I. TÓM TẮT BÀI BÁO
Phần 1: Tác giả khảo sát và nhận thấy có sự thiên vị giữa việc đầu tư trong nước trong một danh
mục đầu tư quốc tế
Phần 2: Đưa ra những lời giải thích định tính mang tính thuyết về sự ưu tiên của việc đầu
trong nước
Phần 3: Đưa ra những lời giải thích định tính dựa trên quan sát thực nghiệm về sự ưu tiên của việc
đầu tư trong nước
Phần 4: Mô tả dữ liệu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi.
Phần 5: Phác thảo tiến hành kiểm tra ưu tiên sử dụng vốn của địa phương (ưu tiên đầu nội
địa)
Phần 6: Xem xét mối quan hệ giữa các đặc điểm khác nhau của các công ty với mức độ thiên lệch
về đầu tư nơi quen thuộc
Phần 7: Mở rộng phân tích để bao gồm một số đặc điểm của người quản lý quỹ
Phần 8: Kết luận
Các phần 4, 5, 6 và 7 của bài báo đã đề cập đến đề tài nghiên cứu “Chứng minh sự tồn tại
về sai lệch liên quan dến sự quen thuộc”.
Phần 1: Tác giả khảo sát và nhận thấy có sự thiên vị giữa việc đầu tư trong nước trong một
danh mục đầu tư quốc tế
Các tác giả xem xét đầu tư trong nước tại Hoa Kỳ của các nhà quản lý đầu tư và tìm thấy sự thiên
vị đối với các công ty trụ sở chính gần địa điểm của các nhà quản lý. Từ đó các tác giả suy ra
từ nghiên cứu của họ trong nước sang quốc tế. Các tác giả nhận thấy rằng một phần ba tổng số tiền
được đầu tại nước sở tại trong danh mục đầu tư quốc tế là sự thiên lệch hay còn là kết quả của
sự thiên vị về sự gần gũi về mặt địa lý tồn tại trong danh mục đầu tư trong nội địa.
Các tác giả nhận thấy SỰ ƯU TIÊN MẠNH MẼ ĐỐI VỚI CỔ PHIẾU TRONG NƯỚC được thể
hiện bởi các nhà đầu trên thị trường quốc tế, bất chấp những lợi ích được ghi nhận rõ ràng từ sự
đa dạng hóa quốc tế. Theo tài liệu này, các nhà giao dịch cổ phiếu Hoa Kỳ phân bổ gần 94% nguồn
vốn của họ cho chứng khoán trong nước, mặc dù thị trường cổ phiếu Hoa Kỳ chỉ chiếm chưa đến
48% thị trường cổ phiếu toàn cầu. Mặc hành vi như vậy dường như cực kỳ kém hiệu quả từ
quan điểm đa dạng hóa, các học giả đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau cho hiện tượng này.
Bài báo sẽ giúp cho chúng ta hiểu rõ hành vi về sự thiên vị đối với sự quen thuộc của nhà đầu tư.
Phần 2: Một số lời giải thích định tính được đưa ra để chứng minh cho hiện tượng thiên vị
đối với đầu tư tại nơi quen thuộc (đầu tư tại nội địa)
Khi vốn vượt qua ranh giới chính trị và tiền tệ, phải đối mặt với biến động tỷ giá hối đoái, sự
thay đổi trong quy định, văn hóa và thuế cũng như rủi ro quốc gia. Một số nghiên cứu cho rằng sự
khác biệt về thông tin giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu trong nước là động lực đằng sau
sự thiên vị trong nước, những nghiên cứu khác lại cho rằng nguyên nhân chính là do nhà đầu tư lo
ngại về việc phòng ngừa rủi ro đầu ra của các công ty sản xuất hàng hóa không được giao dịch
quốc tế.
Ngược lại, các nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn về các công ty ở gần họ, Các nhà
đầu địa phương thể nói chuyện với nhân viên, người quản nhà cung cấp của công ty,
họ có thể có mối quan hệ cá nhân chặt chẽ với các giám đốc điều hành địa phương - tất cả những
điều này thể mang lại cho họ lợi thế về thông tin về cổ phiếu địa phương. Tương tự như vậy,
các nhà đầu tư có thể thích đầu tư gần hơn để phòng ngừa sự tăng giá của các dịch vụ địa phương
hoặc hàng hóa không dễ dàng giao dịch bên ngoài khu vực địa phương. Tổng quát hơn, các nhà
đầu có thể ưu tiên các khoản đầu tư gần nhau về mặt địa lý phát sinh từ một số nguồn tiềm năng.
Phần 3: Một số lời giải thích được quan sát từ thực tế được đưa ra để chứng minh cho hiện
tượng thiên vị đối với đầu tư tại nơi quen thuộc (đầu tư tại nội địa)
Các tác giả đo lường mức độ ưu tiên đối với các cổ phiếu gần về mặt địa lý của các nhà quản lý
tiền tệ Hoa Kỳ khi họ nắm giữ cổ phần của các công ty có trụ sở tại Hoa Kỳ. Sử dụng cơ sở dữ
liệu duy nhất về người quản lý quỹ tương hỗ và vị trí công ty, được xác định theo vĩ độ và kinh
độ.
Cụ thể họ quan sát được rằng người quản lý quỹ trung bình ở Hoa Kỳ đầu tư vào các công ty nằm
cách cô ấy từ 160 đến 184 km, hay 9 đến 11%, gần cô ấy hơn so với công ty trung bình. Ngoài ra,
cứ 10 công ty trong danh mục đầu của người quản quỹ thì một công ty được chọn
nằm cùng thành phố với người quản lý. Sử dụng nhiều thước đo khác nhau, chứng tỏ rằng khoảng
cách giữa các nhà đầu các khoản đầu tiềm năng một trong những yếu tố chính quyết
định sự lựa chọn danh mục đầu tư của nhà quản lý đầu tư Hoa Kỳ.
Các tác giả cũng nhận ra sự ưu tiên vốn sở hữu địa phương có liên quan chặt chẽ đến ba đặc điểm
của công ty: quy mô công ty, đòn bẩy và khả năng giao dịch đầu ra.
Cụ thể, các công ty địa phương có xu hướng nhỏ và có đòn bẩy tài chính cao, và họ có xu hướng
sản xuất hàng hóa không được giao dịch quốc tế. Tầm quan trọng của khả năng trao đổi hàng hóa
đầu ra có thể hỗ trợ thực nghiệm cho cách giải thích về vấn đề thiên vị trong nước. Nhất quán với
những phát hiện này, Kang và Stulz vào năm 1997 khi xem xét quyền sở hữu nước ngoài đối với
cổ phiếu Nhật Bản, nhận thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến các công ty nhỏ. Họ
cho rằng việc đầu tư vào các công ty không có hoạt động xuất khẩu đáng kể sẽ giảm thiểu được
rủi ro thông tin bất cân xứng.
Kết quả dựa trên quan sát thực nghiệm của các tác giả:
Phát hiện của chúng tôi trên phạm vi quốc tế, chúng tôi nhận thấy rằng khoảng cách có thể chiếm
khoảng một phần ba sự thiên vị quê hương được quan sát thấy trong các danh mục đầu Hoa
Kỳ. Gần một phần ba vấn đề thiên vị trong nước có thể chỉ là một đặc điểm của ưu tiên gần gũi về
mặt địa và quy tương đối của nền kinh tế thế giới, chứ không phải hệ quả của biên giới
quốc gia. Những kết qunày chỉ nên được hiểu là bằng chứng định nh về tầm quan trọng của
khoảng cách trong bối cảnh quốc tế.
Phần 4: Mô tả dữ liệu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu.
Sử dụng các mô hình toán để chứng minh mối quan hệ giữa khoảng cách địa lý và sự thiên
lệch trong đầu tư
Sử dụng mô hình để trực quan hóa khoảng cách giữa các nhà quản lý quỹ và khoản đầu tư của họ
Nguồn dữ liệu chính của các tác giả là danh bạ các nhà quản lý đầu tư năm 1996 của Nelson, các
tác giả được vị trí trụ sở chính của mọi công ty Hoa Kỳ được . Sử dụng dữ liệu độ kinh
độ từ sở dữ liệu địa danh và bưu chính của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, họ khớp từng nhà
quản lý quỹ và trụ sở chính của từng công ty Hoa Kỳ với tọa độ vĩ độ và kinh độ. Để tạo mẫu của
mình, họ xác định 10 khoản nắm giữ hàng đầu của mỗi quỹ do một nhà quản đầu Hoa Kỳ
quản lý đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu Hoa Kỳ trong năm 1995. Sử dụng dữ liệu tọa độ, họ tính
toán độ dài cung giữa mỗi nhà quản mọi công ty mà nhà quản lý đầu tư hoặc có thể đã đầu
tư.
Bộ dữ liệu cũng bao gồm thông tin về quy mô quỹ, nguồn nghiên cứu, số lượng công ty người
quản theo dõi liệu người quản bất kỳ văn phòng chi nhánh nào hay không, cũng như
một số đặc điểm của công ty thu được từ băng ghi âm COMPUSTAT năm 1995 sở dữ liệu
Công bố thông tin năm 1995.
Hình 1
Biểu đồ vị trí của 1.189 nhà quản quỹ đầu trong mẫu của chúng tôi vị trí trụ sở chính
của 2.736 công ty khác nhau họ nắm giữ. Trục ngang chứa kinh độ thực tế, được chuyển đổi
thành giá trị độ, của vị trí nhà quản lý quỹ và trụ sở chính của công ty. Trục dọc chứa giá trị độ vĩ
độ thực tế.
Hình 1 cung cấp tổng quan về phân bố địa của mẫu các nhà quản quỹ của chúng tôi các
công ty họ nắm giữ trên khắp Hoa Kỳ. Các trục được đánh dấu bằng các giá trị độ độ
kinh độ thực tế. Điều thú vị là sự phân bố các công ty và nhà quản lý trong biểu đồ giống với một
đồ dân số Hoa Kỳ theo vị trí, cho thấy các công ty nhà quản đầu tư chỉ đơn giản là nằm
gần nguồn cung cấp vốn con người. Nhìn chung, các nhà quản đầu vẻ tập trung lại với
nhau nhiều hơn các công ty, cho thấy rằng họ không chỉ đơn giản là nằm gần nguồn lao động. Ví
dụ, khu vực New York và Boston có tỷ lệ nhà quản lý không cân xứng so với phần còn lại của đất
nước.
