Tổng Hợp 10 Câu Lý Thuyết Và Tình Huống Dân Sự | Đại học Nội Vụ Hà Nội

Câu 1. Anh (chị) hãy cho biết các hình thức sở hữu theo quy định củaBộ luật dân sự năm 2005. Phân biệt sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chungtheo phần.Câu 2: Anh (chị) hãy cho biết điểm khác nhau giữa thời hiệu khởi kiệnvề hợp đồng dân sự của Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015?Câu 5: Anh chị hãy cho biết Điều luật nào quy định phải áp dụng tậpquán để giải quyết vụ, việc dân sự trước khi áp dụng các nguyên tắc khác như:Tương tự pháp luật; các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằngtrong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng và tinh thần của điều luật đó?Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

lOMoARcPSD| 45740413
TỔNG HỢP 10 CÂU LÝ THUYẾT VÀ TÌNH HUỐNG DÂN SỰ
I. THUYẾT
Câu 1. Anh (chị) hãy cho biết các hình thức sở hữu theo quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005. Phân biệt sở hữu chung hợp nhất sở hữu chung theo
phần.
Câu 2: Anh (chị) hãy cho biết điểm khác nhau giữa thời hiệu khởi kiện
về hợp đồng dân sự của Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015?
Câu 5: Anh chị hãy cho biết Điều luật nào quy định phải áp dụng tập quán
để giải quyết vụ, việc dân sự trước khi áp dụng các nguyên tắc khác như: Tương
tự pháp luật; các nguyên tắc bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng trong trường
hợp chưa có điều luật để áp dụng và tinh thần của điều luật đó?
II. CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
Câu hỏi tình huống 1:
Vào ngày 21/11/2009, ông Cam thỏa thuận cho vợ chồng ông Sơn vay số
tiền là 500.000.000 đồng lãi suất 3%/tháng, đóng lãi hàng tháng, tiền vốn hai bên
thỏa thuận sau mùa vụ (06 tháng từ ngày vay) sẽ trả. Sau khi vay vợ chồng ông
Sơn đóng lãi đầy đủ đến ngày 15/4/2010 thì không đóng lãi và cũng không hoàn
trả vốn vay. Ông Cam đã nhiều lần đến nhà yêu cầu vợ chồng ông Sơn trả tiền
nhưng vợ chồng ông Sơn không trả. Ngày 28/5/2015, ông Cam có đơn khởi kiện
yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A giải quyết buộc vợ chồng ông Sơn trả cho ông
số tiền vay 500.000.000 đồng tính lãi suất theo quy định pháp luật từ ngày
15/4/2010 đến ngày xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm ông Cam yêu cầu trả tiền lãi s
tiền là 125.000.000đ. Bản ánthẩm xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng vay
tài sản và tuyên xử buộc vợ chồng ông Sơn phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông
Cam số tiền vốn và lãi là 625.000.000 đồng.
Hỏi: Theo anh (chị), bản án thẩm giải quyết ntrên đúng hay sai,
vì sao?
Câu hỏi tình huống 2: I.
Nội dung vụ án:
Cố Nguyễn Văn Cừ (chết năm 1976) và cố Hà Thị Cứng (chết năm 1985)
5 người con là: cụ Nguyễn Thị Cớt (chết năm 1963, 1 người con ông Phan
Trung Hiếu); cụ Nguyễn Văn Huân, cụ Nguyễn Tấn Phong, cụ Đặng Văn Nhì
(chết năm 1971, có 2 người con là: ông Đặng Thanh Tâm và bà Đặng Thị Hồng)
và cụ Nguyễn Thị Hòa.
Về tài sản: cố Cừ và cố Cứng tạo lập được 6 thửa đất (thửa số 229, 230,
231,273,239, 403) với tổng diện tích 23.254m
2
tại ấp 3, xã Tân Định, huyện Bến
Cát, tỉnh Bình Dương (trên đất ngôi nhà thờ cấp 4, diện tích 28m
2
, do cụ Phong
sử dụng).
lOMoARcPSD| 45740413
2
Khi các cố còn sống thì cụ Hòa sử dụng đất trồng Điều tại thửa đất số
403. Năm 1985, cụ Hòa cho con là ông Nguyễn Văn Dũng cất nhà trên một phần
đất (thửa 403); sau đó nhà này đã bị hư hỏng. Tại Quyết định số 45/QĐ-UB ngày
10/01/2001, Ủy ban nhân dân xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tặng
nhà tình thương cho chị Nguyễn Thị Thu Nga (là con của ông Dũng), trị giá nhà
6.000.000đồng. Hiện nay, ông Dũng đã chết; các con của ông Dũng (chị Nga và
anh Đức) đang sử dụng nhà này.
Cố Cừ cố Cứng chết, không để lại di chúc. Các con của các cố sống
phân tán, chưa tập trung được để phân chia tài sản của cha mẹ để lại. Năm 1998,
cụ Phong (một trong 5 người con của các cố) tự ý kê khai đất, mà không báo cho
anh em biết. Ngày 20/12/1999, hộ cụ Nguyễn Tấn Phong đươc cấp giấy chứng
nhận quyền sdụng đất diện tích 23.254m
2
. Cụ các đồng thừa kế khác đã nhiều
lần yêu cầu cụ Phong chia tài sản của cha mẹ để lại cho anh em, nhưng cụ Phong
không đồng ý. Ngày 12/6/2009, cụ Hòa khởi kiện u cầu chia thừa kế như
sau:
1) Căn nhà chính và nhà tạm để cụ Phong tiếp tục sử dụng;
2) Chia giá trị thành 6 phần, trong đó riêng cụ Phong được hưởng 2
phần(trong đó có 1 phần là công sức); các người con còn lại mỗi người 1 phần.
