





Preview text:
Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) có xu hướng tăng đều đặn qua các năm, từ
911.100 tỷ đồng năm 2015 lên 1.411.700 tỷ đồng năm 2022, tăng 55,5%. Mức
tăng trưởng bình quân giai đoạn 2015-2022 là 7,3%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng
trưởng có sự chững lại trong giai đoạn 2020-2022, đặc biệt là năm 2021 do ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19.
Thu nội địa: là nguồn thu chính, đóng góp hơn 70% tổng thu NSNN.Thu nội địa
cũng có xu hướng tăng đều đặn qua các năm, từ 638.600 tỷ đồng năm 2015 lên
1.176.700 tỷ đồng năm 2022, tăng 84,4%. Trong đó thuế: chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng thu NSNN, đóng góp hơn 60%. Phí và lệ phí: đóng góp khoảng 10-
12%. Mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2015-2022 là 9,6%/năm.
Thu từ dầu thô: có biến động mạnh do phụ thuộc vào giá dầu thế giới và sản
lượng khai thác trong nước. Thu từ dầu thô có xu hướng giảm từ năm 2015 đến
nay, từ 93.000 tỷ đồng năm 2015 xuống 28.200 tỷ đồng năm 2022. Do lượng dầu
thô của nước ta ngày càng cạn kiệt. Đóng góp khoảng 3-5%, có xu hướng giảm.
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: tương đối ổn định, dao động trong
khoảng 170.000 - 200.000 tỷ đồng mỗi năm. Đóng góp khoảng 15-17%.
Thu viện trợ: giảm dần qua các năm, từ 4.500 tỷ đồng năm 2015 xuống 7.800 tỷ
đồng năm 2022. Đóng góp dưới 1%.
Tổng thu ngân sách nhà nước Việt Nam có xu hướng tăng đều đặn qua các năm,
tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết để đảm bảo nguồn lực cho phát
triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới. Cần tiếp tục tăng cường công tác quản lý
thu, chống thất thu, đồng thời mở rộng nguồn thu, giảm dần sự phụ thuộc vào thu từ dầu thô. Năm
NHẬN XÉT TỔNG CHI VÀ LÚC CHI THÌ CHI CHO VIỆC GÌ
Về chi NSNN, theo báo cáo bổ sung của Chính phủ, về cơ bản, việc bố trí, cân đối NSNN đã đảm bảo
hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng -
an ninh và đảm bảo các chính sách an sinh xã hội. Trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 21,5% so với dự 2015
toán đầu năm và tăng 33,66 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội, chủ yếu do tăng giải ngân 30
nghìn tỷ đồng bổ sung kế hoạch vốn ODA; chi thường xuyên tăng 1,7% so với dự toán, tăng 528 tỷ đồng
so với số báo cáo Quốc hội; đặc biệt, chi từ nguồn vượt thu NSNN tăng 69,37 nghìn tỷ đồng.
Dự toán chi NSNN năm 2015 là 1.147,1 nghìn tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 195 nghìn tỷ
đồng, chi thường xuyên 777 nghìn tỷ đồng (bao gồm chi cải cách tiền lương 10 nghìn tỷ đồng), chi trả nợ
và viện trợ 150 nghìn tỷ đồng,... Quản lý chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả:
Dự toán chi NSNN là 1.273,2 nghìn tỷ đồng. Thực hiện chi NSNN năm 2016 đạt 1.360 nghìn tỷ đồng,
bằng 106,8% so dự toán. Kết quả thực hiện chi tại một số lĩnh vực chủ yếu như sau:
- Chi đầu tư phát triển : Dự toán chi 254,95 nghìn tỷ đồng. Kết quả thực hiện ước đạt 268,18 nghìn tỷ
đồng, tăng 5,2% so dự toán.
- Chi trả nợ và viện trợ: Dự toán chi 155,1 nghìn tỷ đồng. Kết quả thực hiện 155,1 nghìn tỷ đồng, bằng
dự toán; đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết.
- Dự toán chi 824 nghìn tỷ đồng. Kết quả thực hiện đạt 836,76 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% so dự toán; đảm
bảo các nhu cầu chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định và xử lý kịp thời các nhiệm vụ cấp thiết
phát sinh. Bên cạnh đó, đã thực hiện xuất cấp trên 155 nghìn tấn gạo để cứu trợ, cứu đói cho nhân dân và
hỗ trợ học sinh vùng khó khăn.
- Dự toán bội chi NSNN năm 2016 Quốc hội quyết định là 254 nghìn tỷ đồng, bằng 4,95%GDP. 2016
Trong bối cảnh tình hình còn nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc
hội, có sự phối kết hợp và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, nhiệm vụ tài chính - NSNN năm
2016 đã cơ bản đạt và vượt chỉ tiêu dự toán Quốc hội quyết định, điều hành quyết liệt thu, chi, giữ bội
chi NSNN trong phạm vi Quốc hội cho phép, kỷ cương, kỷ luật tài chính - ngân sách được tăng cường;
góp phần tích cực vào việc hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, bảo đảm an sinh xã hội.
