Tranh dân gian Việt Nam - Môn cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Tranh dân gian Việt Nam - Môn cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

Tranh dân gian – Nhóm 6
TRANH DÂN GIAN
1. Nguồn gốc khái niệm tranh dân gian
- Là những tác phẩm được sáng tác để phục vụ đời sống tinh thần của con người
được lựa truyền qua từng thế hệ
- Tranh dân gian được tạo bởi những “nghệ sĩ “ quen với việc đồng áng nhưng lại
có tầm nhìn nghệ thuật vô cùng đa dạng và phong phú
- Dần dần tranh dân gian trở thành “ món ăn tinh thần “ không thể thiếu
Nguồn gốc:
- Tranh dân gian gồm hai loại gồm tranh tết và tranh thờ
- Tranh dân gian có nguồn gốc từ rất xa xưa được giữ gìn, bảo tồn và phát triển
qua các giai đoạn lịch sử của đất nước.
- Tranh dân gian không những là tài sản riêng của các làng tranh mà còn là tài sản
chung của cả dân tộc.
2. Đặc điểm chung của tranh dân gian
* Tranh dân gian Việt Nam nhiều dòng tranh khác nhau nhưng nhìn chung
đều được dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu bao lại
toàn hình. Có 3 đặc điểm chung:
- Cách vẽ, in ấn:
+ tranh dân gian là để phục vụ cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên phải có số lượng
lớn mà giá cả không được đắt
+ cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc chủ yếu làm từ gỗ
Đầu tiên các nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ những đường nét chính của tranh,
sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh tiếp tục tô vẽ để hoàn thiện bức
tranh
- Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh
+ Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy, phổ biến nhất là giấy dó.
Loại giấy này có độ bền rất cao, xốp nhẹ, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối
mọt, hoặc giòn gãy, ẩm nát. Có đặc tính chống ẩm rất cao nên giúp cho các
bức tranh không bị ẩm mốc và trường tồn cùng thời gian
+ Mỗi dòng tranh thường có cách tạo màu pha chế màu sắc riêng nhưng nhìn
chung thì màu sắc cho những bức tranh thì tương đối đơn giản, dân giã
-> Có thể nói nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam đã đạt đến trình độ tổng hợp màu
sắc và nguyên vật liệu khá cao so với những gì có thể đáp ứng được tại thời điểm
đó.
- Bố cục:
+ bố cục của các bức tranh dân gian Việt Nam thường được vẽ theo quan niệm
“sống” hơn “giống” do đó mỗi đường nét đều được gạn lọc, thuần khiết sao cho tạo
nên những cảm nhận chân thật nhất cho người xem thay vì vẽ đúng luật.=>Nhờ đó
nhìn từ nhiều góc độ bức tranh vẫn giữ nguyên được những màu sắc, hình ảnh đặc
trưng nhất của mình.
Vd: trong tranh Đồng Hồ thì chỉ có 3 đến 4 màu sắc tạo nên như:
+ than xoan tạo màu đen
+ rỉ đồng tạo màu xanh
+ hoa hòe tạo màu đỏ
+ lá chàm tạo màu xanh mát
+ màu vàng lấy từ hoa hòe hay quả dành dành
….
Cùng với những loại hình nghệ thuật khác, tranh dân gian Việt Nam đã đi vào
đời sống văn hóa tinh thần của người Việt như một nét đẹp văn hóa truyền
thống. Để bạn đọc thể hiểu thêm về loại hình này, bài viết dưới đây xin chia
sẻ vài nét đặc trưng của nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam.
3. Một số dòng tranh dân gian:
Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dòng
tranh xuất hiện. Có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng
tranh nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng
tranh dân gian hiện không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của
mỗi dòng tranh vẫn còn đó, được coi một chứng nhân lịch sử của xã hội Việt Nam
trong suốt một quá trình hình thành và phát triển đất nước.
