Tóm tắt các thời kỳ lịch sử của Triết học / Trường Đại học Kinh tế - Tài chính thành phố Hồ Chí Minh

Triết học thời cổ, trung đại. Lần đầu tiên các học thuyết triết học xuất hiện vào khoảng hơn 2.500 năm trước ở Ấn Độ, ở Trung Hoa và ở Hy Lạp cổ đại v.v. Những hệ thống triết học đầu tiên của HyLạp cổ đại mang tính duy vật tự phát và tính biện chứng ngây thơ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
6 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tóm tắt các thời kỳ lịch sử của Triết học / Trường Đại học Kinh tế - Tài chính thành phố Hồ Chí Minh

Triết học thời cổ, trung đại. Lần đầu tiên các học thuyết triết học xuất hiện vào khoảng hơn 2.500 năm trước ở Ấn Độ, ở Trung Hoa và ở Hy Lạp cổ đại v.v. Những hệ thống triết học đầu tiên của HyLạp cổ đại mang tính duy vật tự phát và tính biện chứng ngây thơ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

102 51 lượt tải Tải xuống
TÓM TẮT CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
1. Triết học thời cổ, trung đại. Lần đầu tiên các học thuyết triết học xuất hiện vào
khoảng hơn 2.500 năm trước ở Ấn Độ, ở Trung Hoa và ở Hy Lạp cổ đại v.v.
- Những hệ thống triết học đầu tiên ca HyLạp cổ đại mang tính duy vật tự phát và tính
biện chứng ngây thơ. Hình thức biện chứng đầu tiên trong lịch sử triết học là phép biện
chứng cổ đại, mà đại biểu lớn nhất là Hêraclít (khoảng 540-480 tr.c.n). Thuyết nguyên
tử của chủ nghĩa duy vật được Đêmôcrít (khoảng 460-370 tr.c.n) đưa ra; ý tưởng đó của
ông được Êpiquya (341-279 tr.c.n) và Lu cờ ren ci phát triển. Nhà triết học đầu tiên của
chủ nghĩa duy m Platôn (427-347 tr.c.n), ông là người phát triển biện chứng sâu sắc
mối liên hệ ca các khái niệm. Triết học cổ đại phát triển tới cực điểm nhờ Arítxtốt
(384-322 tr.c. n), người đã tạo ra hệ thống chung nhất về khối lượng của tri thức khoa
học-triết học.
2. Triết học thời Trung cổ. Cùng với sự xuất hiện ca chế độ phong kiến, Thiên chúa
giáo đã ngự tr thế giới quan ở Tây Âu. Giai đoạn đầu của triết học Thiên chúa giáo
trong thời kỳ Trung cổ Pa tri xti ca (ẽàũỗốủũốờà), trên sở của Patrixtica, chủ nghĩa
kinh viện đã thống trị trong các thế kỷ từ IX đến XII. Chủ nghĩa kinh viện được coi là
mục đích của triết học trong sự biện giải của các nhà giáo điều. Trong các thế ktừ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIV xẩy ra cuộc tranh luận giữa thuyết duy thực (thực thể luận) (đại
diện là A.Kentơ rờ beri xki. Phôma Ăcvinxki)- thuyết này khảng định sự tồn tại nằm
bên ngoài trí tuệ con người với thuyết duy danh (đại diện là Rốt xelin, Đunxcốt,
Occam)- thuyết này công nhận stồn tại hiện thực chỉ của các svật đơn nhất. Kết quả
của cuộc tranh luận trên là sự thể hiện của cuộc đấu tranh giữa xu hướng duy vậtxu
hướng duy tâm. Hướng chủ đạo của triết học Ả rập thời Trung cổ là hệ thống triết học
Pe ri pa tét phía Đông (xem: trường phái Peripatét) với những người chỉ hướng và phát
triển các học thuyết của mình như: Kin đi, Pha ra bi, I bi, Xin na, Ibi Rusd.