Dự toán NSNN năm 2017 được Quốc hội quyết định tổng số chi là 1.390.480 tỷ đồng, bội chi
NSNN là 178.300 tỷ đồng, tương đương 3,5% GDP, gồm bội chi ngân sách trung ương là 172.300 tỷ
đồng, tương đương 3,38% GDP, bội chi ngân sách địa phương là 6.000 tỷ đồng, tương đương 0,12% GDP.
Quyết toán chi NSNN là 1.355.034 tỷ đồng, bằng 97,5% (giảm 35.446 tỷ đồng) so với dự toán,
chủ yếu do một số khoản chi triển khai chậm (như các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương
trình mục tiêu) nên bị hủy dự toán hoặc chuyển nguồn sang năm sau chi tiếp theo quy định của Luật 2017
NSNN. Quyết toán chi NSNN theo các nhiệm vụ chi chủ yếu như sau:
- Chi đầu tư phát triển: quyết toán 372.792 tỷ đồng, tăng 15.642 tỷ đồng (+4,4%) so dự toán do
tăng chi từ nguồn tăng thu của địa phương, nguồn dự phòng ngân sách và nguồn năm trước chuyển sang.
Số chi đầu tư phát triển chiếm 27,5% tổng chi NSNN.
- Chi trả nợ lãi: quyết toán 97.727 tỷ đồng, giảm 1.173 tỷ đồng, bằng 98,8% so với dự toán.
- Chi thường xuyên (bao gồm cả nguồn cải cách tiền lương): quyết toán 881.688 tỷ đồng, bằng
97,7% so với dự toán, chiếm 65,1% tổng chi NSNN.
Tổng chi NSNN thực hiện đạt 1.616,4 nghìn tỷ đồng, vượt 93,2 nghìn tỷ đồng (+6,1%) so với
dự toán, tăng 54 nghìn tỷ đồng so báo cáo Quốc hội. Trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 411,28 nghìn tỷ
đồng, vượt 11,58 nghìn tỷ đồng (+2,9%) so với dự toán; chi trả nợ lãi đạt 109,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,8
nghìn tỷ đồng (-2,5%) so dự toán, phù hợp với nghĩa vụ trả nợ đến hạn; chi thường xuyên đạt 954,1
nghìn tỷ đồng, vượt 13,37 nghìn tỷ đồng (+1,4%) so dự toán. 2018
Công tác điều hành chi NSNN năm 2018 chủ động, chặt chẽ, đúng chính sách, chế độ; kỷ luật
tài chính được tăng cường, hiệu quả sử dụng NSNN có tiến bộ. Nhờ thu NSNN vượt dự toán, các nhiệm
vụ chi cũng được đảm bảo theo dự toán, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kinh tế, chính trị của các đơn vị sử
dụng ngân sách và có thêm nguồn lực xử lý kịp thời các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phát sinh về đầu
tư hạ tầng kinh tế- xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên,
công tác giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản nguồn NSNN vẫn chậm (đạt 75,8% dự toán); một lượng
vốn không nhỏ phải kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân sang năm 2019.
Dự toán chi NSNN là 1.633,3 nghìn tỷ đồng; kết quả thực hiện đạt 1.748 nghìn tỷ đồng, vượt 114,7
nghìn tỷ đồng (+7%) so với dự toán
Quyết toán chi NSNN theo các lĩnh vực chi chủ yếu như sau:
- Chi đầu tư phát triển: Quyết toán 576.432 tỷ đồng, đạt 115,5% dự toán, tăng 77.161 tỷ đồng.
- Chi trả nợ lãi: Quyết toán 106.466 tỷ đồng, bằng 90,1% dự toán, chủ yếu do trong điều hành đã bám sát
tiến độ giải ngân vốn đầu tư để phát hành trái phiếu Chính phủ, qua đó giảm số thực huy động trong
năm, kết hợp với lãi suất phát hành thấp hơn dự kiến, làm giảm chi phí vay cho ngân sách.
- Chi thường xuyên (bao gồm cả nguồn cải cách tiền lương): quyết toán 1.013.449 tỷ đồng, bằng 90,8% so với dự toán. 2019
Công tác điều hành chi NSNN được thực hiê } n chủ đô }
ng, tích cực, chặt chẽ, tiết kiệm; tâ } p trung tháo g~
khó khăn, vướng mắc, đ•y nhanh tiến đô } giải ngân vốn đầu tư công; quản lý, sử dụng dự phòng NSNN
tập trung cho các mục tiêu khắc phục hậu quả thiên tai, mưa bão, dịch bệnh và một số nhiệm vụ quan
trọng cấp bách phát sinh. Trong điều hành đã tăng cường công tác thanh tra tài chính - ngân sách, công
tác kiểm soát chi NSNN, qua đó phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các sai phạm. Các bộ, cơ quan
trung ương và địa phương chủ động bố trí các nhiệm vụ chi gắn với sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiê }
u quả sử dụng NSNN và tài sản công.
