qua 10 năm, GCI của Việt Nam cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng
68/131 năm 2007 đã lên 55/137 năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới
của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019,
WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp
thứ 67/141 nền kinh tế. Đánh giá của WEF về chi tiết 12 tiêu chí của Việt
Nam cho thấy, 8/12 tiêu chí của Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc.
Đáng chú ý trong số đó, trụ cột ứng dụng công nghệ thông tin tăng điểm
và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69
điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành
phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như thuê bao internet
cáp quang, thuê bao di động, số người sử dụng internet…). Tiếp đến là trụ
cột thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ
số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương
mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.
Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí
89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần
(ngoại trừ phá sản DN), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các DN
đổi mới sáng tạo, DN có ý tưởng đột phá. Trụ cột năng lực đổi mới sáng
tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trụ cột thể chế tăng 0,3
điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm
các chỉ số thể hiện mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng mạnh.
Tuy nhiên, với 12 trụ cột này thì còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị
trí không đổi. Cụ thể, trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm
số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64). Trụ cột hệ thống tài
chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột cơ sở hạ tầng tăng 0,5
điểm, nhưng giảm 2 bậc. trụ cột y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm
xuống 80,5 điểm), do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71). Mặt
khác, có 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột
có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm:
Thể chế (89), cơ sở hạ tầng (77), y tế (71), kỹ năng (93), thị trường sản
phẩm (79), thị trường lao động (83), mức độ năng động trong kinh doanh
(89) và năng lực đổi mới sáng tạo (76).
Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như:
Dấu hiệu tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, hiện đứng ở gần cuối bảng
(thứ 101), giảm 10 bậc so với năm 2018 (thứ 91); Mức độ tiếp xúc với
nước uống không an toàn có dấu hiệu tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95),
giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82); Hiệu quả dịch vụ cảng biển tuy
không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83)… Đáng chú ý là trong
trụ cột hệ thống tài chính, chỉ số nguồn vốn cho DN nhỏ và vừa
(DNNVV) giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có
thứ hạng 85). Kết quả này cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn
đối với các DNNVV. Bên cạnh đó, mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo
hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế, dẫn
tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần nào
phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định
và thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư còn thận trọng khi đầu tư vào Việt Nam.
Mặc dù, năng lực cạnh tranh quốc gia đã đạt được những tiến bộ nhất
định nhưng cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam
đạt được chỉ ở vị trí trung bình thấp, các chỉ số về thể chế, hạ tầng, chi
phí ngoài pháp luật còn xếp ở thứ hạng rất thấp và hạn chế năng lực cạnh
tranh quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của DN và sản phẩm, dịch
vụ. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng cho thấy, 54% DN xác nhận phải chi
ngoài pháp luật để “bôi trơn” trong giải quyết các thủ tục hành chính.
3. Sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế
Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ một nền kinh tế khép kín đã trở thành
một bộ phận năng động của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam
tiếp tục tăng trưởng, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao,
tỷ lệ đói nghèo giảm, và ngày càng là một trong những điểm đến hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song nền
kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại, năng lực
cạnh tranh còn yếu trên nhiều mặt. Mức thu nhập của Việt Nam còn thấp,
ngay cả so với các nước láng giềng trong khu vực. Theo Diễn đàn kinh tế
thế giới, khoảng cách thu nhập của người dân Việt Nam so với mức trung
bình của các nước đang phát triển tại châu Á ngày càng doãng ra. Hơn
nữa, những bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang hiện hữu cho thấy tăng trưởng
của Việt Nam còn mong manh. Bên cạnh đó, những diễn biến và thay đổi
của môi trường bên ngoài đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ngày
càng tác động nhiều hơn tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, trong giai
đoạn mới cần đặt năng lực cạnh tranh (NLCT) và hiệu quả bền vững làm
trung tâm khi lựa chọn định hướng chiến lược và mô hình tăng trưởng cho nền kinh tế.
