Tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ | Bài tập lớn lịch sử tư tưởng chính trị

Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trường Tộ. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XIX. Tư tưởng canh tân của những người đi trước Nguyễn Trường Tộ. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ. Giá trị tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ trong thời đại ngày nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
--------------------------
BÀI TẬP LỚN MÔN
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
ĐỀ BÀI
Tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lưu Văn Thắng
Lớp tín chỉ: CT03062_K42_3
Người thực hiện: Nhóm sinh viên K42
Hà Nội, năm 2024
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
1. Đinh Thị Phương Anh - 2255300002
2. Nguyễn Thị Minh Ánh - 2255300010
3. Nguyễn Thị Ngọc Ánh - 2255300011
4. Nguyễn Hải Châu - 2255300012
5. Nguyễn Thị Ngọc Diệp - 2255300015
6. Lý Hoàng Dung - 2255300017
7. Lều Nguyễn Thuỳ Linh - 1955380031
8. Nguyễn Thu Loan - 2255300032
9. Vũ Ngọc Minh – 2255300035
10.Nguyễn Thuỳ Trang - 2255300053
11.Cao Thị Thùy - 2255300051
12.Nguyễn Thị Thu Uyên - 2255300058
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I: TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ BỐI CẢNH ĐẤT
NƯỚC THẾ KỶ XIX
1.Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trường Tộ
2. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XIX
TIỂU KẾT
II:TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC VÀ TƯ
TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
1.Tư tưởng canh tân của những người đi trước Nguyễn Trường Tộ
2. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ
TIỂU KẾT
III: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
1. Giá trị tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ trong thời đại ngày nay
2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay
TIỂU KẾT
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, chế độ Việt Nam dưới triều Nguyễn ta lâm vào thời
kỳ khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt như: . Nắm đượcchính trị, kinh tế, hội
thời đó, bản Pháp nhòm ngó lăm le, nổ súng xâm lược nước ta. Đứng trước
tình thế khó khăn gay gắt về kinh tế, sự rối loạn chính trị nguy mất nước
đang đến gần, một số trí thức tinh hoa, ưu thời, mẫn thế đã mạnh dạn đưa ra những
tưởng canh tân đất nước trên tất cả các mặt như: nội trị, ngoại giao, kinh tế, văn
hoá - xã hội; nhằm đấu tranh bảo vệ độc lập của dân tộc. Họ là những quan lại và sĩ
phu tiến bộ đặc biệt được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây như: Nguyễn
Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch,…đã đưa ra các
chương trình canh tân, tự cường đất nước, nhằm giải nguy cho dân tộc. tưởng
canh tân xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX mở ra một con đường mới, một
phương sách cứu nước mới góp phần giải quyết những vấn đề bức thiết lịch sử
đặt ra trước bối cảnh hội thực dân nửa phong kiến.Tinh thần độc lập, tự chủ, tự
cường của các nhà canh tân cuối thế kỷ XIX được gửi gắm vào chế độ phong kiến
nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc tiếp tục ủng hộ,
duy trì nhà nước phong kiến chuyên chế. Tuy nhiên, tư tưởng canh tân lúc bây giờ
chưa thấy được vai trò của quần chúng nhân dân cũng như chưa quan tâm đến công
tác vận động quần chúng tham gia vào công cuộc cải cách. Trong đó, Nguyễn
Trường Tộ được xem người chương trình cải cách rộng lớn nhất, ông đã đẩy
cuộc canh tân đất nước trở thành một trào lưu rầm rộ trong suốt cả một giai đoạn
lịch sử.Theo ông, để đổi mới canh tân đất nước, cần phải tiếp thu những thành tựu
khoa học kĩ thuật của phương Tây, trên tất cả các mặt: kinh tế, nông nghiệp, công -
thương nghiệp, tài chính, quân sự, ngoại giao, chính trị - hội...Nhìn chung
chương trình canh tân của ông bao quát, đề cập tới hàng loạt các vấn đề quan trọng
của hội đương thời. Những cải cách trên các lĩnh vực được ông đề xuất trong
gần 60 bản điều trần từ năm 1863 đến năm 1871, trong đó, lĩnh vực giáo dục được
đánh giá mang tính tiên phong,toàn diện, hệ thống, có nội dung phong phú sâu sắc.
Mặc dù, tư tưởng canh tân cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam còn nhiều hạn chế do điều
kiện lịch sử - hội quan điểm, lập trường giai cấp nhưng không thể phủ định
những đóng góp sâu sắc trong việc giải quyết những yêu cầu bức thiết đặt ra trong
giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ. thể khẳng định rằng những nội dung ý nghĩa của
tưởng canh tân việt Nam cuối thế kỷ XIX về tự lực, tự cường, đồng thời chủ
động tích cực hội nhập quốc tế.. đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua đó cho ta
thấy, việc nghiên cứu, kế thừa phát triển những tưởng tinh hoa của dân tộc
trong đó nổi bật tưởng canh tân Việt Nam cuối thế kỷ XIX từ đó vận dụng
tư tưởng cũng rút ra bài học lịch sử trong công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước Việt Nam hiện nay công việc rất cần thiết ý nghĩa thực
tiễn.
I: TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
THẾ KỶ XIX
1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trường Tộ
1.1. Cuộc đời, xuất thân của Nguyễn Trường Tộ
Bức tượng Phaolo Nguyễn Trường Tộ tại Trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Tp.
Vinh (Nguồn: Viện Nghiên cứu & Phát triển Công nghệ Mới)
Nguyễn Trường Tộ còn được gọi thầy Lân, quê làng Bùi Chu, Ðoài,
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thân phụ Nguyễn Quốc Thư, một thầy
thuốc Đông y, nhưng mất sớm.Ông một danh sĩ, kiến trúc nhà cải
cách hội Việt Nam thế kỷ XIX. Nguyễn Trường Tộ tín hữu Kitô giáo,
trưởng thành trong giai đoạn lịch sử bị thực dân Pháp chiếm các nước Ðông
Dương Việt Nam. Nhà nghèo, nhưng bản tính thông minh, học hành chăm
chỉ, ông sớm được truyền tụng là “Trạng Tộ” nức tiếng trong vùng.
1.2. Khái quát về sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ
Sau khi thôi học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ
Hán trong Nhà chung Đoài (nay thuộc Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An). Tại đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier (tên Việt là
Ngô Gia Hậu, về Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846) dạy cho học tiếng Pháp
giúp cho một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương
Tây.
Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào vào Đà Nẵng tránh nạn
"phân tháp" .Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng
(Hồng Kông) và một số nơi khác,...Đầu tháng 5 năm 1863, thì ông đã thảo xong
3 bản điều trần gửi lên Triều đình Huế là: "Tế cấp luận", "Giáo môn luận"
"Thiên hạ phân hợp đại thế luận".
Năm 1862-1864, bằng sự hiểu biết của nh, ông đã thiết kế chỉ đạo việc
xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn (nay số 4 đường Tôn Đức
Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có giá
trị bền vững cho đến tận ngày nay. Khoảng năm 1864, ông được người Anh
mời sang dự một hội nghị khoa học Anh, nhưng chưa đi thì đã bị thực dân
Pháp ngăn trở, có lẽ vì họ không muốn ông liên lạc với người Anh.
Ngày 17 tháng 8 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier
Linh mục Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, Nguyễn Trường Tộ được vua Tự
Đức tiếp kiến ở nhà Tả Vu trong Tử Cấm thành (Huế), được hỏi han nhiều điều,
và được nhà vua nghe theo.Khoảng giữa tháng 3 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ
được cấp phát ngựa chi phí về Nghệ An thăm mẹ già trước lúc lên đường
sang Pháp. Tuy nhiên, sau khi trở lại Huế, ông đổi ý, kiến nghị với Triều đình là
không nên sai sứ bộ sang Pháp điều đình chỉ nên gửi sứ bộ vào Sài Gòn
thương thuyết.
