Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế? Liên hệ thực tế trong ngoại giao của Việt Nam hiện nay? | Báo cáo tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Phenikaa

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế kkông phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại. Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế? Liên hệ thực tế trong
ngoại giao của Việt Nam hiện nay?
Giảng viên: TS. Đỗ Khánh Chi
Nhóm 13. Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh-1-2-22 (N05)
Thành viên nhóm: ĐàoMinh Thành
Nguyễn Văn Đức
Đinh Đức Dương
Lê Văn Dương
Đỗ Quang Vũ
Ngô Tô Hiệu
Nguyễn Văn Hoàng Anh
Phạm Hoàng Thành
Nguyễn Thành Đạt
Hoàng Đức Thắng
Năm học 2022 – 2023
Hà Nội, ngày 22 tháng 2 năm 2023
1
Mục
lục..................................................................................................................1 Lời
nói đầu ................................................................................................................... 2
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh ................................................................................. 3
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam .................................. 3
1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại ............................................. 4
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức ......................................................... 5
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết ............................................................................ 5
2.2. Hình thức tổ chức ........................................................................................... 7
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế ............................................................................. 8
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình ................ 8
3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường ................................... 10
4. Tư tưởng về ngoại giao và phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ
Chí Minh ............................................................................................................. 11
4.1. Tư tưởng về ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh ..................................... 11
4.2. Phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh .................... 15
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đối ngoại hiện nay ............. 23
Kết luận ............................................................................................................... 26
2
Lời nói đầu
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện trải qua 80 năm, đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những
nhân tố tạo nên thắng lợi đó là có đường nối quốc tế đúng đắn, mà cốt lõi là
chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và phát triển
chiến lược đoàn kết gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, gắn
liền với các thời kỳ phát triển của Đảng và Cách mạng Việt Nam, gắn liền với
tiến trình cách mạng thế giới. Đoàn kết quốc tế thực sự trở thành chiến lược cách
mạng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa
của nước ta, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện
đại, tạo nên tổng hợp lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đạt
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với
sự tăng cường sức mạnh của mình, một trong nhữn vấn đề quan trọng là phải mở
rộng sự đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển. Để thực
hiện được mục đích trên cần có sự đoàn kết thống nhất cao độ theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
3
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng chiến thắng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng
Hồ Chí Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất,
mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và
tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực,
tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh
dũng, bất khuất cho độc lập, tự do... Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt
qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt
vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách mạng,
Người vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức
mạnh của dân tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới
ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức
mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần
tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế
sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới,
phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến
trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam có
thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong
trào cách mạng thế giới. Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào
cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng
và cụ thể hơn.
Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi
nói chuyện với Đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961 Hồ Chí Minh nói: "Có sức
mạnh cả nước một lòng có sự ủng hộ của nhân dân thế giới chúng ta sẽ có một
sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách
mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng".
Như vậy theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền
với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn
kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết
4
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố
thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng
lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quả độ
lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế kkông phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng
mỗi nước, mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách
mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm
dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày
càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể
tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngày sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt
động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó Người không
chỉ phát huy triệt để sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong
đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, mà còn kiên trì đấu tranh không
mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế
giới đấu tranh cho mục tiêu chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh:
chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng. Trong Báo các chính trị tại Đại hội II (tháng 2-1951). Người chỉ rõ:
"Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần "vị quốc” của bọn đế
quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế". Sau này, trong tác
phẩm Thưởng thức chính trị (1954). Người nói rõ hơn: "Tinh thần yêu nước là
kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh
thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác đề giữ ein
hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế
quốc... giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta... Đó là lập
trường quốc tế cách mạng".
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh
hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh. .
những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực
lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến hành có
hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
5
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của
tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết
hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng
cách mạng. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã tranh thủ
được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu
cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến
thắng được những kể thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tê vô sản là nhằm góp phần
cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc
và thời đại. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước
mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi
ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Để làm được như vậy
phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc bị kỷ
chống lại chủ nghĩa sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
song tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới, trước hết
là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt
Nam.
Với phong trào cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt của
đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc
tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do đánh giá
rất cao vai trò của khối đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12-1920, tại
Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: "Nhân danh toàn
thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả,
chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi"
1
. Tiếp nhận học thuyết
Lênin. Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, tìm thấy "cái cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp cứu nước của các dân
tộc bị nô dịch. Đồng thời Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào
cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ
nghĩa, là Quốc tế thứ ba và sau này là Cục Thông tin quốc tế, Từ đó, Người đã
dành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu- không mệt mỏi cho việc xây dựng
củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế.
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng cộng
sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp
6
vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc
tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ
có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao
động toàn thế giới theo tinh thần "bốn phương vô sản đều là anh em" mới có thể
chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thắng
lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam không thể tách
rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác, của các đảng cộng sản và công nhân thế giới. Nó khẳng định trên
thực tế những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản mà sinh thời
Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ. Cho dù lịch sử có đổi thay, song sự
đồng tình, ủng hộ, sự chi viện về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, của các
lực lượng cộng sản và công nhân cho Việt Nam theo tinh thần quốc tế vô sản là
không thể phủ nhận.
Với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối
kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị Ban
Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm "Làm cho các dân
tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn
kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh
này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản''. Thêm vào đó, để
tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc
như hai cái cánh của cách mạng thời đại. Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế cộng
sản bằng mọi cách phải "Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc
mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật
sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế
giành thắng lợi cuối cùng"
2
. Người nói đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi
của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống
nhất.
Với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự
do và công lý. Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu
thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí
minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình,
tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng
tiến bộ trên thế giới.
Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt Chính phủ Hồ Chí Minh đã
nhiều lần tuyên bố: "Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều
tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hòa bình"
1
;
"Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối
với ngũ cường là một thái độ bạn bè"
2
. Bên cạnh ngoại giao nhà nước, Hồ Chí
7
Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt
Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa của nhân dân thế
giới, của nhân dân Á Phi..., xây dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các lực
lượng tiến bộ thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên
những tiếng nói liên hệ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức
và từng con người trên hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành
được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí
Minh khẳng định: Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức mà
Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta
đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay.
2.2. Hình thức tổ chức
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách
lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi
hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ năm 1924
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập "Mặt Trận thống nhất của nhân
dân chính quốc và thuộc địa'' chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị
Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI (1928), quan điểm
này trở thành sự thật
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị - xã
hội trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng
trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn
kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại,
góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan
tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm
1941 để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết
định thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam,
Lào, Cao Miên tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo
việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào (Mặt trận nhân dân ba nước
Đông Dương) phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi
Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần "vừa là đồng chí, vừa là anh em" với
Trung Quốc
,
nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời với Việt Nam:
thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc
lập. Với các dân tộc Châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền
hòa bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với
vận mệnh dân tộc Việt Nam, Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với
8
việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của
mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên
xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham
gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời
của Mặt trận nhân dân Á Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với Mặt trận dân chủ và lực lượng Đồng minh chống phát xít nhằm
tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình,
ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế và nhân loại
tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng chiến chống thực dân Pháp và
nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hình thành Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã
định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân
tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với
Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam; chống đế quốc
xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế.
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn
kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản
động quốc tế phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích
giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là
vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam
trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với
trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự
nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Hồ Chí Minh
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện
đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc
tế vô sản, có lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định. Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách
mạng thế giới, trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực
lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
9
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng "là điều kiện
quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng
trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”.
Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
"Có lý" là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu
quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều. "Có tình" là
sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng
chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng
sôvanh, "nước lớn", "đảng lớn”, không "áp đặt", "ức chế", nói xấu, công khai
công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gây sức ép với
nhau. "Có tình" đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức,
cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng
phải được tôn trọng, song lợi ích đó-không được phương hại đến lợi ích chung,
lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác
dụng rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp
công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động.
