Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay | Luận văn chính trị học
Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với dân. Ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác những giá trị tích cực và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
z LUẬN VĂN:
Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo khởi nguồn từ Trung Quốc, được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc,
được "Việt Nam hóa" trong suốt một chặng đường lịch sử, góp phần đáng kể vào việc tạo
dựng nền văn hiến Việt Nam. Bao đời từng là hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc
thượng tầng Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến con người và xã hội, chính trị
và văn hóa, cuộc sống và lẽ sống, hệ tư tưởng và phong tục tập quán Việt Nam. Nho giáo
trở thành một bộ phận của truyền thống dân tộc. Dù muốn hay không, Nho giáo vẫn đang
chi phối xã hội Việt Nam ngày nay. Con người Việt Nam dù tự giác hay không tự giác,
vẫn còn dấu ấn của Nho giáo. Truyền thống văn hóa quá khứ của dân tộc bao gồm sách
vở, đền đài, miếu mạo, phong tục tập quán mang sắc thái Nho giáo vẫn còn đó. Một Văn Miếu Quốc Tử Giám với
82 tấm bia tiến sĩ sừng sững uy nghiêm không chỉ được xem là một trong những biểu
tượng của văn hóa Thăng Long - Hà Nội, mà còn được xem là kỷ vật thiêng liêng, ngưng
tụ lại một nền văn hóa truyền thống được nhiều thế hệ Việt Nam trân trọng tự hào.
Nhưng truyền thống là do quá khứ để lại, có nhiều điều không phù hợp với xã hội hiện
đại. Mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo đã bị thủ tiêu, nhưng những tàn dư dai
dẳng của nó đã và đang trở thành lực cản của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt
nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế thị trường đã đẩy nhanh sự tăng trưởng về kinh
tế, đem lại bộ mặt mới cho xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường cũng đang
tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, trong gia đình và phẩm chất cá nhân. Trong
cán bộ, nhân dân đã có những biểu hiện tiêu cực, thể hiện ở trong cả nhận thức và hành
động: tư tưởng thực dụng, chạy theo đồng tiền làm cho một bộ phận xa rời lý tưởng, suy
thoái về phẩm chất đạo đức; nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn
xã hội khác đang có chiều hướng gia tăng. Những chủ trương biện pháp khắc phục tình
trạng nói trên không thể không đụng chạm tới nhiều vấn đề liên quan đến Nho giáo, nhất
là khi Nho giáo đã từng tồn tại hàng ngàn năm ở nước ta, để lại những căn bệnh trầm
trọng như bệnh bảo thủ, quan liêu, giáo điều, chủ
nghĩa bình quân. Đến nay những căn bệnh đó vẫn còn tồn tại với nhiều biểu hiện khác nhau.
Đường lối đổi mới ở Việt Nam và triển vọng lớn lao của nó không thể tách rời việc khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo và sau đó khai thác những nhân tố tích cực
để biến thành truyền thống Việt Nam trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Nho giáo là vấn
đề quá khứ nhưng cũng là vấn đề hiện tại. Nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho giáo để
nhìn nhận, đánh giá rõ hơn những yếu tố không còn phù hợp, những phản giá trị cần gạt
bỏ, đồng thời kế thừa những tinh hoa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện
nay dưới góc nhìn của chính trị học có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực
tiễn. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Nho giáo là đề tài được nhiều nhà khoa học trong nước và ngoài nước nghiên cứu, cho
đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải có sự đi sâu tìm hiểu và khám phá.
ở Việt Nam, trong mấy thập kỷ nay, không kể các bài in trên tạp chí, chỉ nói riêng các tác
phẩm nghiên cứu về Nho giáo, thì đã có một số lượng đáng kể:
+ Tác phẩm "Nho giáo" (2 tập) của Trần Trọng Kim được xuất bản trước năm 1930 và từ
đó đến nay đã được tái bản nhiều lần, gần đây nhất là năm 1992. Đây là bộ sách lớn giới
thiệu về lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc từ Khổng Tử cho đến đời Thanh, trong đó có
một số trang phụ lục, tóm tắt về sự du nhập và phát triển đạo Nho ở Việt Nam; là tác
phẩm tiếng Việt đầu tiên trình bày về sự phát triển của đạo Nho một cách có hệ thống.
+ Tác phẩm "Khổng học đăng" của Phan Bội Châu, được soạn thảo vào những năm đầu
thập kỷ 30 của thế kỷ XX, xuất bản năm 1957 và được tái bản năm 1998, bàn luận và
diễn giải về một số tác phẩm tiêu biểu của nhà Nho cũng như sự nghiệp của họ thuộc các thời ở Trung Quốc.
+ "Nho giáo xưa và nay" do giáo sư Vũ Khiêu chủ biên, xuất bản năm 1990 gồm một số
bài viết của một số tác giả đề cập tới nhiều vấn đề của Nho giáo từ phương hướng,
phương pháp tiếp cận, đến quan hệ của Nho giáo với kinh tế, lịch sử, văn hóa.
+ "Nho giáo xưa và nay" của nhà nghiên cứu Quang Đạm, xuất bản năm 1994, phân tích
sâu sắc những nội dung cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
+ "Đến hiện đại từ truyền thống" của cố giáo sư Trần Đình Hượu, xuất bản năm 1994,
gồm những bài viết về Tam giáo, đặc biệt là ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa Việt Nam.
+ "Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn" của
PGS.TS Nguyễn Tài Thư, xuất bản năm 1997, dưới góc độ triết học đã trình bày nội
dung của Nho học và vai trò của nó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
+ "Nho giáo và phát triển ở Việt Nam" của giáo sư Vũ Khiêu, xuất bản năm 1997, đã
nhìn nhận, đánh giá vai trò của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và một số vấn đề của
Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
ở nước ngoài, trong tác phẩm "Nho gia với Trung Quốc ngày nay", Vi Chính Thông đã
vạch rõ những mặt tích cực và hạn chế của Nho giáo trong xã hội Trung Quốc hiện đại...