Một số dòng tranh dân gian chính còn lưu giữ được đến ngày nay như:
- Tranh dân gian Đông Hồ Bắc Ninh ( )
- Tranh Hàng Trống Hà Nội ( )
- Tranh Kim Hoàng Hà Tây ( )
- Tranh làng Sình (Huế)
Dòng tranh dân gian Đông Hồ
-Dòng tranh này ra đời từ khoảng và phát triển cho đến nửa đầu thế kỷ 17 thế kỷ
20 sau đó suy tàn dần. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị
văn hóa to lớn. Những khác biệt của dòng tranh này so với cách dòng tranh khác
được thể hiện từ những khâu như vẽ mẫu, khác bản in, sản xuất và chế biến màu
cho đến in vẽ tranh. Đây là dòng tranh khắc ván, sử dụng ván gỗ để in tranh, tranh
có bao nhiêu màu thì có bấy lần in.
-Tranh có đề tài rất phong phú, nó phản ảnh hầu như tất cả những gì diễn ra trong
cuộc sống, sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan hệ xã hội ở miền
nông thôn. Từ những gì dân dã nhất như hái dừa, đánh ghen,… cho tới những bức
tranh thờ: Phú Quý, Nhân Nghĩa...
-Nhờ có đề tài gần gũi tranh Đông Hồ đã được người dân đón nhận và sớm đi vào
đời sống văn hoá của họ. Mỗi khi hầu hết các gia đình ở nông thôn miền Tết đến
Bắc đều có treo một vài tờ tranh Đông Hồ. Cùng với thời gian, với sức mạnh mang
trong mình, tranh Đông Hồ ngày càng lan tỏa ra các vùng xung quanh, để rồi nó đã
trở thành một phần không thể thiếu của đời sông văn hóa tinh thần của người dân.
-Một số tác phẩm tiêu biểu: Gà mái Bà Triệu Thạch Sanh Hứng dừa Gà Đại , , , ,
Cát, Đám cưới chuột
Dòng tranh Hàng Trống
-Đây là một dòng tranh dân gian được làm chủ yếu ở các phố Hàng Trống, Hàng
Nón... của Dòng tranh này có nhiều điểm riêng biệt so với các dòng tranh Hà Nội.
dân gian khác.
- Tranh Hàng Trống có phần nổi trội hơn về thể loại tranh thờ, do ảnh hưởng Phật
giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện khả công phu,
không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa .
-Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ sao cho thật thuận mắt
và ưa nhìn.
-Tranh không được in tất cả bằng ván khắc mà chỉ in "một nửa", in những đường
nét chính sau đó lại tô vẽ lại, cụ thể kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét
in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quệt phẩm
nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế làm cho màu sắc rất
uyển chuyển,đáp ứng được đòi hỏi của khách mua tranh chốn kinh kỳ.
Một số tác phẩm tiêu biểu: Ngũ Hổ Bịt mắt bắt dê chợ quê Phật Bà Quan Âm, , ,
Tranh Kim Hoàng
-Là sản phẩm tranh ra đời từ sự hợp nhất 2 làng Kim Bảng và Hoàng Bảng vào
năm Chính Hòa thứ 22 (1701). Dân làng thường làm tranh từ tháng 11 âm Rằm
lịch cho tới Tết Nguyên Đán.
-Điểm khác biệt của dòng tranh này là nó không sử dụng như giấy in quyét điệp
tranh Đông Hồ mà cũng không sử dụng giấy xuyên như tranh Hàng Trống mà in
trên giấy Đỏ, giấy Hồng Điều hay giấy Tàu vàng.
Tranh làng Sình
-Tranh có nguồn gốc tại làng Sình (nằm ven bờ Huế) đã ra đời không sông Hương,
biết từ bao giờ, và tranh của làng đa phần phục vụ cho việc thờ cúng của người dân
khắp vùng.
- Tranh phục vụ tín ngưỡng. Với khoảng hơn 50 đề tài tranh phản ảnh tín ngưỡng
cổ sơ, người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh... Tranh có nhiều cỡ khác
nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. In tranh khổ lớn thì đặt bản khắc
nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu,
quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa
đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi
lấy ván in dập lên.