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ
độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán được Hồ Chí Minh
coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh không chỉ suốt
đời đấu tranh cho tự do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do
của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng
Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt
Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân
tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những
nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam giành
được độc lập. Tháng 9-1947, trả lời nhà báo Mỹ S.ÊIi Mâysi.Hồ Chí Minh tuyên
bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là "làm bạn với tất cả mọi nước
dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó,
Người không chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành
10
cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư
tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở
thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy
sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới
với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Để đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ hòa bình trong công lý.
Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong
những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn
từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa
bình thật sự cho tất cả các dân tộc – “hòa bình trong độc lập tự do”
Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất
di bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu
tượng, mà là "một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân
chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết
tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh
và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm
hóa lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi
chấm dứt chiến tranh, văn hóa hòa bình. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt
trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập
hợp lực lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên
Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới cho rằng: "Bất cứ nơi nào chiến đấu cho
độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở
đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí
Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại
đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao".
3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân
tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua
nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
nêu cao khẩu hiệu: "Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính", "Muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong đấu tranh giành
chính quyền. Người chủ trương "đem sức ta mà giải phóng cho ta". Trong kháng
11
chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: "Một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập". Trong
quan hệ quốc tế. Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng,
ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn...
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài.
Người nói: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng
tôi, không có sự can thiệp ở ngòai vào”. Trong quan hệ giữa các dân thuộc
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế Người xác định: "Các đảng dù lớn dù
nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau" '
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân
Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc
lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp
hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng
hộ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung
Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối
quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với
Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan
trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào
cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
4. Tư tưởng về ngoại giao và phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ
Chí Minh.
4.1. Tư tưởng về ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong di sản hệ thống tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, có tư tưởng về
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các
nước lớn. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống những nguyên
lý, quan điểm về các vấn đề thời đại, đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược,
chính sách ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại... Trên nguyên tắc “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã soi sáng chính sách đối
ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 90 năm qua. Tư tưởng này
đã góp phần tích cực vào việc mở ra các mối quan hệ hoà bình, hữu hảo giữa
Việt Nam và các nước trên thế giới; qua đó Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng
hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam và độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tư tưởng ngoại giao
của Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về quan hệ giữa Việt Nam với các nước
lớn, tiếp tục là kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
Trong tư tưởng này của Hồ Chí Minh, nổi lên một số luận điểm cơ bản sau đây:
Độc lập, tự chủ, tự cường trong quan hệ với các nước
12
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quan hệ với các nước, Việt Nam cần
phải độc lập, tự chủ, tự cường. Bác Hồ đã từng nói với câu bất hủ: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thể hiện quyết tâm sẵn sàng hy
sinh để thực hiện mục tiêu và khát vọng của toàn dân tộc, đó là: độc lập, tự do,
hòa bình và thống nhất đất nước. Trong tư tưởng ngoại giao của Người, độc lập,
tự do chính là mục tiêu không thể thay đổi. Do đó, khi thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán giữ vững lập trường
độc lập, tự do. Người cho rằng: “Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”;
Độc lập có nghĩa là “điều khiển lấy mọi công việc, không có sự can thiệp ở
ngoài vào”.
Cũng theo Hồ Chí Minh, Việt Nam cần độc lập, tự chủ, tự cường trong
quan hệ ngoại giao với các nước lớn. Điều đó không có nghĩa rằng, chúng ta tự
cô lập, tách rời dân tộc với thế giới. Độc lập, tự chủ, tự cường phải gắn với đoàn
kết và hợp tác quốc tế, phải tập hợp lực lượng để phát huy sức mạnh tổng
hợp. Khi trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là
cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”.
Trong Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Người khẳng định: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và
độc lập”. Thông qua Tuyên ngôn độc lập, Người cũng muốn tuyên bố với thế
giới về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục nêu cao quan điểm độc lập, tự chủ tự cường trong quan hệ quốc tế.
Cũng trong thời gian này, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ về cả vật chất và tinh thần của hai nước lớn trong khối xã hội chủ
nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc. Ngày 18/1/1950, Hồ Chí Minh trực tiếp đến
thăm và làm việc tại Trung Quốc. Tại đây, hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại
giao ở cấp đại sứ. Ngày 30/1/1950, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân lần
lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh tiếp tục chủ
trương thực hiện chiến lược ngoại giao độc lập, tự chủ, tự cường và đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là với Liên Xô và Trung Quốc. Thông qua đó,
nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được giữ vững, quan hệ đối ngoại của
Việt Nam không ngừng mở rộng. Đồng thời, trên cơ sở nhất quán mục tiêu đối
ngoại độc lập, tự chủ, sẵn sàng mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là
với các nước lớn, Hồ Chí Minh đã khai thác triệt để mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ
với các đồng minh của Mỹ, giữa phái chủ chiến với phái chủ hòa và các tập đoàn
có lợi ích khác nhau trong giới cầm quyền Mỹ; tranh thủ được sự ủng hộ của
nhân dân Mỹ và các lực lượng tiến bộ khác để xây dựng một mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Quan hệ về hoà bình và hợp tác hữu nghị với các nước trên thế giới
13
Trong ngoại giao với các nước, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa
bình, thiện chí, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước với phương châm “thêm
bạn, bớt thù”. Tớc năm 1945, Hồ Chí Minh có nhiều hoạt động quốc tế để tìm
kiếm đồng minh cho cách mạng Việt Nam. Người đã khéo léo tận dụng mâu
thuẫn trong quan hệ Mỹ - Anh - Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Dương để
tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục thực
hiện chiến lược ngoại giao hòa bình (lúc đầu, hòa với Tưởng Giới Thạch để
chống Pháp, sau đó là hòa với Pháp để đấu tranh buộc Tưởng Giới Thạch rút
quân về nước). Khi Pháp xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn mong muốn xây
dựng quan hệ hữu nghị, hòa bình với Pháp trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc
lập, chủ quyền của nhau. Người đã nhiều lần nhân nhượng Pháp, kể từ Hiệp định
Sơ bộ (6/3/1946) đến Tạm ước (19/4/1946), để giữ gìn nền hòa bình mong
manh. Đối với nhân dân Pháp, Người bộc bạch: “Cả đời mình, tôi đã đấu tranh
chống lại thực dân Pháp, nhưng mà tôi luôn yêu quý và khâm phục nhân dân
Pháp. Đây là một dân tộc vĩ đại, thông minh và rộng lượng. Họ là những người
đầu tiên đưa ra những nguyên tắc cao cả về tự do, bình đẳng và bác ái. Nhân dân
Việt Nam đã và đang tiếp tục đấu tranh để thực hiện những nguyên tắc đó”.
Người luôn mong muốn cộng tác với dân tộc Pháp như anh em vì nền hòa bình,
tự do, bác ái.
Với Mỹ, Hồ Chí Minh luôn cố gắng thiết lập quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ,
tìm mọi cách xây dựng môi trường hòa bình. Song, trước tình hình Mỹ vẫn tiếp
tục âm mưu xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ trương tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ hòa bình, thống nhất non sông. Trong thư gửi
những người đứng đầu 70 nước, Hồ Chí Minh đã trình bày chi tiết tình hình
chiến tranh ở Việt Nam và khẳng định lập trường trước sau như một với Chính
phủ Mỹ. Người viết: “Nếu Chính phủ Mỹ thật muốn giải quyết hoà bình, thì h
phải công nhận lập trường 4 điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà và chứng tỏ điều đó bằng việc làm thật sự; phải chấm dứt vĩnh viễn và vô
điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà”. Năm 1967, khi tương quan lực lượng trên chiến
trường Đông Dương có lợi cho Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chủ động tạo cục
diện “vừa đánh, vừa đàm” với Mỹ, mở đầu cuộc đàm phán Paris, chấm dứt chiến
tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có sự phân biệt rõ bạn và thù của
cách mạng Việt Nam. Trong Thư gửi nhân dân Mỹ (1/1961), Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không oán. Nhân dân
Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ chống chủ nghĩa
thực dân (1775-1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các
bạn”. Với tấm lòng nhân ái, khoan dung, Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự ủng hộ
của nhân dân tiến bộ khắp thế giới, bao gồm cả nhân dân Pháp và Mỹ trong cuộc
chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do và hòa bình.