3. Triết học thời Phục hưng. Sự phát triển của nền sản xuất vật chất, cuộc đấu tranh
giai cấp trong phương thức sản xuất phong kiến ngày càng trở nên gay gắt hơn đã dẫn
tới điều tất yếu chủ nghĩa bản phải thay thế chủ nghĩa phong kiến. Sự phát triển của
kỹ thuật và tri thức tự nhiên đòi hỏi phải giải phóng văn hoá tinh thần khỏi sự thng tr
của thế giới quan duy tâm-tôn giáo. "Cú đấm" đầu tiên vào bức tranh tôn giáo của thế
giới là của những nhà tư tưởng vĩ đại thời kỳ Phục hưng như Côpécníc (1473-1543, Ba
lan), Galilê (1564-1642, Italia), Mônten, Campanella v.v. Các tư tưởng của những nhà
tưởng thời kPhục hưng là sự phát triển triết học của thời đại mới. Sự tiến bộ của tri
thức kinh nghiệm, của khoa học đã đòi hỏi sự thay thế phương pháp kinh viện của tư
duy bằng phương pháp mới của snhận thức: phương pháp tiếp cận thế giới hiện thực.
Các nguyên lý của ch nghĩa duy vậtnhững thành tố của phép biện chứng ra đời và
phát triển; nhưng chủ nghĩa duy vật thời đó, về tổng thể, là chủ nghĩa duy vật máy móc
và siêu hình.
4. Triết học thời cn đại. Người đầu tiên sinh ra chủ nghĩa duy vật thời cận đại
Ph.Bêcơn (1561-1626, Anh), người cho rằng mục đích tối cao ca khoa học là bảo đảm
cho sự thống trị của con người đối với tự nhiên. T.Hốpxơ (1588-1679, Anh) là người
sáng lập ra hệ thống toàn diện đầu tiên của chủ nghĩa duy vật máy móc. Nếu như
Ph.Bêcơn và T.Hốpxơ, trong chừng mực nào đấy, đưa ra phương pháp nghiên cứu trực
quan về giới tự nhiên, thì R.Đềcáctơ (1596-1650, Pháp) là người sáng lập ra ch nghĩa
duy lý, cố soạn ra một phương pháp chung cho mọi khoa học. Tính chất đặc trưng của
học thuyết đó là tính nhị nguyên: cái "biết suy nghĩ" và cái "quảng tính" của thực thể.
B.Xpinôda (1632-1677, Hà lan) chống lại tính nhị nguyên của Đềcáctơ bằng chủ nghĩa
nhất nguyên duy vật. Lốccơ (1632-1074, Anh) phát triển thuyết duy cảm (cảm giác
luận). Các tư tưởng đối lập với chủ nghĩa duy vật được phát triển bằng chủ nghĩa duy
tâm chủ quan trong các phương án khác nhau của nó (Béccơli (1685-1753), Hium
(1711-1776)). Liêybờnhít (Liebniz 16461716) ng soạn ra học thuyết duym khách
quan, trong đó thể hiện ra mt loạt các tư tưởng biện chứng.
Nửa cuối của thế kỷ XVIII thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa phong kiến
ở nước Pháp và là thời kỳ của cuộc cách mạng tư sản Pháp. Vai trò quan trọng trong
việc chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng đặt lên vai các nhà triết học duy vật
Pháp như La Mêtri (1709-1751), Điđrô (1713-1784), Hônbách (17231789), Henvenxi,
họ là những nhà tư tưởng chống lại thần học và chủ nghĩa duy tâm. Đặc điểm nổi bật
của triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII là sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức trong sự
phát triển của xã hội, nhận thức duy tâm về lịch sử.
Giai đoạn quan trọng của lịch sử triết học Tây Âu là triết học cổ điển Đức (Cantơ,
Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen những người phát triển phép biện chứng duy tâm). Đỉnh cao
của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức phép biện chứng của Hêghen (17701831), hạt
nhân của phép biện chứng đó là học thuyết về mâu thuẫn và sự phát triển. Phoiơbắc
(1804-1872) chống lại triết học duy tâm và tôn giáo, phát triển học thuyết về chủ nghĩa
duy vật nhân bản.
