









Preview text:
lOMoAR cPSD| 48641284
Tự do hóa thương mại: Lý luận, kinh nghiệm và giải pháp cho Việt Nam
TCCS - Khai thác mặt tích cực, đi đôi với hạn chế, khắc phục mặt tiêu
cực của tự do hóa thương mại nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, hội nhập với
thế giới bên ngoài, nhưng vẫn giữ được bản sắc của mình là rất cần thiết. Đó
là mục tiêu và là nội dung của chính sách và cơ chế quản lý ngoại thương của
một nước trong từng giai đoạn phát triển.
Tự do hóa thương mại là một tất yếu khách quan, từng bước xóa bỏ hàng
rào thuế quan và phi thuế quan cản trở giao lưu hàng hóa và dịch vụ
Tiến trình phát triển của tự do hóa thương mại
Chính sách tự do hóa thương mại có nguồn gốc từ nước Anh, tự do thương
mại được hệ thống thông luật (common law) thừa nhận khá lâu trước khi chính
sách này được áp dụng ở các quốc gia khác. Trên thực tế và về mặt pháp luật, ở
các nước có nền kinh tế thị trường, tự do thương mại là một chính sách đồng thời
cũng là quyền của công dân.
Trong những thập niên gần đây, thuật ngữ này đã trở thành phổ biến trên
thế giới và tự do hóa thương mại là một chính sách được nhiều nước chấp nhận,
với mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện từng nước. Trong thời kỳ chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh, các nước tư bản thực hiện chính sách tự do hóa thương
mại (thực chất là tự do hóa ngoại thương) , đồng thời cũng thực hiện bảo hộ mậu
dịch, với mức độ khác nhau, nhằm một mục tiêu chung là bảo đảm và phục vụ lợi ích của quốc gia đó.
Vào cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ XX với sự xuất hiện của các tổ chức
tư bản lũng đoạn quốc tế và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tổ chức này,
các nước tư bản lại chuyển từ chính sách tự do hóa thương mại sang chính sách
bảo hộ mậu dịch mang tính chất áp đặt (điều mà V.I. Lê-nin gọi là chính sách mậu
dịch “siêu bảo hộ”). Đặc trưng của chính sách “siêu bảo hộ” là sự can thiệp mạnh
mẽ của nhà nước vào hoạt động ngoại thương, vào thương mại quốc tế thông qua lOMoAR cPSD| 48641284
một hệ thống biện pháp hạn chế nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu, tạo điều kiện cho
các tổ chức kinh tế quốc gia mở rộng thương mại ra nước ngoài. Chính sách bảo
hộ mậu dịch từ chỗ có tính bảo vệ đã chuyển sang chính sách bảo hộ mậu dịch có tính cực đoan.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với sự hình thành của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, sự tan rã của hệ thống thuộc địa, với xu hướng mở rộng chuyên
môn hóa và hợp tác quốc tế, các nước tư bản phát triển lại chuyển từ chính sách
mậu dịch “siêu bảo hộ ” sang chính sách tự do hóa thương mại (chủ yếu giữa các
nước trong các khối liên kết kinh tế khu vực và liên khu vực), có sự kết hợp với
chính sách bảo hộ mậu dịch “có điều kiện” (còn gọi là “bảo hộ mậu dịch ôn hòa”).
Trên thế giới đã hình thành nhiều khối liên kết khu vực và liên khu vực ở
các châu lục, trong đó tiêu biểu là: 1- Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) hay khối
thị trường chung, thành lập năm 1957 - một liên minh kinh tế hùng mạnh với 12
thành viên sáng lập, chiếm 20,9% tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của thế giới; 2-
Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), thành lập năm 1959, gồm 6 nước công
nghiệp phát triển Bắc và Trung Âu; 3- Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), ban đầu gồm 5 thành viên và nay mở rộng gồm 10 thành viên. Tháng
11-2001, các nhà lãnh đạo của ASEAN và Trung Quốc đã thành lập khu vực mậu
dịch tự do (gọi tắt là ACFTA). Ngày 31-12-2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (
ASEAN Economic Community - AEC) được thành lập; 4- Khu vực mậu dịch tự
do Bắc Mỹ (NAFTA), thành lập năm 1992, bao gồm Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô.