14
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã khẳng định
với toàn thế giới: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức
là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình”.
Trong mọi trường hợp, Hồ Chí Minh luôn đặt tư tưởng hòa bình là tư tưởng chủ
đạo, chiến tranh chỉ là biện pháp cuối cùng để giữ gìn độc lập dân tộc. Với Pháp,
Người mong muốn hợp tác hòa bình với dân tộc Pháp, thậm chí sẵn sàng thiết
lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Pháp sau khi chiến tranh kết thúc. Hồ Chí
Minh cũng mong muốn có quan hệ hữu nghị với Mỹ. Người cho rằng, để giữ gìn
độc lập dân tộc và hòa bình của nhân loại, cần phải tăng cường quan hệ quốc tế,
mở rộng quan hệ đối ngoại, coi hòa bình là tiêu chí đầu tiên trong mọi cuộc đàm
phán, giải quyết xung đột với các nước lớn. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ
nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia
của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”.
Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để giữ gìn môi trường hòa bình, sẵn sàng đàm
phán, thương lượng với Pháp, Mỹ để giải quyết vấn đề chiến tranh. Người tin
rằng đàm phán trong hòa bình là “vũ khí sắc bén” để hoàn thành mục tiêu độc
lập, tự do; sử dụng tư tưởng hòa bình, khoan dung với kẻ thù để kết thúc chiến
tranh, hạn chế tổn thất cho các bên là điều cần thiết trong ngoại giao.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân
Đây là những nhân tố đặc biệt quan trọng trong ngoại giao với các nước
lớn, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bao
giờ yếu tố ngoại lực và nội lực cũng được nhận thức một cách đầy đủ. Sự sùng
ngoại hoặc bài ngoại quá mức cũng dẫn đến sự trì trệ trong quá trình phát triển.
Phát huy sức mạnh nội lực trước hết là phát huy sức mạnh của tập thể, cộng
đồng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn lực nội sinh quan
trọng, nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảng
trong chiến tranh cũng như trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Sức
mạnh thời đại là những yếu tố “ngoại lực”; có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho “nội
lực”, là điều kiện không thể thiếu trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam. Hồ
Chí Minh cho rằng, cần phải đưa phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đi
theo quỹ đạo cách mạng vô sản, đưa dân tộc Việt Nam hội nhập với trào lưu
chung của thời đại. Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền với
cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã
trở thành quy luật của cách mạng Việt Nam, góp phần làm cho Việt Nam trở
thành nước độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, sức mạnh thời đại
còn bao hàm cả hòa bình. Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại khi kết hợp sẽ
tạo ra nguồn lực to lớn, góp phần đưa cách mạng vượt qua khó khăn, thách thức.
15
Trên đây là những nội dung chủ yếu trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước. Với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh
đã tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, nhân
dân Pháp, Mỹ, những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới đối với cuộc
đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan h
ngoại giao giữa Việt Nam với các nước có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tư tưởng này
đã và đang là định hướng chính trị cho đường lối đối ngoại của Đảng ta. Việt
Nam đang mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa đạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ, đặc biệt đang coi trọng hợp tác với các nước lớn (trên các nguyên tắc:
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; xây dựng môi trường hòa
bình, ổn định). Chính sách ngoại giao đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính sách
ngoại giao đúng đắn đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí
Minh về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
4.2. Phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh
Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do
của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạn bè trên thế
giới, có những người bạn cùng chí hướng, có cả những kẻ thù, trong nhiều hoàn
cảnh và trên nhiều vị thế khác nhau. Phong cách ứng xử tài tình của Người trong
hoạt động đối ngoại đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt
Nam cũng như phong trao đấu tranh cho nền hòa bình chung của nhân loại. Như
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói "Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong
giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại".
Thế giới ca ngợi văn hóa ngoại giao Hồ Chí Minh vì không những Người là
một biểu tượng mẫu mực về đạo đức mà phong cách ngoại giao của Người là
tấm gương cho lãnh đạo các nước và giới chính khách học tập. Như một nhà
nghiên cứu đã nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp tuyệt vời giữa “đức khôn
ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của
Lênin...” Phong cách ngoại giao kiệt xuất Hồ Chí Minh có những đặc điểm
chính sau:
Phong cách ứng xử linh hoạt, bản lĩnh, tự tin, trí tuệ khôn khéo của Hồ
Chí Minh để giữ vững mục tiêu đấu tranh vì độc lập, tự do và hòa bình của dân
tộc.
Sự kiên định giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ nhưng lại hết sức mềm
dẻo, linh hoạt trong sách lược, khéo léo và bản lĩnh để đấu tranh ngoại giao
trước kẻ thù nhằm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân Việt Nam đã trở thành nét đặc sắc và được nhắc đến nhiều trong phong cách
ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh. Lúc hoạt động ở Pháp, khi được hỏi tại sao
bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, Người trả lời: "Rất giản đơn, Đệ tam quốc tế nói
sẽ giúp đỡ dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu
tán thành. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
16
điều tôi muốn". Và cả khi đứng trước kẻ thù của dân tộc, Người luôn ngẩng cao
đầu, tự tin và bản lĩnh. Cuối tháng 6/1922, viên toàn quyền Đông Dương Anbe
Xarô cho gọi Nguyễn Ái Quốc lên để dọa nạt, cảnh cáo trước những hoạt động
cách mạng của Người ở Pháp. Ông ta tìm mọi cách mua chuộc Nguyễn Ái Quốc,
nhưng Người đã khẳng khái đáp trả viên toàn quyền Đông Dương: “Cảm ơn
Ngài! Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được
độc lập…”. Cuộc gặp tuy ngắn ngủi nhưng đã thể hiện khí phách bất khuất trước
kẻ thù, sự kiên định với lý tưởng và thái độ ung dung, bình tĩnh của Nguyễn Ái
Quốc trước tay “cáo già” thực dân. Có lẽ Anbe Xarô cũng kính trọng điều đó,
nên trong chuyến đi thăm Pháp năm 1946, Hồ Chí Minh đã mời Anbe Xarô đến
dự buổi tiệc chiêu đãi, khi gặp Người, ông ta phải thốt lên: “C’est vous!” (Lại là
ông à!). Tôi đã trải qua một phần lớn cuộc đời để chạy theo ông”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vững nguyên tắc nhưng về sách lược Người rất
khôn khéo, mềm dẻo và linh hoạt “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, biết mình, biết
người, biết thời thế để đạt được mục tiêu cao nhất. Sau Cách mạng tháng Tám
1945 chính quyền cách mạng non trẻ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, phải cùng lúc đối mặt với thù trong
giặc ngoài. Nhằm giữ vững chính quyền, phương châm của Người là: Găng
nhưng không được bể... Chúng ta sẵn sàng nhân nhượng để có một giải pháp
chung. Song, độc lập quốc gia và tự do dân tộc thì không được vi phạm. Trước
khi sang Pháp đàm phán, Người dặn lại quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc
Kháng bí quyết “Dĩ bất biến ứng vạn biến” và kết quả mọi việc đều chu toàn.
Câu nói này về sau gần như trở thành kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao
hiện đại của nước ta. Trên đường từ Pháp về Việt Nam, đô đốc Đắcgiăngliơ xin
gặp Người với mục đích diễu võ dương oai, uy hiếp tinh thần. Đến lúc gặp,
Người chủ động ôm hôn Đô đốc Pháp làm các đồng chí cùng đi thắc mắc, Người
giải thích: “Đánh nhau thì đánh nhau, mình hôn nó một cái thì có mất gì!” Trong
buổi chiêu đãi, Người ngồi giữa, một bên là Đô đốc Hải quân Pháp, bên kia là
Thống soái lục quân Pháp ở Viễn Đông, Đắcgiăngliơ bóng gió, dậm dọa: “Thưa
ông Chủ tichj, ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của hải và lục quân đó!”
