









Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ----- -----
BÁO CÁO BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẦN KINH DOANH QUỐC TẾ TÊN ĐỀ TÀI
BẢN TÓM TẮT 7 HỌC THUYẾT THƯƠNG MẠI Học phần : Kinh doanh quốc tế Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Anh Tuấn Lớp : 48K01.5 Nhóm sinh viên thực hiện 7 - Nguyễn Thị Nghĩa - Phan Văn Trần Quý - Huỳnh Phương Oanh - Hoàng Đăng Anh Việt - Nguyễn Đinh Hoà An - Phan Nhật Hào - Nguyễn Thị Thuỷ
Đà Nẵng, tháng 9 năm 2023
I. Chủ nghĩa trọng thương
1. Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
Chủ nghĩa trọng thương, học thuyết đầu tiên về thương mại quốc tế, xuất hiện tại Anh vào giữa thế kỷ 16
2. Nội dung chính của học thuyết
Chủ nghĩa trọng thương là một học thuyết kinh tế ủng hộ quan điểm cho rằng các
quốc gia nên khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Cho rằng vàng và bạc là
những trụ cột chính của sự thịnh vượng quốc gia và vô cùng cần thiết cho một nền
thương mại vững mạnh và thương mại phải hướng tới việc tạo thặng dư về tiền bạc, gắn
liền của cải với quyền lực chính trị.
3. Giá trị của học thuyết
Đây là học thuyết đầu tiên đề cao vai trò của thương mại, đặc biệt là thương mại
quốc tế. Tư tưởng đề cao thương mại tiến bộ hơn các trào lưu tư tưởng phong kiến đương
thời - vốn coi thường thương mại và chỉ chú trọng sản xuất tự cung tự cấp, đặc biệt là coi
trọng nông nghiệp và khai thác. Có thể xem học thuyết trọng thương là tuyên ngôn tư
tưởng của chủ nghĩa tư bản giai đoạn tích lũy ban đầu. Cho thấy được vai trò của nhà
nước trong điều tiết hoạt động ngoại thương nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung
thông qua các công cụ như thuế quan, hạn ngạch, độc quyền trong ngoại thương. Tạo ra
tiền đề lý luận kinh tế cho kinh tế học sau này. Chủ nghĩa trọng thương vẫn chưa mất hẳn,
đôi lúc vẫn tồn tại trong thế giới ngày nay.
4. Hạn chế của học thuyết
Chưa giải thích được tại sao các quốc gia lại trao đổi với nhau. Thực tế không có
quốc gia nào duy trì được thặng dư trong một thời gian dài. Học thuyết này cho rằng
thương mại là trò chơi tổng bằng 0.
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
Ủng hộ sự can thiệp của chính phủ mạnh mẽ của chính phủ để duy trì cán cân thặng
dư. Những người theo chủ nghĩa trọng thương thường đề xuất những chính sách nhằm tối
đa hoá xuất khẩu và giảm thiểu nhập khẩu, hoạt động nhập khẩu sẽ bị hạn chế bởi các
biện pháp thuế quan và hạn ngạch, trong khi xuất khẩu lại được tài trợ. 1
II. Lợi thế tuyệt đối
1. Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
Khái niệm lợi thế tuyệt đối nói chung là do nhà kinh tế học người Scotland Adam
Smith đưa ra trong ấn phẩm năm 1776 The Wealth of Nations (Sự giàu có của các quốc
gia), trong đó ông phản bác những ý tưởng của chủ nghĩa trọng thương.
2. Nội dung chính của học thuyết
Adam Smith đã phê phán tính phiến diện của học thuyết trọng thương, đồng thời
đưa ra những luận điểm mới của mình, ông cho rằng sự giàu có của mỗi quốc gia không
chỉ được đo bằng số lượng vàng, kim loại quý tích trữ được, mà chủ yếu là do số hàng
hóa và dịch vụ được sản xuất ra, mà giá trị của hàng hóa do lao động quyết định. Lý luận
cơ bản của Smith là một quốc gia không nên sản xuất các loại hàng hóa mà quốc gia này
có thể mua được với giá thấp hơn từ các quốc gia khác. Smith chứng minh rằng, bằng
cách chuyên môn hóa trong sản xuất hàng hóa mà cả hai có lợi thế tuyệt đối, các quốc gia
đều thu lợi thông qua thương mại.
