Mục lục
I. Mở
đầu...............................................................................................................2
II. Nội Dung.........................................................................................................3
1. Triết học là gì?.................................................................................................3
2. Phương Tây và phương Đông..........................................................................3
3. So sánh các điểm khác biệt cơ bản giữa triết học phương tây cổ đại và triết
học phương đông cổ đại.........................................................................................6
4. Liên hệ thực tế................................................................................................12
III. Kết luận.........................................................................................................13
IV. Tài liệu tham khảo.......................................................................................14
I. Mở đầu
Triết học đã trải qua hàng nghìn năm phát triển đã đạt được những thành tựu
to lớn, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
triết hc phương Đông phương Tây ra đời gần như cùng thời điểm
(khoảng thế kỉ VIII đến VI trước công nguyên) nhưng giữa chúng có những điểm
khác biệt căn bản. Những sự khác biệt này bắt nguồn từ sự khác nhau về điều kiện
tự nhiên, điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội,… từ sự khác nhau về quan niệm sống,
cách sống ca người phương Tây và người phương Đông.
Triết học phương Tây và phương Đông đều giải quyết mặt của vấn đề cơ bản
của Triết học tuy nhiên lại có sự khác nhau trong cách giải quyết cũng như sự tập
trung giải quyết mặt thứ nhất hay mặt thứ hai.
Nghiên cứu sự khác biết giữa triết học phương Tây triết học phương Đông
sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về triết học cũng như năm bắt được
rõ hơn vấn đề cơ bản của triết học.
Chúng ta hãy xem xét rõ hơn về sự khác nhau này.
II. Nội Dung
1. Triết học là gì?
Triết học ra đời cả phương Đông phương Tây gần như cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số
trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở
Trung Quốc, thuật ngữ triết học gốc ngôn ngữ chữ triết; người Trung
Quốc hiểu triết học không phải sự miêu tả sự truy tìm bản chất của
đối tượng, triết học chính trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người.
ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người
đến với lẽ phải.
phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng
Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự
thông thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa
nhấn mạnh đến khát vng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã
hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người,
nó tồn tại với tư cách là một hình thái ư thức xă hội.
Có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lư luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
2. Phương Tây và phương Đông
Phương Đông để chỉ các nước châu á các nên văn minh trên ba lưu vực sông
lớn: sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và
Trung Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây.
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức, ý, áo, Tây Ban
Nha... Ngày nay chúng ta gộp cả M vào. Tuy nhiên triết học phương Tây c
đại thì chủ yếu là triết học Hi Lạp cổ đại và chúng ta chỉ xét triết học Hi Lạp
cổ đại. Hi Lạp cổ đại một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm nhiều thành
bang ở phía nam bán đảo Ban Căn, nhiều đảo trên biển Êgiê và vùng Tiểu á.
Đặc điểm hai loại hình sở hội Đông - Tây tĩnh, ổn định đối nghịch
với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là
triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây
đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, trụ quan, bản thể luận... từ đó xây
dựng nhân sinh quan con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn
xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới
trụ quan, bản thể luận...). Đó là 2 nét chính của hai nền triết học Đông - Tây.
Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở
phương Đông, triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục
đạo đức, chính trị-xã hi.
Vậy nên đặc điểm chủ đạo các nhà Triết học phương Tây thiên về giải thích
thế giới theo nhiều cách còn mục đích chính của phương Đông là cải tạo thế
giới gồm có: ổn định xã hội, giải thoát cho con người làm sao cho con
người hoà đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc
đẩy dphát triển của hạ tầng sở, còn phương Tây hạ tầng sở quyết
định đến thượng tầng kiến trúc.
Về đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây
Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hi, tư
duy gốc tự nhiên. ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để
giải thích trong (con người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.
Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn
xung quanh. Do đó đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu hội,
chính trị, đạo đức, tâm linh do vậy xu hướng hướng nội, lấy trong đ
giải thích ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.
Về phương pháp nhận thức của 2 nền triết học đó
Triết học phương Tây ngả về duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn phương
Đông thì ngả về dùng trực giác.
Cái mạnh của phương Tây cho khoa học, kỹ thuật và về sau công nghệ
phát triển... và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng.
Phương Tây đi gần mãi đến chân qua hàng loạt những trừu tượng, khái
niệm, quy luật... của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến
mức độ bản chất cao hơn... cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly
hoá, làm mất đi tính tổng thể.
Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến
sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ
được cái tổng thể màduy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng
nhược điểm không phổ biến rng được. Trực giác mỗi người mỗi khác.
không phải lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn
nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng.
Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức
cho khách quan còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và
đối tượng nhận thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.)
thì nhận thức sẽ dễ dàng.