Năm 2020, NSNN đã chi 21.685 tỷ đồng cho công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân bị ảnh
hưởng của dịch Covid-19, góp phần kiểm soát hiệu quả dịch bê }
nh, đảm bảo an sinh xã hô } i.
Nhìn chung, trong năm 2020, công tác điều hành chi NSNN được thực hiện chủ động, đảm bảo chặt
chẽ, bám sát dự toán được giao; kỷ luật tài chính được tăng cường, hiệu quả sử dụng NSNN có tiến bộ. 2020
Các nhiệm vụ chính trị quan trọng được đảm bảo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
và từng địa phương và có thêm nguồn lực xử lý kịp thời các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phát sinh về
đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh.
Dự toán chi NSNN là 1.687 nghìn tỷ đồng, ước thực hiê }
n chi năm 2021 đạt 1.854,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 167,9 nghìn tỷ đồng (+10%) so với dự toán, trong đó:
- Chi đầu tư phát triển: dự toán chi là 477,3 nghìn tỷ đồng; thực hiê }
n ước đạt 515,9 nghìn tỷ đồng, tăng
38,6 nghìn tỷ đồng (+8,1%) so với dự toán.
- Chi trả nợ lãi: dự toán chi là 110 nghìn tỷ đồng; thực hiê }
n ước đạt gần 102,6 nghìn tỷ đồng, giảm 7,5
nghìn tỷ đồng (-6,8%) so dự toán
- Chi thường xuyên: dự toán chi là 1.036,7 nghìn tỷ đồng; thực hiện ước đạt 1.053,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2021
17,1 nghìn tỷ đồng (+1,7%) so dự toán.
Công tác điều hành chi NSNN năm 2021 được thực hiê } n chủ đô } ng, chă } t chẽ, đảm bảo đúng chính sách, chế đô } , cắt giảm những nhiê }
m vụ chi chưa thực sự cần thiết, châ } m triển khai, triê } t để tiết kiê }
m chi thường xuyên gắn với sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới khu vực sự nghiệp công;
rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi, tập trung ưu tiên nguồn lực cho phòng, chống dịch Covid-19, đảm bảo
an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân; đảm bảo cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết phục vụ cho
công tác bầu cử Quốc hội khóa XV và đại biểu Hô }
i đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
- Chi đầu tư phát triển: ự toán chi là 557,5 nghìn tỷ đồng; thực hiện ước đạt 638,1 nghìn tỷ đồng, tăng
80,6 nghìn tỷ đồng (+14,5%) so với dự toán.
- Chi trả nợ lãi: dự toán chi là 103,7 nghìn tỷ đồng; thực hiê }
n ước đạt gần 94,8 nghìn tỷ đồng, giảm 8,9
nghìn tỷ đồng (-8,6%) so dự toán, chủ yếu do công tác phát hành trái phiếu Chính phủ phù hợp với tiến đô }
thu ngân sách và giải ngân vốn đầu tư, giảm số dư nợ vay và trả lãi so dự kiến tại thời điểm xây dựng
dự toán NSNN năm 2022; đồng thời, giải ngân vốn ODA đạt thấp, giảm chi trả lãi vay nước ngoài so dự toán. 2022
- Chi thường xuyên: dự toán chi là 1.111,2 nghìn tỷ đồng; thực hiện ước đạt 1.101,9 nghìn tỷ đồng, giảm
9,3 nghìn tỷ đồng (-0,8%) so dự toán.
Công tác điều hành chi NSNN năm 2021 được thực hiê } n chủ đô } ng, chă }
t chẽ, đảm bảo đúng chính sách, chế đô }
, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm những nhiê }
m vụ chi chưa thực sự cần thiết, châ } m
triển khai, tập trung ưu tiên nguồn lực thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai tài chính - ngân sách, nâng cao
kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí NSNN và quản lý, sử dụng tài sản công. Các
nhiệm vụ chi được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước,
khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, đảm bảo an sinh xã hội.