Trên đây là một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về Nho giáo trên các phương diện:
giới thiệu tác giả, tác phẩm; đánh giá vai trò của một số nhà Nho tiêu biểu, phân tích
những nguyên lý cơ bản của Nho giáo; ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam. Tuy
nhiên, hầu hết các công trình đều nghiên cứu Nho giáo dưới góc độ triết học, lịch sử,
hoặc các vấn đề riêng lẻ. Chưa có một công trình nào đề cập một cách có hệ thống tư
tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã đạt, dưới góc độ của chính trị học, luận văn này
đi sâu nghiên cứu tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo, đồng thời làm rõ ảnh hưởng
của Nho giáo đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu Mục đích
Luận văn làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, từ đó góp thêm tiếng nói vào việc tìm giải pháp khai
thác những giá trị tinh hoa và loại bỏ những hạn chế của nó trong đời sống xã hội nước ta hiện nay. Nhiệm vụ
- Làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo. Chỉ rõ những giá trị tích cực
của Nho giáo cần được kế thừa, phê phán những hạn chế, những tàn dư của Nho giáo
còn rơi rớt lại trong đời sống xã hội Việt Nam.
- Bước đầu kiến nghị những giải pháp nhằm khai thác những giá trị tinh hoa
trong tư tưởng chính trị của Nho giáo đồng thời loại bỏ những tàn dư của nó trong đời sống xã hội Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không có tham vọng giải quyết tất cả các vấn đề của Nho giáo mà chỉ tập trung
làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo, những ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phê phán và
vận dụng những giá trị truyền thống của dân tộc và nhân loại.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích
và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội, sử dụng kiến thức liên ngành chính trị - văn hóa - lịch sử...
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày một cách có hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo theo
quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Làm rõ ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu cho việc khai thác những giá trị tích cực và
loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị Nho giáo trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần giải đáp một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện nay,
đó là kế thừa và loại bỏ những gì trong tư tưởng chính trị của Nho giáo.
- Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy môn Lịch sử tư tưởng chính trị - phần Lịch sử tư tưởng phương Đông.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết. Chương 1
Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ VII Tr. CN, các yếu tố đầu tiên của hệ tư tưởng Trung Quốc đã
xuất hiện. Một số yếu tố đó được đúc kết và nâng cao thành đạo Nho, một số trở thành
đạo của Mặc gia, Pháp gia... Trong đó đạo Nho xuất hiện sớm nhất (thế kỷ VI Tr. CN).
Khổng Tử (551 - 479 Tr. CN) là người đầu tiên sáng lập đạo này. Những người kế
tục nổi tiếng là Mạnh Tử (372 - 289 Tr. CN) và Tuân Tử (298 - 238 Tr. CN).
Hơn 2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc, các triều đại kế tiếp nhau đều xem
Nho giáo là cơ sở tư tưởng của đạo trị nước. Vì vậy, khi xã hội lâm vào khủng hoảng,
người ta quy cho là tại triều đại không sáng suốt, không có vua hiền tướng giỏi, không
thực hiện các nguyên lý của đạo Nho. Vấn đề đặt ra là thay đổi triều đại chứ không phải
thay đổi học thuyết thống trị. Điều đó làm cho Khổng Tử được xem là ông thầy của
muôn đời (vạn thế sư biểu) và Nho giáo được xem là học thuyết thống trị không thể thay thế.
Là học thuyết của xã hội phong kiến, do xã hội phong kiến sản sinh ra, bản thân Nho
giáo cũng nêu lên một số nguyên lý, nguyên tắc, đường lối và phương pháp nhằm bảo
đảm cho xã hội một sự ổn định để vận hành và phát triển. Mục đích lý tưởng của Nho
giáo là xây dựng một nhà nước chuyên chế mạnh, duy trì kỷ cương, tông pháp, đẳng cấp;
quyền lực tuyệt đối thuộc về vua. Người cai trị dùng đạo đức, lễ tiết để làm gương cho
dân chúng, dùng pháp luật có mức độ, dân chúng thì tự giác làm tròn bổn phận của mình.
Gạn lọc trong chiều sâu tư tưởng của Nho giáo, có thể thấy vấn đề về nhà nước, quyền
lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với dân được đề cập khá sâu sắc.
1.1. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với dân
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước
Thời Xuân thu - Chiến quốc là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Trung Quốc (thế kỷ
VII - thế kỷ III Tr.CN). Đó là thời đại quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu
phương Đông sang chế độ phong kiến. Ăngghen đã khẳng định: Các công xã cổ, ở nơi
nào chúng vẫn tiếp tục tồn tại, thì từ hàng nghìn năm nay đều cấu thành cái cơ sở của
hình thức nhà nước thô sơ nhất, tức là chế độ chuyên chế phương Đông. Trong điều kiện
phương Đông cổ đại, bộ máy chính phủ như Mác chỉ ra gồm ba bộ chính:
- Bộ quốc phòng có chức năng cướp bóc các dân tộc khác.
- Bộ tài chính để bóc lột dân sở tại.
- Bộ công vụ đảm nhiệm việc xây dựng và phục vụ có liên quan đến nông nghiệp.
Tất cả điều này đã quyết định sự ra đời một hình thức nhà nước đặc biệt - nhà
nước chuyên chế phương Đông với sự tập trung quản lý rộng lớn, trong đó mọi quyền
lực đều tập trung trong tay một nhà chuyên chế. Nho giáo ra đời trên cơ sở tổ chức chính
trị xã hội đặc biệt đó. Vì vậy tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước của Nho giáo
biểu hiện rõ nét ở chỗ đề cao vai trò của ông vua chuyên chế.