Dựa trên trực giác này, các tác giả sử dung phương pháp thống kê kiểm định để đo lường khoảng
cách giữa nhà quản lý quỹ và trụ sở công ty thuộc cổ phiếu của họ đầu tư.
Thống kiểm định được phát triển dựa trên giả định lấy danh mục đầu tư thị trường làm chuẩn
mực (giá trị trung bình) của tất cả các quỹ.
Giả sử có F nhà quản lý quỹ khác nhau và n chứng khoán khác nhau trong nền kinh tế. Giả sử mi,j
biểu diễn trọng số danh mục đầu vào cổ phiếu j trong danh mục chuẩn nhà quản quỹ i
được so sánh. Nếu danh mục đầu thị trường chuẩn mực liên quan cho tất ccác quỹ, thì
mi,j giống nhau đối với tất cả các nhà quản lý quỹ i và biểu diễn trọng số giá trị thị trường của cổ
phiếu j trong nền kinh tế. Tiếp theo, giả sử hi,j biểu diễn trọng số thực tế quỹ i đặt vào cổ phiếu
j. Sau đó, chúng ta tính khoảng cách, di,j, giữa nhà quản lý quỹ i trụ sở công ty của cổ phiếu j
như sau:
d
i,
j
= arc cos$cos(lat
i
)cos(lon
i
)cos(lat
j
)cos(lon
j
)
+cos(lat
i
)sin(lon
i
)cos(lat
j
)sin(lon
j
) + sin(lat
i
)sin(lat
j
)2pr/360,
trong đó lat và lon là vĩ độ và kinh độ được đo bằng độ của vị trí trụ sở công ty và người quản
quỹ và r là bán kính của trái đất là 6378 km.
Cuối cùng, các tác giả tính toán khoảng cách trung bình của quỹ i từ tất cả các chứng khoán j
nó có thể đầu tư vào
n
diM=mi, jdi, j
j=1
Kiểm tra việc liệu quỹ I có biểu hiện sở thích quen thuộc hay không
ĐỀ XUẤT 1: Xem xét thống kê kiểm tra LBi
Đo lường mức độ gần n của nhà quản lý quỹ i với danh mục đầu tư của mình so với chuẩn mực
của mình (như một phần khoảng cách của cô ấy so với chuẩn mực của mình). Nếu độ lệch so với
danh mục đầu chuẩn mực không liên quan đến khoảng cách giữa nhà quản i các chứng
khoán mà cô ấy chọn nắm giữ, thì giả thuyết vô hiệu H0 : LBi = 0 không thể bị bác bỏ.
LB = wr diag(M H)(D (DM)—1 )
Phép đo lường LB dương biểu thị sở thích đối với các cổ phiếu gần về mặt địa lý, phép đo lường
âm biểu thị sở thích đối với các công ty xa.
Phần 5: Phác thảo và tiến hành kiểm tra ưu tiên sử dụng vốn của địa phương (ưu tiên đầu tư
nội địa)
A. Kết quả thực nghiệm
Các thử nghiệm về độ lệch cục bộ được báo cáo cho 2.183 quỹ phi chỉ số trong mẫu của chúng tôi
(1.836 quỹ không có trụ sở tại Thành phố New York).
Bảng II trình bày kết quả cho các bài kiểm tra của chúng tôi về sở thích cổ phiếu cục bộ. Các bài
kiểm tra khác nhau về trọng số danh mục chuẩn, M, và vectơ trọng số của người quản lý, w. Khi
các công ty có trọng số bằng nhau, các yếu tố của M đều là 10n ~ tức là danh mục chuẩn là chỉ số
có trọng số bằng nhau của tất cả các cổ phiếu do ít nhất một quỹ nắm giữ!,
Weights:
Funds ~w!-
Firms ~M!
Holdings
Benchmark
Dierence
Percentage
Bias
~LB!
t-stat
Equal-Equal
1654.18
1814.59
160.41
9.32
14.28
Equal-Value
1654.18
1830.32
176.15
10.31
15.93
Value-Equal
1663.09
1833.30
170.21
10.27
15.21
Value-Value
1663.09
1847.44
184.35
11.20
16.82
Equal-Equal ~ex-
NYC!
1685.73
1841.03
155.30
8.95
13.36
Value-Value ~ex-
NYC!
1734.71
1892.32
157.61
9.61
13.95
Cột 3 báo cáo khoảng cách trung bình mà các nhà quản lý quỹ cách danh mục chuẩn của họ (trong
trường hợp này là chỉ số có trọng số bằng nhau)
Cột 4 báo cáo sự khác biệt giữa cột 2 và cột 3, biểu thị mức độ gần hơn (tính theo km) mà các nhà
quản thực sự đầu tiền của họ so với danh mục chuẩn của họ. Cuối cùng, cột 5 báo cáo biện
pháp LB (được báo cáo dưới dạng phần trăm)
Bảng II cho thấy, trung bình, các nhà quản quỹ cách xa 1.654 đến 1.663 km so với các chứng
khoán mà họ chọn nắm giữ và cách xa 1.814 đến 1.847 km so với danh mục chuẩn của họ. Do đó,
nhà quản lý trung bình đầu tư vào các chứng khoán gần họ hơn 160 đến 184 km so với chuẩn của
họ. Về mặt tỷ lệ phần trăm, các nhà quản đang đầu vào các chứng khoán gần họ hơn 9,32
phần trăm đến 11,20 phần trăm so với chứng khoán trung bình trong danh mục chuẩn của họ. Từ
cột 5 6, chúng ta thấy rằng giả thuyết không về không sai lệch cục bộ bị bác bỏ hoàn toàn
trong tất cả các thông số kỹ thuật kiểm tra và dường như có ý nghĩa kinh tế.
B. Quỹ khu vực, quỹ ngành và quỹ vốn hóa nhỏ
Các tác giả xem xét khả năng kết quả của chúng tôi thể được thúc đẩy bởi một nhóm quản lý
quỹ cụ thể. dụ, một số quỹ chỉ đầu tư vào cổ phiếu từ một khu vực cụ thể. Nếu vị trí không quan
trọng đối với việc đầu tư, thì các quỹ này có thể được điều hành từ bất kỳ vị trí nào và do đó không
nhất thiết phải nằm trong cùng khu vực mà chúng đang đầu tư. Tuy nhiên, điều thú vị là xem liệu
có còn sự thiên vị cục bộ chiếm ưu thế hay không sau khi họ loại trừ các quỹ khu vực.
Đối với các quỹ vốn hóa nhỏ, danh mục chuẩn phù hợp là tổng số cổ phiếu nắm giữ của quỹ vốn
hóa nhỏ do ít nhất một nhà quản lý quỹ vốn hóa nhỏ nắm giữ. Nói cách khác, độ lệch trong trọng
số danh mục của một nhà quản lý cụ thể được đo lường so với tổng số cổ phiếu nắm giữ của tất cả
các nhà quản lý vốn hóa nhỏ.
Như Bảng III minh họa, 14 quỹ khu vực thể hiện sự thiên vị cục bộ đáng kể. Quỹ khu vực trung
bình nắm giữ danh mục có xu hướng thiên vị từ 42 đến 53 phần trăm theo hướng có lợi cho chứng
khoán cục bộ. Điều này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy các nhà đầu tư thích ở gần nhóm đầu
tư mà họ lựa chọn
Weights: Avg. Distance from
Fund
Type
Holdi
ngs
Benchm
ark
Differe
nce
Percentage
Bias
t-stat
Regiona l:
705.7
3
1593.
25
887.52
53.0
6
6.55
~n = 14!
983.6
0
1701.
82
718.21
41.7
9
4.89
Sector:
1737.
04
1801.11
64.0
7
3.18
0.78
~n = 85!
1672.
43
1892.
85
220.42
11.6
2
2.79
Smallcap:
1755.
36
1879.
40
124.03
5.69
3.88
~n = Value-
435! Value
1814.
25
1758.
25
—55.99
5.52
3.69
All Equal-
others: Equal
1625.
83
1793.
85
168.02
10.2
4
14.0
1
~n = Value1676! Value
1645.
27
1853.
81
208.54
12.7
4
16.80
1
,2 phần trăm 11,6 phần trăm độ lệch cục bộ, trong khi 435 quỹ vốn hóa nhỏ thể hiện độ lệch
từ 5,7 phần trăm đến -5,5 phần trăm. cả hai loại quỹ đều bị hạn chế hơn về mặt tập hợp các
chứng khoán mà chúng có thể đầu tư,n những kết quả này không hoàn toàn bất ngờ. Ví dụ, một
quỹ trong lĩnh vực ô nằm ở bờ biển phía đông sẽ không có vị thế để thiên vị cục bộ vì có rất ít
công ty ô tô địa phương. Tương tự như vậy, phạm vi đầu tư của các quỹ vốn hóa nhỏ bị giới hạn ở
các khu vực đang tăng trưởng kinh tế cao, không phụ thuộc vào vị trí gần với người quản lý.
Mặt khác, nếu khoảng cách là quan trọng, các nhà quản lý của các quỹ như vậy nên đặt gần nhóm
chứng khoán họ dự kiến sẽ đầu tư, giống như các quỹ khu vực dường như đã làm. Một do
khiến điều này có thể không xảy ra là, không giống như các quỹ khu vực, các quỹ vốn hóa nhỏ
quỹ ngành thường một phần trong nhóm quỹ của một công ty đầu lớn. Do đó, một công ty
như Fidelity, với hơn 30 quỹ ngành khác nhau, sẽ bị hạn chế rất nhiều vkhả năng đặt gần các
công ty trong mỗi ngành này; do đó mức độ thiên vị cục bộ giữa các quỹ khu vực có thể hơi yếu.
Điều tương tự cũng có thể đúng đối với các quỹ vốn hóa nhỏ.