Gần đây, sau 14 tháng đàm phán, Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô đã đạt đồng thuận
về một hiệp định tự do mậu dịch Bắc Mỹ mới - Hiệp định Mỹ - Mêhi-cô - Ca-na-
đa (USMCA) thay thế cho NAFTA vào cuối năm 2018; 5- Hiệp định thương mại
tự do lục địa châu Phi (AfCFTA) là một khu vực thương mại tự do bao gồm 54
trong số 55 quốc gia thuộc Liên minh châu Phi. Đây là khu vực thương mại tự do
lớn nhất trên thế giới về số lượng các quốc gia tham gia, nhằm mục đích gắn kết
1,3 tỷ người, tạo ra một khối kinh tế 3 ,4 nghìn tỷ USD. lOMoAR cPSD| 48641284
Trên bình diện toàn cầu, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (
GATT) có hiệu lực ngày 1-1-1948, với sự cam kết của các nước thành viên không
trở lại chính sách mậu dịch “siêu bảo hộ” của những thập niên đầu thế kỷ XX, là
sự phản ánh xu hướng tự do hóa thương mại, đồng thời vẫn chấp nhận chính sách
bảo hộ mậu dịch có tính tự vệ bằng các biện pháp thuế quan. Năm 1995 , GATT
được thay thế bằng Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) theo các điều lệ mới. Tổ
chức Thương mại thế giới không phải là sự mở rộng của GATT mà hoàn toàn thay
thế GATT và có những khác biệt quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình tự
do hóa thương mại giữa các nước thành viên tự nguyện tham gia WTO.
Tự do hóa thương mại, một mặt, với nội dung giảm thiểu, từng bước xóa bỏ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan cản trở giao lưu hàng hóa và dịch vụ, phù
hợp với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế,
trên cơ sở lý thuyết “lợi thế so sánh” và quan điểm kinh tế mở. Dưới góc độ đó,
đối với các quốc gia, tự do hóa thương mại là một tất yếu khách quan, một mục
tiêu cần đạt. Mặt khác, tự do hóa thương mại mà hệ quả là “mở cửa” thị trường
nội địa cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài xâm nhập, thường có lợi cho các nước
phát triển, có tiềm lực về kinh tế, khoa học và công nghệ, hàng hóa và dịch vụ có
sức cạnh tranh cao và về cơ bản không có lợi cho các nước đang phát triển, nhất
là những quốc gia mà hàng hóa và dịch vụ chưa đủ sức cạnh tranh với hàng hóa
và dịch vụ của nước ngoài, ngay ở thị trường trong nước.
Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO) Pascal Lamy trao
các văn kiện về việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150
của WTO cho Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển tại trụ sở
WTO ở Geneva (Thụy Sĩ), ngày 7-11-2006_Ảnh: TTXVN
Tự do hóa thương mại là một quá trình, theo đó, bất kỳ quốc gia nào, dù lớn
hay nhỏ, dù phát triển hay đang phát triển, đều phải xuất phát từ lợi ích của bản
thân và phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để xử lý vấn đề, trên cơ sở kết lOMoAR cPSD| 48641284
hợp 2 mặt đối lập: Tự do và bảo hộ trong chính sách thương mại với mức độ khác
nhau, tùy thuộc vào điều kiện từng nước, từng giai đoạn phát triển.
Khi một biện pháp phi thuế quan gây cản trở thương mại không biện minh
được theo tinh thần và các nguyên tắc của WTO, biện pháp này bị coi là một hàng
rào phi thuế quan (Non Tariff Barrier - NTB). Tuy thuật ngữ “hàng rào phi thuế
quan” được sử dụng rộng rãi nhưng là một thuật ngữ khá mơ hồ và không phải là
thuật ngữ chính thống được WTO sử dụng. Các văn bản pháp lý của WTO chỉ sử
dụng thuật ngữ “biện pháp phi thuế quan” mà không bao giờ nhắc đến hàng rào
phi thuế quan. Trong thực tế, nhiều khi rất khó phân biệt một biện pháp phi thuế
quan có phải là một rào cản phi thuế quan hay không. Ngoài ra, một biện pháp phi
thuế quan có thể là hợp pháp trong một giai đoạn nhất định nhưng có thể bị coi là
một rào cản phi thuế quan vào một giai đoạn khác.
Mặc dù về lý thuyết, WTO chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp
pháp duy nhất nhưng thực tế đã chứng minh, các nước không ngừng sử dụng các
biện pháp phi thuế quan mới. Mức độ cần thiết và lý do sâu xa dẫn đến việc bảo
hộ sản xuất nội địa của từng nước khác nhau, đối tượng cần bảo hộ cũng khác
nhau khiến cho các hàng rào phi thuế quan ngày càng trở nên đa dạng hơn. Có thể
sử dụng nhiều biện pháp phi thuế quan để phục vụ một mục tiêu hoặc có thể sử
dụng một biện pháp phi thuế quan để đồng thời phục vụ nhiều mục tiêu khác nhau.