Theo Nho giáo, con người sống không thể tách rời nhau mà có muôn ngàn quan hệ gắn
bó với nhau trong phạm vi những cộng đồng nhất định. Các cộng đồng đó là nhà (gia),
nước (quốc) và thiên hạ. Đương nhiên ngoài phạm vi nhà và từ nhà đến nước còn có
hương, quận, châu. Nho giáo cố ý đồng nhất ba thực thể nhà, nước, thiên hạ theo nguyên
lý bao quát. Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình. Rõ ràng Nho
giáo coi "nước" chỉ là sự mở rộng của nhà. Do nước và nhà chung nhau một gốc, cho nên
nhiều khi Nho giáo dùng phạm trù quốc và gia đồng nhất với nhau. Nho giáo coi mối
quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa nhà và nước là thiêng liêng và sáng tỏ muôn đời. Nói
lên mối quan hệ ấy, Khổng Tử đã nhấn mạnh: muốn trị quốc trước hết phải tề gia. Nước
thành ra là vật sở hữu của một số người có đức sáng, được mệnh trời, giỏi tề gia. Những
hiền nhân quân tử đi từ tề gia đến trị quốc có cương vị đứng đầu cả nhà và nước thì được
Khổng Tử xác nhận là kẻ có nước, có nhà hoặc là những kẻ có quốc gia để cai trị. Từ bậc
thang "tề gia" đi lên, thế lực mạnh nhất, có uy tín và quyền lực lớn nhất trong giai cấp
chiếm hữu tư liệu sản xuất dần dần trở thành kẻ trị quốc. Con đường đi từ nhà đến nước
như vậy được Nho giáo cho là đúng đắn, hợp với đạo trời đất, đạo của người. Nhà và
nước gắn với nhau, lồng vào nhau. Nước mà Nho giáo nói ở đây
không chỉ là đất nước mà còn được hiểu là nhà nước. Nhà nước thời đó - thời có thiên
tử và chư hầu còn có tên gọi tiêu biểu là triều đình và triều - thuộc quyền chuyên chế
của cá nhân vua cùng với gia tộc và tông tộc nhà vua.
Nho giáo quan niệm rằng đã là xã hội thì tất phải có quyền tối cao để giữ kỷ cương xã
hội. Quyền ấy gọi là quân quyền. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương (vua). Vua
phải lo việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, dạy dỗ và mở mang dân. Là người chủ đất
nước, nhà vua Nho giáo thống trị với một quyền uy tối thượng. Nhà vua điều hành mọi
công việc của Nhà nước, sử dụng và bãi chức đối với toàn thể giới quý tộc và quan lại.
Nho giáo nhắc nhở rằng: Dưới gầm trời không chỗ nào chẳng phải đất của nhà vua, trên
mặt đất không người nào chẳng phải bề tôi của vua. Với tư cách là người chủ đất đai, nhà
vua chỉ đạo việc sử dụng đất đai, quyết định mức thuế và sự đóng góp của nhân dân.
Nắm kho tàng của Nhà nước, quản lý toàn bộ ngân khố và thóc, nhà vua là người ban ơn
cho toàn thể nhân dân, được mọi người phục tùng một cách tuyệt đối. Như vậy quyền uy
của nhà vua là tuyệt đối. Quyền uy ấy thể hiện trên mọi lĩnh vực. Nhà vua vừa là người
trực tiếp quản lý kinh tế, tổ chức hành chính, thực hiện pháp luật, chỉ huy quân sự, giáo
dục đạo đức và đứng đầu tôn giáo.
Để quản lý lãnh thổ rộng lớn, nhà vua sắp xếp một bộ máy quan liêu từ Trung ương đến
địa phương. Lúc đầu bộ máy nhà nước bao gồm những quý tộc thuộc dòng họ vua. Sau
đó các quan chức triều đình được tuyển lựa trong hàng ngũ Nho sĩ đã qua các kỳ thi.
Dùng bộ máy quan liêu, lựa chọn khoa cử và đội quân thường trực, ông vua chuyên chế
đã tìm ra phương án tối ưu để nắm giữ quyền lực. Nho giáo từ trước đến sau luôn luôn đề
cao và bảo vệ danh nghĩa, thế lực của ông vua chuyên chế đó. Để cho "chính" các "danh"
của người nắm quân quyền, Nho giáo chủ trương thuyết Thiên mệnh. Thuyết này coi trời
là cha chung, ngôi vua được trời lựa chọn, giao cho cai quản đất nước và thần dân. Vua
cũng là cha chung. Do mệnh trời mà có mệnh vua. Nhưng Nho giáo cũng nhấn mạnh:
mệnh trời không phải cho mãi một người, ai làm điều lành thì được điều ác thì mất. "Duy
mệnh bất vu thường, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ" [4, tr. 27]. Vì vậy,
người làm đế vương tuy quyền uy rất to, thế lực rất mạnh, nhưng không được lạm dụng
quyền ấy để làm điều tàn bạo.
Thuyết "Thiên mệnh" với phương châm an phận theo địa vị của mình, không mong gì ở
bên ngoài đã đè nặng lên đời sống tinh thần, của dân tộc Trung Hoa và các dân tộc tôn
sùng Nho giáo suốt nhiều thế kỷ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tôn
ti, trật tự phong kiến duy trì quá lâu, triệt bỏ sức vươn lên của con người.
Tuy nhiên, có thể thấy tư tưởng tôn quân, thuyết Thiên mệnh đã đáp ứng được đòi hỏi
bức thiết của lịch sử Trung Hoa thời bấy giờ, đó là thống nhất dân tộc, xây dựng chính
quyền Trung ương tập quyền.