Nguyễn Trường Tộ điều trần canh tân đất nước (Nguồn: toiyeulichsu.com)
Đầu năm 1871, ông nhận được lệnh cấp tốc ra Huế với do "đưa học sinh đi
Pháp", nhưng kỳ thực là để bàn bạc với vua Tự Đức về phương lược quân sự và
ngoại giao ông đã trình bày trong các văn bản gửi cho Triều đình cuối năm
1870. Nhưng Triều đình Huế bàn đi tính lại không đi đến được một quyết
định nào: Sứ bộ không được cử đi các nước, kế hoạch đánh úp Pháp để thu hồi
6 tỉnh ở Nam Kỳ cũng không được thực hiện. Giữa năm ấy, ông về lại Xã Đoài,
đến ngày 22 tháng 11 năm 1871 thì đột ngột từ trần. Lúc ấy, ông chỉ mới
khoảng 41 tuổi.
2. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XIX
2.1. Tình hình chính trị - xã hội
Vào giữa thế kỷ XIX, tình hình chính trị nước ta nổi bật với chế độ phong kiến
Việt Nam đang ở trong giai đoạn khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Cho đến
khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - giai đoạn lịch sử Việt Nam có những
biến đổi vô cùng to lớn và ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình nước nhà. Thực dân
Pháp xâm lược, chiếm đóng với mục đích biến đổi nước ta từ một nước độc lập
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến của chúng với yêu cầu bức thiết là: “Độc
lập dân tộc và người cày có ruộng”. Chính quyền nhà Nguyễn từng bước khuất
phục trước cuộc xâm lược của Pháp và lần lượt ký các hiệp ước đầu hàng trong đó
có Hiệp ước Patơnốt (1884), thừa nhận nền bảo hộ của Pháp trên toàn Việt Nam.
2.2. Tình hình kinh tế
Năm 1867, thời điểm thực dân Pháp đã chiếm đóng được 6 tỉnh Nam Kỳ ở nước ta
thì tình hình kinh tế - xã hội càng trở nên nghiêm trọng. Ở Bắc Hà, nhân dân đói
khổ cùng cực vì luôn bị nạn đói đe dọa, còn các tỉnh ở trung du, ven biển thì bị bão
lụt, thiên tai lớn ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến đời sống của người dân. Kinh tế
Việt Nam lúc bấy giờ sa sút, mất mùa kéo dài dẫn đến sự đình đốn của thương
nghiệp, những nỗ lực để bình ổn vật giá thì không mang lại hiệu quả.
Về nông nghiệp, Việt Nam cuối thế kỷ XIX, sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính
độc canh, diện tích đất canh tác chủ yếu trồng lúa. Kỹ thuật canh tác còn lạc hậu
làm năng suất thu hoạch thấp. Nhà Nguyễn đã đồng ý ký ước nhượng cho Pháp
quyền khai khẩn đất hoang, nên chúng chiếm một diện tích lớn đất để làm đồn điền
khiến cho đất đai ngày càng nghèo nàn, sức lao động trở nên kiệt quệ.
Về công nghiệp, thời kỳ này chủ yếu là khai thác mỏ, đặc biệt là than. Sau khi
chiếm đóng ở nước ta, thực dân Pháp chú trọng vào xây dựng và phát triển các
ngành công nghiệp để vừa thỏa mãn nhu cầu thị trường Đông Dương vừa kiếm
được nhiều lợi nhuận và có khả năng cạnh tranh ở Viễn Đông. Người Pháp đã lợi
dụng giá công nhân rẻ mạt kết hợp với lao động chân tay thô sơ để nhờ đó mà
chúng bóc lột được nhiều và lợi nhuận thì ngày càng tăng.
2.3. Tình hình giao thương, buôn bán
Trong thời kì này, nhà Nguyễn nắm độc quyền buôn bán một số mặt hàng, hạn chế
trao đổi giữa các vùng, cấm lập thêm chợ. Thị trường trong nước chưa thực sự
thống nhất. Về ngoại thương, nhà nước thi hành chính sách “bế quan toả cảng"
nghiêm ngặt khiến cho nền kinh tế Việt Nam không có điều kiện giao lưu, mở rộng
buôn bán với các nước bên ngoài. Bên cạnh đó còn xuất hiện tình trạng các thương
nhân nước ngoài lấn át thương nhân trong nước triều đình lại không thể kiểm
soát nổi thực trạng ấy.
Sau khi bị thực dân xâm lược, dưới nhiều sức ép, triều đình đã quyết định mở cửa
khẩu để giao thương, buôn bán với các nước bên ngoài. Nhưng chưa kinh
nghiệm, chuyên môn nên triều đình đã không kiểm soát được, dẫn đến khủng
hoảng, gây nên nhiều hậu quả tai hại.
2.4. Tình hình văn hoá - giáo dục
Các yếu tố văn hóa, văn minh phương Tây đã xuất hiện nước ta từ rất lâu nhưng
do thái độ đường lối sai lầm của triều đình nhà Nguyễn, không điều kiện
phát huy ảnh hưởng trong đời sống hội. Chỉ đến khi Pháp tiến hành xâm lược
Việt Nam, các yếu tố văn hóa, văn minh Tây phương mới điều kiện phát huy
ảnh hưởng.
Một số phong tục tập quán, truyền thống, luân thường đạo của nền văn hóa
thuần nông bị phá vỡ, thay vào đó là sự xuất hiện của những yếu tố mới là văn hóa
công thương. Lúc này, những tưởng chính trị - đạo đức của Nho gia dần dần bị
lay chuyển mạnh mẽ, người ta biết đến nhiều hơn những giá trị văn hóa tiến bộ trên
thế giới so với việc đề cao tự do cá nhân và đạo đức con người.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Có thể nói, Nguyễn Trường Tộ là người trí thức tân học đầu tiên ở nước ta với
những tư duy khác biệt so với bậc sĩ phu tiền bối Nho học lúc bấy giờ. Mang trong
lòng yêu nước thương dân nồng nàn nhưng trong bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ
XIX với chế độ phong kiến đang suy yếu và khủng hoảng trầm trọng. Với mâu
thuẫn chủ yếu đó là nông dân với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn này gắn bó,
tác động lẫn nhau đòi hỏi cần được giải quyết đồng thời với yêu cầu bức thiết của
cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là “Độc lập dân tộc và người có ruộng”. Tư tưởng
canh tân của Nguyễn Trường Tộ được hình thành trong bối cảnh xuất thân và lịch
sử cùng với nền tảng ái quốc sâu sắc, đó là sự kết hợp giữa trách nhiệm của một
bậc chân Nho với tri thức khoa học, viễn kiến chính trị của một nhà trí thức sớm
được tiếp xúc với tư duy lý luận phương Tây.
II. TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
2.1. Về kinh tế
Nông nghiệp: Ông để xuất những điều cấp thiết. “Đó là ... các phương pháp làm
hạt nổ và đúc súng, đúc kim loại cùng các môn quang học, cơ học, hoá học,
khai mỏ than”. Bởi vậy, theo ông, phải khai thác các nguồn lợi quốc gia một cách
có quy mô hiện đại. Cần lập trường dạy kỹ thuật, kỹ nghệ trong nước, cử người đi
du học nước ngoài và mua máy móc kỹ thuật để dùng, lấy mẫu về rồi tự chế
tạo. Nguyễn Trường Tộ coi trọng vấn đề cải tiến kỹ thuật, đặt chức “nông
quan” phụ trách về nông nghiệp và thủy lâm tại các địa phương, phổ biến rộng rãi
các kiến thức nông nghiệp cho nhân dân. Đặc biệt, đối với nước ta hồi đó là nước
nông nghiệp nên ông nhấn mạnh vai trò nông nghiệp. Ông viết: “Nông nghiệp là
gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác cho đời sống đều nhờ vào đó” [1]. Do vậy,
trong học thuật cần có khoa Nông chính, dạy thiên văn nông nghiệp, địa lý nông
nghiệp, thực vật học, đề nghị lập ngạch quan nông chính, là người có tri
thức khoa học nông nghiệp; đề nghị khai hoang, mở mang thủy lợi, đo đạc, đánh
giá lại ruộng tốt, đất xấu. Ngoài ra, ông đề nghị triều đình chú ý đến việc thay đổi
công nghệ sản xuất, từ sản xuất thủ công sang máy móc để sản xuất được nhiều,
chú ý tạo ra kỹ năng sản xuất mới bằng việc khéo léo lợi dụng người phương
Tây, chú ý thay đổi cục diện địch ta bằng lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc
Thương nghiệp: Ông chủ trương thực hiện giao lưu hàng hóa cả ngoại
thương và nội thương. Mở cửa thông thương và đầu tư, khai thác tiềm năng của đất
nước. Khuyến khích xuất khẩu nông, lâm, hải và khoáng sản bởi “đó là một điều
lợi lớn”. Hợp tác với các hội nước ngoài để khai thác mỏ và luyện kim, chế tác
khí cụ và đóng tàu thuyền. Tổ chức buôn bán vật dụng trong nước; đào kênh
nối liền Hải Dương đến Huế để tiện chuyên chở hàng hóa. Triều đình nên nắm
việc vận tải, tổ chức buôn bán với nước ngoài. Ông đề xuất với triều đình Huế tăng
cường mở rộng ngoại thương xuất khẩu hàng hóa bằng cách: “Cho tàu bè nhà nước
chở sản vật nước ta ra bán cho các nước, rồi lại chở về nước mình những hàng cần
dùng mà nước mình không có…” . Không những xuất khẩu hàng hóa mà ông
còn chủ trương học tập và ứng dụng kỹ thuật công nghệ của các nước tiên tiến.
Trong điều trần về việc mua và đóng thuyền máy (Di thảo số 6) và việc đào tạo
người điều khiển, sửa chữa thuyền máy (Di thảo số 7), Nguyễn Trường Tộ đề
nghị: Phải chọn người mua các thiết bị thay thế kèm theo tài chính cần công
bằng và hợp lý trong việc thu thuế, đo đạc ruộng đất, kê khai dân số hàng năm để
tránh thất thu, gian lận. Tăng thuế và đánh thuế nặng với sòng bạc, rượu, thuốc lá
và các mặt hàng xa xỉ ngoại nhập để bảo vệ mặt hàng nội địa, đánh thuế với nhà
giàu..
2.2. Về giáo dục – văn hoá – xã hội
Giáo dục :chủ trương phát động học tập, phổ biến rộng rãi kinh nghiệm, sáng kiến
trong nhân dân; bổ sung một số môn học, gửi học sinh sang các nước học ngoại
ngữ, các môn khoa học hiện đại. Dùng quốc âm thống nhất, biên soạn từ điển, phổ
biến trong nhân dân cho dễ học, dễ hiểu.
văn hóa - xã hội: Lập nhà in, xuất bản sách, báo để nâng cao trình độ dân trí. Đồng
thời, kiểm soát, hạn chế, cấm đoán các loại sách độc hại, xây dựng nếp sống văn
hóa. Nguyễn Trường Tộ cũng chống lại luật lệ không cho dân đi xe, đi giày.
2.3 . Về ngoại giao
duy bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn , không giao thiệp với các
phương tây không giúp được nhà Nguyễn trách được sự xâm lược của các nước
phương tây , còn bỏ qua hội phát triển kinh tế đất nước , Chính sách đối
ngoại của nhà Nguyễn thời kỳ này không phải là một chính sách khôn khéo . Do đó
Nguyễn Trường Tộ đã cho rằng để bảo vệ được độc lập dân tộc thì không phải thực
hiện chính sách ‘ Bế Quan Tỏa Cảng ’’ như triều Nguyễn đang làm mà cần phải có
chính sách ngoại giao mới. Theo Nguyễn Trường Tộ phải thực hiện chính sách
ngoại giao đa phương, mềm dẻo . Một nước nhỏ phải đối mặt với sự cạnh tranh của
các ớc lớn thì cần phải một chính sách ngoại giao khéo léo , dựa vào tình
hình thực tế lúc bấy giờ Nguyễn Trường Tộ đã nhận thấy rằng ta chưa đủ điều kiện
để đuổi pháp đi được vậy Ông đã nghĩ ra một giải pháp đó đề nghị hòa giải
với Pháp , đồng thời tranh thủ thời gian phát triển kinh tế, quân sự để đủ thực
lực giành lại độc lập xuyên suốt tưởng của Nguyễn Trường Tộ hiện đại hóa
theo hình châu âu , làm cho đất nước hùng cường để giành lại độc lập, ông đã
tham gia vào nhiều hoạt động thực tiễn như : Tham gia hòa đàm với người Pháp
….
2.4 .Về quốc phòng
Nguyễn Trường Tộ đã chủ trương xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh , đề
nghị hòa giải với pháp để có thể tập trung lực lượng. Ông nhận thức rõ ràng vai trò
của quân đội trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Ông cho rằng : một quốc gia
hữu sự, nếu không có vũ lực trấn áp thì cả quốc gia, quan quyền, dân thủ, luật lệ,
chính sự, pháp độ đều phải giao vào tay quân địch’’( ) . Chính Vì thế Nguyễn 1
Trường Tộ đã chủ trương cải cách lại quân đội , Nguyễn Trường Tộ đã cải cách
quân đội bằng cách nâng cao sức mạnh quân đội bằng việc chủ trương thay đổi tổ
chức quân đội thay vì theo chế độ quân đội cũ, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra đề
xuất là tổ chức quân đội theo nguyên tắc có khoa học , hiện đại , phân chia cấp bậc
thì được dựa vào năng lực của từng người . Và để có một quân đội hùng mạnh thì
không thể thiếu được những vũ khí hiện đại chính vì thế ông đã có chủ chương
mua sắm những trang thiết bị hiện đại từ phương tây, từ đó nâng cao được sức
chiến đấu của quân đội . Ngoài ra Nguyễn Trường Tộ Còn thúc đẩy sự phát triển
của nền công nghiệp quốc phòng bằng việc tăng cường đầu tư phát triển nền công
nghiệp quốc phòng , thúc đẩy phát triển các trang bị , vũ khí , khuyến khích mọi
người tham gia vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực quân sự .
2.5 .Về kiến trúc
Nguyễn Trường Tộ là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực kiến trúc
tại Việt Nam vào thế kỷ XIX , Ông được giáo dục tiên tiến và có cơ hội tiếp xúc
với kiến trúc châu Âu, đặc biệt là kiến trúc Pháp . Chính Vì thế Ông có những tư
duy kiến trúc rất mới , Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ về lĩnh vực kiến
trúc được thể hiện ở chỗ ông muốn đưa kiến trúc Việt Nam nên một giai đoạn
mới , hiện đại hơi bằng việc thay đổi những tư duy kiến trúc cũ hướng tới xã hội
hiện đại tiện nghi , phù hợp với xu thế phát triển của thế giới , và học hỏi từ các
nước phương tây nhưng vẫn phải giữ sự hài hòa giữa kiến trúc truyền thống và
kiến trúc hiện đại .
