Tóm tắt lý thuyết chương 1 môn Chủ nghĩa xã hội khoa học

Tài liệu cung cấp kiến thức trọng tâm của chương 1, môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Mời bạn đọc đón xem! 

1
Phân tích đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa hội khoa học, so sánh với đối
tượng của triếc học:
* Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩahội khoa học:
Chủ nghĩa xã hội khoa học đối tượng nghiên cứu là: những quy luậttính quy luật chính
trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức phương pháp
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa bản
(và các chế độ tư hữu) lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Sự chuyển biến từ các chế độ tư hữu, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội... mang tính
quy luật khách quan của lịch sử nhân loại. Nhưngđó vấn đề hội, quy luật hội cho
nên nó không tự diễn ra như quy luật tự nhiên mà đều thông qua những hoạt động của con
người. Nhân tố Người đây lại trước hết giai cấp công nhân hiện đại. Với ý nghĩa đó, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khái quát rằng: “Chủ nghĩa cộng sản... là sự biểu
hiện lý luận của lập trường của giai cấp vô sản”
Những nội dung lý luận khoa học chung nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học mà chủ nghĩa
Mác-Lênin nêu ra cần được vận dụng cụ thể, đúng đắn và phát triển sáng tạo ở mỗi nước,
trong những giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nếu ở đâu biến những lý luận của chủ
nghĩahội khoa học thành những công thức giáo điều thì đó đã làm mất tính biện chứng -
khoa học và cách mạng cũng như giá trị và sức sống của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong hệ thống nội dung lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học có những phạm trù, khái
niệm, vấn đề mang tính quy luật rất bản sau đây: “giai cấp công nhân”“sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân” (gắn với đảng cộng sản”); “hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa” (trong đó đặc biệt là “xã hội xã hội chủ nghĩa”); “cách mạng xã hội chủ nghĩa”; “nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa”; “cơ cấu xã hội - giai cấp, liên minh
công nông và các tầng lớp lao động...”; "vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội", “vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề gia đình trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề nguồn lực con người trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội”; “thời đại ngày nay”...
* Đối tượng nghiên cứu của triết học sở luận của chủ nghĩa xã hội khoa học:
Triết học Mác-nin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế giới quan và nhân sinh
quan của con người; khi xã hội có giai cấp thì thế giới quan, nhân sinh quan mang tính giai
cấp. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp công nhân hiện đại,
đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong thời đại hiện nay. Triết học Mác-Lênin vì thế
mà trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận chung cho chủ nghĩa xã hội khoa học (và
nhiều khoa học khác). Đặc biệt là khi luận giải về quy luật chung nhất của sự phát triển xã
hội là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, triết học Mác-Lênin khẳng
địnhhội loài người sự kế tiếp của các hình thái kinh tế - xã hội như “một quá trình lịch
sử tự nhiên”. Quá trình đó tất yếu dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở tất
cả các nước với những hình thức, bước đi và thời gian khác nhau.
Phân tích những đóng góp về luận chính tr-xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam
qua 35 năm đổi mới?
Đại hội VIII của Đảng
Đại hội VIII của Đảng tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới (1986-1996) đã rút ra sáu bài
học chủ yếu.
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựngbảo vệ Tổ quốc, kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đó đã khẳng định xác định đổi mới không phải thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa
quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa hộithực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách
mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch
định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có
mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về
vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân
dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi
đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằnghội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên
thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn
quan m bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm
giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho
mọi người, mọi gia đình đều khá giả.
Bốn là, mở rộngtăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của
Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao
khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của nhân dân thế
giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Trong đó chỉ rõ: Sự nghiệp cách mạng của nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng ta
Đảng cầm quyền. Những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng
đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng.
2
3
Đại hội IX của Đảng
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: 15 m đổi mới (1986-2000) đã cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến
nay vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộcch nghĩahội trên
nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựao nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn
luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới.