Xu hướng chung trong việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản
xuất trong nước là chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lượng
trực tiếp: Cấm nhập khẩu, quy định các hạn ngạch (quota) nhập khẩu sang các
biện pháp tinh vi hơn, như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn kỹ
thuật. Ngoài ra, xu hướng sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gắn với yêu
cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và lao động đang nổi lên và được nhiều
nước phát triển hậu thuẫn mạnh mẽ. Đáng chú ý là các biện pháp phi thuế quan
thường được các nước công nghiệp sử dụng đối với hàng xuất khẩu từ các nước
đang phát triển nhiều hơn đối với hàng xuất khẩu từ các nước công nghiệp, đặc lOMoAR cPSD| 48641284
biệt là đối với những sản phẩm công nghiệp (hàng dệt và may mặc, giày dép, thủy
sản...) đều là đối tượng của các biện pháp phi thuế quan.
Nghiên cứu cách thức các quốc gia tiến hành tự do hóa thương mại, xét về
những yếu tố chung, có thể tóm tắt như sau:
Giảm những hạn chế về hạn ngạch
Việc giảm hạn ngạch là một trong những nội dung quan trọng của cải cách
thương mại theo hướng tự do hóa. Thay chế độ cấp hạn ngạch bằng chế độ thuế
là việc làm phổ biến của các nước tiến hành cải cách theo hướng tự do hóa thương
mại. Tuy nhiên trong một số trường hợp, chế độ hạn ngạch có ý nghĩa là biện pháp
phân bổ nguồn dự trữ ngoại tệ khan hiếm. Với các nhu cầu quan trọng ( cả ở chiều
xuất khẩu lẫn ở chiều nhập khẩu), nhà nước có thể khống chế việc cân đối cung -
cầu, nhất là đối với những nước quan hệ cung - cầu còn căng thẳng. Xu hướng
chung là giảm mạnh, chỉ giữ một số lượng khống chế bằng hạn ngạch tối thiểu,
hoặc xóa hạn ngạch hoàn toàn.
Tiến đến một tỷ giá hối đoái thực tế
Sự thay đổi giá cả tương ứng với sự thay đổi giá đồng bản tệ sẽ thúc đẩy
việc sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu phát triển. Giai đoạn tiếp theo là cố
gắng ổn định tỷ giá hối đoái thực tế, tránh sự lên - xuống đột biến của nó. Ngoài
những biện pháp nghiệp vụ kỹ thuật của ngân hàng, còn phải thực hiện đồng bộ
các chính sách tài chính và các biện pháp chống lạm phát hữu hiệu.
Các chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn
Thứ nhất, thực hiện chiến lược mở cửa và hội nhập, hợp tác và phối hợp
chính sách quốc tế. Xác định mở cửa kinh tế là động lực quan trọng để đẩy mạnh
xuất khẩu trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tự do hóa thương mại và đầu tư đóng vai
trò quan trọng trong các chương trình cải cách, là một trong những cách thức,
công cụ và biện pháp chủ yếu để phát triển, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu
hàng hóa của quốc gia. Thứ hai, nỗ lực gia tăng việc thực hiện cải cách thể chế
ngoại thương. Thứ ba, áp dụng nhiều công cụ, biện pháp khuyến khích, hỗ trợ lOMoAR cPSD| 48641284
xuất khẩu, như miễn, giảm thuế xuất khẩu, hoàn thuế giá trị gia tăng hàng xuất
khẩu, miễn thuế đầu vào nhập khẩu cho chế biến xuất khẩu, tài trợ và xúc tiến
xuất khẩu. Tuy nhiên, không nên khuyến khích xuất khẩu bằng mọi giá mà cần
chú trọng xây dựng và thực thi các biện pháp, chính sách hạn chế, cấm xuất khẩu
phù hợp với cam kết quốc tế để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững về xã hội và môi trường.