3. Giá trị của học thuyết
Là bước tiến bộ vượt bậc so với thuyết trọng thương, giải thích bản chất kinh tế và
ích lợi trong thương mại quốc tế, giải thích được sự phát triển của thương mại quốc tế hai
chiều giữa các quốc gia thời kỳ đầu công nghiệp hóa ở châu Âu.
Được các quốc gia sử dụng trong một số trường hợp, lợi thế tuyệt đối là cơ sở để
các quốc gia xác định hướng chuyên môn hóa và trao đổi các mặt hàng trong thương mại
quốc tế. Học thuyết khuyến khích tự do thương mại, tự do định giá trao đổi, có tác dụng
lành mạnh hóa và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
4. Hạn chế của học thuyết
Chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế giữa các nước đều phải có lợi thế
tuyệt đối nhưng khác nhau về mặt hàng có lợi thế (chủ yếu là các nước công nghiệp thời
kì đầu của cuộc cách mạng công nghiệp) mà không giải thích được quan hệ thương mại
giữa các nước công nghiệp (có lợi thế tuyệt đối ở hầu hết các mặt hàng) với các nước
đang phát triển (hầu như không có lợi thế tuyệt đối ở mặt hàng nào hoặc có rất ít lợi thế tuyệt đối). 2
Học thuyết được xây dựng dựa trên cơ sở thương mại hàng hóa: hàng đổi hàng giản
đơn, trong khi thương mại quốc tế ngày nay còn gồm cả thương mại dịch vụ. Học thuyết
chưa tính toán hết được các yếu tố trong thương mại quốc tế như vận tải, văn hóa, sở thích…
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
Adam Smith coi trọng “Bàn tay vô hình”, tức: Chính phủ không nên can thiệp vào
nền kinh tế nói chung, hoạt động thương mại nói riêng, mà để chúng tự vận động theo các
quy luật kinh tế khách quan. Adam Smith quan niệm hệ thống các quy luật kinh tế khách
quan đó là một “trật tự tự nhiên”. Nền kinh tế cần phải được phát triển trên cơ sở tự do
kinh tế (tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch). Vai trò của Chính phủ
chỉ nên là tối thiểu với ba chức năng chính: đảm bảo hòa bình để phát triển kinh tế, vai
trò của một người bảo hộ tạo môi trường tự do cạnh tranh cho các quy luật kinh tế khách
quan hoạt động, cung ứng hàng hóa công cộng: an ninh, quốc phòng, giao thông. .
III. Lợi thế so sánh
1. Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
Ý tưởng về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) được đề cập đến lần đầu tiên bởi
Robert Torrens (1780 - 1864, người Anh) vào năm 1815 trong bài viết về thương mại mặt hàng ngô
2. Nội dung chính của học thuyết
Học thuyết của Ricardo về lợi thế so sánh, vẫn có ý nghĩa khi một quốc gia chuyên
môn hóa trong sản xuất những hàng hóa mà họ có thể sản xuất một cách hiệu quả hơn so
với quốc gia khác. Ngay cả nếu quốc gia đó mua từ những quốc gia khác các hàng hóa,
mà bản thân họ có thể sản xuất hiệu quả hơn.
Nói cách khác, lợi thế so sánh cho rằng thương mại là một trò chơi có tổng dương,
trong đó tất cả các quốc gia tham gia đều nhận được lợi ích kinh tế.
3. Giá trị của học thuyết
Học thuyết này đã cung cấp một cơ sở vững chắc để khuyến khích thương mại tự do.
Học Thuyết này của Ricardo có tác động mạnh mẽ tới mức nó tiếp tục là một vũ khí tri
thức chủ yếu của những người ủng hộ thương mại tự do. 3
4. Hạn chế của học thuyết
Học thuyết chưa tính đến các yếu tố ngoài lao động ảnh hưởng đến lợi thế của hàng
hóa và trao đổi ngoại thương như: sự thay đổi công nghệ, chi phí vận tải, bảo hiểm hàng
hóa và hàng rào bảo hộ thương mại.
Những giả định của Ricardo khi phân tích mô hình thương mại giản đơn giữa hai quốc
gia có nhiều điểm không thực tế.
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
Chính phủ nên hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và ngành công
nghiệp trong nước tận dụng lợi thế so sánh của các quốc gia, từ đó thúc đẩy phát triển
kinh tế và thương mại quốc tế.
IV. Học thuyết Heckscher-ohlin
1. Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
Khác với Ricardo, người đã nhấn mạnh năng suất lao động và lập luận rằng sự khác
biệt về hiệu suất lao động giữa các quốc gia chính là cơ sở cho quan điểm về lợi thế so
sánh. Hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển, Eli Heckscher (năm 1919) và Bertil Ohlin
(năm 1933) đã đưa ra 1 các giải thích khác về lợi thế so sánh thông qua “ Học thuyết Heckscher - Ohlin”.