Đại hội X của Đảng
Đại hội X của Đảng tiến hành tổng kết một số vấn đề luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
(1986-2006), đã khẳng định từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy
thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Đổi mới không phải từ bỏ
mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn
được xây dựng hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời nhận thức đúng, vận dụng
sáng tạo và phát triển Ch nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng
tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Phải đổi mới từ nhận thức, duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt
của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo
đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọngsáng kiến của nhân
dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng
bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó nhân tố quyết định
đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn lực, thông qua hội nhập và hợp
tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên sở giữ vững độc lập dân tộc
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân . Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu cần thiết của xã hội;
Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con
người. Phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốccác đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.
Đại hội XI của Đảng
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, tại Đại hội XI, Đảng ta rút ra
một số kinh nghiệm sau:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục
tiêu đổi mới, kiên định vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững , nâng
cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố xây dựng Đảng cả về chính trị, tưởng tổ chức.
Năm là, trong công tác lãnh đạochỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo¸ bám sát
thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình
hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.
Nhìn lại 35 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm,
rút ra một số bài học sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa
sống còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới,
những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước nhân dân phải chủ động, không
4
5
ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn,
phức tạplâu dài, nhưng đó con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận
thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận
quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa,
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân gốc",lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạomọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Cách mạng sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phảilợi ích
của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn
gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân người làm nên những thành tựu của
đổi mới. Đổi mới phải dựa vào nhân dân. thế, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm
"dân là gốc," phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành
quả đổi mới. Đổi mới sự nghiệp khó khăn, phức tạp cần phải phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống
đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ nhận thức, tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản
của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp
trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm
phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm
chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải
chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ
hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn yêu cầu sở để đổi
mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát
thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển
đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ
sung các thể chế, thiết chế, chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở sự phát triển; thực
hiện nói đi đôi với làm.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ độngtích cực hội nhập quốc tế trên sở bình đẳng, cùng lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần
kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan
hệ mật thiết với nhân dân.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm quyền của
Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên
tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát
huy vai trò mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới.
6
7
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn nhân lên từ
sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng
đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Những đặc trưng bản của chủ nghĩa hội Việt Nam
Những đặc trưng bản của chủ nghĩahội Việt Nam:
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm chủ nghĩa c Lênin, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩahội”, Đảng ta đã xác định những đặc trưng của chủ nghĩahội VIệt Nam mà
chúng ta sẽ xây dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đạichế độ công hữu
về các tự liệu sản xuất chủ yếu.
- nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kếtgiúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Những đặc trưng trên đều mang tính dự báo. Với sự phát triển về kinh tế và xã hội của đất
nước, thời đại, những đặc trưng sẽ được tiếp tục bổ sung, phát triển trong tiến trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Điều kiện ra đời của chủ nghĩa hội Việt Nam
Luận cương cách mạng Việt Nam được Đại hội II của Đảng (2-1951) thông qua đã xác định
phương hướng ràng là: hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới
CNXH. Luận cương nêu rõ: “nhiệm vụ trung tâm của Đảng là đẩy mạnh việc kỹ nghệ hóa,
phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng bộ phận kinh tế Nhà nước, tập thể hóa nông
nghiệp dần dần, thực hiện những kế hoạch dài hạn để gây thêm và củng cố cơ sở cho chủ
nghĩa xã hội, đặng tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể của giai đoạn này
phải tùy theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định.
Song một điều chắc chắn chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở kinh tế đầy đủ và chưa làm cho
số đông quần chúng nhân dân nhận chủ nghĩahội là cần thiết, thì chủ nghĩa đó chưa thể
thực hiện được. Ở nước ta, thời gian chuẩn bị đó, so với các nước dân chủ nhân dân khác,
nhất định sẽ lâu hơn, vì ta phải kiến quốc trên cơ sở một nước nông nghiệp lâu năm bị đế
quốc thống trị, tàn phá”(4).
Những điều kiện để tiến lên CNXH mà Hồ Chí Minh và Đại hội II của Đảng nêu ra phản ánh
sự nhận thức đúng đắn về CNXH từ thực tiễn Việt Nam có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn. Sau khi
miền Bắc được giải phóng, Đảng khẳng định dù hoàn cảnh như thế nào, miền Bắc cũng phải
tiến lên CNXH. Đó yêu cầu khách quan bảo đảm sự phát triển của miền Bắc, đồng thời còn
là yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Miền Bắc trải
qua 3 năm (1954-1957) khôi phục kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cải cách ruộng đất) và cũng là chuẩn bị những điều kiện cần
thiết và phát triển nhận thức để chính thức thực hiện cách mạng XHCN theo Nghị quyết
Trung ương 14 (1958) và Nghị quyết Đại hội III (9-1960).