1.1.2. Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Tư tưởng về dân
Tư tưởng về dân của Nho gia được hình thành rất sớm, trải qua quá trình đấu tranh gay
gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn định và được chế độ chuyên chế thừa nhận làm đạo
lý, làm tinh thần lập pháp.
Khái niệm "dân" theo Khổng Tử bao gồm: sĩ, nông, công, thương. Sự phân chia này
không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu mà theo ngành nghề. Đây cũng là bậc thang giá trị xã
hội. Nó phản ánh một nền kinh tế tiểu nông khép kín, tự cấp tự túc, công thương nghiệp chưa phát triển.
Khái niệm "dân" của Mạnh Tử lại gồm: kẻ sĩ, người cày ruộng, người buôn bán và người
đi đường. Kẻ sĩ là trí thức, muốn theo đuổi địa vị để kiếm bổng lộc, người buôn bán và
người đi đường thì phần đông là thương nhân kiêm địa chủ. Còn hạng mà Mạnh Tử gọi
là "người cày ruộng" thực ra không còn là nhà nông mà chủ yếu là bọn địa chủ mới có
nông sản đem bán. Cho nên khái niệm dân của ông chủ yếu là hạng trí thức, địa chủ và thương nhân.
Như vậy theo quan niệm của Nho giáo, dân thông thường là những người không có địa vị
gì, công vụ gì trong bộ máy thống trị, cũng có khi bao gồm cả mọi người trong một
nước, trong thiên hạ nói chung. Trong kinh điển Nho gia, ta còn gặp những danh từ như:
"Thứ dân", "lê dân", "thảo dân", "xích tử", "thương sinh" cũng là để chỉ đông đảo người dân lao động.
Mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Trong mối quan hệ với nhà nước, quyền lực nhà nước mà người đứng đầu là vua, dân có
vai trò rất lớn. Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò của dân tới sự tồn vong của triều
đình. Trong ba yếu tố để triều đình bền vững thì dân là yếu tố quyết định. Ba yếu tố đó
là: đất đai, nhân dân và chính sự. Về chính sự, Nho giáo lại nhấn mạnh ba điểm: túc thực,
túc binh, dân tín (nghĩa là lương thực phải đủ để nuôi dân, binh lực phải mạnh để bảo vệ
dân, lòng tin của dân, trong đó lòng tin của dân là điều quyết định nhất).
Không phải ngẫu nhiên và tùy tiện mà Nho giáo đi tới chỗ coi dân là trời: "Vua lấy dân
làm trời". Lịch sử cho thấy mặc dù vua là "thiên tử", là "đấng chí tôn" vâng mệnh trời để
bình thiên hạ, là cha của muôn nhà, mẹ của muôn dân, là kẻ chăn người (nhân mục),
nhưng vua cũng chỉ là một con người. Dân rất hiền lành, những thảo dân, lê dân, xích tử
hiền như nước nhưng lại có sức mạnh to lớn. Vua chúa muốn sống được phải nhờ đến
dân. Dân "lao lực" làm ra lương thực, vua chúa "lao tâm" để trị người thì phải ăn của
người, cụ thể là ăn ở dân, do dân nuôi. Nếu áp bức dân tàn bạo để dân phải vùng lên thì
vua - người nắm giữ trong tay quyền lực nhà nước chỉ đi tới chỗ diệt vong.
Mạnh Tử đã nêu lên một quan điểm nổi tiếng về mối quan hệ giữa vua, xã tắc và dân:
"Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Đây là tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là đối với
một xã hội mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị của các triều vua. Đem dân ra cân nhắc
với vua, nêu rõ vai trò của dân trong thời loạn lạc, khẳng định dân là quý, Mạnh Tử đã
thể hiện rõ tư tưởng lấy dân làm gốc của mình. Mạnh Tử và các nhà Nho đều mong
muốn có một cuộc sống hữu đạo, một cảnh nước thịnh trị và thiên hạ thái bình với
những quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Trong phạm vi cả nước, cả thiên hạ, mối
quan hệ được nêu lên trước hết là mối quan hệ "quân thần". Quan hệ giữa vua với dân là
phần mở rộng của mối quan hệ ấy.
Mạnh Tử cho rằng, quan trọng nhất là được dân hay mất dân, mà sở dĩ được dân là vì
được lòng dân và mất dân là vì mất lòng dân. Ông so sánh và giải thích rằng: được lòng
dân thì làm đến ngôi thiên tử; được lòng thiên tử chẳng qua làm đến chư hầu; được lòng
với vua chư hầu chẳng qua làm đến quan đại phu; vua Kiệt, vua Trụ mất thiên hạ vì mất
dân, mất dân là vì mất lòng dân. Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú trọng đến dân. Ông yêu
cầu những người cầm quyền phải biết lo đến hạnh phúc của dân, cùng
dân hưởng phú quý, cùng dân chịu sự lo lắng, như thế dân sẽ một lòng một dạ đi theo:
"Người vui cái vui của dân, thì dân cũng vui cái vui của mình; người lo cái lo của dân
thì dân cũng lo cái lo của mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ mà lo, thế mà không làm
vương thì chưa có vậy" [26, tr. 248].
Ông coi trọng việc cải thiện đời sống của dân là "điều gốc", là trách nhiệm của người
cầm quyền: "Đáng minh quân chế định tài sản của dân, ắt là khiến cho ngửng lên đủ thờ
cha mẹ, cúi xuống đủ nuôi vợ con, năm được mùa thì no luôn, năm mất mùa không đến
nỗi chết. Được như thế rồi mới bắt dân làm điều lành, thì dân làm điều lành dễ lắm" [26, tr. 249]
Đề cập tới quan điểm này của Mạnh Tử, nhiều người cho rằng, Mạnh Tử đã đi trước các
nhà tư tưởng của cách mạng dân chủ tư sản Anh, Pháp gần 2000 năm.