3) Về đất: Đối với thửa đất số 403: Yêu cầu chia thửa đất này thành 2
phần, trong đó phần đất có nhà của phía cụ Hòa thì chia cho cụ Hòa, phần đất có
nhà của phía cụ Phong thì chia cho cụ Phong. Đối với 5 thừa đất còn lại: cụ Hòa
yêu cầu được nhận giá trị đối với phần của mình.
Bị đơn là cNguyễn Tấn Phong (do ông Nguyễn Văn Thành đại diện theo
ủy quyền) trình bày:
Diện tích đất gia đình cụ Phong đang quản , sử dụng nguồn gốc do cố
Cừ, cố Cứng để lại. Từ khi giải phóng, cụ Phong đã khai hoang, phục hóa canh
tác ổn định đến nay. Căn nhà cụ Phong đang ở do cụ Phong xây dựng năm 1975.
Năm 1976 cố Cừ chết. Sau đó, cụ Phong đưa cố Cứng về phụng dưỡng. Năm 1984
cố Cứng chết. Gia đình cụ Phong ở nhà này từ năm 1975 đến nay. Năm 1999, hộ
cụ Phong được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Toàn bộ đất, tài sản trên
đất (nhà, cây cao su, tràm) là của cụ Phong.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Văn Huân sinh năm
1932; cư trú tại 9603 LaneyWay Sugar Land TX 77478281-242-8483 USA(do
Nguyễn Kim Thận đại diện theo ủy quyền) trình bày: Căn nhà gia đình cụ Phong
đang do cụ Huân xây cất cho cCứng ở. Cụ Phong làm ăn nơi khác đến
năm 1981 thì mới trở vđây. Cụ Huân tại nhà này từ sau giải phóng trồng mì
trên thửa đất số 403. Sau năm 1985, cụ Phong mới trồng tràm trên thửa đất đó. Cụ
Huân đồng ý với đề nghị của nguyên đơn.
lOMoARcPSD| 45740413
3
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Trung Hiếu (con của
cụ Cớt); ông Đặng Thanh Tâm và Đặng Thu Hồng (con cụ Nhì); chị Huỳnh
Thị Thu Nga anh Nguyễn Hồng Đức (các con của ông Dũng): thống nhất với
yêu cầu của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Thành, ông
Nguyễn Văn Sơn Phạm Thị Kiều Oanh: thống nhất yêu cầu của cụ Phong.
Ông Sơn trình bày bổ sung: ông Sơn có căn nhà 68,3m trên thửa đất số 403; ông
đang quản lý, sử dụng nhà này nên yêu cầu tiếp tục được sử dụng.
II. Quá trình giải quyết vụ án:
Ngày 05/10/2010, cụ Nguyễn Thị Hòa chết; những người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của cụ Hòa ông Nguyễn Văn Cây, bà Nguyễn Thị Hoàng Dung,
bà Nguyễn Thị Thu Hà, ông Nguyễn Văn Hóa, ông Nguyễn Văn Lợi, chị Nguyễn
Thị Thu Nga anh Nguyễn Hồng Đức tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án
như yêu cầu của cụ Hòa.
Tại Bản án dân sự thẩm số 02/2012/DSST ngày 11/05/2012, Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đại diện những người kế thừa
quyềnvà nghĩa vụ tố tụng của cụ Hòa về việc chia thừa kế tài sản của cố Nguyễn
Văn Cừ và cố Thị Cứng. Riêng nhà của cố Cừ cố Cứng các đương sự t
nguyện để cụ Phong sở hữu nên ghi nhận.
- Giá tr di sản của hai cố 12.432.535.000đ. Trích công sức cho
cụPhong bằng 30% giá trị 3.729.682.500đ. Còn lại 8.702.852.500đ, mỗi kỷ
phần được hưởng là 1.740.570.500đ (8.702.852.500đ: 5).
Cụ Phong được hưởng kỷ phần công sức, cộng 5.470.253.000đ;
quy ra hiện vật được nhận: phần 1 là 2.688,1m
2
đất nông nghiệp 300m
2
đất
tại các thửa 229, 230, 231 tờ bản đồ số 16, xã Tân Định (trên đất nhà cụ Phong
đang quản lý và cây trồng của cụ Phong- bản đồ số 1); phần 2 là
5.813,4m
2
đất thuộc thửa 273 tờ bản đồ 16 xã Tân Định- bản đồ số 2); phần 3 là
3.584,20m
2
đất tại thửa 403 tờ bản đồ số 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số
3 là khu 1) trên đất có nhà của anh Sơn và cây trồng của cụ Phong.
+ Các thừa kế của cụ Nguyễn Thị Hòa được chia 2.677,8m
2
đất tại thửa
403 tờ bản đồ 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số 3 là khu 4), trên đất có nhà
của chị Nga và anh Đức.
+ Ông Nguyễn Trung Hiếu (con cụ Nguyễn Thị Cớt) được chia
2.677,8m
2
đất tại thửa 403 tờ bản đồ 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số 3 là
khu 3).