Người mỉm cười đáp lại: “Giá trị là ở bức tranh chứ không phải là bộ khung.
Chính bức họa đem lại giá trị cho bộ khung!”
Có thể thấy, ở mọi tình huống Người đều có cách phản ứng nhanh nhạy
nhằm khẳng định và nâng cao vị thế của dân tộc. Tháng 5/1946, Cao ủy Đông
Dương Đácgiăngliơ đến Hà Nội. Phía Pháp tổ chức lễ đón long trọng để phô
trương thanh thế. Họ mời Bác đến dự lễ vào ngày 19/5/1946. Ngày 18, sau khi
nhận giấy mời, Người cho thư ký Vũ Đình Huỳnh thông báo với các đồng chí
trong Chính phủ, Trung ương và đoàn thể: Ngày 19/5 đến dự kỷ niệm sinh nhật
của Bác và cử Bộ trưởng Phan Anh thay mặt Chính phủ đến dự lễ của phía Pháp.
Và kết quả là tối 19/5, Cao ủy Đắcgiăngliơ và Ủy viên Cộng hòa Sainteny mang
hoa đến chúc mừng sinh nhật của Người. Năm 1946, tàu chở Bác từ Pháp về đi
qua vùng Manta, thuộc quyền kiểm soát của nước Anh, viên hạm trưởng Pháp
17
phải cho tàu cập bến để xin thủ tục hải quân Anh. Hiểu rõ thông lệ quốc tế,
Người thấy đây là cơ hội tốt để nâng cao hình ảnh và vị thế của đất nước, nên đã
yêu cầu kéo lá cờ Việt Nam lên, nhưng viên thuyền trưởng đã thoái thác. Người
đáp lời nhẹ nhàng nhưng cương quyết: “Thưa Ngài, Việt Nam dân chủ cộng hòa
hiện là một nước tự do, là một thành viên trong liên bang Đông Dương… Hơn ai
hết, các Ngài phải hiểu rằng, lá quốc kỳ của chúng tôi phải được kéo lên để cho
người Anh và những thực dân khác ở châu Á biết sự hiện diện của nước Việt
Nam”. Yêu cầu của Người là rất chính đáng, dù khó chịu nhưng nhà cầm Pháp
phải đồng ý. Trong cuốn hồi ký “Câu chuyện về nền hòa bình bị bỏ lỡ”, J.
Saiteny bày tỏ tình cảm sâu sắc với Người và khẳng định: “Hồ Chí Minh chỉ có
một mục đích thật sự, một mục đích cuối cùng, đó là Độc lập của Việt Nam”.
Phong cách giao tiếp giản dị, chân tình, dễ cảm hóa, tính thuyết phục cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người phi thường và xuất chúng, nhưng
lại cực kỳ gần gũi, giản dị. Những vị khách quốc tế gặp Người bao giờ cũng giữ
lại ấn tượng sâu sắc và luôn tìm cách lý giải về sức cảm hóa kỳ lạ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh bởi vốn hiểu biết uyên bác, tài trí thông minh tuyệt vời, ý chí nghị
lực; hoặc cũng bởi sự giản dị, lạc quan, thẳng thắn, kinh nghiệm và tự tin kết
hợp với phong cách lịch thiệp, nho nhã.
Ngày 12/10/1954, nhà văn Ba Lan M.Giulapxky gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại Sơn Tây. Người ra hiệu cho đồng chí phiên dịch không phải dịch. Khi nghe
phóng viên báo Sự thật hỏi, Người trả lời bằng tiếng Nga. Sau đó Người nói
chuyện bằng tiếng Ý với phóng viên Tạp chí UNITA, bằng tiếng Anh với phóng
viên báo Công nhân, rồi Người vui vẻ giải thích bằng tiếng Pháp tại sao mình
nói được nhiều ngôn ngữ như vậy khiến mọi người đều tỏ ra ngưỡng mộ và
khâm phục.
Cứ mỗi lần chiêu đãi khách, khi tan tiệc Người thường nói theo phong tục
người Việt, ăn cỗ phải mang phần về cho người ở nhà nên ai cũng được nhận
quà của Người. Khi tiếp khách bạn Lào, thấy gió mùa đông bắc tràn về, Người
lấy khăn tặng hai đồng chí quàng khỏi lạnh. Ngày 1/1/1960, các đoàn ngoại giao
và khách quốc tế tại Hà Nội đến Phủ Chủ tịch chúc tết Bác Hồ. Cuối bữa tiệc,
Bác cầm một quả táo to và túi kẹo đi đến chỗ ông đại sứ Ấn Độ: "Ngài đại sứ có
đưa phu nhân sang đây không?", vị tướng ngoại giao cảm động, lúng túng trả lời
chỉ đưa theo cháu trai 9 tuổi, Bác nói: "Thế thì tôi gửi ông mang về cho cháu quả
táo này và gửi cháu những cái hôn", rồi Bác nói với quan khách: "Tết ở nhà các
vị chẳng thiếu thứ gì. Nhưng xin các vị hãy cầm lấy chút hoa quả trên bàn và
mang về gọi là quà của Bác Hồ tặng các cháu ở nhà". Mọi người ồ lên vui vẻ,
nhưng xúc động và cảm phục sự quan tâm của Hồ Chủ tịch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không câu nệ đối đẳng chức vụ trong giao tiếp với
các tầng lớp nhân dân trên thế giới ở những cương vị khác nhau, khiến cho mọi
người cảm thấy Người thật gần gũi, thân tình. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Người sẵn sàng hòa bình vào cuộc sống của những người dân lao động
nghèo khổ ở các dân tộc trên thế giới, kiếm sống bằng những nghề lao động rất
18
bình dị như đầu bếp, chép tranh, cào tuyết… Năm 1913, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho khách sạn Carlton (Anh), nơi đầu bếp
nổi tiếng người Pháp Escoffier làm bếp trưởng. Bất kỳ khi nào nhìn thấy một
khoanh bít tết lớn hay miếng thịt gà to còn chưa được đụng đến, anh lại chuyển
chúng sang một chiếc đĩa sạch và gửi trở lại nhà bếp. Một lần, Escoffier hỏi Ba
“Tại sao anh không vứt những thức đó vào thùng rác như những người khác?”
anh Ba trả lời “Những thứ này không nên vứt đi. Ông có thể mang chúng cho
người nghèo”. Khi trên cương vị Chủ tịch nước, tình yêu thương bao la đối với
người dân lao động càng được vun đắp, Bác luôn quan tâm, gần gũi không hề có
khoảng cách giữa lãnh tụ và quân chúng. Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 1958,
Bác đã nồng nhiệt bắt tay những người dân nghèo và trò chuyện với họ vô cùng
thân thiện, gọi họ là những người bạn, người đồng chí, đây là điều hiếm thấy
trong xã hội Ấn Độ khi còn tồn tại tàn dư của chế độ phân chia đẳng cấp.
Mỗi cử chỉ hành động của Người đều rất khéo léo, cẩn trọng, có thái độ và
cách ứng xử phù hợp để tránh những nghi thức ngoại giao khi cần mà vẫn giữ
được tình cảm chân thành đối với những người bạn, đồng chí, anh em đã từng kề
vai sát cánh, giúp đỡ Người trên con đường hoạt động cách mạng. Ngày
15/12/1961, Đoàn đại biểu Trung Quốc do Nguyên soái Diệp Kiếm Anh dẫn đầu
sang thăm hữu nghị nước ta. Khi biết Đoàn đại biểu sẽ đến chào mình ngay sau
khi tới Việt Nam, Người đã ôn tồn nói: “Hồi trước, khi Bác đi từ Diên An về
phương Nam, đồng chí Diệp Kiếm Anh đã từng là đội trưởng và Bác là bí thư
chi bộ. Do đó, Bác quyết định là Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ ra đón đoàn ở
sân bay, khi về tới Bắc Bộ phủ đã có Bác. Bác sẽ dự cơm thân mật với đoàn đại
biểu Trung Quốc, nhưng không công bố trên báo, vì như vậy sẽ không tiện về
mặt lễ tân. Bởi lúc đó Bác là Chủ tịch nước, còn đồng chí Diệp Kiếm Anh chỉ là
một trong mười nguyên soái của Trung Quốc. Nhưng là chỗ thân tình từ trước
đến nay nên Bác sẽ có mặt ở Bắc Bộ phủ. Bác không thể làm khác được”. Khi
được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đón tiếp đồng chí Diệp Kiếm Anh đã rất
cảm phục trước ứng xử thấu tình đạt lý của Người.