Trong thời gian qua, các khía cạnh khác nhau về năng lực cạnh tranh
quốc gia đã được nhiều tổ chức nghiên cứu và đo lường. Việc tìm hiểu
phương pháp luận và hệ thống chỉ số của các báo cáo xếp hạng NLCT
trên thế giới giúp cho các nhà hoạch định chính sách cũng như người dân
hiểu và nhận thức rõ hơn về NLCT quốc gia và vận dụng các chỉ số xếp
hạng một cách phù hợp khi phân tích NLCT quốc gia. Đề tài đã tham
khảo các phương pháp luận và hệ thống các chỉ 36 số đánh giá năng lực
cạnh tranh quốc gia của một vài tổ chức và quốc gia trên thế giới như
Diễn đàn kinh tế thế giới, Viện Phát triển quản lý quốc tế Thụy Sĩ, Liên
minh châu Âu và Hội đồng năng lực cạnh tranh của Ireland. Báo cáo
cũng tham khảo các chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh như Báo cáo
mức độ thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thế giới;
Xếp hạng môi trường kinh doanh của tạp chí Forbes; Báo cáo chỉ số tự do
kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall; Chỉ số quản trị toàn
cầu của Ngân hàng thế giới; Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ chức
minh bạch quốc tế,… Trên cơ sở đó, nghiên cứu lựa chọn khái niệm năng
lực cạnh tranh và cách tiếp cận đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia phù hợp cho Việt Nam.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Tại thời điểm này, môi
trường kinh doanh Việt Nam không có yếu tố cạnh tranh, các DN được
Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả khi
làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước. Chính cơ chế
này đã tạo ra sự trì trệ, ỷ lại của các thành phần kinh tế, dẫn đến năng lực
cạnh tranh quốc gia yếu kém. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
đánh dấu bước chuyển bằng cơ chế, chính sách đổi mới thể chế; nền kinh
tế thị trường bắt đầu được hình thành, vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với DN mà còn đối với người
tiêu dùng, cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh của quốc gia và đạt được nhiều kết quả tích
cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập, so với các nước trong khu vực,
năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn có những khoảng cách nhất định.
Bài viết làm rõ năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam thông qua 3 góc
độ: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu; Hệ số tín nhiệm quốc gia; Xếp
hạng môi trường kinh doanh trong những năm gần đây của Việt Nam.
3.1.Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) công bố hàng năm nhằm đánh giá và xếp hạng các nền kinh tế
trên thế giới về khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF, năm 2017,
Việt Nam xếp hạng thứ 55/137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2016
và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF công bố GCI. Với
thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như: Lào (98);
Campuchia (94); Philipinnes (56), nhưng còn khoảng cách rất xa so với
Singapore (3); Malaysia (23); Thái Lan (32); Indonesia (36) và các nền
kinh tế lớn của châu Á là Nhật Bản (9); Hàn Quốc (26); Trung Quốc (27); Ấn Độ (40).
Trải qua 10 năm, GCI của Việt Nam cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng
68/131 năm 2007 đã lên 55/137 năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới
của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019,
WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp
thứ 67/141 nền kinh tế. Đánh giá của WEF về chi tiết 12 tiêu chí của Việt
Nam cho thấy, 8/12 tiêu chí của Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc.
Đáng chú ý trong số đó, trụ cột ứng dụng công nghệ thông tin tăng điểm
và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69
điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành
phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như thuê bao internet
cáp quang, thuê bao di động, số người sử dụng internet…). Tiếp đến là trụ
cột thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ
số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương
mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.
Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí
89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần
(ngoại trừ phá sản DN), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các DN
đổi mới sáng tạo, DN có ý tưởng đột phá. Trụ cột năng lực đổi mới sáng
tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trụ cột thể chế tăng 0,3
điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm
các chỉ số thể hiện mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng mạnh.
Tuy nhiên, với 12 trụ cột này thì còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị
trí không đổi. Cụ thể, trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm
số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64). Trụ cột hệ thống tài
chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột cơ sở hạ tầng tăng 0,5
điểm, nhưng giảm 2 bậc. trụ cột y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm
xuống 80,5 điểm), do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71). Mặt
khác, có 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột
có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm:
Thể chế (89), cơ sở hạ tầng (77), y tế (71), kỹ năng (93), thị trường sản
phẩm (79), thị trường lao động (83), mức độ năng động trong kinh doanh
(89) và năng lực đổi mới sáng tạo (76).
Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như:
Dấu hiệu tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, hiện đứng ở gần cuối bảng
(thứ 101), giảm 10 bậc so với năm 2018 (thứ 91); Mức độ tiếp xúc với
nước uống không an toàn có dấu hiệu tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95),
giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82); Hiệu quả dịch vụ cảng biển tuy
không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83)… Đáng chú ý là trong
trụ cột hệ thống tài chính, chỉ số nguồn vốn cho DN nhỏ và vừa
(DNNVV) giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có
thứ hạng 85). Kết quả này cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn
đối với các DNNVV. Bên cạnh đó, mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo
hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế, dẫn
tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần nào
phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định
và thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư còn thận trọng khi đầu tư vào Việt Nam.
Mặc dù, năng lực cạnh tranh quốc gia đã đạt được những tiến bộ nhất
định nhưng cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam
đạt được chỉ ở vị trí trung bình thấp, các chỉ số về thể chế, hạ tầng, chi
phí ngoài pháp luật còn xếp ở thứ hạng rất thấp và hạn chế năng lực cạnh
tranh quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của DN và sản phẩm, dịch
vụ. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng cho thấy, 54% DN xác nhận phải chi
ngoài pháp luật để “bôi trơn” trong giải quyết các thủ tục hành chính.
3.2.Hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam
Hệ số tín nhiệm quốc gia là chỉ số cơ bản được các nhà đầu tư quốc tế sử
dụng như là một yếu tố xác định mức độ rủi ro khi đầu tư vào một quốc
gia, do đó, kết quả xếp hạng tín nhiệm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
huy động vốn của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Năm 2005, hệ số
tín nhiệm của Việt Nam được Moody’s xếp hạng ở mức ổn định Ba3.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới các
năm 2007 - 2008 đã có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt
Nam: Lạm phát và rủi ro tài chính tăng cao; các cú sốc mạnh về lãi suất,
tình hình nợ xấu luôn ở mức cảnh báo. Vì vậy, Moody’s đã giảm hệ số
xếp hạng tín nhiệm tài chính của Việt Nam xuống mức B1 trong năm
2010 và năm 2011; năm 2012 tiếp tục giảm một bậc ở mức B2 và là mức
thấp nhất so với một số quốc gia trong khu vực. Năm 2013, theo S&P,
Việt Nam có hệ số tín nhiệm tài chính thấp nhất so với một số nước
ASEAN và Hàn Quốc, ở mức BB-, là mức ít bị ảnh hưởng trong ngắn hạn
nhưng phải đối mặt với sự không ổn định đang gây bất lợi cho hoạt động
kinh doanh, các điều kiện tài chính và kinh tế.
Thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô từ năm 2012 - 2014 đã
đánh dấu bước ngoặt mới về mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.
Moody’s đã nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam lên mức B1 (so với mức
B2 năm 2012); S&P và Fitch’s tiếp tục duy trì xếp hạng tín nhiệm ở mức
BB- với triển vọng được đánh giá là ổn định và tích cực. Năm 2017, Việt
Nam tiếp tục ổn định vĩ mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao,
lạm phát được kiểm soát; nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất; dự trữ ngoại hối của
Việt Nam tiếp tục được cải thiện; đảm bảo an toàn nợ công và tái cơ cấu
khu vực DN Nhà nước... Trên cơ sở đó, Fitch’s đưa hệ số tín nhiệm của
Việt Nam ở mức BB-, mức triển vọng tín nhiệm đã được nâng lên từ “ổn
định” lên mức“tích cực”. Trong năm 2018, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng
trưởng tích cực, Moody’s đã nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam
lên mức Ba3 từ mức B1 của năm 2017 và thay đổi triển vọng từ mức tích
cực sang mức ổn định. Fitch’s cũng nâng hạng tín nhiệm cho Việt Nam từ BB- (năm 2017) lên BB.