+ Nguyễn Kim Thận do cụ Huân ủy quyền được chia 2.677,8m
2
tại
thửa 403 tờ bản đồ số 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số 3 là khu 5).
lOMoARcPSD| 45740413
4
+ Đặng Thị Hồng ông Đặng Thanh Tâm (là con của cụ Đặng n
Nhì) được chia 2.677,8m
2
đất tại thửa 403, tờ bản đồ số 16 xã Tân Định (ký hiệu
bản đồ số 3 là khu 2).
- Ông Hiếu, các đồng thừa kế của cụ Hòa, bà Thận, bà Hồng và ông Tâm
phải thanh toán giá trị cây tràm cho cụ Phong mỗi phần 10.115.500đ.
Ngày 24/5/2012 cụ Phong kháng cáo: không đồng ý chia thừa kế; đề nghị
bác yêu cầu của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 244/2012/DSPT ngày 14/08/2012, Tòa
Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Ngày 10/11/2012 cụ Phong có đơn đề nghị xem xét bản án phúc thẩm nêu
trên theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dung: Tòa án thụ lý vụ án khi đã hết thời
hiệu khởi kiện và việc áp dụng Nghị quyết số 1037/NQ-UBTVQH11 để giải quyết
vụ án là không đúng.
Hỏi: Anh (chị) hãy trình bày ý kiến về đường lối giải quyết vụ án của Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đúng
hay sai. Theo đ/c hướng giải quyết vụ án này.
Câu hỏi tình huống 3:
Từ năm 2002 đến năm 2005,bà Dương Chiêu Vân và ông Đoàn Văn Lực
(hiện định tại Australia) gửi tiền thông qua Ngân hàng TMCP Đầu
phát triển chi nhánh BT cho ông Lê Nghĩa Tâm số tiền 70.100AUD (đôla Úc) để
ông Tâm thực hiện xây dựng các công trình Đoàn Vương Gia Bảo, Đoàn Vương
Tịnh Viên, Bảo Phúc Lan Viên, Bảo Phúc Linh Từ đlàm nơi thờ ng tổ tiên.
Việc xây dựng các công trình hai bên không thỏa thuận cụ thể số tiền từng ng
trình là bao nhiêu. Theo xác nhận của Ngân hàng, sau khi trừ đi chi phí ông Tâm
thực nhận quy đổi ra 1.300 USD (đôla Mỹ) và 790.917.112 đồng. Ông Tâm thừa
nhận có nhận tiền do bà Vân, ông Lực chuyển về để ông xây dựng các công trình
trên với số tiền khoảng 68.835 đôla Australia được qui đổi từng thời điểm tiền việt
Nam đồng, tổng cộng 790.917.112đ. Theo Vân sau khi trừ các chi phí ông
Tâm đã chi ra 478.112.552đ, còn thừa lại 312.804.506đ, bà Vân yêu cầu ông
Tâm trả lại cho bà. Ông m yêu cầu được khấu trừ số tiền 117.000.000đ ông
Tâm bra chi phí tổ chức đám ới cho Đoàn Chiêu Vy con gái Vân, ông
Lực tiền công sức lao động ông đã quản lý, thi công các công trình theo yêu
cầu của bà Vân, ông Lực.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2015/DS-ST ngày 03/9/2015 của Tòa án
nhân dân tỉnh BT, quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Dương Chiêu Vân, ông
Đoàn Văn Lực đối với anh Lê Nghĩa Tâm về việc đòi tiền thừa trong hợp đồng ủy
quyền.
lOMoARcPSD| 45740413
5
Buộc ông Lê Nghĩa Tâm có nghĩa vụ trả cho bà Dương Chiêu Vân và ông
Đoàn Văn Lực số tiền 312.804.560 đ (Ba trăm mười hai triệu tám trăm lbốn
nghìn năm trăm sáu mươi đồng).
Các tài sản đã được định giá thuộc sở hữu của bà Vân, ông Lực.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí định giá, án phí quyền kháng cáo
của các đương sự theo quy định pháp luật.
Hỏi: Theo anh (chị) phán quyết như trên của Tòa án nhân dân tỉnh BT có
đúng không? Tại sao? Đề xuất hướng giải quyết vụ án. (40 điểm) Câu hỏi tình
huống 4:
Nguyễn Thị T Việt kiều về thăm thân nhân tại Việt Nam ý định
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đgiúp cho em Nguyễn Văn TY đất sản
xuất nuôi cha mẹ. Ngày 10-8-1993, chuyển nhượng của vchồng ông HT diện
tích 7.595,7m2 đất ruộng tại Phường 7, thị xã ST, với giá 21,99 chỉ vàng. Bà T
người trực tiếp giao dịch với vợ chồng ông HT. Do là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài nên T đcho ông TY đứng tên trong giấy tờ sang nhượng cho
vợ chồng ông TY canh tác. Lúc sang nhượng hai bên có làm“Tờ sang nhượng đất
ruộng” lập ngày 10-8-1993; tờ sang nhượng này không xác nhận của chính
quyền địa phương. Nhưng sau đó, ông TY vợ chồng ông HT còn bản hợp
đồng đơn xin chuyển nhượng quyền sdụng đất cùng ngày 11-8-1993, các văn
bản này có xác nhận của UBND xã An Hiệp và của UBND huyện Mỹ Tú đồng ý
cho chuyển nhượng. Sau đó, ông TY đăng ký, kê khai được cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất vào ngày 28-5-1994. Đến năm 2004, ông TY đã chuyển nhượng
hết diện tích đất này cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá:
1.260.000.000 đồng, không được sự đồng ý của bà T. Bà T khởi kiện yêu cầu ông
TY trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà.