Phần 6: Xem xét mối quan hệ giữa các đặc điểm khác nhau của các công ty với mức độ thiên
lệch về đầu tư nơi quen thuộc
Bảng IV Tác động của Khoảng cách Địa lý đến Trọng số Cổ phiếu Mỹ trong Danh mục Đầu
Đoạn văn và bảng dữ liệu trên đang thảo luận về hiệu ứng khoảng cách địa lý trong quyết định đầu
của các nhà đầu Mỹ. Cụ thể, nó so sánh tỷ trọng vốn hóa thị trường thuyết của các quốc
gia trong danh mục đầu tư của nhà đầu tư Mỹ với tỷ trọng thực tế mà họ đầu tư. Đồng thời, nghiên
cứu cũng xem xét tác động của khoảng cách địa lý đến quyết định đầu tư này:
- So sánh tỷ trọng vốn hóa thị trường thuyết (Market Weight) và tỷ trọng thực tế(Actual
Weight) của các quốc gia trong danh mục đầu tư của nhà đầu tư Mỹ.
- Trọng số điều chỉnh theo khoảng cách: Đây một chỉ số được tính toán để phản ánh tác
động của khoảng cách địa lý đến quyết định đầu tư. Cụ thể, càng xa Mỹ, trọng số của quốc
gia đó trong danh mục đầu tư sẽ càng giảm.
dụ: Khi điều chỉnh theo khoảng cách, tỷ trọng của Canada còn cao hơn nữa so với Đức và Pháp,
cho thấy nhà đầu tư Mỹ có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các quốc gia gần hơn.
Nhà đầu tư Mỹ có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các quốc gia gần hơn, đặc biệt là Hoa Kỳ, điều này
cho thấy khoảng cách địa ảnh hưởng đáng kể đến quyết định phân bổ vốn của nhà đầu tư. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng chỉ dừng lại xem xét quyết định của nhà quản quỹ chưa bao gồm
nhà đầu tư cá nhân, trong khi nhà đầu tư cá nhân chiếm một tỷ lệ lớn trong thị trường. Và nghiên
cứu chỉ sử dụng khoảng cách địa lý đơn thuần mà chưa xem xét các yếu tố khác như văn hóa, kinh
tế, chính trị.
III. Xu hướng địa phương và đặc điểm công ty
Đây được xem là một nghiên cứu quan trọng nhằm khám phá nguyên nhân sâu xa của hiện tượng
thiên vị địa trong đầu tư. Bằng cách phân tích các đặc điểm của công ty và nhà đầu tư, nghiên
cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về hành vi của nhà đầu đưa ra những kết luận ý
nghĩa đối với thị trường tài chính:
A. Đặc tả hồi quy
Công thức trên đang tính toán độ thiên vị địa lý của một nhà quản lý quỹ đối với một cổ phiếu cụ
thể. Nó so sánh trọng số thực tế nhà quản lý phân bổ cho một cổ phiếu với trọng số thuyết
mà nhà quản lý nên phân bổ nếu không có bất kỳ thiên vị nào.
Phần tử -m
_i,j
- h_
i,j
: Phần này đo lường sự khác biệt giữa trọng số lý thuyết trọng số thực
tế. Nếu nhà quản lý phân bổ trọng số thực tế cao hơn trọng số thuyết cho một cổ phiếu
gần, điều này cho thấy nhà quản lý có thiên vị địa lý.
Phần tử (d_
i,j
/ d_
i^
M
): Phần này điều chỉnh sự khác biệt về trọng số dựa trên khoảng cách
địa lý. Nếu một cổ phiếu gần nhà quản lý hơn, phần này sẽ có giá trị lớn hơn, làm tăng g
trị của y_i,j.
Công thức 1: y = Xb + e
y: Vectơ chứa các giá trị của biến phụ thuộc (trong trường hợp này là độ thiên vị địa lý của
các khoản đầu tư).
X: Ma trận chứa các giá trị của các biến độc lập (các đặc điểm của công ty).
b: Vectơ chứa các hệ số hồi quy, cho biết mối quan hệ giữa các biến độc lập biến phụ
thuộc.
e: Vectơ chứa các sai số ngẫu nhiên.
Công thức này biểu diễn một mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Nó cho thấy rằng biến phụ thuộc
(độ thiên vị địa lý) có thể được dự đoán dựa trên một tổ hợp tuyến tính của các biến độc lập (các
đặc điểm của công ty).
Công thức 2: E(ee') = σ²V
E(ee'): Ma trận hiệp phương sai của các sai số.
σ²: Phương sai của các sai số.
V: Ma trận tương quan của các sai số.
Trong bài toán này, các quan sát không độc lập cùng một nhà quản quỹ thể đầu vào
nhiều cổ phiếu khác nhau. Điều này dẫn đến sự tương quan giữa các sai số. Bằng cách sử dụng ma
trận hiệp phương sai của các sai số, hình hồi quy sẽ đưa ra các ước ợng chính xác hơn cho
các hệ số hồi quy.
Để giải quyết vấn đề các sai số không độc lập, các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp hồi
quy bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi (FGLS). Phương pháp này cho phép ước lượng các
hệ số hồi quy một cách hiệu quả hơn khi các sai số không đồng nhất phương sai có tương quan.
Các bước thực hiện FGLS:
1. Ước lượng hình hồi quy OLS: Đầu tiên, thực hiện hồi quy bình phương nhỏ nhất thường
(OLS) để có một ước lượng ban đầu về các hệ số hồi quy và ma trận hiệp phương sai của
các sai số.
2. Ước lượng ma trận hiệp phương sai: Sdụng ước lượng ban đầu đước lượng ma trận
hiệp phương sai V.
3. Điều chỉnh ma trận thiết kế: Sử dụng ma trận V để điều chỉnh ma trận thiết kế X.
4. Ước lượng lại mô hình: Thực hiện hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi với ma
trận thiết kế đã được điều chỉnh.
Các công thức và mô hình được sử dụng trong bài toán này cho phép các nhà nghiên cứu đánh
giá một cách chính xác hơn về ảnh hưởng của các đặc điểm của công ty đến quyết định đầu tư
của các nhà quản lý quỹ, đồng thời giải quyết vấn đề các sai số không độc lập.
B. Hồi quy đa biến
Đoạn văn trên đang mô tả về một nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư của các nhà quản quỹ, cụ thể là hiện tượng thiên vị địa lý (xu hướng ưu tiên đầu vào
các công ty gần vị trí của họ).
Để làm rõ hơn, nghiên cứu đã thực hiện các hồi quy đa biến, trong đó:
Biến phụ thuộc: Là mức độ thiên vị địa lý của một nhà quản lý quỹ đối với một khoản đầu
tư cụ thể.
Các biến độc lập: các đặc điểm của công ty như quy mô, đòn bẩy, lợi nhuận, số lượng
nhân viên, tính có thể giao dịch của sản phẩm, v.v.
Các hồi quy này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các đặc điểm công ty: Tìm hiểu xem các đặc điểm
nào của công ty sẽ khiến nhà quản lý quỹ xu hướng đầu nhiều hơn vào công ty đó. Bằng cách
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, nghiên cứu giúp hiểu rõ hơn tại sao các nhà
quản lý lại có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ.
Các hồi quy được thực hiện:
Hồi quy A: Chỉ bao gồm biến quy mô công ty. Mục tiêu là kiểm tra lại kết quả của nghiên
cứu trước đó (Kang và Stulz, 1997) về việc các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng ưu tiên
các công ty lớn hay không.
Hồi quy B: Thêm các biến đòn bẩy tỷ lệ hiện tại vào hồi quy A, nhằm đánh giá ảnh
hưởng của tình hình tài chính của công ty đến quyết định đầu tư.
Hồi quy C: Thêm các biến lợi nhuận trên tổng tài sản tỷ lệ thị giá trên sổ sách vào hồi
quy B, nhằm đánh giá ảnh hưởng của hiệu suất và tiềm năng tăng trưởng của công ty.
Hồi quy D: Thêm các biến số lượng nhân viên tính có thể giao dịch của sản phẩm vào
hồi quy C, nhằm đánh giá vai trò của thông tin nội bộ tính chất của sản phẩm trong
quyết định đầu tư.
Tóm lại, đoạn văn trên trình bày một nghiên cứu quan trọng nhằm giải thích hiện tượng thiên vị
địa lý trong đầu tư. Bằng cách phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm của công ty và quyết định
đầu của các nhà quản lý, nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về động hành vi
của các nhà đầu tư, từ đó đưa ra những kết luận ý nghĩa đối với cả nhà đầu nhà quản
quỹ.
C. Kết quả thực nghiệm
Đoạn văn trên đang trình bày kết quả của một nghiên cứu về hiện tượng thiên vị địa lý trong đầu
tư. Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp hồi quy để phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm
của công ty và mức độ thiên vị địa lý của các nhà quản lý quỹ.
Điểm chính của kết quả nghiên cứu: Kết quả hồi quy cho thấy các nhà quản quỹ xu hướng
ưu tiên đầu vào các công ty gần vị trí của họ. Các nhà quản xu hướng đầu ít hơn vào
các công ty lớn. Điều này thể do các nhà quản cảm thấy họ hiểu rõ hơn về các công ty nhỏ
hoặc có thể do các yếu tố khác như chi phí giao dịch, có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào các công
ty có mức đòn bẩy cao. Điều này có thể do họ kỳ vọng các công ty này sẽ có mức tăng trưởng cao
hơn hoặc thể do họ đánh giá thấp rủi ro liên quan đến đòn bẩy. Ngoài ra, các nhà quản còn
có xu hướng đầu tư ít hơn vào các công ty có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, hiệu ứng này không mạnh
và có thể không có ý nghĩa kinh tế.
So sánh với nghiên cứu trước đó:
Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Kang và Stulz (1997): Cả hai nghiên cứu đều cho thấy
xu hướng ưu tiên của nhà đầu đối với các công ty lớn các công ty có mức đòn bẩy
cao. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại đi sâu hơn vào việc phân tích các yếu tố khác ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư.
Bảng V
Hồi quy đa biến (Đặc điểm công ty)
Tại sao các nhà quản lý quỹ lại thường đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ hơn?
Để trả lời câu hỏi này, người ta đã sử dụng phương pháp thống kê gọi là hồi quy.
Mỗi cột (A, B, C, D) đại diện cho một lần thử nghiệm khác nhau. Trong mỗi lần thử nghiệm,
người ta xem xét ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau (như quy công ty, mức nợ, lợi
nhuận...) lên quyết định đầu tư của nhà quản lý.
Các hàng đại diện cho các yếu tố đó. Ví dụ, hàng "ln-MVI" đại diện cho yếu tố "quy
công ty".
Các con số trong bảng:
o Hệ số hồi quy: Cho biết yếu tố đó ảnh hưởng đến quyết định đầu như thế nào.