Ngày 09/4/2020, Tổ chức Fitch Ratings (Fitch) thông báo giữ nguyên xếp
hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức BB và điều chỉnh triển
vọng sang Ổn định. Tổ chức này cũng đánh giá cao việc Việt Nam củng
cố tình hình tài khóa và tích lũy dự trữ ngoại hối, góp phần tăng mức đệm
dự phòng trước những rủi ro vĩ mô. Fitch cũng dự báo, đà tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam sẽ quay trở lại vào năm 2021, với mức tăng trưởng
dự kiến là 7,3% do nhu cầu trong nước và nước ngoài dần hồi phục theo
xu hướng toàn cầu và khu vực. Đáng chú ý, ngay trong tháng 4/2020,
Fitch đã có động thái điều chỉnh đánh giá tín nhiệm tiêu cực đối với 19
nước trên toàn cầu, trong đó 12 quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm và 7 quốc gia bị hạ triển vọng.
3.3. Xếp hạng về môi trường kinh doanh
Theo Báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh “Doing Business 2018”
của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam tiếp tục được tăng hạng về môi trường
kinh doanh khi xếp hạng thứ 68 trên 190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với
đánh giá trong năm 2017, là mức tăng bậc nhiều nhất trong 10 năm qua
của Việt Nam, trong đó có 8/10 chỉ số tăng điểm và 6/10 chỉ số tăng bậc.
Điều này khẳng định môi trường kinh doanh, thuận lợi hóa kinh doanh
của Việt Nam năm 2018 đã được cải thiện. Những lĩnh vực mà Việt Nam
được đánh giá có nhiều cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng hơn là tiếp
cận điện năng, tiếp cận tín dụng, nộp thuế, giao thương quốc tế và thực
hiện hợp đồng. 10 lĩnh vực của Việt Nam có thứ hạng xếp trong khoảng
từ 20 đến 129, được đánh giá cao nhất vẫn là giải quyết thủ tục cấp giấy
phép/cấp phép xây dựng (xếp thứ 20) và thấp nhất là xử lý khi mất khả năng thanh toán (129).
So sánh tương quan vị thế của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực
ASEAN, Việt Nam đứng sau 4 quốc gia về môi trường kinh doanh là
Singarpore (đứng vị trí thứ 2 thế giới về môi trường kinh doanh);
Malaysia (24); Thái Lan (26); Brunei (56) và cao hơn các nước như:
Indonesia (72); Philippinnnes (113); Campuchia (135); Lào (141); Mianma (171).
Tháng 10/2019, Ngân hàng Thế giới công bố kết quả xếp hạng Môi
trường kinh doanh “Doing Business 2020”. Đáng chú ý, trong lần xếp
hạng này, Việt Nam tăng 1,2 điểm (từ 68,6 lên 69,8 điểm), nhưng giảm 1
bậc xếp hạng chung (từ vị trí 69 xuống vị trí 70). Có nghĩa là các nền
kinh tế khác đang đi nhanh và mạnh hơn Việt Nam. Ngay trong số 5 chỉ
tiêu tăng điểm của Việt Nam năm 2020, Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ghi
nhận có 2 cải cách là nộp thuế và tiếp cận tín dụng.
4. Tình hình tỷ giá hối đoái và tác động của nó
4.1.Tỉ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền tệ, tỉ giá hối
đoái phản ánh giá trị của một đơn vị đồng tiền mày khi trao đổi một đơn vị đồng tiền khác.
Tỷ giá hối đoái là mức giá tại thời điểm đồng tiền của một quốc gia hay
khu vực có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của nước khác. Theo đó,
tỉ giá được tính bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Khi tỉ giá
giảm đồng nghĩa với việc đồng nội tệ lên giá, ngược lại tỉ giá tăng đồng
nội tệ giảm còn ngoại tệ sẽ lên giá. Ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ
tỉ giá để điều tiết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: Cán cân thương mại
( xuất nhập khẩu), lạm phát, ổn định giá vàng, ổn định lãi suất thị trường
Trong rổ ngoại tệ của Việt Nam giao dịch trên thị trường ngoại hối và
ngoại thương thì USD là đồng ngoại tệ chiếm tỉ trọng lớn nhất, được
Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) chọn là loại ngoại tệ trung tâm trong
quản lí điều hành chính sách tỉ giá. Tỉ giá giữa USD và VND là tỉ giá
ngoại tệ bình quân hàng năm được trao đổi trên thị trường của các ngân
hàng thương mại, trên cơ sở tham chiếu tỉ giá trung tâm bình quân hằng năm do NHNN công bố
4.2.Mối quan hệ giữa xuất, nhập khẩu và tỉ giá hối đoái
Hoạt động xuất khẩu mang về ngoại tệ cho quốc giá, làm gia tăng nguồn
cung cấp ngoại tệ một cách dồi dào, do đó làm giảm tỉ giá hối đoái. Khi tỉ
giá hối đối thấp, tức giá trị đồng ngoại tệ cao sẽ làm cho giá cả hàng hóa
Việt Nam ở nước ngoài tăng lên, đắt hơn so với hàng hóa nước khác, làm
giảm tính cạnh tranh, hạn chế lượng tiêu thu, từ đó hạn chế sự phát triển
của hoạt động xuất khẩu
Tuy nhiên, khi tỉ giá hối đoái cao, tức đồng tiền nội tệ thấp sẽ làm cho giá
cả hàng hóa của Việt Nam ở nước ngoài thấp, rẻ hơn so với hàng hóa của
nước khác, làm tăng tính cạnh tranh, tiêu thụ hàng hóa nhanh, từ đó tạo
điều kiện để mở rộng phát triển hoạt động xuất khẩu
Đây là một trong những lí do khiến các nước phá giá đồng nội tệ để thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, việc làm như vậy sẽ dẫn đến nhiều
điều kiện khác nên chính phủ các nước không thể thực hiện việc phá giá
đồng nội tệ một cách dễ dàng.