Tại Bản án dân sự thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006, Tòa án
nhân dân tỉnh ST quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyễn Thị T về việc đòi lại tiền
chuyển nhượng đất. Buộc vợ chồng ông TY trách nhiệm hoàn trả cho
Nguyễn Thị T số tiền: 630.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí tuyên quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10-5-2006, ông TY kháng cáo cho rằng T không phải là người
quyền sử dụng phần đất mà ông đã chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu
hạn Minh Châu nhưng Tòa án cấp thẩm buộc ông thanh toán cho T
630.000.000 đồng là không đúng.
Ngày 12-5-2006, ông Nguyễn Hữu P (đại diện cho bà T) kháng cáo đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử buộc ông TY trả lại toàn bộ số tiền mà ông TY
đã chuyển nhượng đất là 1.260.000.000 đồng cho bà T.
lOMoARcPSD| 45740413
6
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006, T
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: bác
yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, sửa bản án sơ thẩm như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyễn Thị T về việc đòi lại tiền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Buộc ông TY có trách nhiệm hoàn trả cho bà
Nguyễn Thị T số tiền 27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ vàng 24k.
Buộc ông TY phải nộp lại số tiền 1.232.266.860 đồng để sung công quỹ
Nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau xét xử phúc thẩm, ông TY khiếu nại bản án dân sphúc thẩm nêu trên.
Hỏi: Là KSV giải quyết vụ án trên, anh/chị hãy nhận xét về đường lối giải
quyết vụ án và đề xuất hướng giải quyết.
Câu hỏi tình huống 5:
Năm 2000, vợ chồng Điệu, ông Sơn nhận chuyển nhượng diện tích
3.033m
2
đất lúa thửa số 589 tờ bản đồ số 03 tại xã P, huyện N, thành phố H. Ngày
20/10/2001, hộ gia đình Điệu được cấp Giấy CNQSD đất. Quá trình sống chung
Điệu, ông Sơn có 02 người con anh Ngọc Phú (sinh năm 1973 ) chị
Thị Cẩm Phương (sinh năm 1976). Ông Sơn chết năm 2003 không để lại di
chúc nên năm 2006 Điệu lấy ông Hiệp. Ngày 24/3/2007, Điệu, ông Hiệp
cùng giấy bán diện tích đất trên cho vợ chồng ông Chiến, Thùy với giá
chuyển nhượng 03 tỷ đồng. Ngày 16/4/2007, vợ chồng ông Chiến đã hợp
đồng đặt cọc 1.300.000đ với vợ chồng Điệu. Ngày 10/6/2007, vchồng ông
Chiến thanh toán tiếp cho bà Điệu 1.700.000.000đ, UBND huyện N đã cấp Giấy
CNQSD sang tên cho vợ chồng ông Chiến, Thùy. Do 02 con của Điệu
anh Phú, chị Phương không đồng ý cho mẹ bán đất nên vợ chồng bà Điệu không
bàn giao đất cho vợ chồng ông Chiến. Ngày 20/10/2012, vợ chồng ông Chiến, bà
Thùy khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Điệu bàn giao đất như đã thỏa thuận tại hợp
đồng chuyển nhượng ngày 16/4/2007. Phía bị đơn không đồng ý với yêu cầu của
nguyên đơn yêu cầu phản tố hủy Giấy CNQSD đất cấp cho vợ chồng ông
Chiến, bà Thùy.
- Bản án thẩm số 189/2014/DS-ST ngày 12/10/2014 của Tòa án
nhândân huyện N tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận
hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/4/2007, buộc bị đơn bàn giao diện tích 3.033m
2
đất lúa, thửa số 589 tờ bản đồ số 03 tại Phước Lộc, huyện Nhà Bè, thành phố
Hồ Chí Minh theo Giấy CNQSD đất cấp ngày 16/4/2007 cho nguyên đơn. Sau
khi có bản án sơ thẩm, phía bị đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm.
- Bản án Phúc thẩm số 1089/2015/DS-PT ngày 12/4/2015 của Tòa
ánnhân dân TP. H xét xử: Chấp nhận kháng cáo của bđơn, sửa án thẩm xác
định hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/4/2007 giữa các đương s
lOMoARcPSD| 45740413
7
hiệu. Hủy Giấy CNQSD đất cấp ngày 16/4/2007 cho nguyên đơn và xác định lỗi
hoàn toàn do phía bị đơn làm hợp đồng hiệu, buộc vợ chồng Điệu bồi thường
cho vợ chồng ông Chiến 3.80.000.000 đồng ( trong đó 03 t tiền gốc
80.000.000 đồng là tiền lãi xuất ngân hàng ).