Không thể phủ nhận quan điểm về dân của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ, nhưng nếu đứng
trên lập trường giai cấp mà xét thì ông không có tư tưởng dân chủ thực sự. Mặc dù Mạnh
Tử đã thực sự dũng cảm khi nói: "dân vi quý", nhưng không có nghĩa là ông có tư tưởng
đấu tranh cho nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ sơn hà xã tắc, làm chủ vận mệnh của
mình. Kể cả khi ông chủ trương một nền chính trị được lòng dân, quan tâm đến dân để
làm cho "dân có hằng sản", từ đó "có hằng tâm" thì cũng không ngoài mục đích điều hòa
mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp thống trị và nhân dân.
Tuân Tử khi nói về sức mạnh của dân đối với nhà nước đã chỉ rõ: vua là thuyền, thứ dân
là nước. Nước chở thuyền, nước có thể lật thuyền.
Khổng Tử khi nói về dân và chính sách trị dân đã nhấn mạnh các điều: dưỡng dân, giáo
dân và chính hình; trong đó dưỡng dẫn là yếu tố quan trọng. Bất kỳ chính thể nào, nhà
cầm quyền nào cũng phải coi trọng việc dưỡng dân. Nếu khéo dưỡng dân thì nước trị,
nhà cầm quyền được dân quý, ngược lại thì nước loạn, dân sẽ bỏ đi nơi khác hoặc nổi
loạn, chính quyền sớm muộn cũng bị lật đổ. Dưỡng dân để làm cho dân no đủ, giàu có;
đánh thuế nhẹ dân; khiến dân làm việc hợp thời; phân phối bình quân để dân không bị
bóc lột mà được no đủ.
Điều đó cho thấy Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của dân đối với nhà
nước và quyền lực nhà nước, song họ đã không vượt qua được hạn chế về mặt
giai cấp và thời đại, do đó đối với Nho giáo không có tư tưởng dân chủ thực sự, tất cả
đều nhằm nắm chặt lấy dân để dễ bề sai khiến, cai trị.
Mặc dù vậy, tư tưởng của Nho giáo về dân, về mối quan hệ giữa dân với quyền lực nhà
nước vẫn hàm chứa nhiều giá trị mà người cầm quyền xưa và nay không thể không chú ý. Đó là:
- Phải biết tranh thủ dân và nắm lấy dân.
Dân là quý, dân như nước, vừa chở thuyền vừa lật thuyền, cho nên muốn làm vua chúa,
muốn cầm quyền thì phải tranh thủ dân và nắm lấy dân. Tranh thủ được dân chúng thì
làm thiên tử, được dân là được cả thiên hạ. Người làm vua phải theo lòng dân, phải thuận
lòng dân, phải biết thích cái thích của dân, ghét cái ghét của dân. Người cầm quyền theo
lòng dân mà trị tất sẽ được dân yêu mến.
- Giữ gìn sinh mệnh và dè xẻn tài sản của dân.
Người cầm quyền phải biết sử dụng sức người, sức của cho phù hợp tránh sự lạm dụng,
phí phạm sức dân và tài sản của dân. Có như vậy lòng dân mới yên, xã tắc mới bền vững.
Tư tưởng của Nho giáo về vai trò của dân sau này được các nhà tư tưởng Việt Nam kế
thừa, cải biến và sáng tạo phù hợp với dân tộc. Trên thực tế, các khái niệm có hình thức
Khổng giáo nhưng nội dung bên trong lại chứa đựng tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng và tâm lý Việt Nam.
Thời Lý - Trần, sự quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của nhân dân được xem là
việc hàng đầu của đạo trị nước, "ý dân", "lòng dân" đã trở thành căn cứ, mục đích
cho những chủ trương chính trị lớn.
"Chiếu dời đô" nổi tiếng của Lý Công Uẩn đã khẳng định: Trên vâng mệnh trời, dưới
theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Trần Quốc Tuấn với tư tưởng "khoan thư sức dân để làm kế sâu bền gốc rễ", coi đó là
"thượng sách để giữ nước" đã nhìn rõ nhân dân là nơi chứa chất tiềm lực về kinh tế và
quốc phòng, bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền đất nước.
Nguyễn Trãi xem dân là gốc của nước, dân có quan hệ tới sự yên nguy của triều đại. Dân
là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết định đến sự ủng hộ hoặc
phế truất nền thống trị của một triều đại, một ông vua. Vì vậy, theo ông, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Thấy được vai trò của dân không phải là ngẫu nhiên đối với các nhà tư tưởng Việt Nam.
Mặc dù lập trường phong kiến đã hạn chế nhãn quan của họ, nhưng là những nhà yêu
nước lớn, đứng ở đỉnh cao của phong trào yêu nước lúc bấy giờ, họ đã thấy được yêu cầu
phải cố kết cộng đồng, phát huy sức mạnh của dân tộc nên đã vượt qua được những hạn
chế giai cấp vốn có của mình.
Đến Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã phát triển đến một tầm cao mới. Dân là số đông,
là làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Lấy dân làm
gốc ở Hồ Chí Minh không phải chỉ xem dân là lực lượng dời non lấp biển mà còn là mục
đích, xem mọi hoạt động chính trị đều vì dân, xây dựng nền chính trị của dân, do dân, vì
dân. Điều quan trọng ở đây là Người đã đưa truyền thống yêu nước thương dân và hệ
thống hoạt động của dân, do dân, vì dân thành một nội dung cơ bản để xây dựng Đảng
cộng sản và chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam.