Hoạt động nhập khẩu là việc chi ngoại tệ ra nước ngoài để mua hàng hóa
và dịch vụ về trong nước, khi gia tăng nhập khẩu sẽ làm gia tăng cầu
ngoại tệ, do đó có tác động làm gia tăng tỉ giá hối đoái. Khi tỉ giá hối đoái
cao, làm cho giá cả hàng hóa dịch vụ nhập khẩu trong nước đắt đỏ hơn so
với hàng hóa trong nước, làm giảm tính cạnh tranh, hạn chế lượng tiêu
thụ, từ đó hạn chế sự phát triển của hoạt động nhập khẩu, đồng thời tạo
điều kiện để thúc đẩy sản xuất trong nước
Ngược lại, tỉ giá hối đoái thấp, hàng hóa nhập khẩu có giá bán rẻ hơn
hàng hóa trong nước, tăng khả năng cạnh tranh, có lợi cho nhà nhập khẩu
nhưng làm hạn chế phát triển sản xuất trong nước.
Vì vậy chính phủ có các nước thường dùng chính sách nâng cao tỉ
giá, tức phá giá đồng nội tệ để hạn chế hàng nhập khẩu nhằm
khuyết khích phát triển sản xuất trong nước
4.3.Diễn biến của tỉ giá hối đoái trong giai đoạn từ 1993 đến 2020
a. Giai đoạn từ năm 1993 - 1999
b. Giai đoạn từ năm 2000 - 2006: Giai đoạn này, áp dụng cơ chế tỉ giá
neo cố định, tỉ giá bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố
được giữ xoay quanh từ mức 14.000 VND/USD lên mức 16.000
VND/USD. Năm 2005, NHNN công bố pháp lệnh Ngoại hối và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF) chính thức công nhận Việt Nam thực
hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Năm 2006, thị
trường ngoại hối Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt
đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới ( WB) và IMF đã cảnh báo
NHNN cần tăng cường sự linh hoạt của tỉ giá trong bối cảnh nguồn
vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn.