Ví dụ, nếu hệ số của "quy mô công ty" là âm, điều đó có nghĩa là khi công ty càng
lớn, nhà quản lý càng ít đầu tư vào công ty đó.
o Dấu sao: Cho biết kết quả có đáng tin cậy hay không. Dấu sao càng nhiều, kết quả
càng đáng tin.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý thường không thích đầu tư vào các công ty quá lớn,
xu hướng đầuvào các công ty có đòn bẩy cao. Bởi vì các nhà quản lý thường có nhiều thông
tin hơn về các công ty gần họ nên đầu tư vào các công ty gần nhà có thể ít rủi ro hơn vì họ dễ theo
dõi tình hình hơn và có thể có các mối quan hệ cá nhân hoặc kinh doanh giữa nhà quản lý và công
ty địa phương.
Các nhà quản lý thường xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ. Điều
này có thể giải thích bởi việc họ có nhiều thông tin hơn, cảm thấy an tâm hơn và có thể có
các mối quan hệ nhân với các công ty này. Nói một cách đơn giản, các nhà quản
thường thích "đầu tư gần nhà".
D. Ý nghĩa đối với giao dịch thông tin
Qua việc nghiên cứu đã giải thích lý do tại sao các nhà quản lý quỹ lại có xu hướng ưu tiên đầu
tư vào các công ty gần vị trí của họ (hiện tượng thiên vị địa phương). Các nhà đầu tư phải trả chi
phí để thu thập thông tin về các công ty. Chi phí này thường cao hơn đối với các công ty nhỏ và
các công ty có đòn bẩy cao. Các nhà đầu tư địa phương có chi phí thu thập thông tin thấp hơn do
họ có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Các công ty nhỏ và có đòn bẩy cao thường có rủi ro cao
hơn. Các nhà đầu tư địa phương, với thông tin tốt hơn, có thể đánh giá rủi ro chính xác hơn và do
đó sẵn sàng đầu tư vào các công ty này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các nhà đầu địa phương ưu tiên đầu vào các công ty nhỏ
hơn vì họ có thể thu thập thông tin về các công ty này dễ dàng hơn và ưu tiên đầu tư vào các công
ty có đòn bẩy cao hơn vì họ có thể đánh giá chính xác hơn rủi ro liên quan đến đòn bẩy.
Kết luận: Hiện tượng thiên vị địa phương trong đầu tư thể được giải thích bởi sự bất đối xứng
thông tin. Các nhà đầu tư địa phương có lợi thế trong việc thu thập và xử lý thông tin về các công
ty địa phương, đặc biệt các công ty nhỏ và có đòn bẩy cao. Điều này giúp họ đánh giá chính xác
hơn rủi ro và cơ hội đầu tư, từ đó đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn.
IV. Đặc điểm của nhà quản lý và thiên vị địa phương
Đoạn văn trên tiếp tục nghiên cứu về hiện tượng thiên vị địa trong đầu tư, nhưng lần này tập
trung vào vai trò của các nhà quản lý quỹ.
Các nhà quản lý quỹ lớn có thể có nhiều nguồn lực hơn để thu thập thông tin, nhưng thông
tin này cũng có thể bị phân tán.
Các nhà quản lý có nhiều chi nhánh có thể có cơ sở nhà đầu tư phân tán hơn và có thể tiếp
cận được nhiều thông tin địa phương hơn.
Tỷ lệ nghiên cứu nội bộ: Nếu thông tin nội bộ là yếu tố quan trọng, thì các nhà quản lý
tỷ lệ nghiên cứu nội bộ cao sẽ có xu hướng thiên vị địa phương hơn.
Số lượng công ty được theo dõi: Nếu các nhà quản lý thu thập thông tin bằng cách theo dõi
một số lượng hạn chế cổ phiếu, thì họ có thể có xu hướng thiên vị địa phương hơn.
Nghiên cứu đã giúp hiểu hơn về hành vi của nhà quản quỹ, về do tại sao các nhà quản lý
quỹ lại xu hướng ưu tiên đầu vào các công ty địa phương. Có thể sử dụng kết qunghiên cứu
để đánh giá hiệu suất của các quỹ đầu xem xét liệu thiên vị địa lý có ảnh hưởng đến hiệu suất
đầu hay không. Cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu để họ có thể lựa chọn các nhà
quản lý quỹ phù hợp và giảm thiểu rủi ro do thiên vị địa lý gây ra.
Đoạn văn trên đã đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng về vai trò của các nhà quản lý quỹ
trong hiện tượng thiên vị địa lý. Bằng cách phân tích các đặc điểm của nhà quản lý, nghiên cứu
này sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về động hành vi của các nhà quản quỹ, từ đó đưa ra
những kết luận có ý nghĩa đối với cả nhà đầu tư và nhà quản lý quỹ.
Phần 7: Mở rộng phân tích để bao gồm một số đặc điểm của người quản lý quỹ
Đoạn văn trên đang trình bày về phương pháp đo lường độ thiên vị địa lý trong đầu tư. Nói cách
khác, họ đang tìm cách đo lường mức độ các nhà quản quỹ ưu tiên đầu vào các công ty
gần vị trí của họ hơn là các công ty ở xa.
Cách thức đo lường:
Xác định trọng số:
o Trọng số lý thuyết (mi,j): Đây là trọng số lý tưởng mà nhà quản lý nên phân bổ cho
mỗi cổ phiếu nếu họ đầu tư hoàn toàn dựa trên các yếu tố cơ bản của thị trường và
không có bất kỳ thiên vị nào. o Trọng số thực tế (hi,j): Đây là trọng số thực tế mà
nhà quản thực sự phân bổ cho mỗi cổ phiếu. o Khoảng cách địa (di,j): Khoảng
cách địa lý giữa nhà quản lý và công ty.
Tính toán độ thiên vị:
o Công thức: Độ thiên vị địa lý được tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa trọng
số lý thuyết và trọng số thực tế, nhân với khoảng cách địa lý, và sau đó chuẩn hóa
bằng khoảng cách trung bình có trọng số. o Ý nghĩa: Nếu một nhà quản lý phân bổ
trọng số thực tế cho một công ty gần nhà quản lý cao hơn nhiều so với trọng số
thuyết, thì độ thiên vị địa lý của nhà quản lý đó sẽ cao.
Phân tích hồi quy:
o Mục tiêu: Tìm hiểu xem các đặc điểm của công ty nhà quản ảnh hưởng
như thế nào đến độ thiên vị địa lý.
o Phương pháp: Sử dụng hồi quy để xem xét mối quan hệ giữa độ thiên vị địa lý với
các biến số như kích thước công ty, ngành nghề, và các đặc điểm của nhà quản lý.
o Dữ liệu: Dữ liệu được sử dụng bao gồm thông tin vcác danh mục đầu của nhiều
nhà quản lý quỹ và các đặc điểm của các công ty trong danh mục đầu tư đó.
Đoạn văn tập trung đào sâu vào nguyên nhân của hiện tượng thiên vị quê hương, đặc biệt là vai trò
của các đặc điểm của nhà quản quỹ. Mục tiêu chính tìm hiểu xem các yếu tố liên quan đến
nhà quản lý, như quy mô quỹ, số lượng chi nhánh, kinh nghiệm nghiên cứu, có ảnh hưởng như thế
nào đến xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty địa phương.
Các phát hiện chính:
- Quy quỹ và số lượng chi nhánh: Các biến số này không có ảnh hưởng đáng kể đến mức
độ thiên vị quê hương của các nhà quản lý. Mặc dù một số xu hướng cho thấy các quỹ
nhỏ hơn có thể thiên vị quê hương hơn, nhưng kết quả này không có ý nghĩa thống kê.
- Kinh nghiệm nghiên cứu: Số lượng công ty được nhà quản theo dõi thường xuyên
một mối liên hệ yếu với thiên vị quê hương. Các nhà quản lý tập trung vào một số công ty
nhất định xu hướng ủng hộ các công ty gần địa hơn. Điều này gợi ý rằng việc tập
trung nghiên cứu vào các công ty địa phương có thể là một trong những nguyên nhân dẫn
đến thiên vị quê hương.
- Sự nhất quán của các kết quả: Các kết qunghiên cứu cho thấy rằng sở thích đối với các
công ty địa phương nhỏ, có đòn bẩy cao sản xuất hàng hóa không thể giao dịch một
hiện tượng phổ biến và tồn tại ở nhiều loại quỹ và nhà quản lý khác nhau.
Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy thiên vị quê hương một hiện tượng phức
tạp nhiều nguyên nhân. Mặc các đặc điểm của nhà quản không phải yếu tố quyết
định duy nhất, nhưng kinh nghíệm nghiên cứu cách phân bổ nguồn lực của nhà quản lý có thể
đóng một vai trò nhất định trong việc tạo ra thiên vị quê hương.
Nghiên cứu này đã làm rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến thiên vị quê hương và cung cấp những
gợi ý quan trọng cho các nhà đầu tư, nhà quản lý quỹ và các nhà hoạch định chính sách. Việc hiểu
về nguyên nhân của hiện tượng này sẽ giúp chúng ta đưa ra các quyết định đầu tốt hơn
phát triển thị trường tài chính một cách hiệu quả hơn.
Phần 8: Kết luận
Đoạn văn trên đã tập trung phân tích một hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến trong hành vi đầu tư,
đó là "home bias" (thiên vị quê hương). Hiện tượng này mô tả xu hướng các nhà đầu tư thường ưu
tiên đầu vào các công ty trong nước hơn các công ty nước ngoài, bất chấp việc các công ty
nước ngoài có thể có tiềm năng sinh lời cao hơn. Nghiên cứu này, bằng cách áp dụng lý thuyết vi
kinh tế hành vi, đã tiến hành khảo sát sâu hơn về các yếu tố thúc đẩy "home bias", với trọng
tâm là vai trò của khoảng cách địa lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy "home bias" là một hiện tượng
đa chiều, chịu tác động của nhiều yếu tố phức tạp, trong đó khoảng cách địa chỉ một trong
những yếu tố góp phần giải thích hiện tượng này.

Preview text:

I. TÓM TẮT BÀI BÁO
Phần 1: Tác giả khảo sát và nhận thấy có sự thiên vị giữa việc đầu tư trong nước trong một danh mục đầu tư quốc tế
Phần 2: Đưa ra những lời giải thích định tính mang tính lý thuyết về sự ưu tiên của việc đầu tư trong nước
Phần 3: Đưa ra những lời giải thích định tính dựa trên quan sát thực nghiệm về sự ưu tiên của việc đầu tư trong nước
Phần 4: Mô tả dữ liệu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi.