TIỂU KẾT CHƯƠNG II :
Nguyễn Trường Tộ là một nhân vật lớn, lạ và hiếm của Việt Nam thế kỷ XIX. Với
tầm nhìn xa rộng khắp, ông vạch ra con đường canh tân đất nước kiên nhẫn
chấp nhận sự trớ trêu của lịch sử, bi kịch của chính cuộc đời mình để phụng sự lợi
ích đất nước, lợi ích Nhân dân. tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ được
hình thành trên nền tảng ái quốc, sự kết hợp giữa trách nhiệm của một bậc chân
Nho với tri thức khoa học, viễn kiến chính trị của một trí thức sớm được tiếp xúc
với duy khoa học duy phương Tây. tưởng canh tân của Nguyễn Trường
Tộ khá toàn diện, phù hợp và thiết thực. Các quan điểm lớn nhất là: Đa phương về
ngoại giao; tùy vào từng thời điểm cụ thể ưu tiên các quan hệ quan hệ khác
nhau để điều phối các thế lực, từ đó khắc chế các đe dọa đến an ninh, lợi ích của
đất nước.Tuy nhiên, tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ không được triển
khai thời chưa đến. Các Vua Nguyễn bất lực, không dám cải cách trong lúc
cản trở rất lớn quân đội thực dân Pháp mặc nhu cầu cải cách rất lớn. Nếu
không quyền lực, nhà cải cách chỉ thể dừng lại tầm mức nhà tưởng,
vai trò thiết kế chứ không thể thi triển thành công Nguyễn Trường Tộ nằm trong
trường hợp này nên ông không có quyền lực để thực thi tư tưởng của mình.
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
1. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
Từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986, Việt Nam chính
thức bước vào công cuộc đổi mới đất nước. Cho tới nay, Đảng và Nhà nước đã có
những chính sách cụ thể để cải cách trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Một
trong số đó chính là kế thừa và phát huy những tư tưởng canh tân của những nhà tư
tưởng đi trước, đặc biệt là nhà tư tưởng Nguyễn Trường Tộ - ông là 1 nhà tư tưởng
lớn của Việt Nam trong thế kỷ XIX. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những giá
trị tốt đẹp trong tư tưởng ấy để đưa ra những giải pháp phát triển đất nước trên
nhiều lĩnh vực khác nhau
1.1. Về kinh tế
Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất một tư duy kinh tế mới, lấy lợi ích, lấy hiệu quả, lấy
việc phát triển nguồn của cải xã hội làm mục đích.
Về nông nghiệp, ông đã có những tư duy về kinh tế vô cùng mới mẻ so với thời đại
lúc bấy giờ. Nước ta thời đó mang những nét tư tưởng kinh tế, tư duy làm ăn của
làng xã. Do những điều kiện về địa lý, tài nguyên, địa hình nước ta 2/3 diện tích là
ruộng đất nên việc người dân trọng ruộng đất, trọng nông nghiệp là vô cùng dễ
hiểu. Họ coi nông nghiệp là gốc rễ trong kinh tế và coi thường công thương
nghiệp. Điều này đã làm hình thành nên lối tư duy “trọng nông ức thương” ăn sâu
vào tiềm thức mỗi người dân, thể hiện rất rõ trong những câu ca dao, tục ngữ xưa
như “tấc đất tấc vàng”, “có thực mới vực được đạo”. Cuộc sống của người dân cả
đời gắn bó với con trâu, con bò, cái cày, cái cuốc. Trong quá trình phát triển, công
thương nghiệp cũng bắt đầu du nhập vào nước ta nhưng người dân vẫn quan niệm
việc buôn bán là lừa gạt và bóc lột, họ thường mỉa mai và gọi những người buôn
bán là “dân buôn, con buôn”. Chính những định kiến này đã trói buộc nền kinh tế
hàng hóa nước ta chậm phát triển. Người dân có lối tư duy “không thành công thì
cũng thành nhân” và coi thường lợi ích vật chất. Họ thà “an bần, lạc đạo” mà
“nhàn” còn hơn là bon chen, chạy theo lợi ích tiền tài. Quan niệm “Ngồi mát, ăn
bát vàng” hay “Ăn đói nằm co, hơn ăn no phải làm” đã triệt tiêu năng lực và khát
vọng, ngăn cản sự phát triển kinh tế.
Người dân đang bừa ruộng dưới thời nhà Nguyễn (Nguồn: Việt Sử Ký)
Chính vì nhìn ra được những yếu kém, hạn chế trong tư duy kinh tế lúc bấy giờ,
Nguyễn Trường Tộ đã ra sức đấu tranh, phản bác lại những tư tưởng đó, ông có cái
nhìn vượt thời đại. Bằng chứng là Nguyễn Trường Tộ luôn muốn đưa khoa học vào
việc sản xuất nông nghiệp ở nước ta, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào
kênh, đắp đê, xây dựng những công trình thủy lợi. Chính nhờ những tư duy vượt
thời đại đó, ngày nay kinh tế nước ta đang dần được phát triển. Nước ta đã áp dụng
nhiều công nghệ vào công cuộc sản xuất như: công nghệ sinh học, công nghệ nhà
kính hay công nghệ tưới nhỏ giọt, … Hệ thống đê điều cũng được xây dựng với
quy mô lớn, có thể kể tới hệ thống đê sông Hồng, là 1 hệ thống đê có quy mô lớn
và hoàn thiện với tổng chiều dài 1314 km và rất nhiều những công trình thủy điện
có tiếng.