1.2. Đường lối trị nước
Nho giáo vạch rõ thực chất của việc cai trị: Cai trị con người, xã hội không phải chủ yếu
dựa vào vũ lực, thần quyền, của cải mà cai trị bằng giáo dục, giáo dưỡng, bằng thu phục
nhân tâm. Nho giáo vừa là một hệ tư tưởng, vừa là các phép tắc có tính chất quy chế làm
chuẩn mực để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Các khái niệm tưởng chừng thuần
túy đạo đức lại mang tính chính trị cao. "Nhân", "Lễ", "Chính danh", không chỉ là khái
niệm, là nguyên lý đạo đức cơ bản mà còn là hạt nhân trong học thuyết chính trị của
Nho giáo, là đường lối trị nước của Nho giáo.
1.2.1. Nhân trị và Lễ trị Nhân trị
Chữ nhân gồm chữ nhân và chữ nhị hợp lại. Theo Trần Trọng Kim, nhân có nghĩa là mọi
người với nhau như một. Theo Nguyễn Hiến Lê, nhân là tình người này đối với người khác.
Chữ nhân trong học thuyết của Khổng Tử có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong
đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tùy theo trình độ, hoàn cảnh mà ông
diễn đạt nội dung của nó một cách khác nhau.
Khổng Tử cho rằng do sự chi phối của "thiên lý", của "đạo", các sự vật hiện tượng trong
vũ trụ luôn biến hóa không ngừng. Sự sinh thành, biến hóa của vạn vật bao giờ cũng nhờ
sự "trung hòa" giữa âm dương, trời đất. Con người là kết quả bẩm thụ tinh khí của âm
dương trời đất mà thành, tuân theo "thiên lý", hợp với đạo "trung hòa". Đạo sống của con
người là phải "trung dung", "trung thứ", nghĩa sống đúng với mình và đúng với người - đó là nhân.
Ông còn quan niệm: "Người nhân không xa rời nhân dù chỉ trước sau một bữa ăn, vì
nhân đâu phải xa, bởi bản tính con người là thiện, nhưng vì con người quen thói đời, mê
vật dục nên thấy nhân xa mình đó thôi" [3, tr. 115].
Khổng Tử nói nhiều về "nhân", nhưng tóm lại, có thể thấy nhân là Người, là lòng người,
là thương người. Đạo nhân là cái trời phú cho con người, ở cái tâm của con người, đó là
lòng thương người. Điều đó được thể hiện ra ở hai điều cốt yếu: "Người nhân là mình
muốn lập thân thì cũng mong muốn giúp người lập thân, mình muốn thông đạt thì cũng
muốn giúp người thông đạt" và "điều gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với
người", "phải suy xét mình để suy xét người".
"Nhân" là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người nên nhân chính là đạo
làm người. Đức nhân bao gồm tinh túy của tất cả các đức khác. Trong bất kỳ mối quan
hệ nào, nếu hỏng về đức riêng thuộc mối quan hệ ấy thì đồng thời cũng là trái với đức
nhân, chẳng hạn như: không trung thực với người khác, không nghiêm khắc với kẻ sai
trái lầm lỗi, không cung kính với bề trên... đều trái với đức nhân.
Người muốn đạt nhân, theo Khổng Tử phải là người có "trí", "dũng". Nhờ có lý trí, con
người mới sáng suốt minh mẫn để hiểu được đạo lý, xét đoán sự việc, phân biệt phải trái,
thiện, ác để trau dồi đạo đức và hành động hợp với "thiên lý". Nếu không còn
trí sáng suốt nữa thì chẳng những không giúp được người mà còn hại đến thân mình. Trí
không phải ngẫu nhiên mà có, nó chỉ có được trong quá trình người ta học tập tu dưỡng.
Mục đích cao nhất của việc học không chỉ để biết "đạo", "khắc kỷ phục lễ vi nhân" mà để
ra làm quan, tham gia việc chính trị quốc gia.
Muốn đạt "nhân", còn phải có "dũng". Người có "dũng" không phải là kẻ ỷ vào sức
mạnh, hành động bất chấp đạo lý mà là người quả cảm, xả thân vì nghĩa; khi thiếu thốn
không nao núng làm mất nhân cách của mình; khi đầy đủ sung túc không ngả nghiêng xa rời đạo lý.
Nhân còn bao hàm cả "nghĩa". Theo "nghĩa" là việc gì đáng làm thì làm, không hề tính lợi cho mình.
Một điều cần chú ý là Khổng Tử quan niệm: chỉ có người quân tử mới có "nhân". Trong
kinh điển Nho giáo, những gì tốt đẹp, tiêu biểu của con người đều quy vào người quân
tử. Còn đám đông tiểu nhân là những người không có trí tuệ, không có đạo đức, vất vả
chân lấm tay bùn để cung đốn cho người quân tư thì không có "nhân".
Phải chăng đây là hai dạng tha hóa con người tồn tại lâu nhất trong lịch sử loài người từ
những thời thịnh vượng của hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ cho đến ngày suy
tàn của hình thái kinh tế - xã hội phong kiến ở khu vực á Đông rộng lớn, dưới sự thống
trị tinh thần của Ngũ kinh, Tứ thư? Tất nhiên, các Nho gia đều không có ý niệm gì về
những hiện tượng tha hóa, nhưng nếu xét về nội dung, hình thức của phạm trù "quân tử"
và "tiểu nhân", ta có thể thấy rõ thực chất hai dạng tha hóa đó. Chắc chắn rằng chỉ khi
chủ nghĩa Mác ra đời, vấn đề con người mới được xem xét một cách nhất quán, đầy đủ
và sâu sắc. Mác đã vượt qua quan niệm trừu tượng về con người để nhận thức con người
hiện thực. Mác đã chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của tình trạng tha hóa bản chất con người,
nhờ đó mà nhận thức đúng con đường giải phóng con người, giải phóng nhân loại.