Phần 5: Phác thảo và tiến hành kiểm tra ưu tiên sử dụng vốn của địa phương (ưu tiên đầu tư nội địa)
Phần 6: Xem xét mối quan hệ giữa các đặc điểm khác nhau của các công ty với mức độ thiên lệch
về đầu tư nơi quen thuộc
Phần 7: Mở rộng phân tích để bao gồm một số đặc điểm của người quản lý quỹ Phần 8: Kết luận
Các phần 4, 5, 6 và 7 của bài báo đã đề cập đến đề tài nghiên cứu “Chứng minh sự tồn tại
về sai lệch liên quan dến sự quen thuộc”.
Phần 1: Tác giả khảo sát và nhận thấy có sự thiên vị giữa việc đầu tư trong nước trong một
danh mục đầu tư quốc tế
Các tác giả xem xét đầu tư trong nước tại Hoa Kỳ của các nhà quản lý đầu tư và tìm thấy sự thiên
vị đối với các công ty có trụ sở chính gần địa điểm của các nhà quản lý. Từ đó các tác giả suy ra
từ nghiên cứu của họ trong nước sang quốc tế. Các tác giả nhận thấy rằng một phần ba tổng số tiền
được đầu tư tại nước sở tại trong danh mục đầu tư quốc tế là sự thiên lệch hay còn là kết quả của
sự thiên vị về sự gần gũi về mặt địa lý tồn tại trong danh mục đầu tư trong nội địa.
Các tác giả nhận thấy SỰ ƯU TIÊN MẠNH MẼ ĐỐI VỚI CỔ PHIẾU TRONG NƯỚC được thể
hiện bởi các nhà đầu tư trên thị trường quốc tế, bất chấp những lợi ích được ghi nhận rõ ràng từ sự
đa dạng hóa quốc tế. Theo tài liệu này, các nhà giao dịch cổ phiếu Hoa Kỳ phân bổ gần 94% nguồn
vốn của họ cho chứng khoán trong nước, mặc dù thị trường cổ phiếu Hoa Kỳ chỉ chiếm chưa đến
48% thị trường cổ phiếu toàn cầu. Mặc dù hành vi như vậy dường như cực kỳ kém hiệu quả từ
quan điểm đa dạng hóa, các học giả đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau cho hiện tượng này.
Bài báo sẽ giúp cho chúng ta hiểu rõ hành vi về sự thiên vị đối với sự quen thuộc của nhà đầu tư.
Phần 2: Một số lời giải thích định tính được đưa ra để chứng minh cho hiện tượng thiên vị
đối với đầu tư tại nơi quen thuộc (đầu tư tại nội địa)
Khi vốn vượt qua ranh giới chính trị và tiền tệ, nó phải đối mặt với biến động tỷ giá hối đoái, sự
thay đổi trong quy định, văn hóa và thuế cũng như rủi ro quốc gia. Một số nghiên cứu cho rằng sự
khác biệt về thông tin giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước là động lực đằng sau
sự thiên vị trong nước, những nghiên cứu khác lại cho rằng nguyên nhân chính là do nhà đầu tư lo
ngại về việc phòng ngừa rủi ro đầu ra của các công ty sản xuất hàng hóa không được giao dịch quốc tế.
Ngược lại, các nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn về các công ty ở gần họ, Các nhà
đầu tư địa phương có thể nói chuyện với nhân viên, người quản lý và nhà cung cấp của công ty,
họ có thể có mối quan hệ cá nhân chặt chẽ với các giám đốc điều hành địa phương - tất cả những
điều này có thể mang lại cho họ lợi thế về thông tin về cổ phiếu địa phương. Tương tự như vậy,
các nhà đầu tư có thể thích đầu tư gần hơn để phòng ngừa sự tăng giá của các dịch vụ địa phương
hoặc hàng hóa không dễ dàng giao dịch bên ngoài khu vực địa phương. Tổng quát hơn, các nhà
đầu tư có thể ưu tiên các khoản đầu tư gần nhau về mặt địa lý phát sinh từ một số nguồn tiềm năng.
Phần 3: Một số lời giải thích được quan sát từ thực tế được đưa ra để chứng minh cho hiện
tượng thiên vị đối với đầu tư tại nơi quen thuộc (đầu tư tại nội địa)
Các tác giả đo lường mức độ ưu tiên đối với các cổ phiếu gần về mặt địa lý của các nhà quản lý
tiền tệ Hoa Kỳ khi họ nắm giữ cổ phần của các công ty có trụ sở tại Hoa Kỳ. Sử dụng cơ sở dữ
liệu duy nhất về người quản lý quỹ tương hỗ và vị trí công ty, được xác định theo vĩ độ và kinh độ.
Cụ thể họ quan sát được rằng người quản lý quỹ trung bình ở Hoa Kỳ đầu tư vào các công ty nằm
cách cô ấy từ 160 đến 184 km, hay 9 đến 11%, gần cô ấy hơn so với công ty trung bình. Ngoài ra,
cứ 10 công ty trong danh mục đầu tư của người quản lý quỹ thì có một công ty được chọn vì nó
nằm ở cùng thành phố với người quản lý. Sử dụng nhiều thước đo khác nhau, chứng tỏ rằng khoảng
cách giữa các nhà đầu tư và các khoản đầu tư tiềm năng là một trong những yếu tố chính quyết
định sự lựa chọn danh mục đầu tư của nhà quản lý đầu tư Hoa Kỳ.
Các tác giả cũng nhận ra sự ưu tiên vốn sở hữu địa phương có liên quan chặt chẽ đến ba đặc điểm
của công ty: quy mô công ty, đòn bẩy và khả năng giao dịch đầu ra.
Cụ thể, các công ty địa phương có xu hướng nhỏ và có đòn bẩy tài chính cao, và họ có xu hướng
sản xuất hàng hóa không được giao dịch quốc tế. Tầm quan trọng của khả năng trao đổi hàng hóa
đầu ra có thể hỗ trợ thực nghiệm cho cách giải thích về vấn đề thiên vị trong nước. Nhất quán với
những phát hiện này, Kang và Stulz vào năm 1997 khi xem xét quyền sở hữu nước ngoài đối với
cổ phiếu Nhật Bản, nhận thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến các công ty nhỏ. Họ
cho rằng việc đầu tư vào các công ty không có hoạt động xuất khẩu đáng kể sẽ giảm thiểu được
rủi ro thông tin bất cân xứng.
Kết quả dựa trên quan sát thực nghiệm của các tác giả:
Phát hiện của chúng tôi trên phạm vi quốc tế, chúng tôi nhận thấy rằng khoảng cách có thể chiếm
khoảng một phần ba sự thiên vị quê hương được quan sát thấy trong các danh mục đầu tư ở Hoa
Kỳ. Gần một phần ba vấn đề thiên vị trong nước có thể chỉ là một đặc điểm của ưu tiên gần gũi về
mặt địa lý và quy mô tương đối của nền kinh tế thế giới, chứ không phải là hệ quả của biên giới
quốc gia. Những kết quả này chỉ nên được hiểu là bằng chứng định tính về tầm quan trọng của
khoảng cách trong bối cảnh quốc tế.
Phần 4: Mô tả dữ liệu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu.
Sử dụng các mô hình toán để chứng minh mối quan hệ giữa khoảng cách địa lý và sự thiên
lệch trong đầu tư
Sử dụng mô hình để trực quan hóa khoảng cách giữa các nhà quản lý quỹ và khoản đầu tư của họ
Nguồn dữ liệu chính của các tác giả là danh bạ các nhà quản lý đầu tư năm 1996 của Nelson, các
tác giả có được vị trí trụ sở chính của mọi công ty Hoa Kỳ được . Sử dụng dữ liệu vĩ độ và kinh
độ từ cơ sở dữ liệu địa danh và mã bưu chính của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, họ khớp từng nhà
quản lý quỹ và trụ sở chính của từng công ty Hoa Kỳ với tọa độ vĩ độ và kinh độ. Để tạo mẫu của
mình, họ xác định 10 khoản nắm giữ hàng đầu của mỗi quỹ do một nhà quản lý đầu tư Hoa Kỳ
quản lý và đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu Hoa Kỳ trong năm 1995. Sử dụng dữ liệu tọa độ, họ tính
toán độ dài cung giữa mỗi nhà quản lý và mọi công ty mà nhà quản lý đầu tư hoặc có thể đã đầu tư.
Bộ dữ liệu cũng bao gồm thông tin về quy mô quỹ, nguồn nghiên cứu, số lượng công ty mà người
quản lý theo dõi và liệu người quản lý có bất kỳ văn phòng chi nhánh nào hay không, cũng như
một số đặc điểm của công ty thu được từ băng ghi âm COMPUSTAT năm 1995 và cơ sở dữ liệu
Công bố thông tin năm 1995. Hình 1
Biểu đồ là vị trí của 1.189 nhà quản lý quỹ đầu tư trong mẫu của chúng tôi và vị trí trụ sở chính
của 2.736 công ty khác nhau mà họ nắm giữ. Trục ngang chứa kinh độ thực tế, được chuyển đổi
thành giá trị độ, của vị trí nhà quản lý quỹ và trụ sở chính của công ty. Trục dọc chứa giá trị độ vĩ độ thực tế.
Hình 1 cung cấp tổng quan về phân bố địa lý của mẫu các nhà quản lý quỹ của chúng tôi và các
công ty mà họ nắm giữ trên khắp Hoa Kỳ. Các trục được đánh dấu bằng các giá trị độ vĩ độ và
kinh độ thực tế. Điều thú vị là sự phân bố các công ty và nhà quản lý trong biểu đồ giống với một
sơ đồ dân số Hoa Kỳ theo vị trí, cho thấy các công ty và nhà quản lý đầu tư chỉ đơn giản là nằm
gần nguồn cung cấp vốn con người. Nhìn chung, các nhà quản lý đầu tư có vẻ tập trung lại với
nhau nhiều hơn các công ty, cho thấy rằng họ không chỉ đơn giản là nằm gần nguồn lao động. Ví
dụ, khu vực New York và Boston có tỷ lệ nhà quản lý không cân xứng so với phần còn lại của đất nước.
