





Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58478860
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ 
 Môi trường đầu tư là một thuật ngữ được nghiên cứu và sử dụng trong lĩnh vực 
kinh tế và quản trị kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. hiệm môi trường đầu tư 
được nghiên cứu và xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau tuỳ theo mục đích, 
phạm vi, đối tượng nghiên cứu.  5.1.1. Khái niệm 
- Khái niệm 1: “Môi trường đầu tư phản ánh những nhân tố đặc trưng của địa 
điểm, từ đó tạo thành các cơ hội và động lực cho DN đầu tư hiệu quả, tạo 
việc làm và phát triển". Khái niệm này được nêu trong Báo cáo phát triển thế 
giới năm 2005, môi trường đầu tư là tập hợp các nhân tố đặc trưng địa điểm 
ảnh hưởng tới quyết định đầu tư. Chính những nhân tố đặc thù địa điểm có 
ảnh hưởng tới chi phí, rủi ro, rào cản cạnh tranh của DN, từ đó ảnh hưởng 
tới lợi nhuận kỳ vọng. Các nhà đầu tư sẽ xem xét tác động của các yếu tố 
này tới lợi nhuận để ra quyết định đầu tư. Trong những nhân tố của môi 
trường đầu tư, có những nhân tố chính phủ có tác động đáng kể như văn bản 
pháp luật, thuế, cơ sở hạ tầng, tham nhũng...; và có những nhân tố chính phủ 
ít có ảnh hưởng như điều kiện tự nhiên, quy mô thị trường. Việc cải thiện 
môi trường đầu tư được thực hiện thông qua những nhân tố mà chính phủ có 
thể tác động. Báo cáo cũng phân loại các yếu tố của môi trường đầu tư theo 
chức năng quản lý của chính phủ và ảnh hưởng của môi trường đầu tư tới 
quyết định đầu tư thông qua tác động chi phí, rủi ro, rào cản cạnh tranh của 
nhà đầu tư. Với tiêu đề của Báo cáo là: “Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi 
người”, môi trường đầu tư dành cho mọi chủ thể kinh tế, DN lớn, DN nhỏ, 
hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư có vốn nước ngoài. Hơn 
nữa, môi trường đầu tư không chỉ mang lại lợi nhuận cho bản thân DN đầu 
tư mà còn mang lại lợi ích cho xã hội, lợi ích cho các chủ thể khác của nền  kinh tế. 
- Khái niệm 2: “Môi trường đầu tư là hệ thống các yếu tố đặc thù của quốc gia 
đang định hình ra những cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư có 
- Khái niệm 3: Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố (điều kiện về pháp 
luật, kinh tế, chính trị-xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, năng lực thị 
trường và cả các lợi thế của một quốc gia) có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt 
động đầu tư của các nhà đầu tư tại một quốc gia. 
- Khái niệm 4: Môi trường đầu tư là một tập hợp các yếu tố tác động tới các 
cơ hội, các ưu đãi, các lợi ích của các DN khi đầu tư mới, mở rộng sản xuất 
kinh doanh, có tác động chi phối tới hoạt động đầu tư thông qua chỉ phí, rủi 
ro và cạnh tranh. Khi đề cập tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, một 
số khái niệm môi trường đầu tư nêu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn này. 
- Khái niệm 5: “Môi trường đầu tư quốc tế là tổng hoà các yếu tố có nh hưởng 
đến các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư trên phạm vi toàn ầu." Ở khái 
niệm 5, môi trường đầu tư quốc tế ảnh hưởng đến dòng chảy vốn đầu tư trực      lOMoAR cPSD| 58478860
tiếp nước ngoài. Trong đó, môi trường đầu tư quốc tế bao gồm các yếu tố 
của nước nhận đầu tư (như tình hình chính trị, chính sách- pháp luật, vị trí 
địa lý-điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, các đặc điểm văn hoá xã 
hội), các yếu tố ở nước đầu tư (như thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, các 
hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của chính phủ, tiềm lực kinh tế, 
khoa học công nghệ) và các yếu tố thuộc môi trường quốc tế (như xu hướng 
đối thoại chính trị khu vực và thế giới, liên kết khu vực, tăng trưởng của 
TNCs và tốc độ toàn cầu hoá). Vậy, môi trường đầu tư quốc tế gồm 3 môi 
trường bộ phận, đó là: môi trường đầu tư ở nước nhận đầu tư (còn gọi là môi 
trường ĐTNN), môi trường đầu tư ở nước đi đầu tư và môi trường quốc tế. 