Phương tiện nhận thức ca triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng tả ràng, thống nhất hơn thì trong triết học
phương Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn... để không bị lưới
giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của triết học phương
Đông chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác
nhau.
Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, thay đổi
bao nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.
Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến
hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau
phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng
nét khác biệt. Phương Đông nghiêng vthống nhất hay vận động vòng
tròn, tuần hoàn. Phương tây nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển
theo hướng đi lên.
Một nét nữa của triết học Tây - Đông theo thống thì triết học phương
Tây thiện về hướng ngoại, chủ động, duy luận, đấu tranh sống còn, hiếu
chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học,
tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể...
Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại hướng nội, bị động, trực giác
huyền bí, hoà hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể,
tổng hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, duy hữu cơ, chú ý nhiều
tới quan hệ...
3. So sánh các điểm khác biệt cơ bản giữa triết học phương tây cổ đại và triết
học phương đông cổ đại
Thứ nhất đó triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân một nguyên
tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:
Triết học Trung quốc nền triết học truyền thống lịch sử lâu đời nhất,
hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó
những kho tàng tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm
của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, hội quan hệ con người với thế giới
xung quanh, họ coi con người là tiểu trụ trong hệ thống lớn... trời đất với
ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả
những tính chất, những điều huyền của trụ bao la. Từ điều này cho ta
thấy hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh
Tử thì cho rằng trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý
niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều
đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn
nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà
chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình thôi. Như vậy theo ông
chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đềun ổn, không có
gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ tr trong lòng ta, lòng ta
là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng
cái tính của con người thì cũng thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất:
trời chín phương, con người có chín khiếu. ở phương Đông khuynh hướng
duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết quả
của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân
Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm
dương, tuy còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ những
quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này
đã bộ lộ khuynh hướng duy vật tưởng biện chứng tự phát của mình
trong quan điểm về cấu sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng
trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
ở ấn độ tư tưởng triết học ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên k
II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần
thoại, tôn giáo, giải thích trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất
tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại. ở ấn
độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn
giáo trong kinh Vêđa về cái gi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sángtạo và chi
phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên
của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn
lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu kh nào của đời sống trần
tục ràng buộc của thế giới này “tinh thần trụ tối cao” Brahman,
thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả
thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là
tinh thần trụ, đấng sáng tạo duy nhất, đại ngã, đại đinh, vũ trụ xung
quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.
Còn Atman tinh thần con người, tiểu ngã, cái thể hình hoá,
chủ thể và chẳng qua chỉ linh hồn trụ trú trong con người thôi.
Linh hồn con người (Atman) chỉ sự biểu hiện, một bộ phận của “tinh
thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” cái tồn tại trong thể xác con người
đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã”
cái khác với “linh hồn vũ tr”, khác với nguồn sống không có sinh, không có
diệt vong của vũ trụ.
Vậy nên kinh Vêđa nối con người với trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước
hoà điệu của trụ bằng lễ nghi, hành lễ hình thức bên ngoài. Còn kinh
Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất nhân với
trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi trụ, coi con
người chủ thể, chúa tể đnghiên cứu chinh phục trụ thế giới khách
quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn đến hướng
nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng ni; hay như nghiên cứu thế giới cũng
là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong triết học phương Đông
bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên
cứu vào thế giới tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được
nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét
về bản thể luận ca vũ trụ.
Cái khác biệt nữa ngay trong vấn đcon người phương Đông cũng quan
niệm khác phương Tây:
Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với
người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ
nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị
cho nên nghiên cưú con người không phải để giải phóng con người mà là
để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động
sản xuất.
ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự
nhiên mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận
thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế hội, cái gốc để giải phóng
con người.
Thứ hai, phương Đông những tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng
thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy
cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những
triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta
đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan
xen với chính trị luận, còn triết học ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ
thuật. Nói chung phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các
khoa học.
phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã một khoa học học độc lập
với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết
học. Và thời kỳ Trung cổ điển hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo
tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy những bước nhảy vọt về
chất tính vạch ra các thời điểm, chỉ sự phát triển cục bộ, kế tiếp
xen kẽ. ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái từ thời cổ đại vẫn
giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (tthế kỷ VIII V trước công nguyên
đến thế kỷ 19).
Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cc bộ, thêm bớt hay đi sâu
vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân
lễ chính danh, nhưng có cải biên vmột phương diện nào đó như Lễ thời
tiền Tần cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ
thường, đời Tống biến thành chữ Lý...
Các nhà triết học các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển hơn
là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thức triết học mới.
Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban
đầu, không phủ định nhau hoàn toàn dẫn đến cuộc đấu tranh trong các
trường phái không gay gắt và cũng không triệt đêt. Có tình trạng đó chính là
do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong
xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ,
bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất
vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit... đến
Đêmôcrit rồi thời đại khai ng Pháp, CNDVAnh, Hà lan, triết học cổ điển
Đức... hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất
quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng,
siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những
nội dung cụ thể thường mặt duy tâm mặt duy vật, kỳ duy vật,
hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán,
thiếu triệt để của triết học phân kỳ lịch sử trong các hội phương Đông
cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái nét hơn
các hình thức tồn tại lịch sử rất ràng như duy vật chất phác thô sơ đến
duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với
triết học phương Tây ở 3 mảng:
- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”,
“vật chất”. Còn phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc,
hình, vạn pháp,... hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để i v
bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và
trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể chủ thể; con người với
tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương Đông lại dùng
Tâm vật, năng sở, khí, hình thần. Trong đó hình thần những
phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ng
“biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu
tranh cái động chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh,
biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất,
lấy cái tĩnh làm gốc phương Đông triết học được xây dựng trên quan
điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương
Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới
quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy
luật, tính soắn ốc của trụ như thái cực đến lưỡng nghi... nhịp điệu
là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các soắn ốc...
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông phương Tây đều nhằm
giải quyết vấn đề bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về
giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề liên
quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dn
đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định tư duy vật
chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương
Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những cấu cách
ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được, nó
gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang
– dự báo.
4. Liên hệ thực tế thời đại chúng ta, hthống tưởng phương Đông đã trải
qua hàng ngàn năm lịch sử vẫn không mất đi ánh hào quang rực rỡ, vẫn được
tiếp tục nghiên cứu ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
tưởng Hồ Chí Minh đã thừa hưởng những giá trị của triết học phương
Đông phương y; đặc biệt của triết học Mác - Lênin phát triển thành
một triết học mang sắc thái Việt Nam. Các sách của Khổng Tử Mạnh Tử
những luận điểm tương đồng với tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách
người làm quan người cán bộ cách mạng và về lấy dân làm gốc, v.v…
Khổng Tử cho rằng bốn điều kiện bản tạo thành nhân cách của người
làm quan: “Một, trước hết phải trí tuệ. Hai, trí tuệ nhưng đức nhân
không đủ duy trì trí tuệ, thì tuy làm được quan, nhưng rồi cũng đánh mất trí
tuệ mất chức. Ba, trí tuệ, nhân đức đủ duy trì trí tuệ, nhưng không
thành tâm trân trọng con người, thì dân chúng cũng chẳng ai kính trọng nào.
Bốn, có đủ trí tuệ, có đức nhân đủ duy trì trí tuệ, lại thành tâm trân trọng con
người, nhưng hành động không theo phép nước thì cũng chưa phải người
xứng đáng làm quan”.
Nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên thời đại ngày nay đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói đến nhiều trong các trước tác của Người và nói một cách
sâu sắc cụ thể. Người không khuyên dạy cán bộ, đảng viên phải tu thân
theo lối các nho thời xưa đtề gia, trị quốc, bình thiên hạ theo Nho giáo,
mà rèn luyện nhân cách, đạo đức cách mạng để trở thành người có năng lực,
phẩm chất làm tròn nhiệm vụ được giao, trở thành người đầy tớ hết lòng phục
vụ nhân dân, phục vụ đất nước, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
III. Kết luận
Chúng ta đã nghiên cứu, cùng so sánh triết hc phương Tây cổ đại và triết
học phương Đông cổ đại. qua đó có thể thấy được những sự khác nhau giữa
hai hệ thống triết học. Điều này giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn, bản
chất hơn đối với mỗi hệ thống triết học.
Hiểu rõ triết học phương Đông cổ đại cũng như triết học phương Tây cổ đại,
chúng ta sẽ vận dụng linh hoạt hơn vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Kết hợp một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin và hệ
thống triết học phương Đông cổ đại, triết học phương Tây cổ đại để thúc
đẩy quá trình phát triển, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh ,
xã hội công bằng, văn minh, hạnh phúc.