Năm 1956, 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ những quan điểm về CNXH và phương
châm, phương pháp đi tới CNXH có ý nghĩa định hướng trong nhận thức của toàn Đảng.
Người quan niệm: “Chủ nghĩa hội làm sao cho dân giàu nước mạnh”(5). Đó tưởng
rất mới mẻ và sáng tạo về CNXH. Về cách thức tiến hành phải tiến dần từng bước lên
CNXH, cải tạo giai cấp sản cũng cần cách thức khác, “Ta không thể giống Liên Xô, vì
Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”(6). Phải luôn chú ý đặc điểm,
hoàn cảnh riêng của Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng giai cấp tư sản Việt Nam “họ có xu
hướng chống đế quốc, xu hướng yêu nước”, nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo,
họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”(7).
Trong diễn văn khai mạc lớp học luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc (7-9-1957), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc vận dụng luận vào thực tiễn Việt Nam trong
cách mạng XHCN. Phải nắm vững điều kiện đặc biệt của nước ta “là một xã hội vừa mới
thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu”.
“Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi
theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng
ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai
lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm
ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng
lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm
của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta
mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được
những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạnghội chủ nghĩa thích hợp với
tình hình nước ta”(8).
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình Đảng
lãnh đạo cách mạng XHCN và công cuộc đổi mới.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975) và trên cả nước sau năm 1975 đã bước
đầu tạo dựng một xã hội mới với bản chất tốt đẹp và sức mạnh về mọi mặt bảo đảm giành
thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đó điều không thể phủ nhận. Tuy vậy, trong cách mạng XHCN cũng đã phạm phải sai lầm,
khuyết điểm trong chính sách kinh tế, xã hội dẫn tới khủng hoảng từ năm 1979. Đảng đã kịp
thời tự phê bình và chỉ ra những nguyên nhân cần phải khắc phục, đó là bệnh nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước, chưa
nhận thức rõ quy luật khách quan. Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy
kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực của các
thành phần kinh tế, của cơ chế thị trường, chú trọng lợi ích của người lao động, sửa đổi cách
thức quản nặng về tập trung, hành chính, bao cấp cản tr những động lực của sự phát triển.
Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (8-1979) là bước đột phá đầu tiên, tiếp theo là Chỉ thị 100
(13-1-1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định 25CP, 26CP (21-1-1981),
Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6-1985) và Kết luận của Bộ Chính trị tháng 8-1986 là quá
trình khảo nghiệm thực tiễn để đi đến đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986).
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện dựa trên phân tích thấu đáo
điều kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn những vấn đề của thời kỳ quá độ lên
CNXH, những luận điểm của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Đại hội VI đã tổng kết những bài
học lớn có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn, trong đó nhấn mạnh bài học: “Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(9).
Trách nhiệm của nhân trong việc góp phần xây dựng nền dân chủ hội chủ
nghĩa, nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa nước ta hiện nay
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác giáo dục truyền thống, tinh thần yêu nước
và khơi dậy tinh thần yêu nước, nhận thức về những thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đã đạt được trong qua từng giai đoạn lịch sử. Nâng cao nhận thức, lý tưởng cách
mạng , quyết tâm trỏe thành đoàn viên ưu tú, từ đó nâng cao khả năng luận góp phần thực
8
9
hiện việc phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động.
Đề cao nhận thức và vai trò của người thủ lĩnh thanh niên trong việc định hướng và tổ chức
các nội dung hoạt động tại đơn vị.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội, truyền thông, có sự liên
kết chặt chẽ đối với các đồng chí cán bộ Đoàn. Kịp thời triển khai tuyên truyền các thông tin
chính thống, thông tin tích cực, định hướng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch trên các lĩnh vực, trên không gian mạng. Phát động các phong trào thi đua tích cực trên
các trang mạng xã hội nhằm định hướng thông tin tích cực đến với đoàn viên thanh niên và
giới trẻ. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu
chuyện đẹp”, thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu” góp phần nâng cao sức đề
kháng cho đoàn viên, thanh niên trong nhận diện và xử lý các vấn đề tiêu cực trên các trang
mạng xã hội và trong dư luận quần chúng.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp; đồng
thời định kỳ hàng quý, 6 tháng có đánh giá chất lượng, có đánh giá đảng viên dự bị, đảng
viên trẻ về ý thức, trách nhiệm và nhận thức trong quá trình rèn luyện, học tập và công tác.