Dựa trên trực giác này, các tác giả sử dung phương pháp thống kê kiểm định để đo lường khoảng
cách giữa nhà quản lý quỹ và trụ sở công ty thuộc cổ phiếu của họ đầu tư.
Thống kê kiểm định được phát triển dựa trên giả định lấy danh mục đầu tư thị trường làm chuẩn
mực (giá trị trung bình) của tất cả các quỹ.
Giả sử có F nhà quản lý quỹ khác nhau và n chứng khoán khác nhau trong nền kinh tế. Giả sử mi,j
biểu diễn trọng số danh mục đầu tư vào cổ phiếu j trong danh mục chuẩn mà nhà quản lý quỹ i
được so sánh. Nếu danh mục đầu tư thị trường là chuẩn mực có liên quan cho tất cả các quỹ, thì
mi,j giống nhau đối với tất cả các nhà quản lý quỹ i và biểu diễn trọng số giá trị thị trường của cổ
phiếu j trong nền kinh tế. Tiếp theo, giả sử hi,j biểu diễn trọng số thực tế mà quỹ i đặt vào cổ phiếu
j. Sau đó, chúng ta tính khoảng cách, di,j, giữa nhà quản lý quỹ i và trụ sở công ty của cổ phiếu j như sau:
di, j = arc cos$cos(lati )cos(loni )cos(latj )cos(lonj )
+cos(lati )sin(loni )cos(latj)sin(lonj) + sin(lati )sin(latj )2pr/360,
trong đó lat và lon là vĩ độ và kinh độ được đo bằng độ của vị trí trụ sở công ty và người quản lý
quỹ và r là bán kính của trái đất là 6378 km.
Cuối cùng, các tác giả tính toán khoảng cách trung bình của quỹ i từ tất cả các chứng khoán j mà nó có thể đầu tư vào n
diM=∫ mi, jdi, j j=1
Kiểm tra việc liệu quỹ I có biểu hiện sở thích quen thuộc hay không
ĐỀ XUẤT 1: Xem xét thống kê kiểm tra LBi
Đo lường mức độ gần hơn của nhà quản lý quỹ i với danh mục đầu tư của mình so với chuẩn mực
của mình (như một phần khoảng cách của cô ấy so với chuẩn mực của mình). Nếu độ lệch so với
danh mục đầu tư chuẩn mực không liên quan đến khoảng cách giữa nhà quản lý i và các chứng
khoán mà cô ấy chọn nắm giữ, thì giả thuyết vô hiệu H0 : LBi = 0 không thể bị bác bỏ.
LB = wr diag(M H)(D’ (DM)—1 )
Phép đo lường LB dương biểu thị sở thích đối với các cổ phiếu gần về mặt địa lý, và phép đo lường
âm biểu thị sở thích đối với các công ty xa.
Phần 5: Phác thảo và tiến hành kiểm tra ưu tiên sử dụng vốn của địa phương (ưu tiên đầu tư nội địa)
A. Kết quả thực nghiệm
Các thử nghiệm về độ lệch cục bộ được báo cáo cho 2.183 quỹ phi chỉ số trong mẫu của chúng tôi
(1.836 quỹ không có trụ sở tại Thành phố New York).
Bảng II trình bày kết quả cho các bài kiểm tra của chúng tôi về sở thích cổ phiếu cục bộ. Các bài
kiểm tra khác nhau về trọng số danh mục chuẩn, M, và vectơ trọng số của người quản lý, w. Khi
các công ty có trọng số bằng nhau, các yếu tố của M đều là 10n ~ tức là danh mục chuẩn là chỉ số
có trọng số bằng nhau của tất cả các cổ phiếu do ít nhất một quỹ nắm giữ!, Weights: Percentage Funds ~w!-Holdings Benchmark Difference Bias t-stat Firms ~M! ~LB! Equal-Equal 1654.18 1814.59 160.41 9.32 14.28 Equal-Value 1654.18 1830.32 176.15 10.31 15.93 Value-Equal 1663.09 1833.30 170.21 10.27 15.21 Value-Value 1663.09 1847.44 184.35 11.20 16.82
Equal-Equal ~ex- 1685.73 1841.03 155.30 8.95 13.36 NYC!
Value-Value ~ex- 1734.71 1892.32 157.61 9.61 13.95 NYC!
Cột 3 báo cáo khoảng cách trung bình mà các nhà quản lý quỹ cách danh mục chuẩn của họ (trong
trường hợp này là chỉ số có trọng số bằng nhau)
Cột 4 báo cáo sự khác biệt giữa cột 2 và cột 3, biểu thị mức độ gần hơn (tính theo km) mà các nhà
quản lý thực sự đầu tư tiền của họ so với danh mục chuẩn của họ. Cuối cùng, cột 5 báo cáo biện
pháp LB (được báo cáo dưới dạng phần trăm)
Bảng II cho thấy, trung bình, các nhà quản lý quỹ cách xa 1.654 đến 1.663 km so với các chứng
khoán mà họ chọn nắm giữ và cách xa 1.814 đến 1.847 km so với danh mục chuẩn của họ. Do đó,
nhà quản lý trung bình đầu tư vào các chứng khoán gần họ hơn 160 đến 184 km so với chuẩn của
họ. Về mặt tỷ lệ phần trăm, các nhà quản lý đang đầu tư vào các chứng khoán gần họ hơn 9,32
phần trăm đến 11,20 phần trăm so với chứng khoán trung bình trong danh mục chuẩn của họ. Từ
cột 5 và 6, chúng ta thấy rằng giả thuyết không về không có sai lệch cục bộ bị bác bỏ hoàn toàn
trong tất cả các thông số kỹ thuật kiểm tra và dường như có ý nghĩa kinh tế.
B. Quỹ khu vực, quỹ ngành và quỹ vốn hóa nhỏ
Các tác giả xem xét khả năng kết quả của chúng tôi có thể được thúc đẩy bởi một nhóm quản lý
quỹ cụ thể. Ví dụ, một số quỹ chỉ đầu tư vào cổ phiếu từ một khu vực cụ thể. Nếu vị trí không quan
trọng đối với việc đầu tư, thì các quỹ này có thể được điều hành từ bất kỳ vị trí nào và do đó không
nhất thiết phải nằm trong cùng khu vực mà chúng đang đầu tư. Tuy nhiên, điều thú vị là xem liệu
có còn sự thiên vị cục bộ chiếm ưu thế hay không sau khi họ loại trừ các quỹ khu vực.
Đối với các quỹ vốn hóa nhỏ, danh mục chuẩn phù hợp là tổng số cổ phiếu nắm giữ của quỹ vốn
hóa nhỏ do ít nhất một nhà quản lý quỹ vốn hóa nhỏ nắm giữ. Nói cách khác, độ lệch trong trọng
số danh mục của một nhà quản lý cụ thể được đo lường so với tổng số cổ phiếu nắm giữ của tất cả
các nhà quản lý vốn hóa nhỏ.
Như Bảng III minh họa, 14 quỹ khu vực thể hiện sự thiên vị cục bộ đáng kể. Quỹ khu vực trung
bình nắm giữ danh mục có xu hướng thiên vị từ 42 đến 53 phần trăm theo hướng có lợi cho chứng
khoán cục bộ. Điều này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy các nhà đầu tư thích ở gần nhóm đầu tư mà họ lựa chọn Weights: Avg. Distance from Fund FirmsFunds Holdi
Benchm Differe Percentage t-stat Type ngs ark nce Bias Regiona l: EqualEqual 705.7 1593. 887.52 53.0 6.55 3 25 6
~n = 14! ValueValue 983.6 1701. 718.21 41.7 4.89 0 82 9 Sector: EqualEqual 1737. 1801.11 64.0 3.18 0.78 04 7
~n = 85! ValueValue 1672. 1892. 220.42 11.6 2.79 43 85 2 Smallcap: EqualEqual 1755. 1879. 124.03 5.69 3.88 36 40 ~n = Value- 1814. 1758. —55.99 — — 435! Value 25 25 5.52 3.69 All Equal- 1625. 1793. 168.02 10.2 14.01 others: Equal 83 85 4
~n = Value1676! Value 1645. 1853. 208.54 12.7 16.80 27 81 4
1 ,2 phần trăm và 11,6 phần trăm độ lệch cục bộ, trong khi 435 quỹ vốn hóa nhỏ thể hiện độ lệch
từ 5,7 phần trăm đến -5,5 phần trăm. Vì cả hai loại quỹ đều bị hạn chế hơn về mặt tập hợp các
chứng khoán mà chúng có thể đầu tư, nên những kết quả này không hoàn toàn bất ngờ. Ví dụ, một
quỹ trong lĩnh vực ô tô nằm ở bờ biển phía đông sẽ không có vị thế để thiên vị cục bộ vì có rất ít
công ty ô tô địa phương. Tương tự như vậy, phạm vi đầu tư của các quỹ vốn hóa nhỏ bị giới hạn ở
các khu vực đang có tăng trưởng kinh tế cao, không phụ thuộc vào vị trí gần với người quản lý.
Mặt khác, nếu khoảng cách là quan trọng, các nhà quản lý của các quỹ như vậy nên đặt gần nhóm
chứng khoán mà họ dự kiến sẽ đầu tư, giống như các quỹ khu vực dường như đã làm. Một lý do
khiến điều này có thể không xảy ra là, không giống như các quỹ khu vực, các quỹ vốn hóa nhỏ và
quỹ ngành thường là một phần trong nhóm quỹ của một công ty đầu tư lớn. Do đó, một công ty
như Fidelity, với hơn 30 quỹ ngành khác nhau, sẽ bị hạn chế rất nhiều về khả năng đặt gần các
công ty trong mỗi ngành này; do đó mức độ thiên vị cục bộ giữa các quỹ khu vực có thể hơi yếu.
Điều tương tự cũng có thể đúng đối với các quỹ vốn hóa nhỏ.