-Điểm nổi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất
phác một cách hồn nhiên. Nhưng nét độc đáo nhất của nó lại là ở chỗ tô màu. Khi
đó nghệ nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên.
Sở dĩ tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và sự cuốn hút đặc biệt với nhiều
thế hệ người Việt cũng như du khách nước ngoài bởi những đề tài trên tranh phản
ảnh khá chân thực, sinh động và đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị cũng như
nét văn hóa truyền thống của người Việt. Cứ bóc tách từng lớp nang văn hóa hiện
trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy được vốn liếng văn hóa
Việt thuần khiết và trong sáng tới chừng nào.
Tuy nhiên thì hiện nay tranh đông hồ nguy cơ bị mai một và thất truyền Theo
thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện có khoảng hơn 1000 làng nghề, trong đó có
300 làng nghề truyền thống, hàng năm mang lại doanh thu khoảng 600 triệu USD.
Tuy nhiên, nguy cơ biến mất của các làng nghề truyền thống trước sức ép của kinh
tế thị trường đang ngày càng hiện hữu. Làng cũng không tránh tranh Đông Hồ
khỏi sức ép đó. Có một điều đáng buồn là tranh không còn mang tính “thuần Việt”
như thời xưa mà đang dần bị “thương mại hoá”. Một số họa sĩ cho rằng ở thời
điểm hiện tại, tranh Đông Hồ thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên
nhân bởi vì người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy nhằm bớt lượng điệp khiến
giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại
màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Không
những thế, một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh
phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị “què cụt” về mặt ý nghĩa
Tranh Đông hồ
1.Lược sử - đặc điểm , đặc trưng về tranh dân gian Đông Hồ
a.Lược sử về tranh dân gian Đông Hồ
- Tranh Đông Hồ là dòng tranh khắc gỗ dân gian của Việt Nam và xuất sinh từ làng
Đông Hồ Bắc Ninh ( xưa có tên là làng Mái , tên chữ cổ là làng Đông Mai , nằm
bên bờ Nam sông Đuống , nay thuộc xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc
Ninh )
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng , tranh Đông Hồ xuất hiện vào TK XVI nhưng
hiện không có thống kê thời kì đầu có bao nhiêu mẫu tranh
- Dòng tranh dân gian Đông Hồ phát truển cực thịnh vào TK XVIII đầu TK XIX
- Phân loại tranh dân gian Đông Hồ : 5 loại
+ Tranh chúc tụng
+ Tranh sinh hoạt
+ Tranh lịch sử
+ Tranh truyện
+ Tranh thờ
Ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì còn có Tranh phương ngôn , Tranh cảnh
vật
*Tranh chúc tụng
• Các bức tranh tiêu biểu : Đàn gà , Đàn lợn âm dương , Đứa bé ôm con gà vinh
hoa , Đứa bé ôm con vịt Phú quý
• Phản ánh ước mơ của người dân lao động về cuộc sống đầy đủ , ấm no và hạnh
phúc
*Tranh sinh hoạt
• Tiêu biểu là : Đánh ghen , Chăn trâu thổi sáo , Chăn trâu thả diều , Hứng dừa ,...
• Thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền , cuộc sống lao động của
người nông dân bình dị , chất phác , phong tục tập quán , sinh hoạt của người dân
Việt
*Tranh lịch sử
• Các bức tranh tiêu biểu : Bà Trưng , Ngô Quyền , Phù Đổng Thiên Vương , Trần
Hưng Đạo , Đinh Tiên Hoàng ,...
*Tranh truyện
• Thạch Sanh
*Tranh thờ
• Các bức tiêu biểu : Bộ Ngũ sự , Tử Vi Trấn Thạch , ....
b.Đặc điểm , đặc trưng nghệ thuật của tranh dân gian Đông Hồ
- Có tính biểu trưng , trang trí
- Thể hiện đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật dân gian : hồn nhiên , giản dị , chân
thật , mộc mạc , gần gũi với đời sống con người
- Sử dụng đường nét tiết giản và những mảng màu dẹt đều là những mảng màu tự
nhiên của cỏ cây , hoa lá , tươi sáng trên nền giấy đó quét điệp óng ánh
- Các con vật gần gũi với làng quê như gà trống , trâu , mèo ,
chuột , cá chép ,...