Đánh giá đúng năng lực, đạo đức, tác phong của đảng viên trẻ, đoàn viên ưu khi bổ nhiệm
vị trí công tác và phân công nhiệm vụ.
Thứ tư, duy trì và nâng chất hiệu quả hoạt động của câu lạc bộ Lý luận trẻ, xây dựng
chuyên đề thực tiễn công tác đối với nâng cao khả năng luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ
phản bác bằng những vụ việc cụ thể. Thể hiện vai trò, trách nhiệm trong đề ra các giải pháp
có hiệu quả thực hiện cuộc vận động “Người cộng sản trẻ”; thể hiện tiếng nói, ý chí và hành
động cụ thể trong các diễn đàn “Đảng với thanh niên, thanh niên với Đảng”.
Thứ năm, thông qua các phong trào hành động cách mạng của Đoàn như “Tuổi trẻ xung
kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình nguyện”, phong trào “Tuổi
trẻ sáng tạo”, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong đề ra các hoạt động,
mô hình, giải pháp để giải quyết các vấn đề mà người dân quan tâm, đồng thời hỗ trợ giải
quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo đoàn viên, thanh niên như: vệ sinh
môi trường, cải cách hành chính, phòng chống tội phạm, truyền thông trên mạng hội…. để
qua đó tuyên truyền các công trình, phần việc của Đoàn, công tác vận động nhân dân, nâng
cao uy tín của từng đồng chí đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú trong việc tham gia thực hiện
nhiệm vụ kinh tế, chính trị tại địa phương.
Tiếp nối truyền thống đảng viên trẻ, đoàn viên ưu nói riêng, tuổi trẻ hôm nay bằng tất cả
trách nhiệm và nhiệt huyết của mình sẽ phát huy cao nhất tinh thần tiên phong, tình nguyện
qua những hành động cụ thể, việc làm sáng tạo đóng góp chung vào kết qu phát triển kinh tế
xã hội của thành phố; cụ thể hóa sự quyết tâm của tuổi trẻ bằng kết quả trong học tập, lao
động, sản xuất, kinh doanh, bằng các phong trào tình nguyện thiết thực, hiệu quả góp phần
cùng Đảng bộ và Chính quyền thành phố phát triển kinh tế; xây dựng và phát triển đô thị hiện
đại; chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội; xây dựng tổ chức Đoàn
vững mạnh để luôn là người bạn đồng hành với thanh niên và tất cả vì đàn em thân yêu.
Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong việc góp phần củng cố khối liên minh
giai cấp, tầng lớp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Phấn đấu hoàn thành tốt giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn người gương mẫu
xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo
trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức, giữ vững lập
trường.
Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tưởng sâu
sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương đại của Người. Song song với
việc xây dựng Đảng tùy theo sứcvị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp
dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung
dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong quan cũng như trong
cuộc sống cộng đồng.
Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân.
Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật
của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức
phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.
1. Trước hết mỗi thanh niên, sinh viên phải có lập trường tư tưởng vững vàng, xác định phấn
đấu vì một mục tiêu chung - đó là hiệu quả công việc. Có như vậy thì thi đua sẽ không trở
thành ganh đua, gây mất đoàn kết. Khi đã chung một tưởng thì mọi người sẽ chung sức,
chung lòng và thân ái với nhau hơn.
2. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, dìu dắt nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, đoàn kết không có
nghĩa là im lặng, làm ngơ, là bao che cho những khuyết điểm của đồng chí, đồng nghiệp mà
mỗi nhân luôn nêu cao tinh thần phê và tự phê. Dám nhận ra những thiếu sót của chính bản
thân, của đồng chí, đồng nghiệp và thẳng thắn góp ý xây dựng, cùng chia sẻ và tiếp thu
những cái hay, cái tốt để phát triển bản thân và tổ chức. Phê và tự phê để loại bỏ dần những
yếu điểm, hạn chế, giúp nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên việc góp ý kiến cần phải chân thành,
đúng lúc, đúng nơi.