2. Nội dung chính học thuyết
Lợi thế so sánh hình thành từ những khác biệt quốc gia về mức độ sẵn có của các
yếu tố sản xuất. Mức độ sẵn có của yếu tố sản xuất là mức độ dồi dào tài nguyên của một
quốc gia như đất đai, lao động, vốn; yếu tố sản xuất càng dồi dào thì chi phí càng thấp.
Các quốc gia sẽ xuất khẩu những hàng hóa sử dụng nhiều các yếu tố sản xuất dồi dào tại
địa phương và nhập khẩu những hàng hóa sử dụng nhiều yếu tố sản xuất khan hiếm.
3. Giá trị học thuyết
Góp phần giải thích thêm nhiều hiện tượng quan hệ thương mại quốc tế và được
đánh giá là một trong những học thuyết có mức độ ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế quốc
tế, góp phần quan trọng trong việc giải thích cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường. 4
Chứng minh rằng lợi thế so sánh của một quốc gia không chỉ dựa trên sự khác biệt về
năng suất lao động, mà rộng hơn, nó dựa trên sự khác biệt trong mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất.
Học thuyết là tiền đề cho các học thuyết mở sau này ra để tiếp tục giải thích về một nền
thương mại quốc tế hiện đại
4. Hạn chế của học thuyết
Học thuyết vấp phải nghịch lý Leontief. Bên cạnh đó, học thuyết này dễ tiếp cận
nhưng không giải thích các hiện tượng kinh tế tốt bằng học thuyết lợi thế so sánh của
Ricardo. Tuy nhiên, học thuyết này có giá trị dự báo hơn nếu yếu tố công nghệ được đưa vào xem xét.
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ:
Chính phủ cần có sự quan tâm về việc phát triển công nghệ vì những khác biệt về
công nghệ có thể dẫn đến những khác biệt về năng suất mà từ đó sẽ định hướng các mô
hình thương mại quốc tế.
V. Học thuyết về vòng đời sản phẩm
1. Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
Vào giữa thập niên 60 người đầu tiên đưa ra lý thuyết về vòng đời sản phẩm chính
là Raymond Vernon. Học thuyết dựa trên những quan sát thực tế đó là trong gần suốt thế
kỷ 20, tỷ lệ rất lớn các sản phẩm mới đã được phát triển, sản xuất tại thị trường Hoa Kỳ
và được bán ra đầu tiên tại đây.
2. Nội dung chính của học thuyết
Trong giai đoạn đầu, khi nhu cầu đang tăng ở Hoa Kỳ thì đối với các nước tiên tiến
khác lại chỉ giới hạn ở nhóm khách hàng có thu nhập cao nhưng vẫn cần nhập khẩu một
số sản phẩm mới nhất định. Do đó, theo thời gian việc tự tiến hành sản xuất đối với các
sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khách hàng bắt đầu tăng ở các nước đang phát triển, làm
hạn chế bớt tiềm năng xuất khẩu tại thị trường Hoa Kỳ.
Khi thị trường trở nên bão hoà thì sản phẩm mới đạt tới mức tiêu chuẩn hoá và tối ưu hoá
địa điểm sản xuất đã làm thay đổi ảnh hưởng đến dòng chảy và hướng giao dịch. 5
Kết quả: Mỹ từ một nước xuất khẩu chủ yếu thành một nước nhập khẩu khi quá trình sản
xuất chuyển đến những địa điểm ở nước ngoài với chi phí sản xuất thấp hơn.
3. Giá trị của học thuyết
Về mặt lịch sử, lý thuyết vòng đời sản phẩm dường như đưa ra lời giải thích hợp lý
về các mô hình thương mại quốc tế. Đồng thời giải thích chính xác điều gì đã xảy ra đối
với các sản phẩm như máy photocopy bởi hãng Xerox Và một số sản phẩm công nghệ
cao khác được phát triển ở Hoa Kỳ vào những năm 1960 và 1970.