Vào các thế kỷ XVIII-XIX, tư tưởng triết học duy vật tiến b đã phát triển nước Nga.
tưởng đó đã đi o truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật, người đầu tiên
sinh ra tưởng đó M.V.Lômônôxốp (1711- 1765) tưởng đó, bắt đầu t
Rađisép, vững bước đi vào thế giới quan của những nhà hoạt động xã hội tiên tiến của
nước Nga. Trong các tác phẩm của V.G.Bêlinxki (1811-1848), A.I.Gécxen
(1812-1870), N.G. Trernưxépxki (1828-1889), N.A. Đốpbờraliubốp (1836-1861)
của những người bạn chiến đấu của họ và những người đi sau hđã tạo ra được sự phát
triển của triết học cách mạng dân chủ Nga, gắn trong mình một nấc thang mới trong sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
5. triết học Mác.
Chủ nghĩa Mác nói chung triết học Mác một bộ phận của chủ nghĩa Mác nói riêng,
xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi giai cấp vô sản thể hiện mình trên vũ
đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập. Tính cấp thiết về kinh tế-xã hội, khoa
học-luận chính trị trực tiếp quy định sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác. Sự xuất hiện
của chủ nghĩa Mác là sự trả lời khoa học cho các vấn đề xuất hiện trong quá trình phát
triển của thực tiễn hội của svận động lôgíc nhận thức của con người. C.Mác
(1818-1883) Ph.Ăngghen (1820-1895) đã phân tích một cách sâu sắc phê phán
thực tiễn hội trên sở kế thừa biện chứng và sắp xếp lại các ưu điểm đã trong
lĩnh vực triết học và tư tưởng xã hội trước để xây dựng một thế giới quan mới về chất.
6. Triết học phương Tây hiện đại:
Triết học phương Tây hiện đại được hiểu là triết học Tây Âu và triết học Hoa Kỳ
cuối thế kỷ XIX - XX. Bao gồn các trường phái sau đâu:
Chủ nghĩa thực chứng - Đây là một phương hướng triết học dựa trên nguyên tắc
rằng tất cả tri thức chính xác và tích cực đều có thể được phát huy bởi kết quả của các
nghiên cứu khoa học đặc biệt, riêng biệt sự kết hợp của chúng. Triết học được coi
một khoa học đặc biệt, tự do và độc lập trong việc nghiên cứu các chân lý và không có
sự hạn chế của bất kỳ quyền lực nào
Hình thức lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa thực chứng hình thành vào những năm
30-40 của thế kỷ 19. Người sáng lập ra nhà triết học người Pháp O. Comte
(1798-1857). Theo Comte, rất nhiều khoa học không phải là giải thích, mà là mô tả sự
vật. Về nguyên tắc, khoa học không thể trả lời câu hỏi: "Tại sao?", Nó phải tự giới hạn
mình trong tuyên bố về sự kiện và trả lời câu hỏi: "Làm thế nào?" Chỉ khi đó, khoa học
mới có thể trở nên tích cực. Nhiệm vụ của nó là hệ thống hóa
các tri thức khoa học cụ thể trên cơ sở phân loại các ngành khoa học mt cách hợp lý.
Chủ nghĩa cấu trúc - Đây một hướng phương pháp luận trong một số ngành
khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, dân tộc học, tâm lý học, lịch sử), đưa đến việc phân
tích cấu trúc của đối tượng nghiên cứu. nguồn gốc Pháp vào nửa đầu thế k20.
Các đại diện chính của chủ nghĩa cấu trúc là nnhân học C. Lévi- Strauss, nhà phân
tâm học J. Lacan, nhà triết học M.P. Foucault và L. Althuser.
sở ca phương pháp cấu trúc được hình thành bằng cách xác định cấu trúc
một tập hợp các quan hbất biến (không thay đổi) dưới những biến đổi nhất định.
Theo cách hiểu này, khái niệm cấu trúc đặc trưng không chỉ là một "khung xương" ổn
định của một vật thể, mà là một tập hợp các quy tắc mà theo đó người ta thể có được
vật thể thhai, thứ ba, v.v. bằng cách sắp xếp lại các phần tử của và một số đối xứng
khác. các phép biến hình. Việc bộc lộ các quy luật cấu trúc của một tập hợp các đối
tượng nhất định đạt được bằng cách suy ra sự khác biệt giữa các đối tượng này như là
các biến thể c thể của một bất biến trừu tượng duy nhất chuyển thành lẫn nhau.