c. Giai đoạn từ năm 2007 - 2011: Đây là giai đoạn mà tỉ giá
USD/VND có nhiều biến động mạnh. Sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế Giới ( WTO), tự do hóa tài khoản vốn
được nới rộng dẫn đến các dòng vốn vào Việt Nam gia ăng đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự biến động của tỉ giá. Bắt đầu từ tháng 4/2008,
lượng vốn vay bằng USD, cán cân thanh toán do thâm hụt thương
mại cao và sự sụt giảm mạnh của tổng sự trữ ngoại hối đã tạo nên
lực cầu mạnh về USD. NHNN liên tục bán ngoại tệ ra để can thiệp
khi thị trường xuất hiện tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen với
khoảng cách chênh lệnh lớn trong một thời gian dài, Cuối năm
2011, NHNN đã sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp để kiểm soát và ổn định thị trường
d. Giai đoạn từ năm 2012 - 2020: Giai đoạn này tỉ giá USD/VND đã
ổn định hơn, chính sách điều hành tỉ giá của NHNN phù hợp với
diễn biến thị trường. Các giải pháp tiền tệ của NHNN đã tạo ra cho
thị trường ngoại tệ có những chuyển biến tích cực, thị trường tự do
thu hẹp hoạt động. Chênh lệch giữa tỉ giá liên ngân hàng và tỉ giá
niêm yết của ngân hàng thương mại ( NHTM) ở mức độ nhỏ,
chênh lệch 100- 300 USD/VND. Từ đó giảm dần tâm lí giam giữ
ngoại tệ của tổ chức, cá nhân. NHNN đã mở rộng biên độ tỉ giá lên
+3% năm 2015. Ngày 31/12/2015, NHNN đã ban hành quyết định
số 2730/QĐ - NHNN về việc công bố tỉ giá trung tâm của
USD/VND, tỉ giá tính chéo của VND với một số ngoại tệ khác. Cơ
chế điều hành tỉ giá của NHNN phù hợp với các điều kiện của Việt
Nam, đè cao tính linh hoạt và chủ động hơn với các biến động của thị trường.
4.4.Mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu với tỷ giá giai đoạn 1995- 2020
4.5.Mối quan hệ giữa tỉ giá và xuất khẩu
4.6.Mối quan hệ giữa tỉ giá và nhập khẩu
4.7.Ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái đến các quan hệ kinh tế quốc tế
4.7.1. Ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu hàng hóa
Tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng nghĩa là đồng nội tệ giảm
giá, giá sản phẩm của quốc gia đó trên thị trường quốc tế giảm, kích thích
xuất khẩu, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng nghĩa là đồng nội tệ giảm
giá, giá sản phẩm của quốc tế trên thị trường nội địa tăng (tức là chi phí
hàng hóa nhập khẩu bằng nội tệ sẽ tăng) làm hạn chế nhập khẩu, trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Ngược lại, khi tỉ giá hối đoái giữa đồng ngoại tệ so với nội tệ giảm nghĩa
là đồng nội tệ tăng giá, lúc đó sẽ hạn chế xuất khẩu và kích thích nhập
khẩu, trong điều kiện tất cả các yếu tố khác không đổi.
Như vậy, khi đồng tiền giảm giá khuyến khích xuất khẩu vì lúc đó, xuất
khẩu sẽ có lợi hơn, nhung lại mang lại bất lợi cho nhập khẩu do vậy sẽ
hạn chế nhập khẩu. Khi đồng tiền tăng giá sẽ hạn chế xuất khẩu vì lúc đó
xuất khẩu sẽ bị bất lợi nhưng lúc đó nhập khẩu sẽ có lợi hơn.
4.7.2. Ảnh hưởng tới đầu tư nước ngoài
Khi tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng —> nội tệ giảm giá trị
—> kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nước và hạn chế đầu tư từ
trong nước ra nước ngoài, trong điều kiện tất cả các nhân tố khác không đổi.
Ngược lại, khi tỉ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ giảm, tức là nội
tệ tăng giá —> kích thích đầu tư ra nước ngoài và hạn chế đầu tư vào trong nước.
4.7.3. Ảnh hưởng tới nợ nước ngoài và dịch vụ thu ngoại tệ của các quốc gia
Khi đồng tiền giảm giá làm cho số nợ của quốc gia tính bằng ngoại tệ
tăng lên và ngược lại khi đồng tiền quốc gia tăng giá sẽ làm giảm số nợ của quốc gia.
Các dịch vụ thu ngoại tệ như khách du lịch, khi đồng tiền giảm giá sẽ
khuyến khích các khách du lịch vì họ có thể tiêu dùng nhiều hơn các loại
hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, khi đồng tiền tăng giá sẽ hạn chế trong
thu hút khách du lịch vì họ sẽ tiêu dùng ít hơn các loại hàng hóa và dịch vụ.