Ngay cả đối với kẻ thù khi đã buông súng đầu hàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối xử với họ rất khoan dung, độ lượng. Lòng bao dung, bác ái toát lên một cách
thật tự nhiên, giản dị từ những cử chỉ, hành động của Người. Khi thăm trại tù
binh trong chiến dịch Biên giới 1950, thấy một đại úy quân y Pháp đang rét run
vì lạnh. Người đã cởi chiếc áo khoác của mình trao cho anh ta. Viên sĩ quan
Pháp cảm động trào nước mắt. Sau đó Người gọi đồng chí Cao Pha - Trưởng ban
quân báo đến nhắc nhở: “Sao chú cho lột giày tù binh rồi treo lên cổ họ? Đối với
người phương Tây, không có giầy dép họ đi lại rất khó khăn, khổ sở. Nếu sợ tù
binh chạy trốn thì chí ít chú phải cho họ đi tất chứ!”. Trong chuyến trao trả tù
binh cuối cùng sau kháng chiến chống Pháp ngày 3/9/1954, một sĩ quan Pháp đã
xúc động nói: “Trong tấm lòng biết ơn nhân dân Việt Nam, tôi không thể nào
quên Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng khoan dung, đại lượng và chính sách
khoan hồng của Người đối với chúng tôi”. Nhà thơ Đức Vili Xanbao đã viết:
19
“Trong tầm nhìn của Bác, không những cho thấy Người là nhà Quốc tế đáng
kính phục mà còn là nhà văn hóa lớn, giàu tình thương yêu nhân loại”.
Nhờ vốn sống phong phú, sự am hiểu tình hình thế giới, đặc biệt nhanh
chóng nhận biết được ý định của người đối thoại mà Hồ Chí Minh có thể lựa
chọn cách ứng xử hợp lý nhất. Người dùng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn và dễ
hiểu song đầy sức thuyết phục để khơi dậy tình cảm nhân văn của người đối
thoại, thuyết phục họ chấp nhận lẽ phải. Không chỉ lời nói, có những hoàn cảnh,
chỉ cần một hành động nhỏ của Bác cũng thấy thuyết phục lòng người. Trong
chuyến thăm chính thức Pháp năm 1946, một phóng viên đã hỏi Người: “Thưa
Chủ tịch Ngài có phải là cộng sản không?”. Điềm tĩnh đi tới lẵng hoa trên bàn,
Hồ Chí Minh rút ra những bông hoa đẹp nhất, đem tặng những người có mặt và
nói: “Tôi là người cộng sản thế này!”.
Đôi lúc Người cũng diễn đạt một cách hài hước, ví von nhưng vẫn giữ được
sự tinh tế, sâu sắc để người nghe dễ cảm nhận. Ngày 26/7/1957, cuộc hội đàm
giữa đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta với các vị đại diện nước Cộng hòa Dân
chủ Đức diễn ra suốt cả ngày, ai cũng mệt mỏi và buồn ngủ. Khi phía bạn báo
cáo năng suất cao của việc nuôi một loại cá chép lai giống, Bác hỏi: “Các đồng
chí có loại cá không có xương không?”. “Thưa không. Ở Việt Nam có loại cá
không xương hay sao?”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Otto Grotewohl hỏi với
vẻ ngạc nhiên. Nghiêm nét mặt Người nói: “Vâng, có”. “Thưa Chủ tịch, có thể
xuất khẩu loại cá ấy cho chúng tôi được không?”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Otto đề nghị. Người trả lời: “Chúng tôi sẵn sàng”. Rồi Người kể về câu chuyện
"con cá gỗ" của đồng bào xứ Nghệ. Các đại biểu được một trận cười thoải mái.
Vào khoảng 22h ngày 17/7/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dạo với vợ chồng
Thủ tướng Đức Ôttô và Johana trên đường phố Berlin, khi người dân nhận ra và
xúm lại, vây quanh, Bác đã bắt tay từng người rồi hỏi chuyện một đôi nam nữ
trẻ tuổi bằng tiếng Đức: “Các cháu có biết không, sang đến đây Bác mới biết
mình là người giàu nhất nước Đức này?”, Người giơ tay chỉ và nói: “Các cửa
hàng lớn đều đề tên HO là của Bác! (HO tiếng Đức là viết tắt tên cửa hàng quốc
doanh)”. Thế là tất cả mọi người đều vỗ tay cười trước câu nói dí dỏm đó.
Charles Fourniau, nhà sử học Pháp hồi tưởng buổi phỏng vấn Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngày 15/7/1969: “Giọng nói của Người rất tự chủ, lúc nào cũng đi
thẳng vào vấn đề, không chút nghi thức. Giờ phát được gặp Chủ tịch Hồ Chí
Minh hôm ấy là một trong những giờ phút đáng ghi nhớ trong đời tôi. Người
không để lộ với tôi những bí mật nhà nước, không tìm cách dạy tôi một bài học
về đạo đức hay chính trị nhưng càng nghe tôi càng thấy Người vừa nói về một
vấn đề lớn của đất nước, vừa dạy cho tôi một bài học luân lý chính trị”.
Cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và mang giá trị thực tiễn cao.
Nhà sử học Italy Pino Perugia đánh giá bức thư Gửi đồng bào toàn quốc
của Hồ Chí Minh viết năm 1944: "Là một bản tổng hợp tiêu biểu sự tiến triển
chính trị và tư tưởng của cả một dân tộc". Bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Việt Nam do Người đọc ngày 2/9/1945 đã mở đầu bằng câu trích từ Tuyên ngôn
| 1/28

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ⸎⸎⸎⸎⸎
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế? Liên hệ thực tế trong
ngoại giao của Việt Nam hiện nay?
Giảng viên: TS. Đỗ Khánh Chi
Nhóm 13. Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh-1-2-22 (N05)
Thành viên nhóm: ĐàoMinh Thành Nguyễn Văn Đức Đinh Đức Dương Lê Văn Dương Đỗ Quang Vũ Ngô Tô Hiệu Nguyễn Văn Hoàng Anh Phạm Hoàng Thành Nguyễn Thành Đạt Hoàng Đức Thắng
Năm học 2022 – 2023
Hà Nội, ngày 22 tháng 2 năm 2023 Mục
lục..................................................................................................................1 Lời
nói đầu ................................................................................................................... 2
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh ................................................................................. 3
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam .................................. 3
1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại ............................................. 4
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức ......................................................... 5
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết ............................................................................ 5
2.2. Hình thức tổ chức ........................................................................................... 7
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế ............................................................................. 8
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình ................ 8
3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường ................................... 10
4. Tư tưởng về ngoại giao và phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ
Chí Minh ............................................................................................................. 11
4.1. Tư tưởng về ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh ..................................... 11
4.2. Phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh .................... 15
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đối ngoại hiện nay ............. 23
Kết luận ............................................................................................................... 26 1 Lời nói đầu
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện trải qua 80 năm, đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những
nhân tố tạo nên thắng lợi đó là có đường nối quốc tế đúng đắn, mà cốt lõi là
chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và phát triển
chiến lược đoàn kết gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, gắn
liền với các thời kỳ phát triển của Đảng và Cách mạng Việt Nam, gắn liền với
tiến trình cách mạng thế giới. Đoàn kết quốc tế thực sự trở thành chiến lược cách
mạng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa
của nước ta, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện
đại, tạo nên tổng hợp lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đạt
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với
sự tăng cường sức mạnh của mình, một trong nhữn vấn đề quan trọng là phải mở
rộng sự đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển. Để thực
hiện được mục đích trên cần có sự đoàn kết thống nhất cao độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 2
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng chiến thắng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng
Hồ Chí Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất,
mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và
tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực,
tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh
dũng, bất khuất cho độc lập, tự do... Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt
qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt
vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách mạng,
Người vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới
ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức
mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần
tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế
sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới,
phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến
trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam có
thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong
trào cách mạng thế giới. Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào
cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi
nói chuyện với Đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961 Hồ Chí Minh nói: "Có sức
mạnh cả nước một lòng có sự ủng hộ của nhân dân thế giới chúng ta sẽ có một
sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách
mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng".