Sau khi bản án phúc thẩm, ngày 02/6/2015 phía bị đơn đ n đềềơ ngh
VKS cấấp cao kháng ngh theo thị ủ t c giám đốấc th m vì cho rằềng b nán
phúc th m xét x khống khách quan, xác đ nh lốỗi hoàn toàn do b đ n ơ
khống đúng, gấy nh hả ưởng đềấn quyềền l i cợ ủa b đ n. ị ơ
Hỏi: Nêu căn cứ pháp luật để thụ lý, giải quyết đối với đơn đề nghị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trên? Bản án thẩm 189/2014/DS-ST ngày
12/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện N Bản án phúc thẩm số 1089/2015/DS-
PT ngày 12/4/2015 của Tòa án nhân dân TP. H xét xử đã đúng quy định của pháp
luật chưa ? tại sao?
| 1/7

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
TỔNG HỢP 10 CÂU LÝ THUYẾT VÀ TÌNH HUỐNG DÂN SỰ I. LÝ THUYẾT
Câu 1. Anh (chị) hãy cho biết các hình thức sở hữu theo quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005. Phân biệt sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần.
Câu 2: Anh (chị) hãy cho biết điểm khác nhau giữa thời hiệu khởi kiện
về hợp đồng dân sự của Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015?
Câu 5: Anh chị hãy cho biết Điều luật nào quy định phải áp dụng tập quán
để giải quyết vụ, việc dân sự trước khi áp dụng các nguyên tắc khác như: Tương
tự pháp luật; các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng trong trường
hợp chưa có điều luật để áp dụng và tinh thần của điều luật đó?
II. CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
Câu hỏi tình huống 1:
Vào ngày 21/11/2009, ông Cam thỏa thuận cho vợ chồng ông Sơn vay số
tiền là 500.000.000 đồng lãi suất 3%/tháng, đóng lãi hàng tháng, tiền vốn hai bên
thỏa thuận sau mùa vụ (06 tháng từ ngày vay) sẽ trả. Sau khi vay vợ chồng ông
Sơn đóng lãi đầy đủ đến ngày 15/4/2010 thì không đóng lãi và cũng không hoàn
trả vốn vay. Ông Cam đã nhiều lần đến nhà yêu cầu vợ chồng ông Sơn trả tiền
nhưng vợ chồng ông Sơn không trả. Ngày 28/5/2015, ông Cam có đơn khởi kiện
yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A giải quyết buộc vợ chồng ông Sơn trả cho ông
số tiền vay là 500.000.000 đồng và tính lãi suất theo quy định pháp luật từ ngày
15/4/2010 đến ngày xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm ông Cam yêu cầu trả tiền lãi số
tiền là 125.000.000đ. Bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng vay
tài sản và tuyên xử buộc vợ chồng ông Sơn phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông
Cam số tiền vốn và lãi là 625.000.000 đồng.
Hỏi: Theo anh (chị), bản án sơ thẩm giải quyết như trên là đúng hay sai, vì sao?
Câu hỏi tình huống 2: I. Nội dung vụ án:
Cố Nguyễn Văn Cừ (chết năm 1976) và cố Hà Thị Cứng (chết năm 1985)
có 5 người con là: cụ Nguyễn Thị Cớt (chết năm 1963, có 1 người con là ông Phan
Trung Hiếu); cụ Nguyễn Văn Huân, cụ Nguyễn Tấn Phong, cụ Đặng Văn Nhì
(chết năm 1971, có 2 người con là: ông Đặng Thanh Tâm và bà Đặng Thị Hồng) và cụ Nguyễn Thị Hòa.
Về tài sản: cố Cừ và cố Cứng tạo lập được 6 thửa đất (thửa số 229, 230,
231,273,239, 403) với tổng diện tích 23.254m2 tại ấp 3, xã Tân Định, huyện Bến
Cát, tỉnh Bình Dương (trên đất có ngôi nhà thờ cấp 4, diện tích 28m2, do cụ Phong sử dụng). lOMoAR cPSD| 45740413
Khi các cố còn sống thì cụ Hòa sử dụng đất và trồng Điều tại thửa đất số
403. Năm 1985, cụ Hòa cho con là ông Nguyễn Văn Dũng cất nhà trên một phần
đất (thửa 403); sau đó nhà này đã bị hư hỏng. Tại Quyết định số 45/QĐ-UB ngày
10/01/2001, Ủy ban nhân dân xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tặng
nhà tình thương cho chị Nguyễn Thị Thu Nga (là con của ông Dũng), trị giá nhà
6.000.000đồng. Hiện nay, ông Dũng đã chết; các con của ông Dũng (chị Nga và
anh Đức) đang sử dụng nhà này.
Cố Cừ và cố Cứng chết, không để lại di chúc. Các con của các cố sống
phân tán, chưa tập trung được để phân chia tài sản của cha mẹ để lại. Năm 1998,
cụ Phong (một trong 5 người con của các cố) tự ý kê khai đất, mà không báo cho
anh em biết. Ngày 20/12/1999, hộ cụ Nguyễn Tấn Phong đươc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất diện tích 23.254m2. Cụ và các đồng thừa kế khác đã nhiều
lần yêu cầu cụ Phong chia tài sản của cha mẹ để lại cho anh em, nhưng cụ Phong
không đồng ý. Ngày 12/6/2009, cụ Hòa khởi kiện và yêu cầu chia thừa kế như sau:
1) Căn nhà chính và nhà tạm để cụ Phong tiếp tục sử dụng;
2) Chia giá trị thành 6 phần, trong đó riêng cụ Phong được hưởng 2
phần(trong đó có 1 phần là công sức); các người con còn lại mỗi người 1 phần.