4. Hạn chế của học thuyết
Học thuyết dường như là một quan điểm mang tính vị kỷ dân tộc khi cho rằng hầu
hết các sản phẩm được phát minh tại Hoa Kỳ. Mặc dù, có thể đúng là trong suốt giai đoạn
nền kinh tế Hoa Kỳ chiếm lĩnh vị trí thống trị trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975,
nhưng không phải điều đó là luôn luôn đúng và vẫn luôn luôn tồn tại những trường hợp
ngoại lệ. Bên cạnh đó sự toàn cầu hóa và hội nhập của nền kinh tế thế giới đã khiến lý
thuyết này ngày nay kém giá trị hơn. Và hoạt động sản xuất phân tán trên toàn cầu được
giới thiệu ở nhiều thị trường cùng một lúc.
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
Chính phủ cần điều chỉnh thuế nhập khẩu hợp lý, để các doanh nghiệp này có thể
sản xuất tại các nước có chi phí nhân công, sản xuất rẻ hơn mà không lo sợ cạnh tranh về
giá cả trước các đối thủ. Đồng thời chính phủ của các nước đang phát triển cần quan tâm
đến luật lao động, vấn đề an toàn cho người lao động tránh tình trạng lạm dụng sức lao
động, hay thuê lao động là trẻ em, điều kiện sản xuất tệ hại ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động,. .
VI. Học thuyết thương mại mới
1. Tác giả, bối cảnh ra đời, bối cảnh lịch sử
Học thuyết thương mại mới bắt đầu nổi lên từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, khi một số
nhà kinh tế chỉ ra rằng việc đạt được lợi thế theo quy mô có thể có một ý nghĩa quan
trọng đối với thương mại quốc tế.
2. Nội dung học thuyết 6
Học thuyết thương mại mới nêu ra hai điểm quan trọng: Thứ nhất, thông qua tác
động lên lợi thế theo quy mô, thương mại có thể làm gia tăng mức độ đa dạng của của các
hàng hóa cung cấp cho người tiêu dùng và giảm bớt chi phí bình quân trên một sản phẩm.
Thứ hai, trong những ngành sản xuất, khi mà sản lượng đầu ra đòi hỏi đạt được lợi thế
theo quy mô, thì ngành đó phải có một tỷ trọng nhu cầu đáng kể trong tổng cầu thế giới,
thị trường toàn cầu chỉ có thể hỗ trợ cho một số ít các doanh nghiệp mà thôi. Do vậy,
thương mại thế giới của một số sản phẩm nhất định sẽ bị thống trị bởi các quốc gia, có
các doanh nghiệp là những người tiên phong trong lĩnh vực đó.
Đối với những sản phẩm mà lợi thế theo quy mô đóng vai trò quan trọng lớn và
chiếm một tỷ trọng đáng kể trong nhu cầu của thế giới, thì người đi tiên phong ngành đó
có thể giành được lợi thế chi phí vào quy mô sản xuất lớn. Và khi có được lợi thế, những
người tiên phong đó sẽ ngăn cản sự gia nhập của những doanh nghiệp khác vào thị trường thế giới.
3. Đóng góp của học thuyết
Học thuyết này khá hữu dụng trong việc giải thích mô hình thương mại. Đã được
những nghiên cứu thực nghiệm củng cố những dự đoán của giả thuyết này. Một nghiên
cứu tại đại học Harvard, Alfred Chandler, cho thấy rằng sự tồn tại của lợi thế người đi
trước là một nhân tố quan trọng để giải thích sự thống trị của các doanh nghiệp nhất định tại các quốc gia.
4. Hạn chế của học thuyết
Chủ nghĩa thương mại mới nhấn mạnh vai trò của vận may, sự tiên phong trong
kinh doanh và sự đột phá để có được lợi thế của doanh nghiệp đi trước. Đây là lý do để
biện hộ cho sự can thiệp chính phủ bằng cách sử dụng khôn khéo trợ cấp có thể tăng cơ
hội cho các doanh nghiệp nội địa để trở thành doanh nghiệp tiên phong trong các ngành
công nghiệp mới nổi. Đi ngược lại với các phương châm về thương mại tự do của các học
thuyết thương mại mà chúng ta đã nghiên cứu cho đến nay.
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ 7
Sự can thiệp chính phủ bằng cách sử dụng khôn khéo trợ cấp làm cho các doanh
nghiệp nội địa được hưởng lợi từ các hoạt động nghiên cứu có thể có được lợi thế tiên
phong trong các ngành công nghiệp mới.
VII. Lợi thế cạnh tranh quốc gia
1. Tác giả, thời gian ra đời, quốc gia ra đời
Vào những năm 1990 tại Hoa Kỳ, giáo sư Michael Porter của Đại học Kinh doanh
Harvard đã công bố học thuyết “Lợi thế cạnh tranh quốc gia: mô hình kim cương Porter”
sau những nỗ lực nghiên cứu tổng cộng 100 ngành công nghiệp tại 10 quốc gia khác nhau.