Phần 6: Xem xét mối quan hệ giữa các đặc điểm khác nhau của các công ty với mức độ thiên
lệch về đầu tư nơi quen thuộc

Bảng IV Tác động của Khoảng cách Địa lý đến Trọng số Cổ phiếu Mỹ trong Danh mục Đầu
Đoạn văn và bảng dữ liệu trên đang thảo luận về hiệu ứng khoảng cách địa lý trong quyết định đầu
tư của các nhà đầu tư Mỹ. Cụ thể, nó so sánh tỷ trọng vốn hóa thị trường lý thuyết của các quốc
gia trong danh mục đầu tư của nhà đầu tư Mỹ với tỷ trọng thực tế mà họ đầu tư. Đồng thời, nghiên
cứu cũng xem xét tác động của khoảng cách địa lý đến quyết định đầu tư này:
- So sánh tỷ trọng vốn hóa thị trường lý thuyết (Market Weight) và tỷ trọng thực tế(Actual
Weight) của các quốc gia trong danh mục đầu tư của nhà đầu tư Mỹ.
- Trọng số điều chỉnh theo khoảng cách: Đây là một chỉ số được tính toán để phản ánh tác
động của khoảng cách địa lý đến quyết định đầu tư. Cụ thể, càng xa Mỹ, trọng số của quốc
gia đó trong danh mục đầu tư sẽ càng giảm.
Ví dụ: Khi điều chỉnh theo khoảng cách, tỷ trọng của Canada còn cao hơn nữa so với Đức và Pháp,
cho thấy nhà đầu tư Mỹ có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các quốc gia gần hơn.
Nhà đầu tư Mỹ có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các quốc gia gần hơn, đặc biệt là Hoa Kỳ, điều này
cho thấy khoảng cách địa lý ảnh hưởng đáng kể đến quyết định phân bổ vốn của nhà đầu tư. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng chỉ dừng lại xem xét quyết định của nhà quản lý quỹ mà chưa bao gồm
nhà đầu tư cá nhân, trong khi nhà đầu tư cá nhân chiếm một tỷ lệ lớn trong thị trường. Và nghiên
cứu chỉ sử dụng khoảng cách địa lý đơn thuần mà chưa xem xét các yếu tố khác như văn hóa, kinh tế, chính trị.
III. Xu hướng địa phương và đặc điểm công ty
Đây được xem là một nghiên cứu quan trọng nhằm khám phá nguyên nhân sâu xa của hiện tượng
thiên vị địa lý trong đầu tư. Bằng cách phân tích các đặc điểm của công ty và nhà đầu tư, nghiên
cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hành vi của nhà đầu tư và đưa ra những kết luận có ý
nghĩa đối với thị trường tài chính:
A. Đặc tả hồi quy
Công thức trên đang tính toán độ thiên vị địa lý của một nhà quản lý quỹ đối với một cổ phiếu cụ
thể. Nó so sánh trọng số thực tế mà nhà quản lý phân bổ cho một cổ phiếu với trọng số lý thuyết
mà nhà quản lý nên phân bổ nếu không có bất kỳ thiên vị nào. •
Phần tử -m_i,j - h_i,j: Phần này đo lường sự khác biệt giữa trọng số lý thuyết và trọng số thực
tế. Nếu nhà quản lý phân bổ trọng số thực tế cao hơn trọng số lý thuyết cho một cổ phiếu
gần, điều này cho thấy nhà quản lý có thiên vị địa lý. • Phần tử (d_ M
i,j / d_i^ ): Phần này điều chỉnh sự khác biệt về trọng số dựa trên khoảng cách
địa lý. Nếu một cổ phiếu gần nhà quản lý hơn, phần này sẽ có giá trị lớn hơn, làm tăng giá trị của y_i,j.
Công thức 1: y = Xb + e
y: Vectơ chứa các giá trị của biến phụ thuộc (trong trường hợp này là độ thiên vị địa lý của các khoản đầu tư). •
X: Ma trận chứa các giá trị của các biến độc lập (các đặc điểm của công ty). •
b: Vectơ chứa các hệ số hồi quy, cho biết mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. •
e: Vectơ chứa các sai số ngẫu nhiên.
Công thức này biểu diễn một mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Nó cho thấy rằng biến phụ thuộc
(độ thiên vị địa lý) có thể được dự đoán dựa trên một tổ hợp tuyến tính của các biến độc lập (các
đặc điểm của công ty).
Công thức 2: E(ee') = σ²V •
E(ee'): Ma trận hiệp phương sai của các sai số. •
σ²: Phương sai của các sai số. •
V: Ma trận tương quan của các sai số.
Trong bài toán này, các quan sát không độc lập vì cùng một nhà quản lý quỹ có thể đầu tư vào
nhiều cổ phiếu khác nhau. Điều này dẫn đến sự tương quan giữa các sai số. Bằng cách sử dụng ma
trận hiệp phương sai của các sai số, mô hình hồi quy sẽ đưa ra các ước lượng chính xác hơn cho các hệ số hồi quy.
Để giải quyết vấn đề các sai số không độc lập, các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp hồi
quy bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi (FGLS). Phương pháp này cho phép ước lượng các
hệ số hồi quy một cách hiệu quả hơn khi các sai số không đồng nhất phương sai và có tương quan.
Các bước thực hiện FGLS:
1. Ước lượng mô hình hồi quy OLS: Đầu tiên, thực hiện hồi quy bình phương nhỏ nhất thường
(OLS) để có một ước lượng ban đầu về các hệ số hồi quy và ma trận hiệp phương sai của các sai số.
2. Ước lượng ma trận hiệp phương sai: Sử dụng ước lượng ban đầu để ước lượng ma trận hiệp phương sai V.
3. Điều chỉnh ma trận thiết kế: Sử dụng ma trận V để điều chỉnh ma trận thiết kế X.
4. Ước lượng lại mô hình: Thực hiện hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi với ma
trận thiết kế đã được điều chỉnh.
Các công thức và mô hình được sử dụng trong bài toán này cho phép các nhà nghiên cứu đánh
giá một cách chính xác hơn về ảnh hưởng của các đặc điểm của công ty đến quyết định đầu tư
của các nhà quản lý quỹ, đồng thời giải quyết vấn đề các sai số không độc lập.
B. Hồi quy đa biến
Đoạn văn trên đang mô tả về một nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư của các nhà quản lý quỹ, cụ thể là hiện tượng thiên vị địa lý (xu hướng ưu tiên đầu tư vào
các công ty gần vị trí của họ).
Để làm rõ hơn, nghiên cứu đã thực hiện các hồi quy đa biến, trong đó: •
Biến phụ thuộc: Là mức độ thiên vị địa lý của một nhà quản lý quỹ đối với một khoản đầu tư cụ thể. •
Các biến độc lập: Là các đặc điểm của công ty như quy mô, đòn bẩy, lợi nhuận, số lượng
nhân viên, tính có thể giao dịch của sản phẩm, v.v.
Các hồi quy này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các đặc điểm công ty: Tìm hiểu xem các đặc điểm
nào của công ty sẽ khiến nhà quản lý quỹ có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào công ty đó. Bằng cách
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, nghiên cứu giúp hiểu rõ hơn tại sao các nhà
quản lý lại có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ.
Các hồi quy được thực hiện: •
Hồi quy A: Chỉ bao gồm biến quy mô công ty. Mục tiêu là kiểm tra lại kết quả của nghiên
cứu trước đó (Kang và Stulz, 1997) về việc các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng ưu tiên
các công ty lớn hay không. •
Hồi quy B: Thêm các biến đòn bẩy và tỷ lệ hiện tại vào hồi quy A, nhằm đánh giá ảnh
hưởng của tình hình tài chính của công ty đến quyết định đầu tư. •
Hồi quy C: Thêm các biến lợi nhuận trên tổng tài sản và tỷ lệ thị giá trên sổ sách vào hồi
quy B, nhằm đánh giá ảnh hưởng của hiệu suất và tiềm năng tăng trưởng của công ty. •
Hồi quy D: Thêm các biến số lượng nhân viên và tính có thể giao dịch của sản phẩm vào
hồi quy C, nhằm đánh giá vai trò của thông tin nội bộ và tính chất của sản phẩm trong quyết định đầu tư.
Tóm lại, đoạn văn trên trình bày một nghiên cứu quan trọng nhằm giải thích hiện tượng thiên vị
địa lý trong đầu tư. Bằng cách phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm của công ty và quyết định
đầu tư của các nhà quản lý, nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về động cơ và hành vi
của các nhà đầu tư, từ đó đưa ra những kết luận có ý nghĩa đối với cả nhà đầu tư và nhà quản lý quỹ.
C. Kết quả thực nghiệm
Đoạn văn trên đang trình bày kết quả của một nghiên cứu về hiện tượng thiên vị địa lý trong đầu
tư. Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp hồi quy để phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm
của công ty và mức độ thiên vị địa lý của các nhà quản lý quỹ.
Điểm chính của kết quả nghiên cứu: Kết quả hồi quy cho thấy các nhà quản lý quỹ có xu hướng
ưu tiên đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ. Các nhà quản lý có xu hướng đầu tư ít hơn vào
các công ty lớn. Điều này có thể do các nhà quản lý cảm thấy họ hiểu rõ hơn về các công ty nhỏ
hoặc có thể do các yếu tố khác như chi phí giao dịch, có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào các công
ty có mức đòn bẩy cao. Điều này có thể do họ kỳ vọng các công ty này sẽ có mức tăng trưởng cao
hơn hoặc có thể do họ đánh giá thấp rủi ro liên quan đến đòn bẩy. Ngoài ra, các nhà quản lý còn
có xu hướng đầu tư ít hơn vào các công ty có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, hiệu ứng này không mạnh
và có thể không có ý nghĩa kinh tế.
So sánh với nghiên cứu trước đó:
Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Kang và Stulz (1997): Cả hai nghiên cứu đều cho thấy
xu hướng ưu tiên của nhà đầu tư đối với các công ty lớn và các công ty có mức đòn bẩy
cao. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại đi sâu hơn vào việc phân tích các yếu tố khác ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư. Bảng V
Hồi quy đa biến (Đặc điểm công ty)
Tại sao các nhà quản lý quỹ lại thường đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ hơn?
Để trả lời câu hỏi này, người ta đã sử dụng phương pháp thống kê gọi là hồi quy. •
Mỗi cột (A, B, C, D) đại diện cho một lần thử nghiệm khác nhau. Trong mỗi lần thử nghiệm,
người ta xem xét ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau (như quy mô công ty, mức nợ, lợi
nhuận...) lên quyết định đầu tư của nhà quản lý. •
Các hàng đại diện cho các yếu tố đó. Ví dụ, hàng "ln-MVI" đại diện cho yếu tố "quy mô công ty". • Các con số trong bảng:
o Hệ số hồi quy: Cho biết yếu tố đó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư như thế nào.