Mối quan hệ giữa 3 môi trường được thể hiện ở sơ đồ 
- Khái niệm 6: “môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố, điều kiện và chính 
sách của nước tiếp nhận đầu tư chi phối đến hoạt động đầu tư nước ngoài." 
Đối với các nước đang phát triển, khả năng tích lũy vốn chưa đáp ứng nhu 
cầu vốn đầu tư cho phát triển thì việc tích cực thu hút các nguồn vốn đầu tư 
là cần thiết. Cả môi trường đầu tư quốc tế, môi trường đầu tư quốc gia, môi 
trường đầu tư địa phương đều có ảnh hưởng tới thu hút và sử dụng vốn đầu 
tư. Tuy nhiên, chỉ có môi trường đầu tư quốc gia, môi trường đầu tư địa 
phương là môi trường mà quốc gia, địa phương đó có thể chủ động kiểm 
soát, và cải thiện khi muốn thu hút các nguồn vốn đầu tư. Chương này chỉ 
tập trung nghiên cứu môi trường đầu tư quốc gia, địa phương và ảnh hưởng 
của nó tới hoạt động đầu tư. Với phạm vi đó, khái niệm môi trường đầu tư 
được định nghĩa như sau: Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố của quốc 
gia, địa phương có ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư, và phát triển kinh tế. 
Trước hết, môi trường đầu tư là tổng hòa của các yếu tố của quốc gia, địa 
phương. Các yếu tố này có thể thuộc về các nhóm và các môi trường bộ 
phận nếu phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Các yếu tố của môi trường 
đầu tư gồm các yếu tố thuộc các môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, 
pháp luật, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội. Tất cả các yếu tố 
riêng có của một quốc gia, địa phương sẽ tạo ra những cơ hội đầu tư, có ảnh 
riêng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Thứ hai, môi trường đầu tưở 
khái niệm này chỉ đề cập đến môi trường đầu tư của quốc gia, địa phương, 
khả không đề cập đến các môi trường bên ngoài quốc gia mặc dù các yếu tố 
của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng tới sự thay đổi của các yếu tố của 
môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư. Thứ ba, các yếu tố của môi trường 
đầu tư có tác động tới cả chu kỳ dự án đầu tư, kể từ khi nhà đầu tư bắt đầu 
tìm hiểu về môi trường đầu tư, nắm bắt cơ hội đầu tư để bắt đầu giai đoạn 
chuẩn bị đầu tư, lập dự án để đưa ra quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư đề 
có thể đưa các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư vào vận hành, tiến 
hành hoạt động sản xuất kinh doanh và chấm dứt dự án. Hay, môi trường 
đầu tư là tổng hoà các yếu tố của địa điểm đầu tư có tác động tới chu kỳ dự 
án đầu tư. Một môi trường đầu tư tốt không chỉ tạo thuận lợi cho quá trình      lOMoAR cPSD| 58478860
thu hút vốn đầu tư mà còn tạo môi trường hoạt động tốt cho cả quá trình sản 
xuất kinh doanh cho đến khi nhà đầu tư chấm dứt hoạt động đầu tư. Thứ tư, 
tác giả cũng muốn nhấn mạnh đến khái niệm môi trường đầu tư tốt. Môi 
trường đầu tư có ảnh hưởng tới lợi ích của nhà đầu tư, có tác động tới hoạt 
động đầu tư của nhà đầu tư tại quốc gia đó. Hoạt động đầu tư là của chủ đầu 
tư và do chủ đầu tư quyết định nhưng nó có tương tác với các chủ thể khác 
của nền kinh tế, từ đó có tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Môi 
trường đầu tư tốt không chỉ mang lại hiệu quả cho chủ đầu tư mà còn cho 
địa phương và quốc gia. Lợi nhuận được coi là mục tiêu cuối cùng của các 
nhà đầu tư, tuy nhiên nếu môi trường đầu tư thuận lợi thì hoạt động đầu tư 
có hiệu quả, ngược lại, nếu môi trường đầu tư có nhiều yếu tố không thuận 
lợi thì có thể tạo ra các rào cản cho hoạt động đầu tư, và hiệu quả hoạt động 
đầu tư không cao và nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư nước khác. Tuy 
nhiên, cần cân bằng lợi ích kinh tế xã hội với lợi ích mà nhà đầu tư thu được. 