Chủ nghĩa thực dụng - Các đại diện chính ca chủ nghĩa thực dụng các nhà
triết học Mỹ Charles Pierce (1839-1914), Charles James (1862-1910), J. Dewey
(1859-1952).
Ý tưởng chủ nghĩa thực dụng đầu tiên do Charles Pierce giới thiệu. Ông chống lại
ý tưởng về bẩm sinh và kiến thức trực quan cho rằng nhận thức cần xem xét tất cả
hậu quả thực tế từ hành động đối với đối ợng. Kiến thức của chúng ta về đối tượng
luôn không hoàn thiện và có tính giả thuyết. Điều này áp dụng cho cả kiến thức thông
thường, khoa học tự nhiên, toán học logic. Sự thật theo cách hiểu của Peirce
ràng và nhất quán trong mt giai đoạn nhất định. Chân lý và mục tiêu tìm kiếm sự thật
là những gì dẫn đến chúng ta quan tâm đến việc tìm kiếm chân lý. Tiện ích xác định ý
nghĩa và độ tin cậy của chân lý.
Theo W. James, chân lý của tri thức được quyết định bởi tính hữu ích cho hành vi
sự thành ng, không chtiêu chí duy nhất mà còn nội dung. Triết học không
góp vào việc định nghĩa nguyên tắc cơ bản là cung cấp phương pháp giải quyết vấn
đề trong cuộc sống. Kinh nghiệm ban đầu không xác định và đối tượng nhận thức được
hình thành từ nỗ lực giải quyết vấn đề. Mục đích của tư duy là lựa chọn cách đạt được
thành công.
Triết học của J. Dewey bản nhấn mạnh vào kinh nghiệm, tất cả các hình thức
biểu hiện của cuộc sống con người. Nhiệm vụ của triết học tổ chức kinh nghiệm sống,
cải thiện cuộc sống hội. Phương pháp khoa học trí là phương tiện quan trọng
trong việc giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Ý tưởng, khái niệm và lý thuyết đúng và
hữu ích khi hoạt động thành công trong hoàn cảnh quan trọng đạt được mục tiêu thực
dụng. Các phương tiện được lựa chọn phải phù hợp với bản chất của vấn đề mục tiêu,
không được mang tính chủ quan và đạo hàm.Các nguyên tắc của chủ nghĩa thực dụng
đã có tác động đáng kể đến phong cách duy và thực hành chung của người Mỹ, bao
gồm cả chính trị.
Thuyết hiện sinh - Đây một xu hướng phi trí trong triết học hiện đại xuất
hiện vào đầu thế kỷ 20 tìm cách hiểu là sự toàn vẹn trực tiếp không phân chia của
chủ thể và khách thể. Hai hướng của thuyết hiện sinh là tôn giáo đại diện bởi các nhà
tưởng như K. Jaspers (1883-1969), G. Marcel (1889-1973) thần, đại diện M.
Heidegger (1889-1976), J.P. Sartre (1905-1980), A. Camus (1913-1960).
Thuyết hiện sinh đề cao stồn tại của con người với tư cách chủ thể tạo ra chính
bản thân mình bằng sự lừa chọn trách nhiệm. Con người phải chịu trách nhiệm vsự
lựa chọn của mình, bởi bằng cách "tạo ra" chính mình, anh ta cũng tạo ra những
người khác và thế giới. Trong tình huống sống thực, con người phải đối mặt với tương
lai cái chết, và chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Sự tồn tại tạo ra nỗi sợ hãi,
sự lo lắng, như một tình huống hiện sinh.
Phân tâm học: Người sáng lập ra phân tâm học bác sĩ người Áo Freud
(1856-1939). Công lao của ông phát hiện ra một khu vực đặc biệt của tâm hồn con
người - vô thức. Freud đã nghiên cứu cấu trúc của thức, ảnh hưởng của nó đối với
đời sống cá nhân và xã hội.
Theo Freud, hoạt động của con người là do sự hiện diện của cả động lực sinh học
hội. Vai trò chi phối được thực hiện bởi "bản năng sống" - eros "bản năng chết"
- thanatos. Ông cho rằng một người thể kìm nén ham muốn của mình, dẫn đến các rối
loạn tâm thần khác nhau, hoặc sở hữu bản năng đam của mình kiểm soát
chúng một cách có ý thức trong cuộc sống thực. Nhiệm vụ của phân tâm học là chuyển
vật chất thức của tâm hồn con người vào lĩnh vực ý thức phục vụ mục tiêu của nó.