3) Về đất: Đối với thửa đất số 403: Yêu cầu chia thửa đất này thành 2
phần, trong đó phần đất có nhà của phía cụ Hòa thì chia cho cụ Hòa, phần đất có
nhà của phía cụ Phong thì chia cho cụ Phong. Đối với 5 thừa đất còn lại: cụ Hòa
yêu cầu được nhận giá trị đối với phần của mình.
Bị đơn là cụ Nguyễn Tấn Phong (do ông Nguyễn Văn Thành đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Diện tích đất gia đình cụ Phong đang quản lý, sử dụng có nguồn gốc do cố
Cừ, cố Cứng để lại. Từ khi giải phóng, cụ Phong đã khai hoang, phục hóa và canh
tác ổn định đến nay. Căn nhà cụ Phong đang ở do cụ Phong xây dựng năm 1975.
Năm 1976 cố Cừ chết. Sau đó, cụ Phong đưa cố Cứng về phụng dưỡng. Năm 1984
cố Cứng chết. Gia đình cụ Phong ở nhà này từ năm 1975 đến nay. Năm 1999, hộ
cụ Phong được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Toàn bộ đất, tài sản trên
đất (nhà, cây cao su, tràm) là của cụ Phong.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Văn Huân sinh năm
1932; cư trú tại 9603 LaneyWay Sugar Land TX 77478281-242-8483 USA(do bà
Nguyễn Kim Thận đại diện theo ủy quyền) trình bày: Căn nhà gia đình cụ Phong
đang ở là do cụ Huân xây cất cho cố Cứng ở. Cụ Phong làm ăn ở nơi khác đến
năm 1981 thì mới trở về đây. Cụ Huân ở tại nhà này từ sau giải phóng và trồng mì
trên thửa đất số 403. Sau năm 1985, cụ Phong mới trồng tràm trên thửa đất đó. Cụ
Huân đồng ý với đề nghị của nguyên đơn. 2 lOMoAR cPSD| 45740413
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Trung Hiếu (con của
cụ Cớt); ông Đặng Thanh Tâm và bà Đặng Thu Hồng (con cụ Nhì); chị Huỳnh
Thị Thu Nga và anh Nguyễn Hồng Đức (các con của ông Dũng): thống nhất với
yêu cầu của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Thành, ông
Nguyễn Văn Sơn và bà Phạm Thị Kiều Oanh: thống nhất yêu cầu của cụ Phong.
Ông Sơn trình bày bổ sung: ông Sơn có căn nhà 68,3m trên thửa đất số 403; ông
đang quản lý, sử dụng nhà này nên yêu cầu tiếp tục được sử dụng.
II. Quá trình giải quyết vụ án:
Ngày 05/10/2010, cụ Nguyễn Thị Hòa chết; những người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của cụ Hòa là ông Nguyễn Văn Cây, bà Nguyễn Thị Hoàng Dung,
bà Nguyễn Thị Thu Hà, ông Nguyễn Văn Hóa, ông Nguyễn Văn Lợi, chị Nguyễn
Thị Thu Nga và anh Nguyễn Hồng Đức tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án
như yêu cầu của cụ Hòa.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2012/DSST ngày 11/05/2012, Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định: -
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đại diện những người kế thừa
quyềnvà nghĩa vụ tố tụng của cụ Hòa về việc chia thừa kế tài sản của cố Nguyễn
Văn Cừ và cố Hà Thị Cứng. Riêng nhà của cố Cừ và cố Cứng các đương sự tự
nguyện để cụ Phong sở hữu nên ghi nhận. -
Giá trị di sản của hai cố là 12.432.535.000đ. Trích công sức cho
cụPhong bằng 30% giá trị là 3.729.682.500đ. Còn lại 8.702.852.500đ, mỗi kỷ
phần được hưởng là 1.740.570.500đ (8.702.852.500đ: 5).
Cụ Phong được hưởng kỷ phần và công sức, cộng là 5.470.253.000đ;
quy ra hiện vật được nhận: phần 1 là 2.688,1m2 đất nông nghiệp và 300m2 đất ở
tại các thửa 229, 230, 231 tờ bản đồ số 16, xã Tân Định (trên đất có nhà cụ Phong
đang quản lý và cây trồng của cụ Phong- bản đồ số 1); phần 2 là
5.813,4m2 đất thuộc thửa 273 tờ bản đồ 16 xã Tân Định- bản đồ số 2); phần 3 là
3.584,20m2 đất tại thửa 403 tờ bản đồ số 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số
3 là khu 1) trên đất có nhà của anh Sơn và cây trồng của cụ Phong.
+ Các thừa kế của cụ Nguyễn Thị Hòa được chia 2.677,8m2 đất tại thửa
403 tờ bản đồ 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số 3 là khu 4), trên đất có nhà
của chị Nga và anh Đức.
+ Ông Nguyễn Trung Hiếu (con cụ Nguyễn Thị Cớt) được chia
2.677,8m2 đất tại thửa 403 tờ bản đồ 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số 3 là khu 3).
+ Bà Nguyễn Kim Thận do cụ Huân ủy quyền được chia 2.677,8m2 tại
thửa 403 tờ bản đồ số 16 xã Tân Định (ký hiệu trên bản đồ số 3 là khu 5). 3 lOMoAR cPSD| 45740413
+ Bà Đặng Thị Hồng và ông Đặng Thanh Tâm (là con của cụ Đặng Văn
Nhì) được chia 2.677,8m2 đất tại thửa 403, tờ bản đồ số 16 xã Tân Định (ký hiệu
bản đồ số 3 là khu 2).