Đê chống ngập sông Hồng (Nguồn: Báo tài nguyên và môi trường)
Về thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ đề cao việc phát triển ngoại thương, mở cửa
kêu gọi đầu tư với các nước bên ngoài, ông cho rằng cần có sự trao đổi, mua bán
với các nước bên ngoài chứ không nên chỉ buôn bán trong nước. Nên mở rộng cửa
biển cho tàu nước ngoài vào buôn bán. Nước ta nên tận dụng những thế mạnh,
những mặt hàng có sẵn để trao đổi mua bán với những nước khác đem lại nhiều
mặt hàng phong phú, bán cái chúng ta có và mua cái chúng ta cần. Đây là một lối
tư duy cải cách vô cùng mới mẻ và có giá trị cho tới tận ngày nay. Việc xuất nhập
khẩu hiện nay ở nước ta vô cùng phát triển, Việt Nam là 1 trong những nước đứng
thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Nước ta còn mở cửa, giao lưu buôn bán với
rất nhiều các quốc gia lớn trên thế giới trong đó có cả Mỹ và Trung Quốc. Mới
đây, năm 2023 Việt Nam là đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, là bước nhảy vọt
lớn trong công cuộc cải cách mở cửa
Xuất khẩu gạo ở Việt Nam (Nguồn: Báo dân tộc và phát triển)
Về tài chính, những tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ cũng mang lại rất nhiều giá
trị. Ông cho rằng việc đóng thuế là nghĩa vụ của nhân dân nhưng thuế phải công
bằng và hợp lý. Nguyễn Trường Tộ rất quan tâm và chú trọng tới thực trạng không
chính xác trong sổ sách thời bấy giờ, ruộng đất thì luôn thay đổi nhưng con số
trong sổ sách không cập nhật dẫn tới nguy cơ trốn thuế, lậu thuế càng nghiêm trọng
cho nên ông đã đề nghị chấn chỉnh thuế nhưng không phải vì mục đích tăng thuế
mà là để tránh việc gian lận thuế. Cần phải xem xét và cân bằng từng mức thuế,
ngoài ra, nhà nước cần lựa chọn những quan lại liêm minh, chính trực để tránh
tham ô. Thật vậy, công tác quản lý, thu chi ngân sách nhà nước, thu nộp thuế ngày
nay cũng được nhà nước ta vô cùng chú trọng. Trong mỗi kỳ họp, Đảng và Nhà
| 1/32

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC -------------------------- BÀI TẬP LỚN MÔN
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ĐỀ BÀI
Tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lưu Văn Thắng
Lớp tín chỉ: CT03062_K42_3
Người thực hiện: Nhóm sinh viên K42 Hà Nội, năm 2024
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
1. Đinh Thị Phương Anh - 2255300002
2. Nguyễn Thị Minh Ánh - 2255300010
3. Nguyễn Thị Ngọc Ánh - 2255300011
4. Nguyễn Hải Châu - 2255300012
5. Nguyễn Thị Ngọc Diệp - 2255300015
6. Lý Hoàng Dung - 2255300017
7. Lều Nguyễn Thuỳ Linh - 1955380031
8. Nguyễn Thu Loan - 2255300032
9. Vũ Ngọc Minh – 2255300035
10.Nguyễn Thuỳ Trang - 2255300053
11.Cao Thị Thùy - 2255300051
12.Nguyễn Thị Thu Uyên - 2255300058 MỤC LỤC MỞ ĐẦU
I: TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ BỐI CẢNH ĐẤT NƯỚC THẾ KỶ XIX
1.Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trường Tộ
2. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XIX TIỂU KẾT
II:TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC VÀ TƯ
TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
1.Tư tưởng canh tân của những người đi trước Nguyễn Trường Tộ
2. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ TIỂU KẾT
III: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
1. Giá trị tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ trong thời đại ngày nay
2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay TIỂU KẾT KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, chế độ Việt Nam dưới triều Nguyễn ta lâm vào thời
kỳ khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt như: chính trị, kinh tế, xã hội. Nắm được
thời cơ đó, tư bản Pháp nhòm ngó lăm le, nổ súng xâm lược nước ta. Đứng trước
tình thế khó khăn gay gắt về kinh tế, sự rối loạn chính trị và nguy cơ mất nước
đang đến gần, một số trí thức tinh hoa, ưu thời, mẫn thế đã mạnh dạn đưa ra những
tư tưởng canh tân đất nước trên tất cả các mặt như: nội trị, ngoại giao, kinh tế, văn
hoá - xã hội; nhằm đấu tranh bảo vệ độc lập của dân tộc. Họ là những quan lại và sĩ
phu tiến bộ đặc biệt là được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây như: Nguyễn
Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch,…đã đưa ra các
chương trình canh tân, tự cường đất nước, nhằm giải nguy cho dân tộc.Tư tưởng
canh tân xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX mở ra một con đường mới, một
phương sách cứu nước mới góp phần giải quyết những vấn đề bức thiết mà lịch sử
đặt ra trước bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến.Tinh thần độc lập, tự chủ, tự
cường của các nhà canh tân cuối thế kỷ XIX được gửi gắm vào chế độ phong kiến
nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc và tiếp tục ủng hộ,
duy trì nhà nước phong kiến chuyên chế. Tuy nhiên, tư tưởng canh tân lúc bây giờ
chưa thấy được vai trò của quần chúng nhân dân cũng như chưa quan tâm đến công
tác vận động quần chúng tham gia vào công cuộc cải cách. Trong đó, Nguyễn
Trường Tộ được xem là người có chương trình cải cách rộng lớn nhất, ông đã đẩy
cuộc canh tân đất nước trở thành một trào lưu rầm rộ trong suốt cả một giai đoạn
lịch sử.Theo ông, để đổi mới canh tân đất nước, cần phải tiếp thu những thành tựu
khoa học kĩ thuật của phương Tây, trên tất cả các mặt: kinh tế, nông nghiệp, công -
thương nghiệp, tài chính, quân sự, ngoại giao, chính trị - xã hội...Nhìn chung
chương trình canh tân của ông bao quát, đề cập tới hàng loạt các vấn đề quan trọng
của xã hội đương thời. Những cải cách trên các lĩnh vực được ông đề xuất trong
gần 60 bản điều trần từ năm 1863 đến năm 1871, trong đó, lĩnh vực giáo dục được
đánh giá mang tính tiên phong,toàn diện, hệ thống, có nội dung phong phú sâu sắc.
Mặc dù, tư tưởng canh tân cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam còn nhiều hạn chế do điều
kiện lịch sử - xã hội và quan điểm, lập trường giai cấp nhưng không thể phủ định
những đóng góp sâu sắc trong việc giải quyết những yêu cầu bức thiết đặt ra trong
giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ. Có thể khẳng định rằng những nội dung ý nghĩa của
tư tưởng canh tân ở việt Nam cuối thế kỷ XIX về tự lực, tự cường, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế.. đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua đó cho ta
thấy, việc nghiên cứu, kế thừa và phát triển những tư tưởng tinh hoa của dân tộc
trong đó nổi bật là tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX từ đó vận dụng
tư tưởng cũng rút ra bài học lịch sử trong công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước Việt Nam hiện nay là công việc rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
I: TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ KỶ XIX
1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trường Tộ
1.1. Cuộc đời, xuất thân của Nguyễn Trường Tộ
Bức tượng Phaolo Nguyễn Trường Tộ tại Trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Tp.
Vinh (Nguồn: Viện Nghiên cứu & Phát triển Công nghệ Mới)
Nguyễn Trường Tộ còn được gọi là thầy Lân, quê ở làng Bùi Chu, xã Ðoài,
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Quốc Thư, một thầy
thuốc Đông y, nhưng mất sớm.Ông là một danh sĩ, kiến trúc sư và là nhà cải
cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ XIX. Nguyễn Trường Tộ là tín hữu Kitô giáo,
trưởng thành trong giai đoạn lịch sử bị thực dân Pháp chiếm các nước Ðông
Dương và Việt Nam. Nhà nghèo, nhưng bản tính thông minh, học hành chăm
chỉ, ông sớm được truyền tụng là “Trạng Tộ” nức tiếng trong vùng.
1.2. Khái quát về sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ
Sau khi thôi học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ
Hán trong Nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An). Tại đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier (tên Việt là
Ngô Gia Hậu, về Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846) dạy cho học tiếng Pháp
và giúp cho có một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương Tây.
Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào vào Đà Nẵng tránh nạn
"phân tháp" .Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng
(Hồng Kông) và một số nơi khác,...Đầu tháng 5 năm 1863, thì ông đã thảo xong
3 bản điều trần gửi lên Triều đình Huế là: "Tế cấp luận", "Giáo môn luận" và
"Thiên hạ phân hợp đại thế luận".
Năm 1862-1864, bằng sự hiểu biết của mình, ông đã thiết kế và chỉ đạo việc
xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn (nay ở số 4 đường Tôn Đức
Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có giá
trị bền vững cho đến tận ngày nay. Khoảng năm 1864, ông được người Anh
mời sang dự một hội nghị khoa học ở Anh, nhưng chưa đi thì đã bị thực dân
Pháp ngăn trở, có lẽ vì họ không muốn ông liên lạc với người Anh.
Ngày 17 tháng 8 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier
và Linh mục Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, Nguyễn Trường Tộ được vua Tự
Đức tiếp kiến ở nhà Tả Vu trong Tử Cấm thành (Huế), được hỏi han nhiều điều,
và được nhà vua nghe theo.Khoảng giữa tháng 3 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ
được cấp phát ngựa và chi phí về Nghệ An thăm mẹ già trước lúc lên đường
sang Pháp. Tuy nhiên, sau khi trở lại Huế, ông đổi ý, kiến nghị với Triều đình là
không nên sai sứ bộ sang Pháp điều đình mà chỉ nên gửi sứ bộ vào Sài Gòn thương thuyết.