Dần dần, phân tâm học "phát triển" tmột phương pháp y học lên cấp độ của một
xu hướng triết học nhằm giải thích các hiện tượng cá nhân, văn hóa và xã hội.
| 1/6

Preview text:

TÓM TẮT CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
1. Triết học thời cổ, trung đại. Lần đầu tiên các học thuyết triết học xuất hiện vào
khoảng hơn 2.500 năm trước ở Ấn Độ, ở Trung Hoa và ở Hy Lạp cổ đại v.v.
- Những hệ thống triết học đầu tiên của HyLạp cổ đại mang tính duy vật tự phát và tính
biện chứng ngây thơ. Hình thức biện chứng đầu tiên trong lịch sử triết học là phép biện
chứng cổ đại, mà đại biểu lớn nhất là Hêraclít (khoảng 540-480 tr.c.n). Thuyết nguyên
tử của chủ nghĩa duy vật được Đêmôcrít (khoảng 460-370 tr.c.n) đưa ra; ý tưởng đó của
ông được Êpiquya (341-279 tr.c.n) và Lu cờ ren ci phát triển. Nhà triết học đầu tiên của
chủ nghĩa duy tâm là Platôn (427-347 tr.c.n), ông là người phát triển biện chứng sâu sắc
mối liên hệ của các khái niệm. Triết học cổ đại phát triển tới cực điểm nhờ Arítxtốt
(384-322 tr.c. n), người đã tạo ra hệ thống chung nhất về khối lượng của tri thức khoa học-triết học.
2. Triết học thời Trung cổ. Cùng với sự xuất hiện của chế độ phong kiến, Thiên chúa
giáo đã ngự trị thế giới quan ở Tây Âu. Giai đoạn đầu của triết học Thiên chúa giáo
trong thời kỳ Trung cổ là Pa tri xti ca (ẽàũỗốủũốờà), trên cơ sở của Patrixtica, chủ nghĩa
kinh viện
đã thống trị trong các thế kỷ từ IX đến XII. Chủ nghĩa kinh viện được coi là
mục đích của triết học trong sự biện giải của các nhà giáo điều. Trong các thế kỷ từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIV xẩy ra cuộc tranh luận giữa thuyết duy thực (thực thể luận) (đại
diện là A.Kentơ rờ beri xki. Phôma Ăcvinxki)- thuyết này khảng định sự tồn tại nằm
bên ngoài trí tuệ con người với thuyết duy danh (đại diện là Rốt xelin, Đunxcốt,
Occam)- thuyết này công nhận sự tồn tại hiện thực chỉ của các sự vật đơn nhất. Kết quả
của cuộc tranh luận trên là sự thể hiện của cuộc đấu tranh giữa xu hướng duy vật và xu
hướng duy tâm. Hướng chủ đạo của triết học Ả rập thời Trung cổ là hệ thống triết học
Pe ri pa tét phía Đông (xem: trường phái Peripatét) với những người chỉ hướng và phát
triển các học thuyết của mình như: Kin đi, Pha ra bi, I bi, Xin na, Ibi Rusd.
3. Triết học thời Phục hưng. Sự phát triển của nền sản xuất vật chất, cuộc đấu tranh
giai cấp trong phương thức sản xuất phong kiến ngày càng trở nên gay gắt hơn đã dẫn
tới điều tất yếu là chủ nghĩa tư bản phải thay thế chủ nghĩa phong kiến. Sự phát triển của
kỹ thuật và tri thức tự nhiên đòi hỏi phải giải phóng văn hoá tinh thần khỏi sự thống trị
của thế giới quan duy tâm-tôn giáo. "Cú đấm" đầu tiên vào bức tranh tôn giáo của thế
giới là của những nhà tư tưởng vĩ đại thời kỳ Phục hưng như Côpécníc (1473-1543, Ba
lan), Galilê (1564-1642, Italia), Mônten, Campanella v.v. Các tư tưởng của những nhà
tư tưởng thời kỳ Phục hưng là sự phát triển triết học của thời đại mới. Sự tiến bộ của tri
thức kinh nghiệm, của khoa học đã đòi hỏi sự thay thế phương pháp kinh viện của tư
duy bằng phương pháp mới của sự nhận thức: phương pháp tiếp cận thế giới hiện thực.
Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và những thành tố của phép biện chứng ra đời và
phát triển; nhưng chủ nghĩa duy vật thời đó, về tổng thể, là chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
4. Triết học thời cận đại. Người đầu tiên sinh ra chủ nghĩa duy vật thời cận đại là
Ph.Bêcơn (1561-1626, Anh), người cho rằng mục đích tối cao của khoa học là bảo đảm
cho sự thống trị của con người đối với tự nhiên. T.Hốpxơ (1588-1679, Anh) là người
sáng lập ra hệ thống toàn diện đầu tiên của chủ nghĩa duy vật máy móc. Nếu như
Ph.Bêcơn và T.Hốpxơ, trong chừng mực nào đấy, đưa ra phương pháp nghiên cứu trực
quan về giới tự nhiên, thì R.Đềcáctơ (1596-1650, Pháp) là người sáng lập ra chủ nghĩa
duy lý, cố soạn ra một phương pháp chung cho mọi khoa học. Tính chất đặc trưng của
học thuyết đó là tính nhị nguyên: cái "biết suy nghĩ" và cái "quảng tính" của thực thể.
B.Xpinôda (1632-1677, Hà lan) chống lại tính nhị nguyên của Đềcáctơ bằng chủ nghĩa
nhất nguyên duy vật. Lốccơ (1632-1074, Anh) phát triển thuyết duy cảm (cảm giác
luận). Các tư tưởng đối lập với chủ nghĩa duy vật được phát triển bằng chủ nghĩa duy
tâm chủ quan trong các phương án khác nhau của nó (Béccơli (1685-1753), Hium
(1711-1776)). Liêybờnhít (Liebniz 16461716) cũng soạn ra học thuyết duy tâm khách
quan, trong đó thể hiện ra một loạt các tư tưởng biện chứng.
Nửa cuối của thế kỷ XVIII là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa phong kiến
ở nước Pháp và là thời kỳ của cuộc cách mạng tư sản Pháp. Vai trò quan trọng trong
việc chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng đặt lên vai các nhà triết học duy vật
Pháp như La Mêtri (1709-1751), Điđrô (1713-1784), Hônbách (17231789), Henvenxi,
họ là những nhà tư tưởng chống lại thần học và chủ nghĩa duy tâm. Đặc điểm nổi bật
của triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII là sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức trong sự
phát triển của xã hội, nhận thức duy tâm về lịch sử.
Giai đoạn quan trọng của lịch sử triết học Tây Âu là triết học cổ điển Đức (Cantơ,
Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen là những người phát triển phép biện chứng duy tâm). Đỉnh cao
của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức là phép biện chứng của Hêghen (17701831), mà hạt
nhân của phép biện chứng đó là học thuyết về mâu thuẫn và sự phát triển. Phoiơbắc
(1804-1872) chống lại triết học duy tâm và tôn giáo, phát triển học thuyết về chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Vào các thế kỷ XVIII-XIX, tư tưởng triết học duy vật tiến bộ đã phát triển ở nước Nga.
Tư tưởng đó đã đi vào truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật, mà người đầu tiên
sinh ra tư tưởng đó là M.V.Lômônôxốp (1711- 1765) và tư tưởng đó, bắt đầu từ
Rađisép, vững bước đi vào thế giới quan của những nhà hoạt động xã hội tiên tiến của
nước Nga. Trong các tác phẩm của V.G.Bêlinxki (1811-1848), A.I.Gécxen
(1812-1870), N.G. Trernưxépxki (1828-1889), N.A. Đốpbờraliubốp (1836-1861) và
của những người bạn chiến đấu của họ và những người đi sau họ đã tạo ra được sự phát
triển của triết học cách mạng dân chủ Nga, gắn trong mình một nấc thang mới trong sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật trước Mác. 5. triết học Mác.
Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác là một bộ phận của chủ nghĩa Mác nói riêng,
xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi giai cấp vô sản thể hiện mình trên vũ
đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập. Tính cấp thiết về kinh tế-xã hội, khoa
học-lý luận và chính trị trực tiếp quy định sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác. Sự xuất hiện
của chủ nghĩa Mác là sự trả lời khoa học cho các vấn đề xuất hiện trong quá trình phát
triển của thực tiễn xã hội và của sự vận động lôgíc nhận thức của con người. C.Mác
(1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã phân tích một cách sâu sắc và có phê phán
thực tiễn xã hội trên cơ sở kế thừa biện chứng và sắp xếp lại các ưu điểm đã có trong
lĩnh vực triết học và tư tưởng xã hội trước để xây dựng một thế giới quan mới về chất.
6. Triết học phương Tây hiện đại:
Triết học phương Tây hiện đại được hiểu là triết học Tây Âu và triết học Hoa Kỳ
cuối thế kỷ XIX - XX. Bao gồn các trường phái sau đâu:
Chủ nghĩa thực chứng - Đây là một phương hướng triết học dựa trên nguyên tắc
rằng tất cả tri thức chính xác và tích cực đều có thể được phát huy bởi kết quả của các
nghiên cứu khoa học đặc biệt, riêng biệt và sự kết hợp của chúng. Triết học được coi là
một khoa học đặc biệt, tự do và độc lập trong việc nghiên cứu các chân lý và không có
sự hạn chế của bất kỳ quyền lực nào
Hình thức lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa thực chứng hình thành vào những năm
30-40 của thế kỷ 19. Người sáng lập ra nó là nhà triết học người Pháp O. Comte
(1798-1857). Theo Comte, rất nhiều khoa học không phải là giải thích, mà là mô tả sự
vật. Về nguyên tắc, khoa học không thể trả lời câu hỏi: "Tại sao?", Nó phải tự giới hạn
mình trong tuyên bố về sự kiện và trả lời câu hỏi: "Làm thế nào?" Chỉ khi đó, khoa học
mới có thể trở nên tích cực. Nhiệm vụ của nó là hệ thống hóa
các tri thức khoa học cụ thể trên cơ sở phân loại các ngành khoa học một cách hợp lý. ■
Chủ nghĩa cấu trúc - Đây là một hướng phương pháp luận trong một số ngành
khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, dân tộc học, tâm lý học, lịch sử), đưa đến việc phân
tích cấu trúc của đối tượng nghiên cứu. Nó có nguồn gốc ở Pháp vào nửa đầu thế kỷ 20.
Các đại diện chính của chủ nghĩa cấu trúc là nhà nhân học C. Lévi- Strauss, nhà phân
tâm học J. Lacan, nhà triết học M.P. Foucault và L. Althuser.
Cơ sở của phương pháp cấu trúc được hình thành bằng cách xác định cấu trúc là
một tập hợp các quan hệ là bất biến (không thay đổi) dưới những biến đổi nhất định.
Theo cách hiểu này, khái niệm cấu trúc đặc trưng không chỉ là một "khung xương" ổn
định của một vật thể, mà là một tập hợp các quy tắc mà theo đó người ta có thể có được
vật thể thứ hai, thứ ba, v.v. bằng cách sắp xếp lại các phần tử của nó và một số đối xứng
khác. các phép biến hình. Việc bộc lộ các quy luật cấu trúc của một tập hợp các đối
tượng nhất định đạt được bằng cách suy ra sự khác biệt giữa các đối tượng này như là
các biến thể cụ thể của một bất biến trừu tượng duy nhất chuyển thành lẫn nhau.
Chủ nghĩa thực dụng - Các đại diện chính của chủ nghĩa thực dụng là các nhà
triết học Mỹ Charles Pierce (1839-1914), Charles James (1862-1910), J. Dewey (1859-1952).