Ví dụ, nếu hệ số của "quy mô công ty" là âm, điều đó có nghĩa là khi công ty càng
lớn, nhà quản lý càng ít đầu tư vào công ty đó.
o Dấu sao: Cho biết kết quả có đáng tin cậy hay không. Dấu sao càng nhiều, kết quả càng đáng tin.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý thường không thích đầu tư vào các công ty quá lớn,
có xu hướng đầu tư vào các công ty có đòn bẩy cao. Bởi vì các nhà quản lý thường có nhiều thông
tin hơn về các công ty gần họ nên đầu tư vào các công ty gần nhà có thể ít rủi ro hơn vì họ dễ theo
dõi tình hình hơn và có thể có các mối quan hệ cá nhân hoặc kinh doanh giữa nhà quản lý và công ty địa phương.
Các nhà quản lý thường có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty gần vị trí của họ. Điều
này có thể giải thích bởi việc họ có nhiều thông tin hơn, cảm thấy an tâm hơn và có thể có
các mối quan hệ cá nhân với các công ty này. Nói một cách đơn giản, các nhà quản lý
thường thích "đầu tư gần nhà".
D. Ý nghĩa đối với giao dịch thông tin
Qua việc nghiên cứu đã giải thích lý do tại sao các nhà quản lý quỹ lại có xu hướng ưu tiên đầu
tư vào các công ty gần vị trí của họ (hiện tượng thiên vị địa phương). Các nhà đầu tư phải trả chi
phí để thu thập thông tin về các công ty. Chi phí này thường cao hơn đối với các công ty nhỏ và
các công ty có đòn bẩy cao. Các nhà đầu tư địa phương có chi phí thu thập thông tin thấp hơn do
họ có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Các công ty nhỏ và có đòn bẩy cao thường có rủi ro cao
hơn. Các nhà đầu tư địa phương, với thông tin tốt hơn, có thể đánh giá rủi ro chính xác hơn và do
đó sẵn sàng đầu tư vào các công ty này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các nhà đầu tư địa phương ưu tiên đầu tư vào các công ty nhỏ
hơn vì họ có thể thu thập thông tin về các công ty này dễ dàng hơn và ưu tiên đầu tư vào các công
ty có đòn bẩy cao hơn vì họ có thể đánh giá chính xác hơn rủi ro liên quan đến đòn bẩy.
Kết luận: Hiện tượng thiên vị địa phương trong đầu tư có thể được giải thích bởi sự bất đối xứng
thông tin. Các nhà đầu tư địa phương có lợi thế trong việc thu thập và xử lý thông tin về các công
ty địa phương, đặc biệt là các công ty nhỏ và có đòn bẩy cao. Điều này giúp họ đánh giá chính xác
hơn rủi ro và cơ hội đầu tư, từ đó đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn.
IV. Đặc điểm của nhà quản lý và thiên vị địa phương
Đoạn văn trên tiếp tục nghiên cứu về hiện tượng thiên vị địa lý trong đầu tư, nhưng lần này tập
trung vào vai trò của các nhà quản lý quỹ. •
Các nhà quản lý quỹ lớn có thể có nhiều nguồn lực hơn để thu thập thông tin, nhưng thông
tin này cũng có thể bị phân tán. •
Các nhà quản lý có nhiều chi nhánh có thể có cơ sở nhà đầu tư phân tán hơn và có thể tiếp
cận được nhiều thông tin địa phương hơn. •
Tỷ lệ nghiên cứu nội bộ: Nếu thông tin nội bộ là yếu tố quan trọng, thì các nhà quản lý có
tỷ lệ nghiên cứu nội bộ cao sẽ có xu hướng thiên vị địa phương hơn. •
Số lượng công ty được theo dõi: Nếu các nhà quản lý thu thập thông tin bằng cách theo dõi
một số lượng hạn chế cổ phiếu, thì họ có thể có xu hướng thiên vị địa phương hơn.
Nghiên cứu đã giúp hiểu rõ hơn về hành vi của nhà quản lý quỹ, về lý do tại sao các nhà quản lý
quỹ lại có xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty địa phương. Có thể sử dụng kết quả nghiên cứu
để đánh giá hiệu suất của các quỹ đầu tư và xem xét liệu thiên vị địa lý có ảnh hưởng đến hiệu suất
đầu tư hay không. Cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư để họ có thể lựa chọn các nhà
quản lý quỹ phù hợp và giảm thiểu rủi ro do thiên vị địa lý gây ra.
Đoạn văn trên đã đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng về vai trò của các nhà quản lý quỹ
trong hiện tượng thiên vị địa lý. Bằng cách phân tích các đặc điểm của nhà quản lý, nghiên cứu
này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về động cơ và hành vi của các nhà quản lý quỹ, từ đó đưa ra
những kết luận có ý nghĩa đối với cả nhà đầu tư và nhà quản lý quỹ.
Phần 7: Mở rộng phân tích để bao gồm một số đặc điểm của người quản lý quỹ
Đoạn văn trên đang trình bày về phương pháp đo lường độ thiên vị địa lý trong đầu tư. Nói cách
khác, họ đang tìm cách đo lường mức độ mà các nhà quản lý quỹ ưu tiên đầu tư vào các công ty
gần vị trí của họ hơn là các công ty ở xa.
Cách thức đo lường: Xác định trọng số:
o Trọng số lý thuyết (mi,j): Đây là trọng số lý tưởng mà nhà quản lý nên phân bổ cho
mỗi cổ phiếu nếu họ đầu tư hoàn toàn dựa trên các yếu tố cơ bản của thị trường và
không có bất kỳ thiên vị nào. o Trọng số thực tế (hi,j): Đây là trọng số thực tế mà
nhà quản lý thực sự phân bổ cho mỗi cổ phiếu. o Khoảng cách địa lý (di,j): Khoảng
cách địa lý giữa nhà quản lý và công ty.
Tính toán độ thiên vị:
o Công thức: Độ thiên vị địa lý được tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa trọng
số lý thuyết và trọng số thực tế, nhân với khoảng cách địa lý, và sau đó chuẩn hóa
bằng khoảng cách trung bình có trọng số. o Ý nghĩa: Nếu một nhà quản lý phân bổ
trọng số thực tế cho một công ty gần nhà quản lý cao hơn nhiều so với trọng số lý
thuyết, thì độ thiên vị địa lý của nhà quản lý đó sẽ cao. Phân tích hồi quy:
o Mục tiêu: Tìm hiểu xem các đặc điểm của công ty và nhà quản lý có ảnh hưởng
như thế nào đến độ thiên vị địa lý.
o Phương pháp: Sử dụng hồi quy để xem xét mối quan hệ giữa độ thiên vị địa lý với
các biến số như kích thước công ty, ngành nghề, và các đặc điểm của nhà quản lý.
o Dữ liệu: Dữ liệu được sử dụng bao gồm thông tin về các danh mục đầu tư của nhiều
nhà quản lý quỹ và các đặc điểm của các công ty trong danh mục đầu tư đó.
Đoạn văn tập trung đào sâu vào nguyên nhân của hiện tượng thiên vị quê hương, đặc biệt là vai trò
của các đặc điểm của nhà quản lý quỹ. Mục tiêu chính là tìm hiểu xem các yếu tố liên quan đến
nhà quản lý, như quy mô quỹ, số lượng chi nhánh, kinh nghiệm nghiên cứu, có ảnh hưởng như thế
nào đến xu hướng ưu tiên đầu tư vào các công ty địa phương.
Các phát hiện chính:
- Quy mô quỹ và số lượng chi nhánh: Các biến số này không có ảnh hưởng đáng kể đến mức
độ thiên vị quê hương của các nhà quản lý. Mặc dù có một số xu hướng cho thấy các quỹ
nhỏ hơn có thể thiên vị quê hương hơn, nhưng kết quả này không có ý nghĩa thống kê.
- Kinh nghiệm nghiên cứu: Số lượng công ty được nhà quản lý theo dõi thường xuyên có
một mối liên hệ yếu với thiên vị quê hương. Các nhà quản lý tập trung vào một số công ty
nhất định có xu hướng ủng hộ các công ty gần địa lý hơn. Điều này gợi ý rằng việc tập
trung nghiên cứu vào các công ty địa phương có thể là một trong những nguyên nhân dẫn
đến thiên vị quê hương.
- Sự nhất quán của các kết quả: Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sở thích đối với các
công ty địa phương nhỏ, có đòn bẩy cao và sản xuất hàng hóa không thể giao dịch là một
hiện tượng phổ biến và tồn tại ở nhiều loại quỹ và nhà quản lý khác nhau.
Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy thiên vị quê hương là một hiện tượng phức
tạp và có nhiều nguyên nhân. Mặc dù các đặc điểm của nhà quản lý không phải là yếu tố quyết
định duy nhất, nhưng kinh nghíệm nghiên cứu và cách phân bổ nguồn lực của nhà quản lý có thể
đóng một vai trò nhất định trong việc tạo ra thiên vị quê hương.
Nghiên cứu này đã làm rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến thiên vị quê hương và cung cấp những
gợi ý quan trọng cho các nhà đầu tư, nhà quản lý quỹ và các nhà hoạch định chính sách. Việc hiểu
rõ về nguyên nhân của hiện tượng này sẽ giúp chúng ta đưa ra các quyết định đầu tư tốt hơn và
phát triển thị trường tài chính một cách hiệu quả hơn.
Phần 8: Kết luận
Đoạn văn trên đã tập trung phân tích một hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến trong hành vi đầu tư,
đó là "home bias" (thiên vị quê hương). Hiện tượng này mô tả xu hướng các nhà đầu tư thường ưu
tiên đầu tư vào các công ty trong nước hơn là các công ty nước ngoài, bất chấp việc các công ty
nước ngoài có thể có tiềm năng sinh lời cao hơn. Nghiên cứu này, bằng cách áp dụng lý thuyết vi
mô kinh tế hành vi, đã tiến hành khảo sát sâu hơn về các yếu tố thúc đẩy "home bias", với trọng
tâm là vai trò của khoảng cách địa lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy "home bias" là một hiện tượng
đa chiều, chịu tác động của nhiều yếu tố phức tạp, trong đó khoảng cách địa lý chỉ là một trong
những yếu tố góp phần giải thích hiện tượng này.