Như vậy theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền
với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn
kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết 3
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố
thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng
lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quả độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế kkông phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng
mỗi nước, mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm
dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày
càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể
tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngày sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt
động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó Người không
chỉ phát huy triệt để sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong
đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, mà còn kiên trì đấu tranh không
mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế
giới đấu tranh cho mục tiêu chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh:
chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng. Trong Báo các chính trị tại Đại hội II (tháng 2-1951). Người chỉ rõ:
"Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần "vị quốc” của bọn đế
quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế". Sau này, trong tác
phẩm Thưởng thức chính trị (1954). Người nói rõ hơn: "Tinh thần yêu nước là
kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh
thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác đề giữ ein
hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế
quốc... giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta... Đó là lập
trường quốc tế cách mạng".
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh
hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh. .
những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực
lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến hành có
hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 4
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của
tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết
hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng
cách mạng. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã tranh thủ
được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu
cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến
thắng được những kể thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tê vô sản là nhằm góp phần
cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc
và thời đại. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước
mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi
ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Để làm được như vậy
phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc bị kỷ
chống lại chủ nghĩa sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
song tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới, trước hết
là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.
Với phong trào cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt của
đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc
tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do đánh giá
rất cao vai trò của khối đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12-1920, tại
Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: "Nhân danh toàn
thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả,
chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi"1. Tiếp nhận học thuyết
Lênin. Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, tìm thấy "cái cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp cứu nước của các dân
tộc bị nô dịch. Đồng thời Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào
cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ
nghĩa, là Quốc tế thứ ba và sau này là Cục Thông tin quốc tế, Từ đó, Người đã
dành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu- không mệt mỏi cho việc xây dựng và
củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng cộng
sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp 5
vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc
tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ
có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao
động toàn thế giới theo tinh thần "bốn phương vô sản đều là anh em" mới có thể
chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thắng
lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam không thể tách
rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác, của các đảng cộng sản và công nhân thế giới. Nó khẳng định trên
thực tế những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản mà sinh thời
Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ. Cho dù lịch sử có đổi thay, song sự
đồng tình, ủng hộ, sự chi viện về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, của các
lực lượng cộng sản và công nhân cho Việt Nam theo tinh thần quốc tế vô sản là không thể phủ nhận.
Với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối
kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị Ban
Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm "Làm cho các dân
tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn
kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh
này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản''. Thêm vào đó, để
tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc
như hai cái cánh của cách mạng thời đại. Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế cộng
sản bằng mọi cách phải "Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc
mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật
sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế
giành thắng lợi cuối cùng"2. Người nói đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi
của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.
Với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự
do và công lý. Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu
thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí
minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình,
tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng
tiến bộ trên thế giới.
Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt Chính phủ Hồ Chí Minh đã
nhiều lần tuyên bố: "Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều
tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hòa bình"1;
"Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối
với ngũ cường là một thái độ bạn bè"2. Bên cạnh ngoại giao nhà nước, Hồ Chí 6
Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt
Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa của nhân dân thế
giới, của nhân dân Á Phi..., xây dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các lực
lượng tiến bộ thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên
những tiếng nói liên hệ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức
và từng con người trên hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành
được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí
Minh khẳng định: Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức mà
Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta
đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay. 2.2. Hình thức tổ chức
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách
lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi
hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ năm 1924
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập "Mặt Trận thống nhất của nhân
dân chính quốc và thuộc địa'' chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị
Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI (1928), quan điểm này trở thành sự thật
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị - xã
hội trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng
trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn
kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại,
góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan
tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm
1941 để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết
định thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam,
Lào, Cao Miên tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo
việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào (Mặt trận nhân dân ba nước
Đông Dương) phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi
Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần "vừa là đồng chí, vừa là anh em" với
Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời với Việt Nam:
thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc
lập. Với các dân tộc Châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền
hòa bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với
vận mệnh dân tộc Việt Nam, Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với 7
việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của
mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên
xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham
gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời
của Mặt trận nhân dân Á Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với Mặt trận dân chủ và lực lượng Đồng minh chống phát xít nhằm
tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình,
ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế và nhân loại
tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng chiến chống thực dân Pháp và
nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hình thành Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã
định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân
tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với
Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam; chống đế quốc
xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế.
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn
kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản
động quốc tế phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích
giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là
vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam
trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với
trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự
nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Hồ Chí Minh
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện
đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc
tế vô sản, có lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định. Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách
mạng thế giới, trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực
lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. 8
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng "là điều kiện
quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng
trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”.
Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
"Có lý" là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu
quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều. "Có tình" là
sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng
chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng
sôvanh, "nước lớn", "đảng lớn”, không "áp đặt", "ức chế", nói xấu, công khai
công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gây sức ép với
nhau. "Có tình" đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức,
cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng
phải được tôn trọng, song lợi ích đó-không được phương hại đến lợi ích chung,
lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác
dụng rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp
công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động.
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ
độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán được Hồ Chí Minh
coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh không chỉ suốt
đời đấu tranh cho tự do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do
của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng
Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt
Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân
tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam giành
được độc lập. Tháng 9-1947, trả lời nhà báo Mỹ S.ÊIi Mâysi.Hồ Chí Minh tuyên
bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là "làm bạn với tất cả mọi nước
dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó,
Người không chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành 9
cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư
tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở
thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy
sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới
với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Để đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ hòa bình trong công lý.
Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong
những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn
từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa
bình thật sự cho tất cả các dân tộc – “hòa bình trong độc lập tự do”
Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất
di bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu
tượng, mà là "một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân
chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết
tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh
và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm
hóa lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi
chấm dứt chiến tranh, văn hóa hòa bình. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt
trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập
hợp lực lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên
Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới cho rằng: "Bất cứ nơi nào chiến đấu cho
độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở
đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí
Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại
đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao".
3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân
tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua
nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
nêu cao khẩu hiệu: "Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính", "Muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong đấu tranh giành
chính quyền. Người chủ trương "đem sức ta mà giải phóng cho ta". Trong kháng 10
chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: "Một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập". Trong
quan hệ quốc tế. Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng,
ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn...
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài.
Người nói: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng
tôi, không có sự can thiệp ở ngòai vào”. Trong quan hệ giữa các dân thuộc
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế Người xác định: "Các đảng dù lớn dù
nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau" '
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân
Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc
lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp
hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng
hộ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung
Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối
quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với
Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan
trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào
cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
4. Tư tưởng về ngoại giao và phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh.
4.1. Tư tưởng về ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong di sản hệ thống tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, có tư tưởng về
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các
nước lớn. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống những nguyên
lý, quan điểm về các vấn đề thời đại, đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược,
chính sách ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại... Trên nguyên tắc “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã soi sáng chính sách đối
ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 90 năm qua. Tư tưởng này
đã góp phần tích cực vào việc mở ra các mối quan hệ hoà bình, hữu hảo giữa
Việt Nam và các nước trên thế giới; qua đó Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng
hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam và độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tư tưởng ngoại giao
của Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về quan hệ giữa Việt Nam với các nước
lớn, tiếp tục là kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
Trong tư tưởng này của Hồ Chí Minh, nổi lên một số luận điểm cơ bản sau đây:
Độc lập, tự chủ, tự cường trong quan hệ với các nước 11
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quan hệ với các nước, Việt Nam cần
phải độc lập, tự chủ, tự cường. Bác Hồ đã từng nói với câu bất hủ: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thể hiện quyết tâm sẵn sàng hy
sinh để thực hiện mục tiêu và khát vọng của toàn dân tộc, đó là: độc lập, tự do,
hòa bình và thống nhất đất nước. Trong tư tưởng ngoại giao của Người, độc lập,
tự do chính là mục tiêu không thể thay đổi. Do đó, khi thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán giữ vững lập trường
độc lập, tự do. Người cho rằng: “Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”;
Độc lập có nghĩa là “điều khiển lấy mọi công việc, không có sự can thiệp ở ngoài vào”.