3. Mỗi thanh niên, sinh viên phải biết đặt lợi ích chung của tập thể, của quan lên trên lợi
ích cá nhân, biết vì mục tiêu chung mà phấn đấu, biết nhìn nhận cái đúng cái sai, biết lắng
nghe để tự sửa chữa, biết góp ý chân tình cho đồng nghiệp. Đó là cơ sở để xây dựng khối
đoàn kết nội bộ ngày càng vững chắc hơn.
4. Gần gũi, cảm thông, góp ý chân thành, cởi mở, không mang tính áp đặt đối với mọi người
xung quanh. Cần biết nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của thanh niên, sinh viên. Khi phân công
công việc hay giải quyết những thắc mắc tránh việc gây ra ức chế đối với cán bộ, đảng viên.
Sự thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình và yêu mến công việc hơn.
5. Một vấn đề hết sức quan trọng trong việc xây dựng mối đoàn kết nội bộ phát huy tinh
thần dân chủ, tạo sự công bằng, công khai trong đơn vị.
10
| 1/10

Preview text:

Phân tích đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa hội khoa học, so sánh với đối
tượng của triếc học:
*
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học:
Chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng nghiên cứu là: những quy luật và tính quy luật chính
trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản
(và các chế độ tư hữu) lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Sự chuyển biến từ các chế độ tư hữu, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội... mang tính
quy luật khách quan của lịch sử nhân loại. Nhưng vì đó là vấn đề xã hội, quy luật xã hội cho
nên nó không tự diễn ra như quy luật tự nhiên mà đều thông qua những hoạt động của con
người. Nhân tố Người ở đây lại trước hết là giai cấp công nhân hiện đại. Với ý nghĩa đó, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khái quát rằng: “Chủ nghĩa cộng sản... là sự biểu
hiện lý luận của lập trường của giai cấp vô sản”
Những nội dung lý luận khoa học chung nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học mà chủ nghĩa
Mác-Lênin nêu ra cần được vận dụng cụ thể, đúng đắn và phát triển sáng tạo ở mỗi nước,
trong những giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nếu ở đâu biến những lý luận của chủ
nghĩa xã hội khoa học thành những công thức giáo điều thì ở đó đã làm mất tính biện chứng -
khoa học và cách mạng cũng như giá trị và sức sống của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong hệ thống nội dung lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học có những phạm trù, khái
niệm, vấn đề mang tính quy luật rất cơ bản sau đây: “giai cấp công nhân” và “sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân” (gắn với đảng cộng sản”); “hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa” (trong đó đặc biệt là “xã hội xã hội chủ nghĩa”); “cách mạng xã hội chủ nghĩa”; “nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa”; “cơ cấu xã hội - giai cấp, liên minh
công nông và các tầng lớp lao động...”; "vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội", “vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề gia đình trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề nguồn lực con người trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội”; “thời đại ngày nay”...
* Đối tượng nghiên cứu của triết học là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học:
Triết học Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế giới quan và nhân sinh
quan của con người; khi xã hội có giai cấp thì thế giới quan, nhân sinh quan mang tính giai
cấp. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp công nhân hiện đại,
đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong thời đại hiện nay. Triết học Mác-Lênin vì thế
mà trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận chung cho chủ nghĩa xã hội khoa học (và
nhiều khoa học khác). Đặc biệt là khi luận giải về quy luật chung nhất của sự phát triển xã
hội là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, triết học Mác-Lênin khẳng
định xã hội loài người có sự kế tiếp của các hình thái kinh tế - xã hội như “một quá trình lịch
sử tự nhiên”. Quá trình đó tất yếu dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở tất
cả các nước với những hình thức, bước đi và thời gian khác nhau.
Phân tích những đóng góp về luận chính trị-xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam
qua 35 năm đổi mới?
Đại
hội VIII của Đảng
Đại hội VIII của Đảng tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới (1986-1996) đã rút ra sáu bài học chủ yếu. 1
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đó đã khẳng định xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa
mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách
mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch
định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có
mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về
vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân
dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi
đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên
thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn
quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm
giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho
mọi người, mọi gia đình đều khá giả.
Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của
Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao
khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Trong đó chỉ rõ: Sự nghiệp cách mạng của nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng ta là
Đảng cầm quyền. Những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng
đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. 2
Đại hội IX của Đảng
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: 15 năm đổi mới (1986-2000) đã cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến
nay vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội X của Đảng
Đại hội X của Đảng tiến hành tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
(1986-2006), đã khẳng định từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy
thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Đổi mới không phải từ bỏ
mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và
được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng
sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt
của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo
đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân
dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng
bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định
đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn lực, thông qua hội nhập và hợp 3
tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân . Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu cần thiết của xã hội;
Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con
người. Phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.
Đại hội XI của Đảng
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, tại Đại hội XI, Đảng ta rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục
tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững , nâng
cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo¸ bám sát
thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình
hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.
Nhìn lại 35 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm,
rút ra một số bài học sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa
sống còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới,
những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không 4 ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn,
phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận
thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận
quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa,
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn
gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của
đổi mới. Đổi mới phải dựa vào nhân dân. Vì thế, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm
"dân là gốc," phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành
quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cần phải phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống
đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp
trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm
phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm
chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải 5
chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi
mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát
thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ
sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở sự phát triển; thực
hiện nói đi đôi với làm.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần
kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan
hệ mật thiết với nhân dân.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm quyền của
Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên
tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát
huy vai trò mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. 6
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên từ
sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng
đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Những đặc trưng bản của chủ nghĩa hội Việt Nam
Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở VIệt Nam mà
chúng ta sẽ xây dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tự liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Những đặc trưng trên đều mang tính dự báo. Với sự phát triển về kinh tế và xã hội của đất
nước, thời đại, những đặc trưng sẽ được tiếp tục bổ sung, phát triển trong tiến trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Điều kiện ra đời của chủ nghĩa hội Việt Nam
Luận cương cách mạng Việt Nam được Đại hội II của Đảng (2-1951) thông qua đã xác định
phương hướng rõ ràng là: hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới
CNXH. Luận cương nêu rõ: “nhiệm vụ trung tâm của Đảng là đẩy mạnh việc kỹ nghệ hóa,
phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng bộ phận kinh tế Nhà nước, tập thể hóa nông
nghiệp dần dần, thực hiện những kế hoạch dài hạn để gây thêm và củng cố cơ sở cho chủ
nghĩa xã hội, đặng tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể của giai đoạn này
phải tùy theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định.
Song một điều chắc chắn là chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở kinh tế đầy đủ và chưa làm cho
số đông quần chúng nhân dân nhận rõ chủ nghĩa xã hội là cần thiết, thì chủ nghĩa đó chưa thể
thực hiện được. Ở nước ta, thời gian chuẩn bị đó, so với các nước dân chủ nhân dân khác,
nhất định sẽ lâu hơn, vì ta phải kiến quốc trên cơ sở một nước nông nghiệp lâu năm bị đế
quốc thống trị, tàn phá”(4).
Những điều kiện để tiến lên CNXH mà Hồ Chí Minh và Đại hội II của Đảng nêu ra phản ánh
sự nhận thức đúng đắn về CNXH từ thực tiễn Việt Nam có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn. Sau khi
miền Bắc được giải phóng, Đảng khẳng định dù hoàn cảnh như thế nào, miền Bắc cũng phải
tiến lên CNXH. Đó là yêu cầu khách quan bảo đảm sự phát triển của miền Bắc, đồng thời còn
là yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Miền Bắc trải
qua 3 năm (1954-1957) khôi phục kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cải cách ruộng đất) và cũng là chuẩn bị những điều kiện cần
thiết và phát triển nhận thức để chính thức thực hiện cách mạng XHCN theo Nghị quyết
Trung ương 14 (1958) và Nghị quyết Đại hội III (9-1960).
Năm 1956, 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ những quan điểm về CNXH và phương
châm, phương pháp đi tới CNXH có ý nghĩa định hướng trong nhận thức của toàn Đảng.
Người quan niệm: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(5). Đó là tư tưởng
rất mới mẻ và sáng tạo về CNXH. Về cách thức tiến hành phải tiến dần từng bước lên 7
CNXH, cải tạo giai cấp tư sản cũng cần có cách thức khác, “Ta không thể giống Liên Xô, vì
Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”(6). Phải luôn chú ý đặc điểm,
hoàn cảnh riêng của Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng giai cấp tư sản Việt Nam “họ có xu
hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước”, “nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo,
họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”(7).