- Ông Hiếu, các đồng thừa kế của cụ Hòa, bà Thận, bà Hồng và ông Tâm
phải thanh toán giá trị cây tràm cho cụ Phong mỗi phần 10.115.500đ.
Ngày 24/5/2012 cụ Phong kháng cáo: không đồng ý chia thừa kế; đề nghị
bác yêu cầu của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 244/2012/DSPT ngày 14/08/2012, Tòa
Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ngày 10/11/2012 cụ Phong có đơn đề nghị xem xét bản án phúc thẩm nêu
trên theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dung: Tòa án thụ lý vụ án khi đã hết thời
hiệu khởi kiện và việc áp dụng Nghị quyết số 1037/NQ-UBTVQH11 để giải quyết vụ án là không đúng.
Hỏi: Anh (chị) hãy trình bày ý kiến về đường lối giải quyết vụ án của Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đúng
hay sai. Theo đ/c hướng giải quyết vụ án này.
Câu hỏi tình huống 3:
Từ năm 2002 đến năm 2005,bà Dương Chiêu Vân và ông Đoàn Văn Lực
(hiện định cư tại Australia) có gửi tiền thông qua Ngân hàng TMCP Đầu tư và
phát triển chi nhánh BT cho ông Lê Nghĩa Tâm số tiền 70.100AUD (đôla Úc) để
ông Tâm thực hiện xây dựng các công trình Đoàn Vương Gia Bảo, Đoàn Vương
Tịnh Viên, Bảo Phúc Lan Viên, Bảo Phúc Linh Từ để làm nơi thờ cúng tổ tiên.
Việc xây dựng các công trình hai bên không thỏa thuận cụ thể số tiền từng công
trình là bao nhiêu. Theo xác nhận của Ngân hàng, sau khi trừ đi chi phí ông Tâm
thực nhận quy đổi ra 1.300 USD (đôla Mỹ) và 790.917.112 đồng. Ông Tâm thừa
nhận có nhận tiền do bà Vân, ông Lực chuyển về để ông xây dựng các công trình
trên với số tiền khoảng 68.835 đôla Australia được qui đổi từng thời điểm tiền việt
Nam đồng, tổng cộng là 790.917.112đ. Theo bà Vân sau khi trừ các chi phí ông
Tâm đã chi ra là 478.112.552đ, còn thừa lại 312.804.506đ, bà Vân yêu cầu ông
Tâm trả lại cho bà. Ông Tâm yêu cầu được khấu trừ số tiền 117.000.000đ ông
Tâm bỏ ra chi phí tổ chức đám cưới cho Đoàn Chiêu Vy là con gái bà Vân, ông
Lực và tiền công sức lao động ông đã quản lý, thi công các công trình theo yêu
cầu của bà Vân, ông Lực.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2015/DS-ST ngày 03/9/2015 của Tòa án
nhân dân tỉnh BT, quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Dương Chiêu Vân, ông
Đoàn Văn Lực đối với anh Lê Nghĩa Tâm về việc đòi tiền thừa trong hợp đồng ủy quyền. 4 lOMoAR cPSD| 45740413
Buộc ông Lê Nghĩa Tâm có nghĩa vụ trả cho bà Dương Chiêu Vân và ông
Đoàn Văn Lực số tiền 312.804.560 đ (Ba trăm mười hai triệu tám trăm lẻ bốn
nghìn năm trăm sáu mươi đồng).

Các tài sản đã được định giá thuộc sở hữu của bà Vân, ông Lực.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí định giá, án phí và quyền kháng cáo
của các đương sự theo quy định pháp luật.
Hỏi: Theo anh (chị) phán quyết như trên của Tòa án nhân dân tỉnh BT có
đúng không? Tại sao? Đề xuất hướng giải quyết vụ án. (40 điểm) Câu hỏi tình huống 4:
Bà Nguyễn Thị T là Việt kiều về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để giúp cho em Nguyễn Văn TY có đất sản
xuất nuôi cha mẹ. Ngày 10-8-1993, bà chuyển nhượng của vợ chồng ông HT diện
tích 7.595,7m2 đất ruộng tại Phường 7, thị xã ST, với giá 21,99 chỉ vàng. Bà T là
người trực tiếp giao dịch với vợ chồng ông HT. Do là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài nên bà T để cho ông TY đứng tên trong giấy tờ sang nhượng và cho
vợ chồng ông TY canh tác. Lúc sang nhượng hai bên có làm“Tờ sang nhượng đất
ruộng” lập ngày 10-8-1993; tờ sang nhượng này không có xác nhận của chính
quyền địa phương. Nhưng sau đó, ông TY và vợ chồng ông HT còn ký bản hợp
đồng và đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng ngày 11-8-1993, các văn
bản này có xác nhận của UBND xã An Hiệp và của UBND huyện Mỹ Tú đồng ý
cho chuyển nhượng. Sau đó, ông TY đăng ký, kê khai được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vào ngày 28-5-1994. Đến năm 2004, ông TY đã chuyển nhượng
hết diện tích đất này cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá:
1.260.000.000 đồng, không được sự đồng ý của bà T. Bà T khởi kiện yêu cầu ông
TY trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006, Tòa án
nhân dân tỉnh ST quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc đòi lại tiền
chuyển nhượng đất. Buộc vợ chồng ông TY có trách nhiệm hoàn trả cho bà
Nguyễn Thị T số tiền: 630.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10-5-2006, ông TY kháng cáo cho rằng bà T không phải là người có
quyền sử dụng phần đất mà ông đã chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu
hạn Minh Châu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông thanh toán cho bà T
630.000.000 đồng là không đúng.