Thâm hụt ngân sách năm 2015 ở mức 5%, được xem là đáng báo động bởi bội
chi NSNN tối đa được phép là 5% GDP/năm. Nhưng trên thực tế rất khó để
thực hiện đúng được quy định đó.Vấn đề thực sự là với nền tài khóa quốc gia
như hiện nay, nếu bội chi ngân sách cứ luôn vượt quá 5% GDP trong một thời
gian dài sẽ nguy hiểm. Điều này có khiến cho thị trường hiểu rằng đang không
có sự thống nhất giữa chủ trương và thực thi chính sách của Chính phủ, làm
giảm niềm tin của thị trường, gây sức ép rất lớn lên việc điều hành kinh tế vĩ mô. Viê }
t Nam luôn duy trì quy mô chi tiêu công ở mức cao (xấp xỉ 30% GDP), cao
hơn mức trung bình của các nền kinh tế mới nổi ở cùng giai đoạn phát triển và
lớn nhất khu vực ASEAN. Do đó, mă }
c dù thu cân đối ngân sách có mức tăng
đáng kể, nhưng vẫn không đủ bù đắp cho chi tiêu ngân sách, dẫn tới tình trạng
thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, bội
chi NSNN nước ta ở mức 3,6% GDP, mặc dù đã giảm mạnh so với giai đoạn
2011 - 2015 là 5,4% GDP. Tuy nhiên, chủ yếu là do phương thức hạch chi
NSNN có thay đổi, còn cấu trúc NSNN vẫn chưa có nhiều chuyển biến đáng kể
theo hướng bền vững, cơ cấu chi chưa có sự cải thiện khi tỷ lệ chi thường
xuyên tiếp tục tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn, dẫn đến nhu cầu chi NSNN
tiếp tục vượt xa so với khả năng thu.
Đặc biệt, dưới tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế
sụt giảm cộng với việc Chính phủ triển khai các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế đã
khiến bội chi NSNN năm 2020 tăng lên 3,99% GDP và dự kiến sẽ còn tiếp tục
tăng trong giai đoạn 2021 - 2022. Theo Bộ Tài chính, dự kiến mức bội chi
NSNN giai đoạn 2021 - 2022 khoảng 4% GDP.
Biện pháp giảm tỷ lệ nợ công của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2015-2022
Để giảm tỷ lệ nợ công trong giai đoạn 2015-2022, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp sau:
1. Tổng kết và đổi mới
Cập nhật chiến lược quản lý nợ công, theo hướng phù hợp với thực trạng nợ công .
Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan đến quản lý nợ công và đặc biệt là
Luật Quản lý nợ công để đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản.
2.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay:
Tăng cường công tác quản lý, giám sát việc sử dụng vốn vay: Đảm bảo vốn vay được
sử dụng đúng mục đích, hiệu quả.
Nâng cao năng lực của các đơn vị vay vốn: Nâng cao năng lực quản lý, sử dụng vốn
vay của các đơn vị vay vốn.
3. Kiểm soát việc tăng vốn vay:
Chỉ chi tiêu nếu đã có nguồn thực
Gắn trách nhiệm vay - trả nợ trực tiếp với người ra quyết định đầu tư và tiêu dùng
Không phát sinh nợ vay nếu không có phương án trả nợ khả thi Không vay cho tiêu dùng
4. Tái cơ cấu vốn vay, tăng cường trả nợ không để tình trạng quá hạn trả nợ:
Kéo dài kỳ hạn trả nợ: Đàm phán với các chủ nợ để kéo dài kỳ hạn trả nợ, giảm gánh
nặng trả nợ cho ngân sách nhà nước.
Giảm lãi suất vay nợ: Tìm kiếm các nguồn vay ưu đãi, tái cơ cấu các khoản vay có lãi suất cao.
Tăng cường kiểm soát các khoản vay về cho vay lại
Hạn chế tối đa các khoản vay từ nước ngoài, thay bằng vay trong nước
Tập trung các nguồn để trả nợ, nhất là nợ nước ngoài đến hạn;
Kiểm soát việc bảo lãnh tín dụng cho DNNN
Tập trung trả nợ đọng xây dựng cơ bản.
5. Kiểm soát chi ngân sách:
Cắt giảm chi thường xuyên: Hạn chế chi tiêu cho các hoạt động không cần thiết, cắt
giảm biên chế, tiết kiệm chi phí hội họp, công tác,...
Tăng cường hiệu quả đầu tư công: Rà soát, điều chỉnh các dự án đầu tư công, tập trung
vào các dự án trọng điểm, hiệu quả; nâng cao năng lực quản lý, giám sát dự án.
6. Tăng thu ngân sách bền vững:
Tăng cường thu thuế: Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, mở rộng đối tượng nộp thuế,
tăng cường công tác quản lý thuế.
Tăng cường thu từ các nguồn khác: Xử lý các khoản nợ đọng, bán tài sản nhà nước,
huy động vốn từ trái phiếu chính phủ.
7. Đa dạng hóa nguồn nợ nước ngoài:
Không quy nợ nước ngoài về một đồng ngoại tệ; theo sát diễn biến thị trường ngoại hối để
có phản ứng thích hợp đối với nợ nước ngoài; từng bước thay thế nợ nước ngoài bằng nợ trong nước.