Trong diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc (7-9-1957), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc vận dụng lý luận vào thực tiễn Việt Nam trong
cách mạng XHCN. Phải nắm vững điều kiện đặc biệt của nước ta “là một xã hội vừa mới
thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu”.
“Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi
theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng
ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai
lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm
ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng
lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm
của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta
mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được
những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”(8).
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình Đảng
lãnh đạo cách mạng XHCN và công cuộc đổi mới.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975) và trên cả nước sau năm 1975 đã bước
đầu tạo dựng một xã hội mới với bản chất tốt đẹp và sức mạnh về mọi mặt bảo đảm giành
thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đó là điều không thể phủ nhận. Tuy vậy, trong cách mạng XHCN cũng đã phạm phải sai lầm,
khuyết điểm trong chính sách kinh tế, xã hội dẫn tới khủng hoảng từ năm 1979. Đảng đã kịp
thời tự phê bình và chỉ ra những nguyên nhân cần phải khắc phục, đó là bệnh nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước, chưa
nhận thức rõ quy luật khách quan. Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy
kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực của các
thành phần kinh tế, của cơ chế thị trường, chú trọng lợi ích của người lao động, sửa đổi cách
thức quản lý nặng về tập trung, hành chính, bao cấp cản trở những động lực của sự phát triển.
Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (8-1979) là bước đột phá đầu tiên, tiếp theo là Chỉ thị 100
(13-1-1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định 25CP, 26CP (21-1-1981),
Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6-1985) và Kết luận của Bộ Chính trị tháng 8-1986 là quá
trình khảo nghiệm thực tiễn để đi đến đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986).
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện dựa trên phân tích thấu đáo
điều kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn những vấn đề của thời kỳ quá độ lên
CNXH, những luận điểm của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Đại hội VI đã tổng kết những bài
học lớn có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn, trong đó nhấn mạnh bài học: “Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(9).
Trách nhiệm của nhân trong việc góp phần xây dựng nền dân chủ hội chủ
nghĩa, nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa nước ta hiện nay
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác giáo dục truyền thống, có tinh thần yêu nước
và khơi dậy tinh thần yêu nước, nhận thức về những thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đã đạt được trong qua từng giai đoạn lịch sử. Nâng cao nhận thức, lý tưởng cách
mạng , quyết tâm trỏe thành đoàn viên ưu tú, từ đó nâng cao khả năng lý luận góp phần thực 8
hiện việc phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động.
Đề cao nhận thức và vai trò của người thủ lĩnh thanh niên trong việc định hướng và tổ chức
các nội dung hoạt động tại đơn vị.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội, truyền thông, có sự liên
kết chặt chẽ đối với các đồng chí cán bộ Đoàn. Kịp thời triển khai tuyên truyền các thông tin
chính thống, thông tin tích cực, định hướng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch trên các lĩnh vực, trên không gian mạng. Phát động các phong trào thi đua tích cực trên
các trang mạng xã hội nhằm định hướng thông tin tích cực đến với đoàn viên thanh niên và
giới trẻ. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu
chuyện đẹp”, thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu” góp phần nâng cao sức đề
kháng cho đoàn viên, thanh niên trong nhận diện và xử lý các vấn đề tiêu cực trên các trang
mạng xã hội và trong dư luận quần chúng.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp; đồng
thời định kỳ hàng quý, 6 tháng có đánh giá chất lượng, có đánh giá đảng viên dự bị, đảng
viên trẻ về ý thức, trách nhiệm và nhận thức trong quá trình rèn luyện, học tập và công tác.
Đánh giá đúng năng lực, đạo đức, tác phong của đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú khi bổ nhiệm
vị trí công tác và phân công nhiệm vụ.
Thứ tư, duy trì và nâng chất hiệu quả hoạt động của câu lạc bộ Lý luận trẻ, xây dựng
chuyên đề thực tiễn công tác đối với nâng cao khả năng lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ
phản bác bằng những vụ việc cụ thể. Thể hiện vai trò, trách nhiệm trong đề ra các giải pháp
có hiệu quả thực hiện cuộc vận động “Người cộng sản trẻ”; thể hiện tiếng nói, ý chí và hành
động cụ thể trong các diễn đàn “Đảng với thanh niên, thanh niên với Đảng”.