Về mặt nguyên tắc, môi trường đầu tư tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư 
hiệu quả nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội. Nếu dự án có lợi ích 
kinh tế xã hội thu được nhỏ hơn chi phí xã hội bò ra cho dự án đó thì dự án 
đó không được chấp nhận đầu tư. Môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại 
lợi ích cho bản thân nhà đầu tư, mà còn mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế. 
Do đó, quá trình cải thiện môi trường đầu tư cần gắn bó chặt chẽ với định 
hướng phát triển kinh tế xã hội, cần khẳng định rõ ràng là cải thiện môi 
trường đầu tư nhằm thu hút vốn cho phát triển kinh tế xã hội. Thu hút vẫn 
đầu tư chỉ chú trọng tới lượng vốn không thì chưa đủ mà cần chú ý tới chất 
lượng, tới định hướng thu hút vốn đầu tư. Vốn đầu tư cần thu hút có chọn 
lọc để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững 
5.1.2. Đặc điểm của môi trường đầu tư 
5.1.2.1. Môi trường đầu tư có tính tổng hợp 
Môi trường đầu tư là tổng hòa của các yếu tố, các yếu tố không chỉ tác động tới 
một nhà đầu tư mà tất cả các nhà đầu tư tại một địa phương nhất định, tác động tới 
các đối tượng khác (người lao động, khách hàng, nhà cung cấp...) và tới toàn bộ 
nền kinh tế. Đó chính là tính tổng hợp của môi trường đầu tư, tổng hợp của các yếu 
tố cấu thành, tác động nên tất cả đối tượng. Nhà đầu tư đánh giá môi trường đầu tư 
là một “gói” tổng thể. Bất kỳ sự thay đổi nào của môi trường đầu tư có ảnh hưởng 
tới hoạt động đầu tư, tạo ra trở ngại hay cơ hội cho nhà đầu tư. Từng yếu tố thay 
đổi theo hướng tích cực nhưng vẫn có thể chưa giải quyết được những rào cản mà 
nhà đầu tư gặp phải bởi giữa các yếu tố của môi trường đầu tư có mối quan hệ 
tương tác với nhau. Chẳng hạn, khả năng tiếp cận tín dụng sẽ vẫn là trở ngại đối 
với nhà đầu tư nếu quyền tài sản không đảm bảo, hoặc luật phá sản yếu kém? Do 
đó, khi đánh giá môi trường đầu tư cần xem xét tổng hợp các yếu tố và mối quan 
hệ giữa các yếu tố chứ không chỉ xem xét độc lập từng yếu tố. Chính phủ quản lý 
tách bạch từng lĩnh vực, phân công trách nhiệm giữa các bộ, ngành nên khi đánh      lOMoAR cPSD| 58478860
giá và cải thiện môi trường đầu tư cần phối hợp giữa các bộ, ngành, các cấp. Khi 
cải thiện môi trường đầu tư cần xem xét ảnh hưởng của quá trình cải thiện này tới 
các đối tượng khác nhau và cả nền kinh tế. Các yếu tố của môi trường đầu tư khác 
nhau giữa các vùng, các quốc gia. Bản thân trong một vùng, quốc gia, các yếu tố 
cũng khác nhau giữa các thời kỳ. Sự khác nhau về môi trường đầu tư theo vùng, 
quốc gia và thời gian phụ thuộc vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc 
gia, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, sự tác động của quá trình 
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và một số yếu tố khách quan khác như  điều kiện tự nhiên. 