*Phương thức làm tranh dân gian Đông Hồ
Khâu sáng tác mẫu – khắc ván và khâu in tranh
#Sáng tác mẫu
+ Các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và
phẳng để người thợ khắc , đục ván theo mẫu
+ Các mẫu tranh thường là kết quả chung của 1 làng tranh , của nhiều thế hệ , vì
vậy một mẫu nhưng có nhiều dị bản khác nhau hoặc một mẫu tranh cũng có đến 2 ,
3 cách phân bố màu khác nhau
#Khắc ván
+ Ván khắc in tranh có hai loại là ván in nét và ván in màu
+ Bản nét đen chủ đạo
+ Số lượng các bản gỗ khắc in 1 bức tranh bằng với số lượng màu ở tranh mẫu
( thường có 4 bản gỗ tương ứng với 4 màu chủ đạo )
#In tranh
+ Vật liệu và dụng cụ để in tranh gồm : giấy dó , các loại màu , ván in , co ván , bìa
và thét ( chổi làm bằng lá thông )
+ Giấy in là loại giấy dó truyền thống , có quét điệp
+ Màu sử dụng in tranh được chế từ nguồn gốc tự nhiên :
• Màu vàng của hoa hoè
• Màu đỏ của hoa hiên
• Màu xanh của gỉ đồng , lá chàm
• Màu đen của than lá tre
•...
2. Tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống
- Tranh Đông Hồ còn được coi là tranh Tết bởi nó được sản xuất và bán vào dịp
Tết Âm lịch cho khắp nơi ở chợ quê
- Tranh in thể hiện tính dí dỏm , khung cảnh ấm cúng phù hợp với Tết Nguyên Đán
- Thể hiện được ước mơ ngàn đời của người lao động về cuộc sống gia đình thuận
hòa , ấm no , hạnh phúc , về một xã hội công bằng , tốt đẹp
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp “
( Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm )
| 1/7

Preview text:

Tranh dân gian – Nhóm 6 TRANH DÂN GIAN
1. Nguồn gốc khái niệm tranh dân gian
- Là những tác phẩm được sáng tác để phục vụ đời sống tinh thần của con người
được lựa truyền qua từng thế hệ
- Tranh dân gian được tạo bởi những “nghệ sĩ “ quen với việc đồng áng nhưng lại
có tầm nhìn nghệ thuật vô cùng đa dạng và phong phú
- Dần dần tranh dân gian trở thành “ món ăn tinh thần “ không thể thiếu Nguồn gốc:
- Tranh dân gian gồm hai loại gồm tranh tết và tranh thờ
- Tranh dân gian có nguồn gốc từ rất xa xưa được giữ gìn, bảo tồn và phát triển
qua các giai đoạn lịch sử của đất nước.
- Tranh dân gian không những là tài sản riêng của các làng tranh mà còn là tài sản chung của cả dân tộc.
2. Đặc điểm chung của tranh dân gian
* Tranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dòng tranh khác nhau nhưng nhìn chung
đều được dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại
toàn hình. Có 3 đặc điểm chung: - Cách vẽ, in ấn:
+ tranh dân gian là để phục vụ cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên phải có số lượng
lớn mà giá cả không được đắt
+ cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc chủ yếu làm từ gỗ
Đầu tiên các nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ những đường nét chính của tranh,
sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh tiếp tục tô vẽ để hoàn thiện bức tranh
- Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh
+ Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy, phổ biến nhất là giấy dó.