Xây dựng lộ trình cải cách hợp lý
Những chương trình cải cách thường thất bại nếu bắt tay ngay vào xử lý
việc tự do hóa thị trường vốn, trước khi tiến hành tự do hóa thương mại. Vì vậy,
chú trọng xây dựng năng lực thể chế và chuyên môn song song với việc đào tạo
cán bộ có trình độ về kinh tế thị trường, pháp luật kinh doanh quốc tế,... với cải
cách thủ tục hành chính, đặc biệt là việc xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường là những tiền đề quan trọng; chấn chỉnh và sửa đổi các định chế tài chính
của nhà nước, cơ chế điều hành, quản lý các ngân hàng thương mại cũng như xử
lý mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp; thúc đẩy quốc tế hóa các doanh
nghiệp trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, thâm
nhập sâu rộng vào thị trường thế giới và triển khai một chiến lược phát triển thị
trường xuất khẩu toàn diện, hiệu quả, lâu dài trên quy mô toàn cầu; tăng cường
năng lực xây dựng và thực thi các biện pháp kỹ thuật đối với thương mại (TBT),
các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động, thực vật (SPS),... để bảo hộ sản xuất và
bảo vệ thị trường trong nước; đàm phán, yêu cầu mở rộng hơn các điều kiện tiếp
cận thị trường và kết hợp xuất, nhập khẩu với các đối tác thương mại chủ yếu
nhằm cân bằng cán cân thương mại; phân tích, đánh giá sâu sắc tác động của các
hiệp định thương mại tự do (FTA) đối với phát triển kinh tế, thương mại của quốc
gia trước khi quyết định có nên tham gia FTA hay không.
Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội VI (năm 1986)
, tự do hóa thương mại được xem là một hướng đổi mới quan trọng trong chính lOMoAR cPSD| 48641284
sách và cơ chế quản lý thương mại và kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thực tiễn cho
thấy: Tự do hóa thương mại là vấn đề chưa có tiền lệ, không những trong thương
mại với nước ngoài mà cả với thương mại nội địa, đặt ra nhiều vấn đề mới, phức
tạp. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tự do hóa thương mại
là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược, cần được thúc đẩy mạnh mẽ, song
phải có bước đi phù hợp với đặc điểm, điều kiện nước ta và yêu cầu hội nhập với
bên ngoài, bảo đảm lợi ích quốc gia.
Hiện nay, bức tranh tăng trưởng của Việt Nam vẫn tiềm ẩn rủi ro. Việt Nam
mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh - chuyên môn hóa và gia tăng xuất khẩu
các mặt hàng có lợi thế so sánh hiện có, mà chưa tận dụng được các lợi ích động
mang tính dài hạn, đặc biệt là việc tạo động lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy
tối đa nội lực nhằm tiến tới các vị trí có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Trong khi đó, thương mại đa phương với những nguyên tắc cơ bản đã được
định hình cùng với quan điểm chính sách tự do, mở cửa đang phải đối mặt với
thách thức nảy sinh từ quan điểm dân tộc và chủ nghĩa bảo hộ của một số quốc
gia. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, một quốc gia có quy mô
thương mại (xuất, nhập khẩu) lớn gần gấp 2 lần tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Trong việc xác định bước đi của quá trình tự do hóa thương mại, cần phải
tính toán, cân nhắc nhiều yếu tố (có mặt mâu thuẫn nhau), như bảo hộ hợp lý sản
xuất trong nước; bảo đảm cán cân ngoại thương hợp lý; bảo đảm xuất, nhập khẩu
cân bằng trong một thời gian xác định; yêu cầu hội nhập với khu vực và thế giới;...
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, quá trình tự do hóa được thực hiện từng
bước với việc giảm chỉ tiêu pháp lệnh từ bên trên, mở rộng quyền tự chủ cho địa
phương và cơ sở trong xuất, nhập khẩu; trong định giá và gần đây là hạn chế đến
mức tối thiểu danh mục mặt hàng khống chế hạn ngạch.
Trong mô hình kinh tế thị trường, vai trò của thương mại sẽ phát huy tác
dụng mạnh mẽ khi hoạt động thương mại được tự do đối với mọi thành phần kinh lOMoAR cPSD| 48641284
tế; nhưng đó không phải là thứ tự do buôn bán bất chấp luật pháp, không chịu sự
quản lý của Nhà nước làm cho thị trường trở nên rối loạn. Vì vậy, việc tổ chức
sắp xếp, xác định vị trí các thành phần kinh tế tham gia lưu thông hàng hóa cho
phù hợp với quá trình xã hội hóa sản xuất, kinh doanh, thực hiện kiểm soát của
Nhà nước đối với các hoạt động thương mại, đổi mới cơ chế, chính sách quản lý
cho phù hợp với mô hình thương mại nhiều thành phần là vấn đề mang tính lý
luận và thực tiễn cấp bách, sâu sắc.