Nguyễn Trường Tộ điều trần canh tân đất nước (Nguồn: toiyeulichsu.com)
Đầu năm 1871, ông nhận được lệnh cấp tốc ra Huế với lý do "đưa học sinh đi
Pháp", nhưng kỳ thực là để bàn bạc với vua Tự Đức về phương lược quân sự và
ngoại giao mà ông đã trình bày trong các văn bản gửi cho Triều đình cuối năm
1870. Nhưng Triều đình Huế bàn đi tính lại mà không đi đến được một quyết
định nào: Sứ bộ không được cử đi các nước, kế hoạch đánh úp Pháp để thu hồi
6 tỉnh ở Nam Kỳ cũng không được thực hiện. Giữa năm ấy, ông về lại Xã Đoài,
và đến ngày 22 tháng 11 năm 1871 thì đột ngột từ trần. Lúc ấy, ông chỉ mới khoảng 41 tuổi.
2. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XIX
2.1. Tình hình chính trị - xã hội
Vào giữa thế kỷ XIX, tình hình chính trị nước ta nổi bật với chế độ phong kiến
Việt Nam đang ở trong giai đoạn khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Cho đến
khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - giai đoạn lịch sử Việt Nam có những
biến đổi vô cùng to lớn và ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình nước nhà. Thực dân
Pháp xâm lược, chiếm đóng với mục đích biến đổi nước ta từ một nước độc lập
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến của chúng với yêu cầu bức thiết là: “Độc
lập dân tộc và người cày có ruộng”. Chính quyền nhà Nguyễn từng bước khuất
phục trước cuộc xâm lược của Pháp và lần lượt ký các hiệp ước đầu hàng trong đó
có Hiệp ước Patơnốt (1884), thừa nhận nền bảo hộ của Pháp trên toàn Việt Nam.
2.2. Tình hình kinh tế
Năm 1867, thời điểm thực dân Pháp đã chiếm đóng được 6 tỉnh Nam Kỳ ở nước ta
thì tình hình kinh tế - xã hội càng trở nên nghiêm trọng. Ở Bắc Hà, nhân dân đói
khổ cùng cực vì luôn bị nạn đói đe dọa, còn các tỉnh ở trung du, ven biển thì bị bão
lụt, thiên tai lớn ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến đời sống của người dân. Kinh tế
Việt Nam lúc bấy giờ sa sút, mất mùa kéo dài dẫn đến sự đình đốn của thương
nghiệp, những nỗ lực để bình ổn vật giá thì không mang lại hiệu quả.
Về nông nghiệp, Việt Nam cuối thế kỷ XIX, sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính
độc canh, diện tích đất canh tác chủ yếu trồng lúa. Kỹ thuật canh tác còn lạc hậu
làm năng suất thu hoạch thấp. Nhà Nguyễn đã đồng ý ký ước nhượng cho Pháp
quyền khai khẩn đất hoang, nên chúng chiếm một diện tích lớn đất để làm đồn điền
khiến cho đất đai ngày càng nghèo nàn, sức lao động trở nên kiệt quệ.
Về công nghiệp, thời kỳ này chủ yếu là khai thác mỏ, đặc biệt là than. Sau khi
chiếm đóng ở nước ta, thực dân Pháp chú trọng vào xây dựng và phát triển các
ngành công nghiệp để vừa thỏa mãn nhu cầu thị trường Đông Dương vừa kiếm
được nhiều lợi nhuận và có khả năng cạnh tranh ở Viễn Đông. Người Pháp đã lợi
dụng giá công nhân rẻ mạt kết hợp với lao động chân tay thô sơ để nhờ đó mà
chúng bóc lột được nhiều và lợi nhuận thì ngày càng tăng.
2.3. Tình hình giao thương, buôn bán
Trong thời kì này, nhà Nguyễn nắm độc quyền buôn bán một số mặt hàng, hạn chế
trao đổi giữa các vùng, cấm lập thêm chợ. Thị trường trong nước chưa thực sự
thống nhất. Về ngoại thương, nhà nước thi hành chính sách “bế quan toả cảng"
nghiêm ngặt khiến cho nền kinh tế Việt Nam không có điều kiện giao lưu, mở rộng
buôn bán với các nước bên ngoài. Bên cạnh đó còn xuất hiện tình trạng các thương
nhân nước ngoài lấn át thương nhân trong nước mà triều đình lại không thể kiểm
soát nổi thực trạng ấy.
Sau khi bị thực dân xâm lược, dưới nhiều sức ép, triều đình đã quyết định mở cửa
khẩu để giao thương, buôn bán với các nước bên ngoài. Nhưng vì chưa có kinh
nghiệm, chuyên môn nên triều đình đã không kiểm soát được, dẫn đến khủng
hoảng, gây nên nhiều hậu quả tai hại.
2.4. Tình hình văn hoá - giáo dục
Các yếu tố văn hóa, văn minh phương Tây đã xuất hiện ở nước ta từ rất lâu nhưng
do thái độ và đường lối sai lầm của triều đình nhà Nguyễn, nó không có điều kiện
phát huy ảnh hưởng trong đời sống xã hội. Chỉ đến khi Pháp tiến hành xâm lược
Việt Nam, các yếu tố văn hóa, văn minh Tây phương mới có điều kiện phát huy ảnh hưởng.
Một số phong tục tập quán, truyền thống, luân thường đạo lý của nền văn hóa
thuần nông bị phá vỡ, thay vào đó là sự xuất hiện của những yếu tố mới là văn hóa
công thương. Lúc này, những tư tưởng chính trị - đạo đức của Nho gia dần dần bị
lay chuyển mạnh mẽ, người ta biết đến nhiều hơn những giá trị văn hóa tiến bộ trên
thế giới so với việc đề cao tự do cá nhân và đạo đức con người. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Có thể nói, Nguyễn Trường Tộ là người trí thức tân học đầu tiên ở nước ta với
những tư duy khác biệt so với bậc sĩ phu tiền bối Nho học lúc bấy giờ. Mang trong
lòng yêu nước thương dân nồng nàn nhưng trong bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ
XIX với chế độ phong kiến đang suy yếu và khủng hoảng trầm trọng. Với mâu
thuẫn chủ yếu đó là nông dân với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn này gắn bó,
tác động lẫn nhau đòi hỏi cần được giải quyết đồng thời với yêu cầu bức thiết của
cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là “Độc lập dân tộc và người có ruộng”. Tư tưởng
canh tân của Nguyễn Trường Tộ được hình thành trong bối cảnh xuất thân và lịch
sử cùng với nền tảng ái quốc sâu sắc, đó là sự kết hợp giữa trách nhiệm của một
bậc chân Nho với tri thức khoa học, viễn kiến chính trị của một nhà trí thức sớm
được tiếp xúc với tư duy lý luận phương Tây.
II. TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ 2.1. Về kinh tế
Nông nghiệp: Ông để xuất những điều cấp thiết. “Đó là ... các phương pháp làm
hạt nổ và đúc súng, đúc kim loại cùng các môn quang học, cơ học, hoá học,
khai mỏ than”. Bởi vậy, theo ông, phải khai thác các nguồn lợi quốc gia một cách
có quy mô hiện đại. Cần lập trường dạy kỹ thuật, kỹ nghệ trong nước, cử người đi
du học nước ngoài và mua máy móc kỹ thuật để dùng, lấy mẫu về rồi tự chế
tạo. Nguyễn Trường Tộ coi trọng vấn đề cải tiến kỹ thuật, đặt chức “nông
quan” phụ trách về nông nghiệp và thủy lâm tại các địa phương, phổ biến rộng rãi
các kiến thức nông nghiệp cho nhân dân. Đặc biệt, đối với nước ta hồi đó là nước
nông nghiệp nên ông nhấn mạnh vai trò nông nghiệp. Ông viết: “Nông nghiệp là
gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác cho đời sống đều nhờ vào đó” [1]. Do vậy,
trong học thuật cần có khoa Nông chính, dạy thiên văn nông nghiệp, địa lý nông
nghiệp, thực vật học, đề nghị lập ngạch quan nông chính, là người có tri
thức khoa học nông nghiệp; đề nghị khai hoang, mở mang thủy lợi, đo đạc, đánh
giá lại ruộng tốt, đất xấu. Ngoài ra, ông đề nghị triều đình chú ý đến việc thay đổi
công nghệ sản xuất, từ sản xuất thủ công sang máy móc để sản xuất được nhiều,
chú ý tạo ra kỹ năng sản xuất mới bằng việc khéo léo lợi dụng người phương
Tây, chú ý thay đổi cục diện địch ta bằng lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
Thương nghiệp: Ông chủ trương thực hiện giao lưu hàng hóa cả ngoại
thương và nội thương. Mở cửa thông thương và đầu tư, khai thác tiềm năng của đất
nước. Khuyến khích xuất khẩu nông, lâm, hải và khoáng sản bởi “đó là một điều
lợi lớn”. Hợp tác với các hội nước ngoài để khai thác mỏ và luyện kim, chế tác
khí cụ và đóng tàu thuyền. Tổ chức buôn bán vật dụng trong nước; đào kênh
nối liền Hải Dương đến Huế để tiện chuyên chở hàng hóa. Triều đình nên nắm
việc vận tải, tổ chức buôn bán với nước ngoài. Ông đề xuất với triều đình Huế tăng
cường mở rộng ngoại thương xuất khẩu hàng hóa bằng cách: “Cho tàu bè nhà nước
chở sản vật nước ta ra bán cho các nước, rồi lại chở về nước mình những hàng cần
dùng mà nước mình không có…” . Không những xuất khẩu hàng hóa mà ông
còn chủ trương học tập và ứng dụng kỹ thuật công nghệ của các nước tiên tiến.
Trong điều trần về việc mua và đóng thuyền máy (Di thảo số 6) và việc đào tạo
người điều khiển, sửa chữa thuyền máy (Di thảo số 7), Nguyễn Trường Tộ đề
nghị: Phải chọn người mua các thiết bị thay thế kèm theo tài chính cần công
bằng và hợp lý trong việc thu thuế, đo đạc ruộng đất, kê khai dân số hàng năm để
tránh thất thu, gian lận. Tăng thuế và đánh thuế nặng với sòng bạc, rượu, thuốc lá
và các mặt hàng xa xỉ ngoại nhập để bảo vệ mặt hàng nội địa, đánh thuế với nhà giàu..
2.2. Về giáo dục – văn hoá – xã hội
Giáo dục :chủ trương phát động học tập, phổ biến rộng rãi kinh nghiệm, sáng kiến
trong nhân dân; bổ sung một số môn học, gửi học sinh sang các nước học ngoại
ngữ, các môn khoa học hiện đại. Dùng quốc âm thống nhất, biên soạn từ điển, phổ
biến trong nhân dân cho dễ học, dễ hiểu.
văn hóa - xã hội: Lập nhà in, xuất bản sách, báo để nâng cao trình độ dân trí. Đồng
thời, kiểm soát, hạn chế, cấm đoán các loại sách độc hại, xây dựng nếp sống văn
hóa. Nguyễn Trường Tộ cũng chống lại luật lệ không cho dân đi xe, đi giày.
2.3 . Về ngoại giao
Tư duy bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn , không giao thiệp với các
phương tây không giúp được nhà Nguyễn trách được sự xâm lược của các nước
phương tây , mà còn bỏ qua cơ hội phát triển kinh tế đất nước , Chính sách đối
ngoại của nhà Nguyễn thời kỳ này không phải là một chính sách khôn khéo . Do đó
Nguyễn Trường Tộ đã cho rằng để bảo vệ được độc lập dân tộc thì không phải thực
hiện chính sách ‘ Bế Quan Tỏa Cảng ’’ như triều Nguyễn đang làm mà cần phải có
chính sách ngoại giao mới. Theo Nguyễn Trường Tộ phải thực hiện chính sách
ngoại giao đa phương, mềm dẻo . Một nước nhỏ phải đối mặt với sự cạnh tranh của
các nước lớn thì cần phải có một chính sách ngoại giao khéo léo , dựa vào tình
hình thực tế lúc bấy giờ Nguyễn Trường Tộ đã nhận thấy rằng ta chưa đủ điều kiện
để đuổi pháp đi được vì vậy Ông đã nghĩ ra một giải pháp đó là đề nghị hòa giải
với Pháp , đồng thời tranh thủ thời gian phát triển kinh tế, quân sự để có đủ thực
lực giành lại độc lập xuyên suốt tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ là hiện đại hóa
theo mô hình châu âu , làm cho đất nước hùng cường để giành lại độc lập, ông đã
tham gia vào nhiều hoạt động thực tiễn như : Tham gia hòa đàm với người Pháp ….
2.4 .Về quốc phòng
Nguyễn Trường Tộ đã chủ trương xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh , đề
nghị hòa giải với pháp để có thể tập trung lực lượng. Ông nhận thức rõ ràng vai trò
của quân đội trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Ông cho rằng : một quốc gia
hữu sự, nếu không có vũ lực trấn áp thì cả quốc gia, quan quyền, dân thủ, luật lệ,
chính sự, pháp độ đều phải giao vào tay quân địch’’( )
1 . Chính Vì thế Nguyễn
Trường Tộ đã chủ trương cải cách lại quân đội , Nguyễn Trường Tộ đã cải cách
quân đội bằng cách nâng cao sức mạnh quân đội bằng việc chủ trương thay đổi tổ
chức quân đội thay vì theo chế độ quân đội cũ, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra đề
xuất là tổ chức quân đội theo nguyên tắc có khoa học , hiện đại , phân chia cấp bậc
thì được dựa vào năng lực của từng người . Và để có một quân đội hùng mạnh thì
không thể thiếu được những vũ khí hiện đại chính vì thế ông đã có chủ chương
mua sắm những trang thiết bị hiện đại từ phương tây, từ đó nâng cao được sức
chiến đấu của quân đội . Ngoài ra Nguyễn Trường Tộ Còn thúc đẩy sự phát triển
của nền công nghiệp quốc phòng bằng việc tăng cường đầu tư phát triển nền công
nghiệp quốc phòng , thúc đẩy phát triển các trang bị , vũ khí , khuyến khích mọi
người tham gia vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực quân sự .
2.5 .Về kiến trúc
Nguyễn Trường Tộ là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực kiến trúc
tại Việt Nam vào thế kỷ XIX , Ông được giáo dục tiên tiến và có cơ hội tiếp xúc
với kiến trúc châu Âu, đặc biệt là kiến trúc Pháp . Chính Vì thế Ông có những tư
duy kiến trúc rất mới , Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ về lĩnh vực kiến
trúc được thể hiện ở chỗ ông muốn đưa kiến trúc Việt Nam nên một giai đoạn
mới , hiện đại hơi bằng việc thay đổi những tư duy kiến trúc cũ hướng tới xã hội
hiện đại tiện nghi , phù hợp với xu thế phát triển của thế giới , và học hỏi từ các
nước phương tây nhưng vẫn phải giữ sự hài hòa giữa kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại .
TIỂU KẾT CHƯƠNG II :
Nguyễn Trường Tộ là một nhân vật lớn, lạ và hiếm của Việt Nam thế kỷ XIX. Với
tầm nhìn xa và rộng khắp, ông vạch ra con đường canh tân đất nước và kiên nhẫn
chấp nhận sự trớ trêu của lịch sử, bi kịch của chính cuộc đời mình để phụng sự lợi
ích đất nước, lợi ích Nhân dân. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ được
hình thành trên nền tảng ái quốc, là sự kết hợp giữa trách nhiệm của một bậc chân
Nho với tri thức khoa học, viễn kiến chính trị của một trí thức sớm được tiếp xúc
với tư duy khoa học duy lý phương Tây. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường
Tộ khá toàn diện, phù hợp và thiết thực. Các quan điểm lớn nhất là: Đa phương về
ngoại giao; tùy vào từng thời điểm cụ thể mà ưu tiên các quan hệ quan hệ khác
nhau để điều phối các thế lực, từ đó khắc chế các đe dọa đến an ninh, lợi ích của
đất nước.Tuy nhiên, Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ không được triển
khai vì thời cơ chưa đến. Các Vua Nguyễn bất lực, không dám cải cách trong lúc
có cản trở rất lớn là quân đội thực dân Pháp mặc dù nhu cầu cải cách rất lớn. Nếu
không có quyền lực, nhà cải cách chỉ có thể dừng lại ở tầm mức nhà tư tưởng, ở
vai trò thiết kế chứ không thể thi triển thành công Nguyễn Trường Tộ nằm trong
trường hợp này nên ông không có quyền lực để thực thi tư tưởng của mình.
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
1. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
Từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986, Việt Nam chính
thức bước vào công cuộc đổi mới đất nước. Cho tới nay, Đảng và Nhà nước đã có
những chính sách cụ thể để cải cách trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Một
trong số đó chính là kế thừa và phát huy những tư tưởng canh tân của những nhà tư
tưởng đi trước, đặc biệt là nhà tư tưởng Nguyễn Trường Tộ - ông là 1 nhà tư tưởng
lớn của Việt Nam trong thế kỷ XIX. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những giá
trị tốt đẹp trong tư tưởng ấy để đưa ra những giải pháp phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau 1.1. Về kinh tế
Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất một tư duy kinh tế mới, lấy lợi ích, lấy hiệu quả, lấy
việc phát triển nguồn của cải xã hội làm mục đích.
Về nông nghiệp, ông đã có những tư duy về kinh tế vô cùng mới mẻ so với thời đại
lúc bấy giờ. Nước ta thời đó mang những nét tư tưởng kinh tế, tư duy làm ăn của
làng xã. Do những điều kiện về địa lý, tài nguyên, địa hình nước ta 2/3 diện tích là
ruộng đất nên việc người dân trọng ruộng đất, trọng nông nghiệp là vô cùng dễ
hiểu. Họ coi nông nghiệp là gốc rễ trong kinh tế và coi thường công thương
nghiệp. Điều này đã làm hình thành nên lối tư duy “trọng nông ức thương” ăn sâu
vào tiềm thức mỗi người dân, thể hiện rất rõ trong những câu ca dao, tục ngữ xưa
như “tấc đất tấc vàng”, “có thực mới vực được đạo”. Cuộc sống của người dân cả
đời gắn bó với con trâu, con bò, cái cày, cái cuốc. Trong quá trình phát triển, công
thương nghiệp cũng bắt đầu du nhập vào nước ta nhưng người dân vẫn quan niệm
việc buôn bán là lừa gạt và bóc lột, họ thường mỉa mai và gọi những người buôn
bán là “dân buôn, con buôn”. Chính những định kiến này đã trói buộc nền kinh tế
hàng hóa nước ta chậm phát triển. Người dân có lối tư duy “không thành công thì
cũng thành nhân” và coi thường lợi ích vật chất. Họ thà “an bần, lạc đạo” mà
“nhàn” còn hơn là bon chen, chạy theo lợi ích tiền tài. Quan niệm “Ngồi mát, ăn
bát vàng” hay “Ăn đói nằm co, hơn ăn no phải làm” đã triệt tiêu năng lực và khát
vọng, ngăn cản sự phát triển kinh tế.
Người dân đang bừa ruộng dưới thời nhà Nguyễn (Nguồn: Việt Sử Ký)
Chính vì nhìn ra được những yếu kém, hạn chế trong tư duy kinh tế lúc bấy giờ,
Nguyễn Trường Tộ đã ra sức đấu tranh, phản bác lại những tư tưởng đó, ông có cái
nhìn vượt thời đại. Bằng chứng là Nguyễn Trường Tộ luôn muốn đưa khoa học vào
việc sản xuất nông nghiệp ở nước ta, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào
kênh, đắp đê, xây dựng những công trình thủy lợi. Chính nhờ những tư duy vượt
thời đại đó, ngày nay kinh tế nước ta đang dần được phát triển. Nước ta đã áp dụng
nhiều công nghệ vào công cuộc sản xuất như: công nghệ sinh học, công nghệ nhà
kính hay công nghệ tưới nhỏ giọt, … Hệ thống đê điều cũng được xây dựng với
quy mô lớn, có thể kể tới hệ thống đê sông Hồng, là 1 hệ thống đê có quy mô lớn
và hoàn thiện với tổng chiều dài 1314 km và rất nhiều những công trình thủy điện có tiếng.
Đê chống ngập sông Hồng (Nguồn: Báo tài nguyên và môi trường)
Về thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ đề cao việc phát triển ngoại thương, mở cửa
kêu gọi đầu tư với các nước bên ngoài, ông cho rằng cần có sự trao đổi, mua bán
với các nước bên ngoài chứ không nên chỉ buôn bán trong nước. Nên mở rộng cửa
biển cho tàu nước ngoài vào buôn bán. Nước ta nên tận dụng những thế mạnh,
những mặt hàng có sẵn để trao đổi mua bán với những nước khác đem lại nhiều
mặt hàng phong phú, bán cái chúng ta có và mua cái chúng ta cần. Đây là một lối
tư duy cải cách vô cùng mới mẻ và có giá trị cho tới tận ngày nay. Việc xuất nhập
khẩu hiện nay ở nước ta vô cùng phát triển, Việt Nam là 1 trong những nước đứng
thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Nước ta còn mở cửa, giao lưu buôn bán với
rất nhiều các quốc gia lớn trên thế giới trong đó có cả Mỹ và Trung Quốc. Mới
đây, năm 2023 Việt Nam là đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, là bước nhảy vọt
lớn trong công cuộc cải cách mở cửa
Xuất khẩu gạo ở Việt Nam (Nguồn: Báo dân tộc và phát triển)
Về tài chính, những tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ cũng mang lại rất nhiều giá
trị. Ông cho rằng việc đóng thuế là nghĩa vụ của nhân dân nhưng thuế phải công
bằng và hợp lý. Nguyễn Trường Tộ rất quan tâm và chú trọng tới thực trạng không
chính xác trong sổ sách thời bấy giờ, ruộng đất thì luôn thay đổi nhưng con số
trong sổ sách không cập nhật dẫn tới nguy cơ trốn thuế, lậu thuế càng nghiêm trọng
cho nên ông đã đề nghị chấn chỉnh thuế nhưng không phải vì mục đích tăng thuế
mà là để tránh việc gian lận thuế. Cần phải xem xét và cân bằng từng mức thuế,
ngoài ra, nhà nước cần lựa chọn những quan lại liêm minh, chính trực để tránh
tham ô. Thật vậy, công tác quản lý, thu chi ngân sách nhà nước, thu nộp thuế ngày
nay cũng được nhà nước ta vô cùng chú trọng. Trong mỗi kỳ họp, Đảng và Nhà