5.1.2.2. Tính hai chiều của môi trường đầu tư 
Các nhà đầu tư luôn hoạt động trong môi trường đầu tư nhất định. Giữa chính phủ, 
môi trường đầu tư và nhà đầu tư, có mối quan hệ tương tác với nhau. Môi trường 
đầu tư tạo cơ hội đầu tư, ảnh hưởng tới quá trình đầu tư thông qua tác động tới chi 
phí, tới rủi ro, rào cản cạnh tranh và từ đó tới lợi ích và hiệu quả của hoạt động đầu 
tư. Nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào một địa điểm sẽ chịu ảnh hưởng của môi 
trường đầu tư tại đó dù nhà đầu tư có quyền đánh giá môi trường đầu tư và đưa ra 
quyết định đầu tư. Do đó, môi trường đầu tư sẽ ảnh hưởng tới quá trình ra quyết 
định đầu tư, bỏ vốn đầu tư bao nhiêu, bỏ vốn đầu tư vào đâu. Hay, môi trường đầu 
tư có ảnh hưởng tới giá trị cũng như cơ cấu đầu tư của một quốc gia. Ngược lại, 
nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư sẽ ảnh hưởng tới môi trường đầu tư theo hai hướng 
tích cực và tiêu cực, như nâng cao trình độ nghề nghiệp và quản lý của người lao 
động hoặc làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trình độ công nghệ của quốc 
gia là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và ngược lại, đầu tư tác động đến quá 
trình phát triển khoa học và công nghệ của quốc gia đó. Tính hai chiều của môi 
trường đầu tư còn thể hiện vai trò của nhà nước với quá trình cải thiện môi trường 
đầu tư. Có những yếu tố của môi trường đầu tư chính phủ có ít ảnh hưởng như vị 
trí địa lý, thời tiết khí hậu,... Chính phủ có tác động mạnh đến nhiều yếu tố của môi 
trường đầu tư như chính trị, pháp luật, cơ sở hạ tầng. Thông qua vai trò quản lý của 
mình, chính phủ đánh giá môi trường đầu tư, cả những đặc điểm của các yếu tố có 
ít ảnh hưởng để cải thiện môi trường đầu tư. Chính phủ có thể sử dụng nhiều kênh 
thông tin khác nhau để giới thiệu về môi trường đầu tư cũng như cơ hội đầu tư đến 
nhà đầu tư. Nhà đầu tư là chủ thể ra quyết định và thực hiện đầu tư. Nếu nhà đầu tư 
không biết về môi trường đầu tư thì không bỏ vốn đầu tư, quốc gia không thu hút 
được vốn đầu tư. Ngược lại, chính phủ cần nhận thông tin từ nhà đầu tư phản ánh 
những trở ngại gặp phải để chính phủ có cách thức xử lý. 
5.1.2.3. Môi trường đầu tư có tính động 
 Môi trường đầu tư có tính động hay luôn vận động, thay đổi do các yếu tố cấu 
thành môi trường đầu tư luôn vận động biến đổi theo thời gian. Các yếu tố của môi 
trường đầu tư cũng như sự vận động của chúng có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư 
nói chung và hoạt động ĐTNN nói riêng theo chu kỳ dự án đầu tư, từ quá trình đưa 
ra quyết định đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, ảnh hưởng tới chi phí, lợi      lOMoAR cPSD| 58478860
ích và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Căn cứ nhu cầu về vốn đầu tư để đáp ứng 
mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, các nước đều cố gắng hoàn thiện môi 
trường đầu tư, hay thay đổi các yếu tố của môi trường đầu tư, làm môi trường đầu 
tư thuận lợi cho quá trình vận động của vốn. Hơn nữa, bản thân hoạt động đầu tư 
cũng ảnh hưởng đến các yếu tố của môi trường đầu tư, như thay đổi về công nghệ, 
về cơ sở hạ tầng.... Chính vì môi trường đầu tư luôn vận động, nên các nhà đầu tư 
cần tiên liệu được sự thay đổi của môi trường đầu tư nói chung của môi trường đầu 
tư trên toàn cầu và của từng quốc gia để đưa ra quyết và từng yếu tố định lựa chọn 
địa điểm bỏ vốn, quy mô đầu tư và ngành đầu tư nhằm thu được hiệu quả cao nhất. 