Loại giấy này có độ bền rất cao, xốp nhẹ, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối
mọt, hoặc giòn gãy, ẩm nát. Có đặc tính chống ẩm rất cao nên giúp cho các
bức tranh không bị ẩm mốc và trường tồn cùng thời gian
+ Mỗi dòng tranh thường có cách tạo màu pha chế màu sắc riêng nhưng nhìn
chung thì màu sắc cho những bức tranh thì tương đối đơn giản, dân giã
-> Có thể nói nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam đã đạt đến trình độ tổng hợp màu
sắc và nguyên vật liệu khá cao so với những gì có thể đáp ứng được tại thời điểm đó. - Bố cục:
+ bố cục của các bức tranh dân gian Việt Nam thường được vẽ theo quan niệm
“sống” hơn “giống” do đó mỗi đường nét đều được gạn lọc, thuần khiết sao cho tạo
nên những cảm nhận chân thật nhất cho người xem thay vì vẽ đúng luật.=>Nhờ đó
nhìn từ nhiều góc độ bức tranh vẫn giữ nguyên được những màu sắc, hình ảnh đặc trưng nhất của mình.
Vd: trong tranh Đồng Hồ thì chỉ có 3 đến 4 màu sắc tạo nên như: + than xoan tạo màu đen + rỉ đồng tạo màu xanh + hoa hòe tạo màu đỏ
+ lá chàm tạo màu xanh mát
+ màu vàng lấy từ hoa hòe hay quả dành dành ….
Cùng với những loại hình nghệ thuật khác, tranh dân gian Việt Nam đã đi vào
đời sống văn hóa tinh thần của người Việt như một nét đẹp văn hóa truyền
thống. Để bạn đọc có thể hiểu thêm về loại hình này, bài viết dưới đây xin chia
sẻ vài nét đặc trưng của nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam.

3. Một số dòng tranh dân gian:
Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dòng
tranh xuất hiện. Có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng
tranh nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng
tranh dân gian hiện không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của
mỗi dòng tranh vẫn còn đó, được coi một chứng nhân lịch sử của xã hội Việt Nam
trong suốt một quá trình hình thành và phát triển đất nước.
Một số dòng tranh dân gian chính còn lưu giữ được đến ngày nay như: - T
ranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh) - T
ranh Hàng Trống (Hà Nội) - T ranh Kim Hoàng (Hà Tây) - T ranh làng Sình (Huế)
Dòng tranh dân gian Đông Hồ
-Dòng tranh này ra đời từ khoảng thế kỷ 17 và phát triển cho đến nửa đầu thế kỷ
20 sau đó suy tàn dần. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị
văn hóa to lớn. Những khác biệt của dòng tranh này so với cách dòng tranh khác
được thể hiện từ những khâu như vẽ mẫu, khác bản in, sản xuất và chế biến màu
cho đến in vẽ tranh. Đây là dòng tranh khắc ván, sử dụng ván gỗ để in tranh, tranh
có bao nhiêu màu thì có bấy lần in.
-Tranh có đề tài rất phong phú, nó phản ảnh hầu như tất cả những gì diễn ra trong
cuộc sống, sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan hệ xã hội ở miền
nông thôn. Từ những gì dân dã nhất như hái dừa, đánh ghen,… cho tới những bức
tranh thờ: Phú Quý, Nhân Nghĩa...
-Nhờ có đề tài gần gũi tranh Đông Hồ đã được người dân đón nhận và sớm đi vào
đời sống văn hoá của họ. Mỗi khi Tết đến hầu hết các gia đình ở nông thôn miền
Bắc đều có treo một vài tờ tranh Đông Hồ. Cùng với thời gian, với sức mạnh mang
trong mình, tranh Đông Hồ ngày càng lan tỏa ra các vùng xung quanh, để rồi nó đã
trở thành một phần không thể thiếu của đời sông văn hóa tinh thần của người dân.
-Một số tác phẩm tiêu biểu: Gà mái Bà T , riệu Thạch Sanh , Hứng dừa , , Gà Đại Cát, Đám cưới chuột
Dòng tranh Hàng Trống
-Đây là một dòng tranh dân gian được làm chủ yếu ở các phố Hàng Trống, Hàng
Nón... của Hà Nội. Dòng tranh này có nhiều điểm riêng biệt so với các dòng tranh dân gian khác.