Trở lại đức Nhân mà Khổng Tử đề cập trong học thuyết chính trị của ông, ta thấy rõ
"nhân" hoàn toàn khác với thuyết "kiêm ái" của Mặc Tử, "đức" của Lão Tử, lại càng
khác với "bác ái" của Ki tô và "từ bi" của Đạo phật.
Nhân khác "kiêm ái" vì: Nhân phân biệt mình và người, lấy mình làm khởi điểm rồi mới
tới người; kiêm ái thì coi ai cũng như mình, người thân của người cũng như người thân
của mình. Nhân còn phân biệt người tốt, kẻ xấu; kiêm ái không phân biệt như vậy mà
chủ trương một tình yêu thương rộng khắp, chỉ lấy con người làm điều kiện; người nhân
chú trọng đến sự xúc tiến đạo đức của người khác, còn kiêm ái chú trọng đến sự cứu giúp
vật chất nhiều hơn. Nhân khác với đức của Lão Tử và bác ái của Kitô vì không "dĩ đức
báo oán", không xem kẻ thù như bạn.
Nhân khác với từ bi của đạo Phật bởi Phật thương người và thương cả vạn vật, nhưng
lòng thương của Phật có một nỗi buồn vô hạn, buồn cho sự mê muội của sinh linh, tìm
cách giải thoát cho mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Nhân của Khổng Tử
giúp con người ta sống tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn ngay chính trên mảnh đất hiện thực của mình.
Đề cập đến đạo Nhân với tính cách là trung tâm trong toàn bộ học thuyết chính trị, đạo
đức của mình, các nhà Nho nâng lên thành đường lối trị nước: Nhân trị - tức trị dân bằng
đức nhân. Đức nhân là một đòi hỏi bắt buộc, nghiêm khắc nhất đối với kẻ làm quan cai
trị dân. Những người làm quan, các bậc vua chúa đều phải có đức nhân - đó là yêu cầu
tối thượng. Nho giáo chú trọng lấy đạo đức để thực hành chính trị. Kẻ trị dân phải tu
thân, sửa mình, làm gương cho dân, hướng theo điều thiện. Nhờ đó cảm hóa được dân
chúng, dân chúng phục mà nghe theo, chứ không dùng bạo lực thô bạo để ép buộc. Đức
nhân không phải tự nhiên mà có. Muốn có được nó phải tu thân. Tu thân để làm cho cái
đức của kẻ cai trị thêm sáng, để đủ điều kiện trị nước một cách tốt nhất. Người cai trị
phải sửa mình để trị người. Tu được chữ nhân là điều căn bản nhất của người làm quan
cai trị bởi tinh thần của lễ, nhạc ở cả trong đức nhân. Khổng Tử nói nhiều về đạo và đức
của người làm quan cai trị nước. Cũng vì lẽ đó, ông rất chú trọng việc giáo dục con
người theo đạo và đức. Mục tiêu của ông là đưa xã hội trở về trạng thái "hữu đạo", nhờ
đó thứ dân trở nên có tôn ti trật tự, dễ sai bảo dưới trưởng của nhà cầm quyền. Chính vì
vậy, kẻ trị dân phải nghiêm khắc với mình, rèn luyện tu thân để có đạo và đức, để củng
cố ngôi trên, ru ngủ dân chúng. Sách Đại học viết: "Đức là gốc, của là ngọn" chính cái
gốc sinh ra cái ngọn. Người cầm quyền phải trọng cái đức của mình.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử đồng thời cũng đề cao
yêu cầu về cái tài của kẻ trị dân. Ông cho kẻ trị dân ngoài đức ra phải có tài (trí). Cái tài
đó nhằm giúp họ làm việc sáng suốt và biết tu dưỡng đức nhân một cách tốt nhất. Nếu kẻ
cai trị chỉ có lòng thương dân thuần túy thì không đủ. Phải có tài (trí) thì mới có sự sáng
suốt trong khi làm việc, ít sai lầm trong việc trị nước.
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử khi bàn về tu đức cũng nhấn mạnh sự tu dưỡng bản thân.
Đó chính là "tận tâm", "dưỡng tính", "dưỡng khí hạo nhiên". Xuất phát từ nhân tính trong
thuyết tính thiện, ông cho rằng con người sinh ra vốn có tính thiện, có lòng trắc ẩn, lòng
hổ thẹn, lòng cung kính, lòng phân biệt thị phi. Bốn tâm tính đó được coi là bốn mối của
nhân, lễ, nghĩa, trí, đòi hỏi con người phải nuôi dưỡng nó, làm cho nó phát triển lớn
mạnh. Có như vậy mới có thể tu dưỡng mình trở thành bậc quân tử nhân đức. Ông viết:
Tấm lòng trắc ẩn, ai ai cũng có; tấm lòng hổ thẹn, chẳng có ai không;
nỗi lòng cung kính, mọi người đều sẵn; tấm lòng phân biệt thị phi, không
người nào thiếu. Lòng trắc ẩn thuộc về nhân, lòng hổ thẹn thuộc về nghĩa,
lòng cung kính thuộc về lễ, lòng phân biệt thị phi thuộc về trí. Nhân lễ nghĩa
trí này chẳng phải người nào đem đến cho ta, mà là có sẵn ở nơi bản tính của
mình vậy. Chẳng qua là ta không tưởng nghĩ đến nó mà thôi [6, tr. 153].
Ông còn chỉ rõ mục đích của việc tu dưỡng đạo đức, tu dưỡng không phải để mà tu
dưỡng mà là vì sự yên ấm, ổn định và phát triển của xã hội, làm cho thiên hạ thái bình:
"Người quân tử cốt giữ tiết tháo, bắt đầu từ tu dưỡng bản thân mình, sau đó gây ảnh
hưởng đến người khác, từ đó làm cho thiên hạ thái bình" [5, tr. 275].
Tóm lại, từ nhân đến nhân trị đó chính là tư tưởng về đường lối trị nước của Nho giáo.
Nét độc đáo và sâu sắc của tư tưởng này là ở chỗ: Nho giáo đã đặt đạo đức với chính trị
trong mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Đạo đức là nền tảng của chính trị. Chính trị là sự tiếp
tục của đạo đức, phải lấy đạo đức làm gốc. Đây cũng là điểm độc đáo của triết lý
phương Đông so với các học thuyết phương Tây.
Do ảnh hưởng của tư tưởng này mà thực tiễn chính trị phương Đông đã hình thành nên
mẫu người cai trị với phong cách đặc trưng. Đó là những con người đức độ và tài năng.
Tuy nhiên, điểm hạn chế ở đây là: xây ngôi nhà chính trị trên nền đạo đức một cách thái
quá, Nho giáo đã duy trì xã hội phương Đông trong trạng thái trì trệ, bảo thủ suốt mấy ngàn năm lịch sử. Lễ trị
Chữ Lễ trước tiên dùng để chỉ việc thờ cúng, tế lễ, sau dùng rộng ra nó bao gồm cả
phong tục tập quán mà xã hội thừa nhận, sau cũng chữ Lễ còn có nghĩa rộng: nó là thể
chế, là quyền uy. Lễ là một công cụ chính trị mạnh mẽ và là vũ khí của một phương pháp
trị nước đắc lực mà Nho giáo đã cống hiến cho nhiều triều đại đế vương. Phương pháp ấy là phương pháp lễ trị.
Lễ là một phần rất quan trọng trong toàn bộ Khổng học. Riêng về lễ, có cả một kinh gọi
là Lễ ký. Trong suốt thời Tây Chu, từ Chu Công Đán về sau, những quy định về lễ rất
nhiều, rất tỉ mỉ và chặt chẽ. Trong gia đình, làng mạc, đất nước và thiên hạ, thậm chí
trong trời đất, con người đã bị đặt trong bao nhiêu mối quan hệ thì cũng phải có bấy
nhiêu "mạng lưới" quy định cụ thể. Cái mạng lưới mênh mông bao trùm lên toàn cõi gọi là lễ.
Trước bối cảnh "lễ hư nhạc hỏng", Khổng Tử muốn dùng lễ để khôi phục lại trật tự phép
tắc, luân lý xã hội, đưa xã hội trở về với đạo.
Lễ quy định một cách nghiêm ngặt các mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ, anh
em, bè bạn (Ngũ luân). Trong năm mối quan hệ ấy, có ba mối quan hệ cơ bản (Tam
cương): vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong các mối quan hệ đó, mỗi người phải theo địa
vị, danh phận của mình làm theo lễ. đó là "vua dùng tôi nên theo lễ, tôi thờ vua theo đạo
trung", "cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha theo đạo hiếu", "anh em với nhau phải
giữ chữ đễ" tức là phải yêu thương nhường nhịn nhau, "vợ chồng đối với nhau cũng phải
giữ lễ", "bạn bè phải giữ chữ tín".
Trong sách Luận ngữ, cái gọi là "lễ" của Khổng Tử còn có những điều sau:
- "Nén hết thèm muốn riêng tư cho lễ trở lại, đó là có đạo nhân. Một khi đã nén
được thân mình cho lễ trở lại thì thiên hạ sẽ quay về với đạo nhân" [3, tr. 181].
- "Trái với lễ thì không nhìn, trái với lễ thì không nghe, trái với lẽ không nói,
trái với lễ không làm" [3, tr. 181].
- "Người trên yêu chuộng lễ thì dân nào dám không tôn kính. Người trên yêu
chuộng đạo nghĩa thì dân nào không dám không phục tùng" [3, tr. 201].
Như vậy, "lễ" mà Khổng Tử nói tới không những là một thứ nguyên tắc về chính trị, một
văn bản nghi tiết mà còn là một thứ chế độ. Trong các tầng lớp do chế độ đẳng cấp tạo ra
thì có một loại thước đo để phân biệt họ, do đó mà có danh để đặt ra đạo nghĩa, đạo
nghĩa để đặt ra lễ. Đó chính là nguồn gốc của cái gọi là "dùng lễ để cai trị".
Mạnh Tử, đối với đức lễ, cũng như đối với các đức nhân, nghĩa, trí đã tìm ra đầu mối của
nó trong tâm con người. Đầu mối ấy là lòng từ nhượng. Do đầu mối ấy mà trên con
đường hành đạo, người ta có những "sở đắc" như cung kính, khiêm tốn, nhường nhịn...
gồm chung cả một đức lớn là lễ.
Bàn về lễ, Tuân Tử còn đi xa hơn cả Khổng Tử và Mạnh Tử.
Khi nói về khởi nguyên của Lễ, ông cho rằng:
Lễ có ba cái gốc: trời đất là cái gốc sự sinh, tiên tổ là cái gốc chủng
loại, vua và thầy là cái gốc của sự trị. Không có trời đất thì ở đâu mà sinh,
không tiên tổ thì ở đâu mà ra, không có vua có thầy thì lấy đâu mà trị. Ba
điều ấy mà thiếu đi một là người ta không yên được. Cho nên trên thờ trời,
dưới thờ đất, tôn tổ tiên, trọng vua và thầy, ấy là ba gốc của lễ vậy [26, tr. 319].
Tuân Tử cho rằng, bản tính con người là ác, do vậy thánh nhân phải dùng Lễ để uốn nắn,
cải hóa cái ác. Ông giải thích nguồn gốc sinh ra lễ:
Người ta sinh ra là có lòng mong muốn, muốn mà không được thì
không thể không tìm, tìm mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể
không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét cái loạn
cho nên chế lễ nghĩa để phân ra trật tự, để nuôi cái muốn của con người, cấp
cái tìm của con người... [26, tr. 318].