Ngày 12-5-2006, ông Nguyễn Hữu P (đại diện cho bà T) kháng cáo đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử buộc ông TY trả lại toàn bộ số tiền mà ông TY
đã chuyển nhượng đất là 1.260.000.000 đồng cho bà T. 5 lOMoAR cPSD| 45740413
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006, Toà
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: bác
yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, sửa bản án sơ thẩm như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc đòi lại tiền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Buộc ông TY có trách nhiệm hoàn trả cho bà
Nguyễn Thị T số tiền 27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ vàng 24k.

Buộc ông TY phải nộp lại số tiền 1.232.266.860 đồng để sung công quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau xét xử phúc thẩm, ông TY khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Hỏi: Là KSV giải quyết vụ án trên, anh/chị hãy nhận xét về đường lối giải
quyết vụ án và đề xuất hướng giải quyết.
Câu hỏi tình huống 5:
Năm 2000, vợ chồng bà Điệu, ông Sơn nhận chuyển nhượng diện tích
3.033m2 đất lúa thửa số 589 tờ bản đồ số 03 tại xã P, huyện N, thành phố H. Ngày
20/10/2001, hộ gia đình bà Điệu được cấp Giấy CNQSD đất. Quá trình sống chung
bà Điệu, ông Sơn có 02 người con là anh Lê Ngọc Phú (sinh năm 1973 ) và chị
Lê Thị Cẩm Phương (sinh năm 1976). Ông Sơn chết năm 2003 không để lại di
chúc nên năm 2006 bà Điệu lấy ông Hiệp. Ngày 24/3/2007, bà Điệu, ông Hiệp
cùng ký giấy bán diện tích đất trên cho vợ chồng ông Chiến, bà Thùy với giá
chuyển nhượng là 03 tỷ đồng. Ngày 16/4/2007, vợ chồng ông Chiến đã ký hợp
đồng đặt cọc 1.300.000đ với vợ chồng bà Điệu. Ngày 10/6/2007, vợ chồng ông
Chiến thanh toán tiếp cho bà Điệu 1.700.000.000đ, UBND huyện N đã cấp Giấy
CNQSD sang tên cho vợ chồng ông Chiến, bà Thùy. Do 02 con của bà Điệu là
anh Phú, chị Phương không đồng ý cho mẹ bán đất nên vợ chồng bà Điệu không
bàn giao đất cho vợ chồng ông Chiến. Ngày 20/10/2012, vợ chồng ông Chiến, bà
Thùy khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Điệu bàn giao đất như đã thỏa thuận tại hợp
đồng chuyển nhượng ngày 16/4/2007. Phía bị đơn không đồng ý với yêu cầu của
nguyên đơn và có yêu cầu phản tố hủy Giấy CNQSD đất cấp cho vợ chồng ông Chiến, bà Thùy. -
Bản án sơ thẩm số 189/2014/DS-ST ngày 12/10/2014 của Tòa án
nhândân huyện N tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận
hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/4/2007, buộc bị đơn bàn giao diện tích 3.033m2
đất lúa, thửa số 589 tờ bản đồ số 03 tại xã Phước Lộc, huyện Nhà Bè, thành phố
Hồ Chí Minh theo Giấy CNQSD đất cấp ngày 16/4/2007 cho nguyên đơn. Sau
khi có bản án sơ thẩm, phía bị đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm. -
Bản án Phúc thẩm số 1089/2015/DS-PT ngày 12/4/2015 của Tòa
ánnhân dân TP. H xét xử: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm xác
định hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/4/2007 giữa các đương sự vô 6 lOMoAR cPSD| 45740413
hiệu. Hủy Giấy CNQSD đất cấp ngày 16/4/2007 cho nguyên đơn và xác định lỗi
hoàn toàn do phía bị đơn làm hợp đồng vô hiệu, buộc vợ chồng bà Điệu bồi thường
cho vợ chồng ông Chiến 3.80.000.000 đồng ( trong đó 03 tỷ là tiền gốc và
80.000.000 đồng là tiền lãi xuất ngân hàng ).
Sau khi có bản án phúc thẩm, ngày 02/6/2015 phía bị đơn có đ n đềềơ ngh
VKS cấấp cao kháng ngh theo thị ị ủ ụ t c giám đốấc th m vì cho rằềng b nẩ ả án
phúc th m xét xẩ ử khống khách quan, xác đ nh lốỗi hoàn toàn do b đ n làị ị ơ
khống đúng, gấy nh hả ưởng đềấn quyềền l i cợ ủa b đ n. ị ơ
Hỏi: Nêu căn cứ pháp luật để thụ lý, giải quyết đối với đơn đề nghị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trên? Bản án sơ thẩm 189/2014/DS-ST ngày
12/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện N và Bản án phúc thẩm số 1089/2015/DS-
PT ngày 12/4/2015 của Tòa án nhân dân TP. H xét xử đã đúng quy định của pháp luật chưa ? tại sao? 7