- Tranh Hàng Trống có phần nổi trội hơn về thể loại tranh thờ, do ảnh hưởng Phật
giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện khả công phu,
không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa .
-Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ sao cho thật thuận mắt và ưa nhìn.
-Tranh không được in tất cả bằng ván khắc mà chỉ in "một nửa", in những đường
nét chính sau đó lại tô vẽ lại, cụ thể kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét
in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quệt phẩm
nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế làm cho màu sắc rất
uyển chuyển,đáp ứng được đòi hỏi của khách mua tranh chốn kinh kỳ.
Một số tác phẩm tiêu biểu: Ngũ Hổ Bịt mắt bắt dê , chợ quê , , Phật Bà Quan Âm Tranh Kim Hoàng
-Là sản phẩm tranh ra đời từ sự hợp nhất 2 làng Kim Bảng và Hoàng Bảng vào
năm Chính Hòa thứ 22 (1701). Dân làng thường làm tranh từ Rằm tháng 11 âm
lịch cho tới Tết Nguyên Đán.
-Điểm khác biệt của dòng tranh này là nó không sử dụng giấy in quyét điệp như
tranh Đông Hồ mà cũng không sử dụng giấy xuyên như tranh Hàng Trống mà in
trên giấy Đỏ, giấy Hồng Điều hay giấy Tàu vàng. Tranh làng Sình
-Tranh có nguồn gốc tại làng Sình (nằm ven bờ sông Hương Huế) đã ra đời không ,
biết từ bao giờ, và tranh của làng đa phần phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng.
- Tranh phục vụ tín ngưỡng. Với khoảng hơn 50 đề tài tranh phản ảnh tín ngưỡng
cổ sơ, người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh... Tranh có nhiều cỡ khác
nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. In tranh khổ lớn thì đặt bản khắc
nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu,
quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa
đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên.
-Điểm nổi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất
phác một cách hồn nhiên. Nhưng nét độc đáo nhất của nó lại là ở chỗ tô màu. Khi
đó nghệ nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên.
Sở dĩ tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và sự cuốn hút đặc biệt với nhiều
thế hệ người Việt cũng như du khách nước ngoài bởi những đề tài trên tranh phản
ảnh khá chân thực, sinh động và đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị cũng như
nét văn hóa truyền thống của người Việt. Cứ bóc tách từng lớp nang văn hóa hiện
trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy được vốn liếng văn hóa
Việt thuần khiết và trong sáng tới chừng nào.
Tuy nhiên thì hiện nay tranh đông hồ nguy cơ bị mai một và thất truyền Theo
thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện có khoảng hơn 1000 làng nghề, trong đó có
300 làng nghề truyền thống, hàng năm mang lại doanh thu khoảng 600 triệu USD.
Tuy nhiên, nguy cơ biến mất của các làng nghề truyền thống trước sức ép của kinh
tế thị trường đang ngày càng hiện hữu. Làng tranh Đông Hồ cũng không tránh
khỏi sức ép đó. Có một điều đáng buồn là tranh không còn mang tính “thuần Việt”
như thời xưa mà đang dần bị “thương mại hoá”. Một số họa sĩ cho rằng ở thời
điểm hiện tại, tranh Đông Hồ thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên
nhân bởi vì người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy nhằm bớt lượng điệp khiến
giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại
màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Không
những thế, một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh
phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị “què cụt” về mặt ý nghĩa Tranh Đông hồ
1.Lược sử - đặc điểm , đặc trưng về tranh dân gian Đông Hồ
a.Lược sử về tranh dân gian Đông Hồ
- Tranh Đông Hồ là dòng tranh khắc gỗ dân gian của Việt Nam và xuất sinh từ làng
Đông Hồ Bắc Ninh ( xưa có tên là làng Mái , tên chữ cổ là làng Đông Mai , nằm
bên bờ Nam sông Đuống , nay thuộc xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh )
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng , tranh Đông Hồ xuất hiện vào TK XVI nhưng
hiện không có thống kê thời kì đầu có bao nhiêu mẫu tranh
- Dòng tranh dân gian Đông Hồ phát truển cực thịnh vào TK XVIII đầu TK XIX - Phân loại
tranh dân gian Đông Hồ : 5 loại + Tranh chúc tụng + Tranh sinh hoạt + Tranh lịch sử + Tranh truyện + Tranh thờ
Ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì còn có Tranh phương ngôn , Tranh cảnh vật *Tranh chúc tụng
• Các bức tranh tiêu biểu : Đàn gà , Đàn lợn âm dương , Đứa bé ôm con gà vinh
hoa , Đứa bé ôm con vịt Phú quý
• Phản ánh ước mơ của người dân lao động về cuộc sống đầy đủ , ấm no và hạnh phúc *Tranh sinh hoạt
• Tiêu biểu là : Đánh ghen , Chăn trâu thổi sáo , Chăn trâu thả diều , Hứng dừa ,...
• Thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền , cuộc sống lao động của
người nông dân bình dị , chất phác , phong tục tập quán , sinh hoạt của người dân Việt *Tranh lịch sử
• Các bức tranh tiêu biểu : Bà Trưng , Ngô Quyền , Phù Đổng Thiên Vương , Trần
Hưng Đạo , Đinh Tiên Hoàng ,... *Tranh truyện • Thạch Sanh *Tranh thờ
• Các bức tiêu biểu : Bộ Ngũ sự , Tử Vi Trấn Thạch , ....
b.Đặc điểm , đặc trưng nghệ thuật của tranh dân gian Đông Hồ
- Có tính biểu trưng , trang trí
- Thể hiện đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật dân gian : hồn nhiên , giản dị , chân
thật , mộc mạc , gần gũi với đời sống con người
- Sử dụng đường nét tiết giản và những mảng màu dẹt đều là những mảng màu tự
nhiên của cỏ cây , hoa lá , tươi sáng trên nền giấy đó quét điệp óng ánh
- Các con vật gần gũi với làng quê như gà trống , trâu , mèo , chuột , cá chép ,...
*Phương thức làm tranh dân gian Đông Hồ
Khâu sáng tác mẫu – khắc ván và khâu in tranh #Sáng tác mẫu
+ Các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và
phẳng để người thợ khắc , đục ván theo mẫu
+ Các mẫu tranh thường là kết quả chung của 1 làng tranh , của nhiều thế hệ , vì
vậy một mẫu nhưng có nhiều dị bản khác nhau hoặc một mẫu tranh cũng có đến 2 ,
3 cách phân bố màu khác nhau #Khắc ván
+ Ván khắc in tranh có hai loại là ván in nét và ván in màu + Bản nét đen chủ đạo
+ Số lượng các bản gỗ khắc in 1 bức tranh bằng với số lượng màu ở tranh mẫu
( thường có 4 bản gỗ tương ứng với 4 màu chủ đạo ) #In tranh
+ Vật liệu và dụng cụ để in tranh gồm : giấy dó , các loại màu , ván in , co ván , bìa
và thét ( chổi làm bằng lá thông )
+ Giấy in là loại giấy dó truyền thống , có quét điệp
+ Màu sử dụng in tranh được chế từ nguồn gốc tự nhiên : • Màu vàng của hoa hoè • Màu đỏ của hoa hiên
• Màu xanh của gỉ đồng , lá chàm
• Màu đen của than lá tre •...
2. Tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống
- Tranh Đông Hồ còn được coi là tranh Tết bởi nó được sản xuất và bán vào dịp
Tết Âm lịch cho khắp nơi ở chợ quê
- Tranh in thể hiện tính dí dỏm , khung cảnh ấm cúng phù hợp với Tết Nguyên Đán
- Thể hiện được ước mơ ngàn đời của người lao động về cuộc sống gia đình thuận
hòa , ấm no , hạnh phúc , về một xã hội công bằng , tốt đẹp
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp “
( Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm )