Tư tưởng chính trị Hy Lạp- La Mã cổ đại | Tiểu luận lịch sử tư tưởng chính trị
Tổng quan bối cảnh Hy Lạp cổ đại. Tử tưởng chính trị của Platon. Tử tưởng chính trị Xê Nô Phôn. Tử tưởng chính trị của Aritxtốt. Tư tưởng Polybe. Tư tưởng chính trị của Cicero. Liên hệ tư tưởng chính trị Hy Lạp- La Mã cổ đại vào thực tiễn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử tư tưởng chính trị
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
------------------------- TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
Chủ đề: Tư tưởng chính trị Hy Lạp- La Mã cổ đại
Sinh viên: NGUYỄN THU TRANG
Mã số sinh viên: 2155380071
Lớp tín chỉ: K40.2 - K40.5
Lớp hành chính: TTCS K41
Hà nội, tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU....................................................................1
1.Lý do chọn đề tài..................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................3
II. NỘI DUNG................................................................4
2.1. Cơ sở lí luận.....................................................................4
2.1.1 Tổng quan bối cảnh Hy Lạp cổ đại...............................4
2.1.2. Tổng quan bối cảnh La Mã cổ đại................................5
2.2. Nội dung cụ thể................................................................6
2.2.1. Tử tưởng chính trị của Platon......................................6
2.2.2. Tử tưởng chính trị Xê Nô Phôn....................................9
2.2.3.Tử tưởng chính trị của Aritxtốt...................................12
2.2.4. Tư tưởng Polybe........................................................25
2.2.5. Tư tưởng chính trị của Cicero....................................27
2.3. Liên hệ tư tưởng chính trị Hy Lạp- La Mã cổ đại vào thực
tiễn.......................................................................................30
III. KẾT LUẬN.............................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................33 1 I. MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong dòng chảy của lịch sử văn minh phương Tây cổ đại, hai nền văn minh Hy
Lạp và La Mã giữ vai trò nền tảng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển của
những cư dân gốc du mục, cùng với đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ từ các thành bang nhỏ bé.
Hy Lạp và La Mã là hai quốc gia riêng biệt do các tộc khác nhau lập nên. Đến
thế kỉ II TCN, Hy Lạp bị La Mã chinh phục, nhưng trước đó rất lâu, La Mã đã
tiếp thu nhiều thành tựu văn minh của Hy Lạp. Sau khi Hy Lạp nhập vào đế
quốc La Mã, ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp đối với La Mã càng mạnh mẽ
hơn. Do đó, nền văn minh Hy-La có những đóng góp quan trọng đối với
phương Tây ở nhiều lĩnh vực văn học, triết học, khoa học tự nhiên, nghệ thuật
và kiến trúc… Hai nền văn minh này là nền móng vững chắc và tiếp thêm lửa
cho thời Phục hưng ở Tây Âu và văn minh phương Tây sau này.
Các học thuyết chính trị chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống các môn
khoa học xã hội. Nó là lịch sử đang tiến triển nhằm nhận thức các hình thái
chính trị của đời sống xã hội. Hệ tư tưởng chính trị gắn bó chặt chẽ với sự tồn
tại của xã hội và nhà nước có giai cấp bởi vì nó phản ánh trước hết mối quan hệ
giữa các giai cấp, đảng phái, các nhóm xã hội với chế độ nhà nước. Ý nghĩa của
các tư tưởngc hính trị có thể khác nhau. Chúng có thể đóng vai trò tiêu cực hoặc
tích cực trong sự phát triển xã hội, tuỳ thuộc vào nó phản ánh lợi ích của giai
cấp nào trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Vai trò tổ chức của các
tư tưởng và học thuyết lớn trong thời gian diễn ra cách mạng xã hội. Từ đây,
việc tìm hiểu và nghiên cứu tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại cũng
thuộc các học thuyết chính trị trên thới giới, bởi lẽ Hy Lạp – La Mã được coi là
các nền văn minh ra đời sớm nhất ở phương Tây, các tư tưởng chính trị có thể
coi là “nền móng” cho sự phát triển các tư tưởng cũng như học thuyết chính trị
sau này của phương Tây. Chính vì lẽ đó, tính cấp thiết của việc tìm hiểu là vô 2
cùng quan trọng. Chính vì vậy, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Tư tưởng chính
trị Hy Lạp- La Mã cổ đại” làm tiểu luận hết môn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đưa đến cái nhìn tổng quan về bối cảnh cũng như đặc điểm chính trị - xã hội
của Hy Lạp – La Mã cổ đại, từ đó nghiên cứu về các tư tưởng chính trị nổi bật.
Trang bị kiến thức về các sự việc và quy luật phát triển và quy luật phát sinh và
phát triển tư tưởng chính trị. Từ đó, có kĩ năng khám phá ra bản chất của các sự việc và hiện tượng.
Hiểu được sự tạo thành căn bản cơ sở hình thành của các tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích tư tưởng chính trị của Hy Lạp- La Mã cổ đại. Nghiên cứu, các tư
tưởng chính trị Hy Lạp- La Mã cổ đại để thấy được tính đa dạng, phong phú và
phức tạp của lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại, từ đó có thể chắt lọc giá trị
tinh hoa của những tư tưởng ấy cho ngày hôm nay vào mục tiêu đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong tiểu luận bao gồm bối cảnh và những đặc điểm
chính trị - xã hội của Hy Lạp và La Mã cổ đại; tư tưởng chính trị của các triết
gia, nhà lí luận chính trị nổi bật đại diện cho Hy Lạp và La Mã cổ đại. Từ đó,
đưa đến nhận xét về đóng góp và hạn chế của các tư tưởng chính trị này đem lại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bối cảnh và đặc điểm chính trị - xã hội Hy Lạp cổ đại.
Những tư tưởng chính trị của Platon, Aristoteles.
Bối cảnh và đặc điểm chính trị - xã hội La Mã cổ đại.
Những tư tưởng chính trị của Cicero. 3
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lenin,
trong quá trình thực hiện bài tiểu luận “Tư tưởng chính trị của Hy Lạp – La Mã
cổ đại” có sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử
trong nghiên cứu để trình bày tổng quan bối cảnh và đặc điểm chính trị - xã hội
của Hy Lạp – La Mã cổ đại, qua đó cung cấp cụ thể về nền tảng hình thành các
tư tưởng chính trị của Hy Lạp – La Mã cổ đại.
Phương pháp logic: sử dụng phương pháp logic trong nghiên cứu nhằm làm rõ
những tư tưởng chính trị nổi bật của các nhà triết gia, các nhà lí luận chính trị
của hai nền văn minh cố đại ở phương Tây. Từ đó, đưa đến nhận định về sự
đóng góp và hạn chế của các tư tưởng . 4 II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1 Tổng quan bối cảnh Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một nền văn minh thuộc về một thời kỳ lịch sử của Hy Lạp
khởi đầu từ thời kỳ Tăm tối của Hy Lạp khoảng từ thế kỷ XII cho tới thế kỷ thứ
IX TCN và kéo dài đến cuối thời kỳ cổ đại (khoảng năm 600 Công Nguyên).
Lịch sử tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại gắn bó hữu cơ với quá trình tiến hoá
của xã hội và nhà nước Hy Lạp chiếm hữu nô lệ.
Sự củng cố, ra đời và hưng thịnh, cuối cùng là suy tàn của nhà nước chiếm hữu
nô lệ ở Hy Lạp luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt. Những đòi
hỏi mãnh liệt của đời sống xã hội quốc gia – thành thị làm nảy sinh nhu cầu tìm
hiểu một cách sâu sắc về quản lí quốc gia. Tư tưởng chính trị đã xuất hiện với tư
cách là một trong những lĩnh vực kiến thức nhằm định hướng cho việc điều
hành những công việc phức tạp của quốc gia. Ở thời kỳ này, diễn ra bước phát
triển nhảy vọt về trí tuệ, những tìm tòi về nhiều lĩnh vực có giá trị phổ quát. Đó
là những tri thức về khoa học tự nhiên, triết học, chính trị học, …
Vào thế kỉ IX – VIII TCN, nền sản xuất chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cực kì phát
triển. Đó là thời kì nhân loại chuyển từ thể loại đồ đồng sang thời đại đồ sắt.
Việc xuất hiện các quan hệ tiền hàng đã làm cho thương mại và trao đổi hàng
hoá được tăng cường. Thời kỳ này người Hy Lạp đã có thể đóng được những
chiếc thuyền lớn, cho phép họ vượt Địa Trung Hải tìm đến những vùng đất mới.
Nhờ đó lãnh thổ của Hy Lạp và thuộc địa của nó được mở rộng, tạo điều kiện
cho việc giao lưu kinh tế và văn hoá giữa các dân tộc.
Sự phát triển của nền sản xuất đã dẫn đến việc các quan hệ và tổ chức xã hội cũ
bị đảo lộn. Nếu như trước đây các tổ chức xã hội cũ như bộ tộc, bộ lạc mang
tính cộng đồng cao,…, thì giờ đây tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu về
của cải xuất hiện. Điều đó buộc mỗi người suy nghĩ hơn về bản thân và về xã
hội. Phân công lao động phát triển cho phép trong xã hội xuất hiện tầng lớp
những người lao động trí óc, càng tạo điều kiện nảy sinh các tư tưởng chính trị. 5
Những tư tưởng chính trị ra đời trong hoàn cảnh giao tranh không dứt giữa các
quốc gia – thành thị để giành quyền lãnh đạo trong nước, trong sự đối kháng
của giới chủ nôn dân chủ và chủ nô quý tộc, cùng với những mâu thuẫn giữa cá
tầng lớp khác nhau trong nhóm đó. Phái dân chủ đề cao khẩu hiệu đạp tan chế
độ chuyên chế và độc đoán của tầng lớp quý tộc, giải phóng khỏi sự nô dịch của
giới quý tộc cũ. Ngược lại, giới quý tộc muốn duy trì trật tự cũ và bằng mọi
cách bảo toàn đặc quyền, đặc lợi của mình. Song dù quan điểm của 2 giới khác
biệt nhau thì quan điểm về vấn đề chính vẫn là trùng nhau. Đối với với họ, sự
thừa nhận về sỡ hữu cá nhân là không thay đổi, chế độ nô lệ được coi là tự
nhiên phải có; về cơ bản, việc loại trừ nô lệ ra khỏi thành phần công dân là vấn
đề không cần bàn cãi, bên cạnh đó bất công xã hội là hiện tượng tất yếu và tự
nhiên. Nhà nước là thiết chế của người tự do và chỉ dành cho người tự do.
Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội chiếm hữu nô lệ là mâu thuẫn chính trị giữa nô lệ
và chủ nô. Người nô lệ chống lại sự áp bức nghiệt ngã, sự xâm phạm thô bạo
đến phẩm giá con người của họ. Sự uất hận nhiều lúc đã bùng lên thành những
cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, xiềng xích của nô lệ mà họ mong muốn vứt bỏ để
giành tự do cá nhân đã không được thực hiện. Tuy vậy, cuộc đấu tranh của
người nô lệ, các phong trào của các người dân mất quyền đã có ảnh hưởng lớn
đối với hệ tư tưởng chính trị. Nhiều quan niệm về quyền bình đẳng tự nhiên và
tự do cho tất cả mọi người đã nảy sinh. Dù dưới chế độ bóc lột, áp bức nô lệ,
xem nô lệ là vật chứ không phải là người, vẫn có nhiều tư tưởng có giá trị cho
đến ngày nay. Đặc biệt là những tư tưởng và tổ chức về dân chủ, quyền công
dân, sự tôn tọng lí trí, đạo đức và trí tuệ trong đời sống chính trị.
2.1.2. Tổng quan bối cảnh La Mã cổ đại.
Tư tưởng chính tị ở La Mã cổ đại được hình thfanh trong điều kiện phát triển tột
đỉnh của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, và sau đó là sự sụp đổ của nó.
Các mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô đạt đến độ sâu sắc. Đồng thời diễn ra cuộ
đấu tranh gay gắt giữa các chủ đất lớn và nhỏ, các tộc trưởng và thị dân về vấn 6
đề ruộng đất, về vấn đề chính trị. Các mâu thuẫn xã hội càng sâu sắc hơn do
cuộc đấu tranh chống nội bộ giai cấp thống tị - giữa quý tộc thị tộc và công nghiệp thương mại.
Cuộc đấu tranh của các giai cấp và các nhóm xã hội khác nhau bùng nổ trong
lĩnh vực tư tưởng chính trị. Các vấn đề về nhà nước, nguồn gốc, thiết chế và
hình thức của nó, các vấn đề nô lệ, vị trí pháp quyền các tầng lớp khác nhau của
người tự do, việc bảo vệ sở hữu cá nhân,…có vị trí quan trọng trong tư tưởng
thống soái của La Mã cổ đại, tư tưởng có nhiều nét chung với tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.
2.2. Nội dung cụ thể
2.2.1. Tử tưởng chính trị của Platon
Planton là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại. Tư tưởng của
ông hình thành trong điều kiện khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, sự gia
tăng căng thẳng và xung đột xã hội, sự mất phương hướng của con người trong
đời sống tinh thần. Vì thế, tư tưởng triết học- chính trị của ông một mặt phản
ánh lập trường của quý tộc chủ nô, mặt khác gợi mở những giải pháp vượt qua
tình trạng hiện có, vươn đến các giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Trong hệ thống
tư tưởng Planton , tư tưởng chính trị chiếm vị trị quan trọng. Mặc dù cồn nhiều
hạn ch, tư tư tưởng chính trị của Planton đã chứa đựng nhiều bài học lịch sử quý
giá đối với các thời đại sau.
Nhắc đến Hy Lạp, không thể không nhắc đến Platon – nhân vật đóng vai trò
quan trọng trong lịch sử triết học phương Tây và Hy Lạp cổ đại. Và, hiển nhiên
tư tưởng chính trị của ông cũng được coi là một trong những tư tưởng chính trị
có ảnh hưởng và là nền tảng cơ bản để phát triển các học thuyết cũng như tư
tưởng chính trị của phương Tây sau này. Từ việc nêu ra bối cảnh cũng như đặc
điểm chính trị - xã hội của Hy Lạp, cùng với sự thăng trầm của nền dân chủ chủ
nô cho phép giải thích cội nguồn, tiền đề, bản chất của tư tưởng chính trị
Platon[Triết học Platon nói chung, tư tưởng chính trị nói riêng thể hiện cụ thể 7
vận động của tư tưởng thời kì nền dân chủ chủ nô. Sự phê phán gay gắt nền dân
chủ chủ nô từ phía ‘hữu” cho rằng nền dân chủ ấy đã suy thoái, và việc thay thế
nó là một điều tất yếu. Song, khi những nhân tố mới chưa xuất hiện thì trí tưởng
tượng của con người bùng nổ.
Tư tưởng chính trị của Platon được hình thành vào thời kì khủng hoảng của nhà
nước Athenes, nơi mà những thành công vĩ đại của nó trong chiều dài nhiều thế
kỉ, với đỉnh cao là nền dân chủ chủ nô và cũng không thể thiếu đi sự mâu thuẫn
gay gắt trong xã hội. Vì lẽ đó, trong tư tưởng chính tị của bản thân, Platon đã
phê phán các kiểu nhà nước không chân chính, trong đó có nền dân chủ. Sự phê
phán này xuất phát từ lập trường của 8 quý tộc chủ nô, điều đó cũng đã để lại
nhiều bài học quý giá cho các thời đại sau.
Tiền đề hình thành tư tưởng chính trị của Platon bao gồm tiền đề sâu xa và tiền
đề trực tiếp. Tiền đề lí luận sâu xa của tư tưởng chính trị Platon là cuộc đấu
tranh giữa dân chủ và phản dân chủ từ thời Solon, và duy trì cho đến thời kì tiếp
theo. Từ lập trường quý tộc chủ nô, Platon nhìn thấy trong nền dân chủ ấy
những thiếu sót cần được khắc phục, và phương pháp được ông cho là hiệu quả
nhất đó là loại trừ nó khỏi đời sống chính trị. Còn tiền đề trực tiếp của tư tưởng
chính trị Platon là tư tưởng chính trị của Socrates.
Nói về chính trị, Paton cho rằng chính trị trước hết xuất hiện như một sự hiểu
biết duy lý dành cho việc giáo dục con người. Sau đó, nó trở thành nghệ thuật
dẫn dắt xã hội con người. Người ta có thể dẫn dắt con người bằng sự bắt buộc
và bạo lực, nhưng người ta cũng có thể dẫn dắt con người bằng sự ưng thuận
của ý chí tự do của họ. Nghệ thuật cai trị bằng sức mạnh sẽ mang đến “chế độ
độc tài”, nghệ thuật cai trị bằng thuyết phục con người thì gọi là “chính trị”.
Trong quan niệm của Platon, ông khẳng định “Chính trị là nghệ thuật cai trị
những con người với sự bằng lòng của họ”.
Học thuyết của Platon cho rằng khi lãnh đạo nhà nước, cần gạt sang một bên ý
chỉ cá nhân, trước tiên phải dựa vào tôn giáo và pháp luật, từ đó điểu chỉnh đời
sống công cộng và cá nhân công dân. Đối với Platon, những người được lựa 8
chọn trở thành thành viên của nhà nước thì phải là những người trong sạch nhất.
Theo ông, “Không có gì tai hại hơn là sự lẫn lộn trật tự của các chức năng trên
cùng một cái đầu”. Bằng việc vừa giáo dục và vừa lựa chọn dần dần mà quyền
lực sẽ được trao lại cho những nhà chính trị với độ tuổi chín chắn, có kinh nghiệm thực tiễn lớn.
Đối với Platon, nguyên tắc tối cao để tố chức chính quyền là sự thông thái.
Chính phủ duy nhất xứng đáng là chính phủ được nắm giữ bới các thủ lĩnh thực
sự có khoa học chính trị. Ngoài ra, theo Platon, thế giới xung quang con người
là mơ hồ và hoang tưởng, nó là cái bóng lu mờ của một thế giới khác đang thực
sự tồn tại – đó là hệ thống thang bậc các tưu tưởng lâu đời được kết thúc ở đỉnh
cao là tư tưởng về điều thánh thiện. Hình ảnh thế giới tinh thần siêu phàm này
được phản ánh qua cuộc sống trần tục chính là hình ảnh của một nhà nước lí
tưởng. Đương nhiên, nó cũng có cơ cấu bậc thang do thượng đế sinh ra. Platon
chia xã hội ra làm ba hạng người tuỳ thuộc theo bộ phận linh hồn của họ. Thứ
nhất, ở địa cị cao nhất là các nhà triết học, biểu tượng cho tri thức, họ nắm
quyền 9 binh trong tay và cai quản quốc gia theo ý nguyện của mình. Ở địa vị
thấp hơn, là các chiến binh – đẳng cấp của những người dũng cảm và đầy ý chí,
có trách nhiệm gìn giữ quốc gia, chống thù trong giặc ngoài. Thứ ba, người
thuọc tầng lớp nông dân, thợ thủ công. Họ là những người về cơ bản không đi
xã hơn khát vọng cảm tính. Họ được coi là nền móng cho “lâu đài xã hội hình
chóp” với nhiệm vụ là tạo ra của cải vật chất, đảm bảo cuộc sống cho nhà nước,
đảm bảo mọi nhu cầu thiết yếu cho các đẳng cấp trên. Xã hội ổn định được là
nhờ mỗi đẳng cấp hoạt động đúng vị trí, phù hợp với chức năng của mình.
Ngoài ra theo Platon, nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng hoá của nhu cầu con
người và từ đó xuất hiện các dạng phân công lao động để thoả mãn nhu cầu đấy.
Vì vậy, trong xa hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau. Do đó, không
thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người. Công lý là ở chỗ mỗi hạng người
làm hết trách nhiệm của mình. Như vậy, con người mới làm được điều thiện và
xã hội mới ổn định. Ngược lại, sở hữu tư nhân sinh ra điều ác, phá hoạt tính 9
chỉnh thể và thống nhất của nhà nước, khiến mọi người bất hoà. Chính vì vậy,
nó cần được loại trừ ra khỏi xã hội. Thêm vào đó, mọi thể chế nhà nước tồn tại
trên thực tế đều đối lập với lý tưởng chính trị và là hình mẫu phản diện của thiết
chế xã hội. Cho dù là nhà nước nào đi nữa, trong đó đều bao gồm hai nhà nước
thù địch: nhà nước của người giàu có và nhà nước của người nghèo khó. Vì vậy,
phương thức tạo cho nhà nước lí tưởng, bền vững chính là sự thống nhất về sở
hữu, phụ nữ, trẻ em và lối sống của cá nhà triết học và chiến binh. Và, điều kiện
và cơ sở và duy trì nhà nước lí tưởng là cộng đồng tài sản và hôn nhân. Platon
chủ trương xoá bỏ sở hữu các nhân, xóa bỏ tình yê và gia đình, thay vào đó là
thành lập những tổ chức cộng đồng. Khi đó, sự gạt bỏ cá nhân trong thực tế tạo
ra được sức mạng tập trung khá lớn, tuy nhiên không thể duy trì sự ổn địng tự
nhiên, lâu bền. Hơn nữa, chính tị có mục đích tối cao là phục vụ con người, giải
phóng con người. Vì vậy, nhà nước lí tưởng của của Platon đã không thành hiện thực.
Như vậy, bằng những dự án chính trị của mình, Platon muốn đưa ra bản án
nghiêm khắc nhất cho nền dân chủ. Ông muốn khôi phục lại những thiết chế xã
hội và pháp quyền bảo thủ lỗi thời. Tư tưởng chính trị của Platon một mặt phản
ánh lập trường chính trị của giới quý tộc chủ nô, mong muốn thay thế chế độ
dân chủ sơ khai, với tất cả những thành quả và hạn chế của nó bằng một chế độ
chính tị kết hợp cái tốt đẹp và tích cực của mô hình chính trị Sparte. Mặt khác,
bày tỏ khát vọng của người Hy Lạp trong việc tìm 10 kiếm hình mẫu lí tưởng
của thiết chế chính trị, với nguyên tắc hàng đầu là công bằng, đồng thời gắn nó
với trật tự, nghiêm minh và ổn định.
2.2.2. Tử tưởng chính trị Xê Nô Phôn
Xenophôn (427- 355 TCN). Ông thuộc tầng lớp quý tộc. Tư tưởng chính trị của
ông thể hiên ở quan niệm về thủ lĩnh chính trị. Bàn về thủ lĩnh chính trị, ông
cho rằng: thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kĩ thuật, giỏi thuyết phục,
biết cảm hóa người khác. Nhưng người thủ lĩnh phải có những phẩm chất đặc 10
biệt như biết bảo vệ lợi ích chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần chúng.
Hy Lạp cổ đại là vùng lãnh thổ gồm miền Nam bán đảo Bancăng (lục địa Hy
Lạp), các đảo Egie và miền ven biển phía Tây Tiểu Á, có lịch sử phát triển từ
thế kỷ VIII trước Công nguyên đến thế kỷ III sau Công nguyên. La Mã cổ đại là
tên gọi của một quốc gia cổ đại nằm ở Nam Âu, bao gồm bán đảo Italia, đảo
Xixin, đảo Coocxơ và đảo Xacđennhơ có lịch sử phát triển từ thế kỷ IV trước
Công nguyên đến thế kỷ V sau Công nguyên. Xã hội Hy Lạp - La Mã cổ đại là
xã hội chiếm hữu nô lệ điển hình. Sự ra đời, củng cố, hưng thịnh và cuối cùng là
diệt vong của một xã hội luôn gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất
và hình thành nhà nước. Do đó, tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại gắn
liền với quá trình tiến hóa của xã hội và nhà nước Hy Lạp - La Mã chiếm hữu
nô lệ và chủ yếu phản ánh ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống tri. Tư tưởng
chính trị Hy Lạp - La Mã đã đề cập đến những nội dung khá toàn diện về chính
trị, như thể chế chính trị, bộ máy nhà nước…và thủ lĩnh chính trị là nội dung
không thể thiếu trong số đó.
Điểm chủ yếu trong tư tưởng chính trị của Xênôphôn (khoảng 430 - 354 TCN),
nhà sử học Hy Lạp, là quan niệm về thủ lĩnh chính trị. Xuất phát từ quan niệm
coi việc cai trị nhà nước là công việc hệ trọng nhất, ông cho rằng ai là người
nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực, người tốt. Ai
ngu dốt về điều đó sẽ trở thành hàng nô lệ. Xenôphon khẳng định thủ lĩnh chính
trị - người đứng đầu nhà nước phải là người biết chỉ huy. Người thủ lĩnh được
người ta chấp nhận giống như người cầm lái trên con tàu đang gặp nguy khốn,
như người thầy thuốc đang ở đầu giường, bởi nếu người thầy thuốc hay người
cầm lái trên con tàu đang gặp nguy khốn có thể quyết định đến vận mệnh của
một người hay một vài người, thì thủ lĩnh chính trị - là người quyết định đến
vận mệnh của hàng triệu người.
Với tầm ảnh hưởng không nhỏ đó của thủ lĩnh chính trị, họ không chỉ là người
mang vương trượng, không chỉ là người biết giành lấy quyền lực bằng bạo lực 11
hay mưu chước, mà là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, biết
làm rung cảm người nghe trong diễn thuyết. Không dừng ở đó, Xenophon còn
chỉ ra không ít những phẩm chất sâu sắc và phổ biến không chỉ cần có ở thủ lĩnh
chính trị đương thời mà ở mọi thời đại, như biết vì lợi ích chung, tận tâm phục
vụ quần chúng và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Thủ lĩnh là người biết hợp lại,
nhân lên sức mạnh của moi người. Quan điểm của Xenophon về thủ lĩnh chính
trị chính là quan điểm về nhà lãnh đạo hiện đại. Sự thiên tài của thủ lĩnh chính
trị không phải tự nhiên mà có, mà nó sinh ra từ sự kiên nhẫn lâu dài, từ khả
năng chịu đựng với ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh liêm, biết
kiềm chế, thích lao động và phải luôn rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Xenophon
đã đưa ra quan điểm biện chứng, xóa bỏ đi những tư tưởng cho rằng người thủ
lĩnh đại diện cho một quyền lực của một thế lực khác, là một sự định đoạt số phận.
Song, trên hết, những yêu cầu đặt ra đối với một người đứng đầu hệ thống
quyền lực chính trị, cả ở phương Đông và phương Tây vẫn thống nhất ở những nội dung sau:
Thứ nhất, thủ lĩnh chính trị là biểu hiện của sự tập trung quyền lực của nhân
dân Ngay từ thời kỳ cổ đại, những tư tưởng dân chủ sơ khai đã được hình thành
khi xem xét thủ lĩnh chính trị như là sự biểu hiện tập trung của quyền lực của
nhân dân. Đặc biệt, đã có tư tưởng nhấn mạnh đến nguy cơ tha hóa của thủ lĩnh
chính trị khi cho rằng đó là việc thường không thích thú, rất nặng nề, và sẽ là tai
họa nếu không biết hy sinh vì lợi ích chung, bỏ qua lợi ích tiền bạc không chính đáng.
Thứ hai, những phẩm chất cần có của thủ lĩnh chính trị
Đó phải là người có trí tuệ, có đạo đức, có tài diễn thuyết, là nơi quy tụ sức
mạnh của mọi người và là người biết nhân lên sức mạnh ấy. Đặc biệt, các nhà tư
tưởng đã có cách nhìn biện chứng khi cho rằng tất cả những phẩm chất hoàn
hảo hội tụ trong một cá nhân thủ lĩnh đều không phải sinh ra đã có, mà nó sinh
ra từ sự kiên nhẫn lâu dài, từ khả năng chịu đựng với ý chỉ sống và rèn luyện
theo phong cách thanh liêm, biết kiềm chế, thích lao động. 12
Thứ ba, nghệ thuật cai trị
Người thủ lĩnh, nếu muốn đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của chính trị,
với tư cách là một hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật
thì phải có phương pháp tác động đến người khác, là sự cai trị với sự bằng lòng
của họ, đạt đến trình độ nghệ thuật cai trị. Để được như vậy, trước hết người thủ
lĩnh phải là tấm gương cho tất cả mọi người, là con người có trí tuệ, phẩm chất,
nhân cách có sự ảnh hưởng và lan tỏa đến người khác. Chỉ khi ấy, chính trị mới
đạt đến trình độ “chính trị là sự cai trị với sự bằng lòng của người khác”.
Nhìn nhận lại những tư tưởng về thủ lĩnh chính trị thời kỳ cổ đại, có thể khẳng
định thủ lĩnh chính trị nói riêng, giới tinh hoa chính trị hay những nhà hoạt động
chính trị chuyên nghiệp nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng, và theo đó, họ
cần có những phẩm chất đặc biệt thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu của hoạt
động chính trị, hoạt động vừa được coi là khoa học, vừa là nghệ thuật. Đặc biệt,
trong bối cảnh của nền chính trị đương đại, khi các quốc gia tồn tại trong mối
liên hệ lẫn nhau thì tầm ảnh hưởng của một thủ lĩnh chính trị, hay một chính trị
gia không chỉ giới hạn trong khuôn khổ một quốc gia, dân tộc nào mà nó còn có
thể vượt ra khỏi biên giới hữu hình của quốc gia ấy. Do đó, việc củng cố lại
những phẩm chất của người thủ lĩnh để đáp ứng yêu cầu của hoạt động chính trị
là điều chưa bao giờ lỗi thời, kể cả khi đó là những vấn đề được nêu lên từ thời kỳ cổ đại.
2.2.3.Tử tưởng chính trị của Aritxtốt
Thành bang của Hy Lạp (nhất là ở Athens) tới giữa thế kỉ IV TCN đã gần như
sụp đổ hoàn toàn. Chế độ chiếm hữu nô lệ lung lay đến tận gốc rễ. Kế tục sự
nghiệp bảo vệ chế độ này cùng với chính quyền của nó là Aristotle. Ông đã tổng
kết và phát triển một cách tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về nguồn
gốc, bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền. Trước hết, đối với
Aristotle, cá nhân không thể có một cuộc sống lành mạnh và tốt đẹp bên ngoài
xã hội bởi bản tính là sông cộng đồng người trong một thể chế xã hội nhất định 13
được gọi là nhà nước, cũng như Aristotle đã nói “Con người về bản chất được sinh ra trong một polis ”.
Aristotle đã khẳng định con người các cá nhân để có một cuộc sống hạnh phúc,
trọn vẹn, cần sống trong một cộng đồng nhà nước. Nhà nước đem lại sinh khí
cho mỗi gia đình, mỗi quần cư và từng cá thể trong xã hội. Ông coi tổ chức gia
đình kiểu chiếm hữu nô lệ là hình thức cộng đồng tự nhiên và vĩnh cửu. Nhà
nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp tục chính quyền trong gia đình.
Ngoài ra, Aristotle bắt đầu các công trình nghiên cứu chính trị của mình bằng
việc chứng minh rằng bản thân sự tồn tại của xã hội loài người đã làm nảy sinh
sự bất công mà chế độ chiếm hữu nô lệ là nguồn gốc cơ bản và biểu hiện cho sự
bất công đó. Ông đã đưa ra một định nghĩa về con người rất nổi tiếng “Con
người, là động vật mà do bản tính tự nhiên giải phải sống trong một nhà nước.
Bản thân tự nhiên sinh ra một số người cầm quyền và thống tị, một số khác là
kẻ bị trị và nô lệ. Chế độ nô lệ - đó là nền tảng, điều kiện cần thiết cho sự tồn tại
của nhà nước. Bở lẽ sự dao động cực nhọc để duy trì cuộc sống làm cho người
tự do mất khả năng thoả mãn cuộc sống tốt đjep của mình, tức là khả năng tham
gia vào các công việc nhà nước. Nhà nước không phải là kết quả của sự thoả
thuận giữa mọi người với nhau trên ý chí của họ. Nhà nước xuất hiện tự nhiên,
được hình thành do lịch sử. Nó được phát triển từ gia đình và làng xã. Thể chế
chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị
nhà nước điều hành và quản lí xã hội về ba phương diện: lập pháp, hành pháp
và phân xử. Sứ mệnh của nhà nước không chỉ là bảo đảm cho con người sống
bình thường, mà con người phải làm cho con người sống hạnh phúc. Tiêu chuẩn
đánh giá nhà nước, đó 1 Polis: là khái niệm chỉ lối tổ chức nhà nước độc đáo
của người Hy Lạp vào thời Homere, được hiểu như một cụm dân cư, sống có tổ
chức, có thành luỹ kiến cố bao quanh, là mức độ phúc lợi mà nó đem lại cho các
công dân trong xã hội. Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc lợi của mọi
công dân. Bản thân nhà nước là các giao thiệp của các gia tộc và dân cư và 14
nhằm đại được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập, tức là đạt được cuộc
sống ưu việt nhất, à thoe ông, không chỉ về của cải vật chất mà còn đảm bảo
công lý. Aristotle có khuynh hướng đạo đức học phải phục vụ pháp luật, đặt cơ
sở đạo đức học cho pháp luật là “công lý”, hành động một cách công bằng, là
hành động theo pháp luật hay nói cách khác công lý là các quy phạm pháp luật.
Công lý còn là là “sự thật”. Pháp luật trừu tượng và không thể thâu tóm toàn bộ
sự đa dạng của hoàn cảnh cụ thể được điều chỉnh. Thực chất của sự thể hiện
trong việc điều chỉnh pháp luật khi mà tính chất tổng quát của pháp luật không đáp ứng của yêu cầu.
Công bằng còn được định nghĩa là một mối tương quan của pháp luật với các
công dân của quốc gia và nó hai mặt. Một mặt, công lý phân chia, phân bố công
danh hay nó chung tất cả những gì có thể chia được giữa mọi người trong xã hội
nào đó. Nền công lý được phân chia chủ yếu là trong lĩnh vực chính trị phù hợp
với vị trí và phẩm giá của từng cá nhân. Hay nói cách khác, Aristotle đã định
củng cố sự bất công xã hội. Mặt khác, công lý được thể hiện trong việc cào
bằng mọi thứ có thể trao đổi. Nền công lý cào bằng chủ yếu trong lĩnh vực
quyền lợi cá nhân, lĩnh vực các giao kèo pháp luật cá nhân. Nền công lí này dựa
vào nguyên tắc “Pháp luật chỉ chú trọng đến mức độ thiệt hại, còn đối với tất cả
mọi người đều công bằng”. Và đối với Aristotle, pháp quyền bộc lộ bản chất của
một nhà nước bởi lẽ bằng pháp luật các quyền chung của công dân được thể
hiện và củng cố. Nhiệm vụ chính là trợ giúp các cá nhân tự thoả mãn trong các
mối quan hệ về quyền. Aristotle cho rằng, lĩnh vực quyền luôn biến động:
không phải ở đâu quyền con người cũng giống nhau , mà là khác nhau, nhất là ở
mức độ khác biệt giữa quyền của người giàu và người nghèo. Và, pháp luật
được chia thành chung và riêng. Pháp luật chung cao hơn pháp luật riêng. Tổng
thể pháp luật tạo thành công lý chính trị.
Tuy nhiên, chế độ chính chính trị nào cũng đều có mầm mống của sự biến chất,
và chế độ dân chủ chính trị cũng không ngoại lệ. Qua những cuộc cách mạng,
theo Aristotle luôn luôn đi ra từ những nguyên nhân lớn dù cho rằng nó sinh ra 15
tức thời từ những sự kiện nhỏ. Đó là quá trình của sự bất bình đẳng hoặc bình
đẳng. Do hoàn cảnh địa lí, do thiếu tầng lớp trung lưu; do sự thoái hoá của các
cá nhân cai trị và có thể còn do sự tự do còn hạn chế do chế độc hiếm hữu nô lệ đem lại.