IV. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết hc Mác – Lê nin – Bộ giáo dục và đào tạo
2. Lịch sử triết học – PGS, TS Nguyễn Hùng Hậu
3. Một số tài liệu khác.

Preview text:

Mục lục I. Mở
đầu...............................................................................................................2

II. Nội Dung.........................................................................................................3
1. Triết học là gì?.................................................................................................3
2. Phương Tây và phương Đông..........................................................................3
3. So sánh các điểm khác biệt cơ bản giữa triết học phương tây cổ đại và triết
học phương đông cổ đại.........................................................................................6
4. Liên hệ thực tế................................................................................................12
III. Kết luận.........................................................................................................13
IV. Tài liệu tham khảo.......................................................................................14 I. Mở đầu
Triết học đã trải qua hàng nghìn năm phát triển đã đạt được những thành tựu
to lớn, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Dù triết học phương Đông và phương Tây ra đời gần như cùng thời điểm
(khoảng thế kỉ VIII đến VI trước công nguyên) nhưng giữa chúng có những điểm
khác biệt căn bản. Những sự khác biệt này bắt nguồn từ sự khác nhau về điều kiện
tự nhiên, điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội,… từ sự khác nhau về quan niệm sống,
cách sống của người phương Tây và người phương Đông.
Triết học phương Tây và phương Đông đều giải quyết mặt của vấn đề cơ bản
của Triết học tuy nhiên lại có sự khác nhau trong cách giải quyết cũng như sự tập
trung giải quyết mặt thứ nhất hay mặt thứ hai.
Nghiên cứu sự khác biết giữa triết học phương Tây và triết học phương Đông
sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về triết học cũng như năm bắt được
rõ hơn vấn đề cơ bản của triết học.
Chúng ta hãy xem xét rõ hơn về sự khác nhau này. II. Nội Dung
1. Triết học là gì?
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số
trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở
Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết; người Trung
Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của
đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. ở
ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng
Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự
thông thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã
là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người,
nó tồn tại với tư cách là một hình thái ư thức xă hội.
Có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lư luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
2. Phương Tây và phương Đông
Phương Đông để chỉ các nước châu á các nên văn minh trên ba lưu vực sông
lớn: sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và
Trung Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây.
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức, ý, áo, Tây Ban
Nha... Ngày nay chúng ta gộp cả Mỹ vào. Tuy nhiên triết học phương Tây cổ
đại thì chủ yếu là triết học Hi Lạp cổ đại và chúng ta chỉ xét triết học Hi Lạp
cổ đại. Hi Lạp cổ đại là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm nhiều thành
bang ở phía nam bán đảo Ban Căn, nhiều đảo trên biển Êgiê và vùng Tiểu á.
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông - Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch
với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là
triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây
đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận... từ đó xây
dựng nhân sinh quan con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn
xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ
trụ quan, bản thể luận...). Đó là 2 nét chính của hai nền triết học Đông - Tây.
Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở
phương Đông, triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục
đạo đức, chính trị-xã hội.
Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về giải thích
thế giới theo nhiều cách còn mục đích chính của phương Đông là cải tạo thế
giới gồm có: ổn định xã hội, giải thoát cho con người và làm sao cho con
người hoà đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc
đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết
định đến thượng tầng kiến trúc.
Về đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây
Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư
duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để
giải thích trong (con người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.
Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn
xung quanh. Do đó đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội,
chính trị, đạo đức, tâm linh và do vậy xu hướng là hướng nội, lấy trong để
giải thích ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.
Về phương pháp nhận thức của 2 nền triết học đó
Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn phương
Đông thì ngả về dùng trực giác.
Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ
phát triển... và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng.
Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái
niệm, quy luật... của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến
mức độ bản chất cao hơn... cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly
hoá, làm mất đi tính tổng thể.
Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến
sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ
được cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng
nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi người mỗi khác. Và
không phải lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn
nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng.
Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức
cho khách quan còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và
đối tượng nhận thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.)
thì nhận thức sẽ dễ dàng.
Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học
phương Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn... để không bị lưới
giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của triết học phương
Đông chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.
Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi
bao nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.
Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến
hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau
phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng
có nét khác biệt. Phương Đông nghiêng về thống nhất hay vận động vòng
tròn, tuần hoàn. Phương tây nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo hướng đi lên.
Một nét nữa của triết học Tây - Đông là theo thống kê thì triết học phương
Tây thiện về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu
chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học,
tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể...
Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác
huyền bí, hoà hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể,
tổng hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ...
3. So sánh các điểm khác biệt cơ bản giữa triết học phương tây cổ đại và triết
học phương đông cổ đại
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên
tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:
Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất,
hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó là
những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm
của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ con người với thế giới
xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn... trời đất với
ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả
những tính chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta
thấy hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh
Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý
niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có
đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn
nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà
chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông
chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không có
gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta
là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng
cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất:
trời có chín phương, con người có chín khiếu. ở phương Đông khuynh hướng
duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết quả
của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân
Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm
dương, tuy nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những
quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này
đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình
trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng
trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
ở ấn độ tư tưởng triết học ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ
II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần
thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất
tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại. ở ấn
độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn
giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sángtạo và chi
phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên
của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn
lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống trần
tục và ràng buộc của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là
thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả
thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là
tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung
quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.
Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hoá, là
chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con người mà thôi.
Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của “tinh
thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con người ở
đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là
cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.
Vậy nên kinh Vêđa nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước
hoà điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên ngoài. Còn kinh
Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá nhân với vũ
trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con
người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách
quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn đến hướng
nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng
là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong triết học phương Đông
bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên
cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được
nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét
về bản thể luận của vũ trụ.
Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng quan niệm khác phương Tây:
ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với
người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ
nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị
cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải phóng con người mà là
để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự
nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận
thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng
thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy
cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những
triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta
đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan
xen với chính trị lý luận, còn triết học ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ
thuật. Nói chung ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học độc lập
với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết
học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo
tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về
chất có tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp
xen kẽ. ở ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn
giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến thế kỷ 19).
Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu
vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân –
lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời
tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ
thường, đời Tống biến thành chữ Lý...
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn
là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thức triết học mới.
Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban
đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các
trường phái không gay gắt và cũng không triệt đêt. Có tình trạng đó chính là
do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong
xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ,
bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất
vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit... đến
Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển
Đức... Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất
quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng,
siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những
nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật,
hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán,
thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông
cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơn
và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến
duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với
triết học phương Tây ở 3 mảng:
- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”,
“vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc,
hình, vạn pháp,... hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để nói về
bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và
vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người với
tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương Đông lại dùng
Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó hình thần là những
phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ
“biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu
tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh,
biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất,
lấy cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông triết học được xây dựng trên quan
điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương
Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới
quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy
luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi... Có nhịp điệu
là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các soắn ốc...
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về
giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có liên
quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn
đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy vật
lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương
Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những cấu cách
ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được, nó
gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.
4. Liên hệ thực tế ở thời đại chúng ta, hệ thống tư tưởng phương Đông dù đã trải
qua hàng ngàn năm lịch sử vẫn không mất đi ánh hào quang rực rỡ, vẫn được
tiếp tục nghiên cứu ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thừa hưởng những giá trị của triết học phương
Đông và phương Tây; đặc biệt là của triết học Mác - Lênin và phát triển thành
một triết học mang sắc thái Việt Nam. Các sách của Khổng Tử và Mạnh Tử
có những luận điểm tương đồng với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách
người làm quan và người cán bộ cách mạng và về lấy dân làm gốc, v.v…
Khổng Tử cho rằng có bốn điều kiện cơ bản tạo thành nhân cách của người
làm quan: “Một, trước hết phải có trí tuệ. Hai, có trí tuệ nhưng đức nhân
không đủ duy trì trí tuệ, thì tuy làm được quan, nhưng rồi cũng đánh mất trí
tuệ và mất chức. Ba, có trí tuệ, có nhân đức đủ duy trì trí tuệ, nhưng không
thành tâm trân trọng con người, thì dân chúng cũng chẳng ai kính trọng nào.
Bốn, có đủ trí tuệ, có đức nhân đủ duy trì trí tuệ, lại thành tâm trân trọng con
người, nhưng hành động không theo phép nước thì cũng chưa phải người xứng đáng làm quan”.
Nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên thời đại ngày nay đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói đến nhiều trong các trước tác của Người và nói một cách
sâu sắc và cụ thể. Người không khuyên dạy cán bộ, đảng viên phải tu thân
theo lối các nho sĩ thời xưa để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ theo Nho giáo,
mà rèn luyện nhân cách, đạo đức cách mạng để trở thành người có năng lực,
phẩm chất làm tròn nhiệm vụ được giao, trở thành người đầy tớ hết lòng phục
vụ nhân dân, phục vụ đất nước, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa. III. Kết luận
Chúng ta đã nghiên cứu, cùng so sánh triết học phương Tây cổ đại và triết
học phương Đông cổ đại. qua đó có thể thấy được những sự khác nhau giữa
hai hệ thống triết học. Điều này giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn, bản
chất hơn đối với mỗi hệ thống triết học.
Hiểu rõ triết học phương Đông cổ đại cũng như triết học phương Tây cổ đại,
chúng ta sẽ vận dụng linh hoạt hơn vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Kết hợp một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin và hệ
thống triết học phương Đông cổ đại, triết học phương Tây cổ đại để thúc
đẩy quá trình phát triển, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh ,
xã hội công bằng, văn minh, hạnh phúc.
IV. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác – Lê nin – Bộ giáo dục và đào tạo
2. Lịch sử triết học – PGS, TS Nguyễn Hùng Hậu
3. Một số tài liệu khác.