2. Nội dung chính của học thuyết
Porter giả thuyết rằng có 4 thuộc tính chung của quốc gia, tạo nên môi trường cạnh
tranh cho các công ty địa phương và các thuộc tính này khuyến khích hoặc cản trở sự
hình thành lợi thế cạnh tranh: •
Tính sẵn có của các yếu tố sản xuất - vị thế của 1 nước về các yếu tố sản xuất, ví
dụ như nguồn lao động lành nghề hoặc cơ sở hạ tầng cần thiết để cạnh tranh trong 1 ngành cụ thể. •
Các điều kiện về nhu cầu - bản chất của nhu cầu trong nước đối với hàng hóa hoặc dịch vụ của 1 ngành. •
Các ngành công nghiệp liên kết và phụ trợ - sự hiện diện hoặc không sẵn có của
các ngành phụ trợ và liên kết có năng lực cạnh tranh quốc tế. •
Chiến lược, cơ cấu và năng lực của doanh nghiệp - các điều kiện chi phối việc
thành lập, tổ chức, và quản trị doanh nghiệp như thế nào và tính chất của cạnh tranh trong nước.
Porter còn cho rằng 2 yếu tố khác có thể ảnh hưởng lớn tới mô hình kim cương
quốc gia trên là: cơ hội và chính phủ. Những cơ hội ví dụ như những phát minh sáng tạo
quan trọng có thể cơ cấu lại ngành và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vượt lên. Và bằng
các lựa chọn chính sách thì chính phủ có thể làm suy yếu hoặc cải thiện lợi thế quốc gia,
ví dụ như các quy định pháp luật, các chính sách chống độc quyền,. .
3. Giá trị của học thuyết 8
Học thuyết "Lợi thế cạnh tranh quốc gia: mô hình kim cương Porter" đã góp phần
giải thích một cách thuyết phục hiện tượng một số quốc gia có được vị trí dẫn đầu trong
việc sản xuất một số sản phẩm hoặc trong những ngành cụ thể.
4. Hạn chế của học thuyết
Nội dung phân tích của học thuyết này dựa trên những tổng kết thực tiễn, nhưng
điều này cũng hoàn toàn có thể phát biểu cho các học thuyết thương mại mới, lợi thế so
sánh, học thuyết Heckscher-Ohlin.
5. Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
Chính phủ có thể can thiệp một cách tích cực hoặc tiêu cực vào từng thuộc tính
trong mô hình kim cương trên: tính sẵn có của các yếu tố sản xuất bởi các khoản trợ cấp,
các chính sách đối với thị trường vốn, đối với giáo dục,…; xác lập nhu cầu nội địa thông
qua các tiêu chuẩn của sản phẩm nội địa hoặc các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng đến
nhu cầu của người mua; tác động tới các ngành liên kết và phụ trợ thông qua các quy
định; tác động đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua các công cụ như
chính sách thuế, quy định trên thị trường vốn, và luật chống độc quyền. 9
Document Outline
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
- TÊN ĐỀ TÀI
- I.Chủ nghĩa trọng thương
- 1.Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
- 2.Nội dung chính của học thuyết
- 3.Giá trị của học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
- II.Lợi thế tuyệt đối
- 1.Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
- 2.Nội dung chính của học thuyết
- 3.Giá trị của học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
- III.Lợi thế so sánh
- 1.Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
- 2.Nội dung chính của học thuyết
- 3.Giá trị của học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
- IV.Học thuyết Heckscher-ohlin
- 1.Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
- 2.Nội dung chính học thuyết
- 3.Giá trị học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ:
- V.Học thuyết về vòng đời sản phẩm
- 1.Thời gian ra đời, quốc gia ra đời, tác giả
- 2.Nội dung chính của học thuyết
- 3.Giá trị của học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
- VI.Học thuyết thương mại mới
- 1.Tác giả, bối cảnh ra đời, bối cảnh lịch sử
- 2.Nội dung học thuyết
- 3.Đóng góp của học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
- VII.Lợi thế cạnh tranh quốc gia
- 1.Tác giả, thời gian ra đời, quốc gia ra đời
- 2.Nội dung chính của học thuyết
- 3.Giá trị của học thuyết
- 4.Hạn chế của học thuyết
- 5.Quan điểm của học thuyết về vai trò của chính phủ
- I.Chủ nghĩa trọng thương