Ý tưởng chủ nghĩa thực dụng đầu tiên do Charles Pierce giới thiệu. Ông chống lại
ý tưởng về bẩm sinh và kiến thức trực quan và cho rằng nhận thức cần xem xét tất cả
hậu quả thực tế từ hành động đối với đối tượng. Kiến thức của chúng ta về đối tượng
luôn không hoàn thiện và có tính giả thuyết. Điều này áp dụng cho cả kiến thức thông
thường, khoa học tự nhiên, toán học và logic. Sự thật theo cách hiểu của Peirce là rõ
ràng và nhất quán trong một giai đoạn nhất định. Chân lý và mục tiêu tìm kiếm sự thật
là những gì dẫn đến chúng ta quan tâm đến việc tìm kiếm chân lý. Tiện ích xác định ý
nghĩa và độ tin cậy của chân lý.
Theo W. James, chân lý của tri thức được quyết định bởi tính hữu ích cho hành vi
và sự thành công, không chỉ là tiêu chí duy nhất mà còn là nội dung. Triết học không
góp vào việc định nghĩa nguyên tắc cơ bản mà là cung cấp phương pháp giải quyết vấn
đề trong cuộc sống. Kinh nghiệm ban đầu không xác định và đối tượng nhận thức được
hình thành từ nỗ lực giải quyết vấn đề. Mục đích của tư duy là lựa chọn cách đạt được thành công.
Triết học của J. Dewey cơ bản nhấn mạnh vào kinh nghiệm, tất cả các hình thức
biểu hiện của cuộc sống con người. Nhiệm vụ của triết học là tổ chức kinh nghiệm sống,
cải thiện cuộc sống xã hội. Phương pháp khoa học và lý trí là phương tiện quan trọng
trong việc giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Ý tưởng, khái niệm và lý thuyết đúng và
hữu ích khi hoạt động thành công trong hoàn cảnh quan trọng và đạt được mục tiêu thực
dụng. Các phương tiện được lựa chọn phải phù hợp với bản chất của vấn đề và mục tiêu,
không được mang tính chủ quan và đạo hàm.Các nguyên tắc của chủ nghĩa thực dụng
đã có tác động đáng kể đến phong cách tư duy và thực hành chung của người Mỹ, bao gồm cả chính trị.

Thuyết hiện sinh - Đây là một xu hướng phi lý trí trong triết học hiện đại xuất
hiện vào đầu thế kỷ 20 và tìm cách hiểu nó là sự toàn vẹn trực tiếp không phân chia của
chủ thể và khách thể. Hai hướng của thuyết hiện sinh là tôn giáo đại diện bởi các nhà tư
tưởng như K. Jaspers (1883-1969), G. Marcel (1889-1973) và vô thần, đại diện M.
Heidegger (1889-1976), J.P. Sartre (1905-1980), A. Camus (1913-1960).
Thuyết hiện sinh đề cao sự tồn tại của con người với tư cách là chủ thể tạo ra chính
bản thân mình bằng sự lừa chọn và trách nhiệm. Con người phải chịu trách nhiệm về sự
lựa chọn của mình, bởi vì bằng cách "tạo ra" chính mình, anh ta cũng tạo ra những
người khác và thế giới. Trong tình huống sống thực, con người phải đối mặt với tương
lai và cái chết, và chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Sự tồn tại tạo ra nỗi sợ hãi,
sự lo lắng, như một tình huống hiện sinh.
Phân tâm học: Người sáng lập ra phân tâm học là bác sĩ người Áo Freud
(1856-1939). Công lao của ông là phát hiện ra một khu vực đặc biệt của tâm hồn con
người - vô thức. Freud đã nghiên cứu cấu trúc của vô thức, ảnh hưởng của nó đối với
đời sống cá nhân và xã hội.
Theo Freud, hoạt động của con người là do sự hiện diện của cả động lực sinh học
và xã hội. Vai trò chi phối được thực hiện bởi "bản năng sống" - eros và "bản năng chết"
- thanatos. Ông cho rằng một người có thể kìm nén ham muốn của mình, dẫn đến các rối
loạn tâm thần khác nhau, hoặc sở hữu bản năng và đam mê của mình và kiểm soát
chúng một cách có ý thức trong cuộc sống thực. Nhiệm vụ của phân tâm học là chuyển
vật chất vô thức của tâm hồn con người vào lĩnh vực ý thức và phục vụ mục tiêu của nó.
Dần dần, phân tâm học "phát triển" từ một phương pháp y học lên cấp độ của một
xu hướng triết học nhằm giải thích các hiện tượng cá nhân, văn hóa và xã hội.