Khi nghiên cứu và đánh giá môi trường đầu tư phải đứng trên quan điểm động, các 
yếu tố của môi trường đầu tư phải được nhìn nhận trong trạng thái vừa vận động 
vừa tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành những động lực chính cho sự phát triển và 
hoàn thiện môi trường đầu tư. Muốn thu hút được vốn đầu tư thì môi trường đầu tư 
cần phải ổn định, gồm ổn định môi trường chính trị, pháp luật; ổn định môi trường 
kinh tế và văn hóa xã hội để đồng vốn nhà đầu tư bỏ ra được bảo toàn và có khả 
năng sinh lời. Khi môi trường đầu tư ổn định, nhà đầu tư không gặp phải những rủi 
ro trong quá trình đầu tư do các yếu tố của môi trường đầu tư tạo ra. Tình vận động 
của môi trường đầu tư không mâu thuẫn với yêu cầu này. Sự ổn định của môi 
trường đầu tư cần gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, gắn với sự hoàn thiện 
môi trường đầu tư để thu hút tốt các nguồn vốn đầu tư. Hay, cần đảm bảo sự ổn 
định, tính tiên liệu trong sự thay đổi, trong quá trình vận động của môi trường đầu 
tư để môi trường đầu tư mang lại lợi ích cho tất cả các đối tượng (cho người dân, 
cho nền kinh tế và bản thân các nhà đầu tư). 
 5.1.2.4. Môi trường đầu tư có tỉnh mở 
Môi trường đầu tư có tính mở thể hiện sự thay đổi các yếu tố của môi trường đầu 
tư còn chịu ảnh hưởng của môi trường đầu tư ở cấp độ cao hơn. Sự vận động các 
yếu tố của môi trường đầu tư cấp tinh chịu tác động của môi trường đầu tư quốc 
gia, và đến lượt mình sự biến đổi các yếu tố của môi trường đầu tư quốc gia chịu 
ảnh hưởng bởi môi trường đầu tư quốc tế trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh 
tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng. Chính vì môi trường đầu tư có tính mở nên 
Chính phủ cần chú ý thuộc tính thích nghi với môi trường đầu tư quốc tế, cần chú ý 
tới quản lý thay đổi trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư quốc gia. Chẳng 
hạn, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đòi hỏi môi trường đầu tư quốc gia phải 
thay đồi như việc thay đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với quy định của WTO 
khi các quốc gia gia nhập WTO 
5.1.2.5. Môi trường đầu tư có tính hệ thống 
 Môi trường đầu tư có tính hệ thống vì môi trường đầu tư là tổng hòa của các yếu 
tố có tác động qua lại với nhau và chịu tác động của môi trường đầu tư quốc tế. 
Tuy nhiên, môi trường đầu tư của một quốc gia là một hệ thống đặc biệt vì bản 
thân nó bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn. Môi trường đầu tư quốc gia gồm môi 
trường đầu tư của các tỉnh thành phố nếu phân theo vùng; gồm môi trường đầu tư      lOMoAR cPSD| 58478860
các ngành; gồm môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, môi trường kinh tế, môi 
trường văn hóa xã hội. Trong hệ thống môi trường đầu tư luôn luôn diễn ra những 
biến đổi đa dạng, những quá trình chuyển hoá vô tận của các yếu tố cấu thành. 
Những quá trình đó có nguồn gốc sâu xa từ các mối liên hệ, tác động qua lại lẫn 
nhau giữa các yếu tố, giữa hệ thống với môi trường. Kết quả là bản thân hệ thống 
cũng luôn luôn nằm trong sự vận động, biến đổi và phát triển liên tục. Khi các yếu 
tố của môi trường đầu tư thay đổi sẽ thay đổi trạng thái của hệ thống. Do đó, để thu 
hút vốn đầu tư, chính phủ cần có cách tiếp cận hệ thống, tìm ra những yêu tố ảnh 
hưởng tới tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, tôi chỉ phí, rủi ro và tới rào cản cạnh 
tranh để cải thiện. Hơn nữa, chính phủ cần quản lý hoạt động đầu tư một cách hệ 
thống, thông nhất và không có sự chông chéo của hệ thông văn bản pháp luật, của 
các bộ phận quản lý làm mất thời gian và chi phí của chủ đầu tư. Môi trường đầu 
tư cũng như bất kỳ hệ thống nào cũng mang tính mở, tính cân bằng động