Qua phân tích trên đây, chúng ta đã thấy được sự thay đổi của tỉ giá hối
đoái có tác động mạnh đến hai lĩnh vực được xem xét, đó là thương mại
quốc tế và đầu tư quốc tế. Sự tác động đó khi lợi về mặt này thì lại bất lợi
về mặt kia. Song, tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các quốc gia có
những biện pháp điều chỉnh thích hợp sao có lợi cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
4.8.Tỉ giá hối đoái ảnh hưởng bởi các yếu tố - Cung – cầu ngoại tệ
- Cán cân thanh toán quốc tế - Lạm phát - Lãi suất - Nợ công - Thu nhập
- Thâm hụt tài khoản vãng lai
- Tỷ lệ trao đổi thương mại - Tình hình chính trị - Tình hình kinh tế
5. Chính sách ngoại thương và chính sách về tỷ giá hối đoái của
chính phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng - phát triển hiện nay
5.1. Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá Việt Nam:
a. Giai đoạn thả nổi tỷ giá 1989-1993:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam qua các năm 1989-1993 Năm Tỷ giá USD/VND Lạm phát Giá chính Giá thị Tăng giảm
thức của nhà trường tự do % nước 1989 4.200 4.570 +8.80 +34.070 1990 6.650 7.550 +13.50 +67.50 1991 12.720 12.550 -0.02 +68.00 1992 10.720 10.550 -0.02 +17.50 1993 10.835 10.736 -0.01 +5.20
b. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt Nam qua các năm 1993-1996 Năm Tỷ
giá So sánh % năm Tốc độ lạm phát USD/VND trước (%) 1993 10.835,00 100% 5.2 1994 11.050,00 +1.98% 14.7 1995 11.040,00 0% 12.7 1996 11.060,00 +0.18% 4.5
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu của các năm (đơn vị tính: triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh 1 2 3 4=3-2 1993 2.985 3.924 -939 1994 4.054 5.825 -1.771 1995 5.448,9 8.155,4 -2.706,5 1996 7.255 11.143 -3.888
c. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường (1992-1997)
Vào giai đoạn cuối năm 1992, nhờ có việc can thiệp của ngân hàng nhà
nước trên thị trường ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái VND/USD dần bình ổn
làm cho nguồn ngoại tệ của các ngân hàng được giải phóng từ hoạt động
nhập khẩu và hướng nhiều đến hoạt động xuất khẩu. Đồng thời ngoại tệ ở
bên ngoài vào tăng làm cho cung cầu ngoại tệ đảo lộn so với cùng kì mọi
năm nên giá ngoại tệ biến động lớn và biên độ giá trung bình trên thị
trường tiền tệ tự do Hà Nội năm 1993 là 10.300 – 10.400. Tình trạng
USD giảm giá đã gây tác động tiêu cực đối với xuất khẩu và gây nhập
siêu vượt ngưỡng cho phép nên ngân hàng nhà nước đã quyết định điều
chỉnh để nâng giá đồng USD. Trong tất cả những ngày mua bán của mọi
quý 1 năm 1993 thì hệ thống ngân hàng đều mua đô la Mỹ để ngăn cản sự
mất giá của đồng bạc này. Từ tháng 3/1993 USD bắt đầu tăng mạnh hơn
nhằm ngăn chặn sự lên xuống giá một cách đều đặn (tại đây bàn đến mức giá danh nghĩa VND/USD)
Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã đạt được một mức độ ổn định
đáng kể cả trên phương diện quy mô cũng và cấu trúc hệ thống thì hai
trung tâm giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng gia
nhập thị trường giao dịch ngày càng nhanh. Phạm vi và quy mô giao dịch
cũng được mở rộng và tăng cường. Trước thực trạng mới ngân hàng nhà
nước đã cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hình thành và thay vai trò
của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên ngân hàng có qui mô rộng
hơn và có tính chất thị trường khách quan và linh động hơn nên tỷ giá hối
đoái theo cô chế điều tiết của ngân hàng nhà nước cũng ngày càng gần
với thực tiễn hơn bao giờ hết. Đồng thời thông qua thị trường ngoại tệ
ngân hàng nhà nước đã nắm chắc hơn cầu tổng quát của nền kinh tế thị
trường đối với ngoại tệ theo các giai đoạn để điều chỉnh kịp thời tỷ giá
hối đoái.Ngân hàng nhà nước đã sử dụng thị trường liên ngân hàng nhằm
xác định tín hiệu của tỷ giá hối đoái và áp dụng tỷ giá chính thức công bố
mỗi phiên cùng biên độ giới hạn tỷ giá áp dụng đối với từng ngân hàng