Xã hội Hy Lạp vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ chứa đựng bên trong những mâu
thuẫn gay gắt giữa các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp khác nhau… được
biểu hiện ra thành cuộc đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ, giữa lực lượng dân chủ
và chống dân chủ, giữa những người Hy Lạp bản địa và dân nhập cư… và ngay
trong nội bộ của những giai cấp, tầng lớp cũng nảy sinh những mâu thuẫn. Nếu
như phái dân chủ chủ trương đập tan chế độ chuyên chế và độc đoán của tầng
lớp quý tộc, giải phóng khỏi sự nô dịch của giới quý tộc cũ, thì giới quý tộc lại
muốn duy trì trật tự cũ và bằng mọi cách bảo toàn đặc quyền, đặc lợi của mình.
Dù quan điểm của giới quý tộc và giới dân chủ khác biệt nhau đến đâu đi chăng
nữa, thì họ vẫn có quan điểm chung về nhiều vấn đề. Đối với họ, sự thừa nhận
sở hữu cá nhân là không thay đổi, chế độ nô lệ được coi là tự nhiên phải có; về
cơ bản, việc loại trừ nô lệ ra khỏi thành phần công dân là vấn đề không cần bàn
cãi; bất công xã hội là hiện tượng tất yếu và tự nhiên. Nhà nước là thiết chế của
con người tự do và chỉ dành cho người tự do. Vấn đề về con người cùng với
những khát vọng của họ đã đặt ra cho các nhà tư tưởng cần phải vạch ra một
thiết chế xã hội dành cho con người và quan tâm đến quyền con người.
Aristotle sinh ra trong một xã hội có sự chuyển biến về chính trị sâu sắc. Trong
đó, các nhà nước thành bang nhỏ bé rơi vào các cuộc khủng hoảng triền miên và
cuối cùng bị thôn tính bởi đế chế Macedonia. Bản thân Aristotle là người có mối
liên hệ khá chặt chẽ với vương triều Macedonia; tuy nhiên ông cũng chẳng hề
có chút quyền lực nào vì hầu hết cuộc đời ông sống như một cư dân “ngoại lai”
của thành Macedonia. Có lẽ vì thế, ông luôn cho rằng, cuộc sống tốt đẹp nhất
của con người là cuộc sống của một công dân có quyền tham gia vào đời sống
chính trị. Chính điều này đã đặt những viên gạch đầu tiên cho tư tưởng về quyền con người của ông. 16
Tất cả những bối cảnh của thời đại đã in đậm dấu ấn trong các tác phẩm của
Aristotle. Trong điều kiện khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, sự gia tăng
những căng thẳng và xung đột xã hội, sự mất phương hướng của con người
trong đời sống tinh thần đã gợi mở những giải pháp vượt qua hiện trạng để vươn
đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. “Chính trị” được xem là kinh điển của
khoa chính trị học tại phương Tây cho đến ngày nay. Ra đời trong hoàn cảnh
trên, tác phẩm “Chính trị” đã phản ảnh xã hội Hy Lạp vào thời kỳ khủng hoảng
của nền dân chủ chủ nô, cuộc đấu tranh của các lực lượng xã hội xung quanh
vấn đề quyền lực và thể chế chính trị, vấn đề dựng xây mô hình nhà nước lý
tưởng thay cho nhà nước hiện tồn để mang lại những điều tốt cho con người, vì
con người và của con người. Bài viết này phân tích tư tưởng nhân quyền của
Aristotle trong tác phẩm “Chính trị” và ý nghĩa lịch sử của nó.
Sống trong một thời đại có quá nhiều biến động lớn lao trong đời sống chính trị,
Aristotle thấu hiểu tâm trạng và khát vọng của con người. Từ đó, ông đã đưa ra
nhiều luận điểm sâu sắc về nhân quyền với mục đích xây dựng một nền chính trị
mang lại “điều tốt nhất” cho con người. Tư tưởng nhân quyền trong tác phẩm
“Chính trị” của Aristotle được thể hiện ở những nội dung sau đây.
Một là, quyền công dân được thể hiện rõ trong vai trò của Nhà nước. Aristotle
mở đầu tác phẩm “Chính trị” bằng lập luận rằng: “Mỗi quốc gia là một loại
cộng đồng, và mỗi cộng đồng được thành lập hướng đến với một số điều tốt
đẹp; vì con người luôn luôn hành động để đạt được những gì mà họ cho là tốt.
Tuy nhiên, nếu tất cả các cộng đồng đều hướng đến một số mục tiêu tốt đẹp nào
đó thì nhà nước hoặc cao nhất là cộng đồng chính trị, là bộ phận cao nhất, và
bao gồm tất cả phần còn lại, hướng đến điều tốt đẹp ở mức độ cao hơn và nhắm
đến mức độ cao nhất” và lý do để nhà nước tồn tại là để giúp cho công dân sống
một đời sống “tốt”. Chính những lập luận đầu tiên về mục đích tối cao của việc
hình thành và duy trì sự tồn tại của nhà nước là mang lại cuộc sống tốt cho con
người đã đưa Aristotle chỉ ra quyền lợi của công dân khi sống trong một thành
bang. Nhà nước là hình thức hoàn thiện nhất của cuộc sống, giúp con người