Thứ năm, thông qua các phong trào hành động cách mạng của Đoàn như “Tuổi trẻ xung
kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình nguyện”, phong trào “Tuổi
trẻ sáng tạo”, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong đề ra các hoạt động,
mô hình, giải pháp để giải quyết các vấn đề mà người dân quan tâm, đồng thời hỗ trợ giải
quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo đoàn viên, thanh niên như: vệ sinh
môi trường, cải cách hành chính, phòng chống tội phạm, truyền thông trên mạng xã hội…. để
qua đó tuyên truyền các công trình, phần việc của Đoàn, công tác vận động nhân dân, nâng
cao uy tín của từng đồng chí đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú trong việc tham gia thực hiện
nhiệm vụ kinh tế, chính trị tại địa phương.
Tiếp nối truyền thống đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú nói riêng, tuổi trẻ hôm nay bằng tất cả
trách nhiệm và nhiệt huyết của mình sẽ phát huy cao nhất tinh thần tiên phong, tình nguyện
qua những hành động cụ thể, việc làm sáng tạo đóng góp chung vào kết quả phát triển kinh tế
– xã hội của thành phố; cụ thể hóa sự quyết tâm của tuổi trẻ bằng kết quả trong học tập, lao
động, sản xuất, kinh doanh, bằng các phong trào tình nguyện thiết thực, hiệu quả góp phần
cùng Đảng bộ và Chính quyền thành phố phát triển kinh tế; xây dựng và phát triển đô thị hiện
đại; chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội; xây dựng tổ chức Đoàn
vững mạnh để luôn là người bạn đồng hành với thanh niên và tất cả vì đàn em thân yêu.
Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong việc góp phần củng cố khối liên minh
giai cấp, tầng lớp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn là người gương mẫu
xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo
trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức, giữ vững lập trường.
Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng sâu
sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Song song với
việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng cao tinh thần 9
cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp
dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung
dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.
Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân.
Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật
của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức
phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.
1. Trước hết mỗi thanh niên, sinh viên phải có lập trường tư tưởng vững vàng, xác định phấn
đấu vì một mục tiêu chung - đó là hiệu quả công việc. Có như vậy thì thi đua sẽ không trở
thành ganh đua, gây mất đoàn kết. Khi đã có chung một lý tưởng thì mọi người sẽ chung sức,
chung lòng và thân ái với nhau hơn.
2. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, dìu dắt nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, đoàn kết không có
nghĩa là im lặng, làm ngơ, là bao che cho những khuyết điểm của đồng chí, đồng nghiệp mà
mỗi cá nhân luôn nêu cao tinh thần phê và tự phê. Dám nhận ra những thiếu sót của chính bản
thân, của đồng chí, đồng nghiệp và thẳng thắn góp ý xây dựng, cùng chia sẻ và tiếp thu
những cái hay, cái tốt để phát triển bản thân và tổ chức. Phê và tự phê để loại bỏ dần những
yếu điểm, hạn chế, giúp nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên việc góp ý kiến cần phải chân thành, đúng lúc, đúng nơi.
3. Mỗi thanh niên, sinh viên phải biết đặt lợi ích chung của tập thể, của cơ quan lên trên lợi
ích cá nhân, biết vì mục tiêu chung mà phấn đấu, biết nhìn nhận cái đúng cái sai, biết lắng
nghe để tự sửa chữa, biết góp ý chân tình cho đồng nghiệp. Đó là cơ sở để xây dựng khối
đoàn kết nội bộ ngày càng vững chắc hơn.
4. Gần gũi, cảm thông, góp ý chân thành, cởi mở, không mang tính áp đặt đối với mọi người
xung quanh. Cần biết nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của thanh niên, sinh viên. Khi phân công
công việc hay giải quyết những thắc mắc tránh việc gây ra ức chế đối với cán bộ, đảng viên.
Sự thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình và yêu mến công việc hơn.
5. Một vấn đề hết sức quan trọng trong việc xây dựng mối đoàn kết nội bộ là phát huy tinh
thần dân chủ, tạo sự công bằng, công khai trong đơn vị. 10