Kiểm soát và hạn chế nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, nếu thực
thi một cách quyết liệt sẽ tác động rất lớn đến quá trình mở cửa và hội nhập kinh
tế quốc tế. Việc hoàn thiện và đổi mới chính sách nhập khẩu để khuyến khích
nhập khẩu cạnh tranh nhằm đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ,
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và hàng sản xuất thay thế nhập
khẩu có thể xem là hướng đi - định hướng hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay.
Theo đó cần tiếp tục: 1- Mở rộng và đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, hạn chế
sự phụ thuộc quá mức vào một số thị trường. Hết sức chú trọng các thị trường
Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản - những thị trường có công nghệ cao,
công nghệ nguồn; 2- Có chính sách cởi mở để khuyến khích, thu hút đầu tư phát
triển các ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm từng bước giảm thấp việc nhập khẩu; 3-
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật. Mở rộng hợp tác khu vực
để hài hòa hóa tiêu chuẩn. Tăng cường kiểm tra tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng
nhập khẩu nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ việc nhập khẩu công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu.
Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý rất cần được bổ sung
và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng cần được sửa đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy
định của Hiến pháp và các luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. lOMoAR cPSD| 48641284
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, cần bắt đầu từ việc
tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi mà ở đó, doanh nghiệp có thể hoạt động
theo các quy luật của thị trường. Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh vẫn
chưa thực sự thông thoáng và do đó, tự do hóa với bên ngoài chưa thực sự đi kèm
với tự do hóa các nguồn lực bên trong.
Có thể nói, chưa bao giờ nền kinh tế thế giới chứng kiến những biến động
nhanh, phức tạp và khó đoán định như hiện nay. Mặc dù các thị trường xuất khẩu
được mở rộng thông qua các FTA nhưng chúng ta cũng gặp phải những khó khăn
rất lớn trước sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ, các hàng rào kỹ thuật và các biện
pháp phòng vệ thương mại của nhiều thị trường nhập khẩu lớn. Cuộc chiến thương
mại Mỹ - Trung Quốc và diễn biến kinh tế - chính trị phức tạp ở nhiều quốc gia
và khu vực trên thế giới đã tạo ra nhiều thách thức lớn cho hoạt động xuất, nhập
khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Tính đến tháng 2-2020, Việt Nam đã tham gia 12 FTA, 1 FTA đã ký nhưng
chưa có hiệu lực (EVFTA), 3 FTA đang đàm phán (Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện khu vực (RCEP); Việt Nam - EFTA FTA; Việt Nam - I-xra-en FTA). Các
FTA này đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn
và có quan hệ thương mại với trên 230 thị trường, trong đó có FTA với 60 nền
kinh tế, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở
rộng tiếp cận thị trường toàn cầu, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu
hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Các “xa lộ FTA” đã được
mở ra, vấn đề còn lại là chúng ta sẽ chạy trên đó bằng phương tiện gì, theo cách nào.
Thực thi các cam kết kinh tế quốc tế, nhất là các FTA thế hệ mới, như
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp
định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), cùng với
những nỗ lực từ phía Chính phủ, thúc đẩy tăng trưởng được thực hiện triệt để và lOMoAR cPSD| 48641284
quyết liệt là những điều kiện tiền đề thuận lợi cho việc đẩy nhanh quá trình tự do
hóa thương mại trong giai đoạn 2020 - 2025 và những năm tiếp theo.
Như vậy, thực hiện đồng bộ và khai thác hiệu quả các FTA đã có hiệu lực,
đồng thời tích cực chuẩn bị cho việc thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới cần
được xem là một vấn đề quan trọng. Theo đó, cần tập trung:
Một là, chú trọng nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, trong đó tập trung
phổ biến thông tin, nâng cao nhận thức về hội nhập quốc tế trong hệ thống chính
trị, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội. Triển khai
hiệu quả Kế hoạch hành động thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có
hiệu lực, các cam kết với WTO và ASEAN. Tích cực chuẩn bị cho việc nghiên
cứu, thực thi hiệu quả các kịch bản tham gia các FTA mới.
Hai là, đẩy nhanh việc ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành các
luật, pháp lệnh, nghị quyết có hiệu lực. Chú trọng sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với cam kết quốc tế.
Ba là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ việc giải quyết thủ tục hành chính cho cá
nhân, tổ chức. Công khai, minh bạch hoạt động quản lý, tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước. Thúc đẩy sự phát
triển mạnh thương mại điện tử và sự gắn kết giữa thương mại điện tử với các loại
hình hoạt động thương mại truyền thống. Tăng cường quản lý, kiểm tra thị trường,
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại,... xử lý nghiêm vi phạm./.