Cũng theo Hồ Chí Minh, Việt Nam cần độc lập, tự chủ, tự cường trong
quan hệ ngoại giao với các nước lớn. Điều đó không có nghĩa rằng, chúng ta tự
cô lập, tách rời dân tộc với thế giới. Độc lập, tự chủ, tự cường phải gắn với đoàn
kết và hợp tác quốc tế, phải tập hợp lực lượng để phát huy sức mạnh tổng
hợp. Khi trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là
cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”.
Trong Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Người khẳng định: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và
độc lập”. Thông qua Tuyên ngôn độc lập, Người cũng muốn tuyên bố với thế
giới về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục nêu cao quan điểm độc lập, tự chủ tự cường trong quan hệ quốc tế.
Cũng trong thời gian này, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ về cả vật chất và tinh thần của hai nước lớn trong khối xã hội chủ
nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc. Ngày 18/1/1950, Hồ Chí Minh trực tiếp đến
thăm và làm việc tại Trung Quốc. Tại đây, hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại
giao ở cấp đại sứ. Ngày 30/1/1950, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân lần
lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh tiếp tục chủ
trương thực hiện chiến lược ngoại giao độc lập, tự chủ, tự cường và đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là với Liên Xô và Trung Quốc. Thông qua đó,
nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được giữ vững, quan hệ đối ngoại của
Việt Nam không ngừng mở rộng. Đồng thời, trên cơ sở nhất quán mục tiêu đối
ngoại độc lập, tự chủ, sẵn sàng mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là
với các nước lớn, Hồ Chí Minh đã khai thác triệt để mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ
với các đồng minh của Mỹ, giữa phái chủ chiến với phái chủ hòa và các tập đoàn
có lợi ích khác nhau trong giới cầm quyền Mỹ; tranh thủ được sự ủng hộ của
nhân dân Mỹ và các lực lượng tiến bộ khác để xây dựng một mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Quan hệ về hoà bình và hợp tác hữu nghị với các nước trên thế giới 12
Trong ngoại giao với các nước, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa
bình, thiện chí, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước với phương châm “thêm
bạn, bớt thù”. Trước năm 1945, Hồ Chí Minh có nhiều hoạt động quốc tế để tìm
kiếm đồng minh cho cách mạng Việt Nam. Người đã khéo léo tận dụng mâu
thuẫn trong quan hệ Mỹ - Anh - Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông Dương để
tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục thực
hiện chiến lược ngoại giao hòa bình (lúc đầu, hòa với Tưởng Giới Thạch để
chống Pháp, sau đó là hòa với Pháp để đấu tranh buộc Tưởng Giới Thạch rút
quân về nước). Khi Pháp xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn mong muốn xây
dựng quan hệ hữu nghị, hòa bình với Pháp trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc
lập, chủ quyền của nhau. Người đã nhiều lần nhân nhượng Pháp, kể từ Hiệp định
Sơ bộ (6/3/1946) đến Tạm ước (19/4/1946), để giữ gìn nền hòa bình mong
manh. Đối với nhân dân Pháp, Người bộc bạch: “Cả đời mình, tôi đã đấu tranh
chống lại thực dân Pháp, nhưng mà tôi luôn yêu quý và khâm phục nhân dân
Pháp. Đây là một dân tộc vĩ đại, thông minh và rộng lượng. Họ là những người
đầu tiên đưa ra những nguyên tắc cao cả về tự do, bình đẳng và bác ái. Nhân dân
Việt Nam đã và đang tiếp tục đấu tranh để thực hiện những nguyên tắc đó”.
Người luôn mong muốn cộng tác với dân tộc Pháp như anh em vì nền hòa bình, tự do, bác ái.
Với Mỹ, Hồ Chí Minh luôn cố gắng thiết lập quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ,
tìm mọi cách xây dựng môi trường hòa bình. Song, trước tình hình Mỹ vẫn tiếp
tục âm mưu xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ trương tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ hòa bình, thống nhất non sông. Trong thư gửi
những người đứng đầu 70 nước, Hồ Chí Minh đã trình bày chi tiết tình hình
chiến tranh ở Việt Nam và khẳng định lập trường trước sau như một với Chính
phủ Mỹ. Người viết: “Nếu Chính phủ Mỹ thật muốn giải quyết hoà bình, thì họ
phải công nhận lập trường 4 điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà và chứng tỏ điều đó bằng việc làm thật sự; phải chấm dứt vĩnh viễn và vô
điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà”. Năm 1967, khi tương quan lực lượng trên chiến
trường Đông Dương có lợi cho Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chủ động tạo cục
diện “vừa đánh, vừa đàm” với Mỹ, mở đầu cuộc đàm phán Paris, chấm dứt chiến
tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có sự phân biệt rõ bạn và thù của
cách mạng Việt Nam. Trong Thư gửi nhân dân Mỹ (1/1961), Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không oán. Nhân dân
Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ chống chủ nghĩa
thực dân (1775-1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các
bạn”. Với tấm lòng nhân ái, khoan dung, Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự ủng hộ
của nhân dân tiến bộ khắp thế giới, bao gồm cả nhân dân Pháp và Mỹ trong cuộc
chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do và hòa bình. 13
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã khẳng định
với toàn thế giới: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức
là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình”.
Trong mọi trường hợp, Hồ Chí Minh luôn đặt tư tưởng hòa bình là tư tưởng chủ
đạo, chiến tranh chỉ là biện pháp cuối cùng để giữ gìn độc lập dân tộc. Với Pháp,
Người mong muốn hợp tác hòa bình với dân tộc Pháp, thậm chí sẵn sàng thiết
lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Pháp sau khi chiến tranh kết thúc. Hồ Chí
Minh cũng mong muốn có quan hệ hữu nghị với Mỹ. Người cho rằng, để giữ gìn
độc lập dân tộc và hòa bình của nhân loại, cần phải tăng cường quan hệ quốc tế,
mở rộng quan hệ đối ngoại, coi hòa bình là tiêu chí đầu tiên trong mọi cuộc đàm
phán, giải quyết xung đột với các nước lớn. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ
nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia
của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”.
Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để giữ gìn môi trường hòa bình, sẵn sàng đàm
phán, thương lượng với Pháp, Mỹ để giải quyết vấn đề chiến tranh. Người tin
rằng đàm phán trong hòa bình là “vũ khí sắc bén” để hoàn thành mục tiêu độc
lập, tự do; sử dụng tư tưởng hòa bình, khoan dung với kẻ thù để kết thúc chiến
tranh, hạn chế tổn thất cho các bên là điều cần thiết trong ngoại giao.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân
Đây là những nhân tố đặc biệt quan trọng trong ngoại giao với các nước
lớn, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bao
giờ yếu tố ngoại lực và nội lực cũng được nhận thức một cách đầy đủ. Sự sùng
ngoại hoặc bài ngoại quá mức cũng dẫn đến sự trì trệ trong quá trình phát triển.
Phát huy sức mạnh nội lực trước hết là phát huy sức mạnh của tập thể, cộng
đồng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn lực nội sinh quan
trọng, nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảng
trong chiến tranh cũng như trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Sức
mạnh thời đại là những yếu tố “ngoại lực”; có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho “nội
lực”, là điều kiện không thể thiếu trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam. Hồ
Chí Minh cho rằng, cần phải đưa phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đi
theo quỹ đạo cách mạng vô sản, đưa dân tộc Việt Nam hội nhập với trào lưu
chung của thời đại. Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền với
cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã
trở thành quy luật của cách mạng Việt Nam, góp phần làm cho Việt Nam trở
thành nước độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, sức mạnh thời đại
còn bao hàm cả hòa bình. Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại khi kết hợp sẽ
tạo ra nguồn lực to lớn, góp phần đưa cách mạng vượt qua khó khăn, thách thức. 14
Trên đây là những nội dung chủ yếu trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước. Với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh
đã tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, nhân
dân Pháp, Mỹ, những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới đối với cuộc
đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam với các nước có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tư tưởng này
đã và đang là định hướng chính trị cho đường lối đối ngoại của Đảng ta. Việt
Nam đang mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa đạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ, đặc biệt đang coi trọng hợp tác với các nước lớn (trên các nguyên tắc:
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; xây dựng môi trường hòa
bình, ổn định). Chính sách ngoại giao đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính sách
ngoại giao đúng đắn đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí
Minh về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
4.2. Phong cách nghệ thuật ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh
Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do
của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạn bè trên thế
giới, có những người bạn cùng chí hướng, có cả những kẻ thù, trong nhiều hoàn
cảnh và trên nhiều vị thế khác nhau. Phong cách ứng xử tài tình của Người trong
hoạt động đối ngoại đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt
Nam cũng như phong trao đấu tranh cho nền hòa bình chung của nhân loại. Như
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói "Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong
giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại".
Thế giới ca ngợi văn hóa ngoại giao Hồ Chí Minh vì không những Người là
một biểu tượng mẫu mực về đạo đức mà phong cách ngoại giao của Người là
tấm gương cho lãnh đạo các nước và giới chính khách học tập. Như một nhà
nghiên cứu đã nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp tuyệt vời giữa “đức khôn
ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của
Lênin...” Phong cách ngoại giao kiệt xuất Hồ Chí Minh có những đặc điểm chính sau:
Phong cách ứng xử linh hoạt, bản lĩnh, tự tin, trí tuệ và khôn khéo của Hồ
Chí Minh để giữ vững mục tiêu đấu tranh vì độc lập, tự do và hòa bình của dân tộc.
Sự kiên định giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ nhưng lại hết sức mềm
dẻo, linh hoạt trong sách lược, khéo léo và bản lĩnh để đấu tranh ngoại giao
trước kẻ thù nhằm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân Việt Nam đã trở thành nét đặc sắc và được nhắc đến nhiều trong phong cách
ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh. Lúc hoạt động ở Pháp, khi được hỏi tại sao
bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, Người trả lời: "Rất giản đơn, Đệ tam quốc tế nói
sẽ giúp đỡ dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu
tán thành. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những 15
điều tôi muốn". Và cả khi đứng trước kẻ thù của dân tộc, Người luôn ngẩng cao
đầu, tự tin và bản lĩnh. Cuối tháng 6/1922, viên toàn quyền Đông Dương Anbe
Xarô cho gọi Nguyễn Ái Quốc lên để dọa nạt, cảnh cáo trước những hoạt động
cách mạng của Người ở Pháp. Ông ta tìm mọi cách mua chuộc Nguyễn Ái Quốc,
nhưng Người đã khẳng khái đáp trả viên toàn quyền Đông Dương: “Cảm ơn
Ngài! Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được
độc lập…”. Cuộc gặp tuy ngắn ngủi nhưng đã thể hiện khí phách bất khuất trước
kẻ thù, sự kiên định với lý tưởng và thái độ ung dung, bình tĩnh của Nguyễn Ái
Quốc trước tay “cáo già” thực dân. Có lẽ Anbe Xarô cũng kính trọng điều đó,
nên trong chuyến đi thăm Pháp năm 1946, Hồ Chí Minh đã mời Anbe Xarô đến
dự buổi tiệc chiêu đãi, khi gặp Người, ông ta phải thốt lên: “C’est vous!” (Lại là
ông à!). Tôi đã trải qua một phần lớn cuộc đời để chạy theo ông”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vững nguyên tắc nhưng về sách lược Người rất
khôn khéo, mềm dẻo và linh hoạt “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, biết mình, biết
người, biết thời thế để đạt được mục tiêu cao nhất. Sau Cách mạng tháng Tám
1945 chính quyền cách mạng non trẻ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, phải cùng lúc đối mặt với thù trong
giặc ngoài. Nhằm giữ vững chính quyền, phương châm của Người là: Găng
nhưng không được bể... Chúng ta sẵn sàng nhân nhượng để có một giải pháp
chung. Song, độc lập quốc gia và tự do dân tộc thì không được vi phạm. Trước
khi sang Pháp đàm phán, Người dặn lại quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc
Kháng bí quyết “Dĩ bất biến ứng vạn biến” và kết quả mọi việc đều chu toàn.
Câu nói này về sau gần như trở thành kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao
hiện đại của nước ta. Trên đường từ Pháp về Việt Nam, đô đốc Đắcgiăngliơ xin
gặp Người với mục đích diễu võ dương oai, uy hiếp tinh thần. Đến lúc gặp,
Người chủ động ôm hôn Đô đốc Pháp làm các đồng chí cùng đi thắc mắc, Người
giải thích: “Đánh nhau thì đánh nhau, mình hôn nó một cái thì có mất gì!” Trong
buổi chiêu đãi, Người ngồi giữa, một bên là Đô đốc Hải quân Pháp, bên kia là
Thống soái lục quân Pháp ở Viễn Đông, Đắcgiăngliơ bóng gió, dậm dọa: “Thưa
ông Chủ tichj, ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của hải và lục quân đó!”
Người mỉm cười đáp lại: “Giá trị là ở bức tranh chứ không phải là bộ khung.
Chính bức họa đem lại giá trị cho bộ khung!”
Có thể thấy, ở mọi tình huống Người đều có cách phản ứng nhanh nhạy
nhằm khẳng định và nâng cao vị thế của dân tộc. Tháng 5/1946, Cao ủy Đông
Dương Đácgiăngliơ đến Hà Nội. Phía Pháp tổ chức lễ đón long trọng để phô
trương thanh thế. Họ mời Bác đến dự lễ vào ngày 19/5/1946. Ngày 18, sau khi
nhận giấy mời, Người cho thư ký Vũ Đình Huỳnh thông báo với các đồng chí
trong Chính phủ, Trung ương và đoàn thể: Ngày 19/5 đến dự kỷ niệm sinh nhật
của Bác và cử Bộ trưởng Phan Anh thay mặt Chính phủ đến dự lễ của phía Pháp.
Và kết quả là tối 19/5, Cao ủy Đắcgiăngliơ và Ủy viên Cộng hòa Sainteny mang
hoa đến chúc mừng sinh nhật của Người. Năm 1946, tàu chở Bác từ Pháp về đi
qua vùng Manta, thuộc quyền kiểm soát của nước Anh, viên hạm trưởng Pháp 16
phải cho tàu cập bến để xin thủ tục hải quân Anh. Hiểu rõ thông lệ quốc tế,
Người thấy đây là cơ hội tốt để nâng cao hình ảnh và vị thế của đất nước, nên đã
yêu cầu kéo lá cờ Việt Nam lên, nhưng viên thuyền trưởng đã thoái thác. Người
đáp lời nhẹ nhàng nhưng cương quyết: “Thưa Ngài, Việt Nam dân chủ cộng hòa
hiện là một nước tự do, là một thành viên trong liên bang Đông Dương… Hơn ai
hết, các Ngài phải hiểu rằng, lá quốc kỳ của chúng tôi phải được kéo lên để cho
người Anh và những thực dân khác ở châu Á biết sự hiện diện của nước Việt
Nam”. Yêu cầu của Người là rất chính đáng, dù khó chịu nhưng nhà cầm Pháp
phải đồng ý. Trong cuốn hồi ký “Câu chuyện về nền hòa bình bị bỏ lỡ”, J.
Saiteny bày tỏ tình cảm sâu sắc với Người và khẳng định: “Hồ Chí Minh chỉ có
một mục đích thật sự, một mục đích cuối cùng, đó là Độc lập của Việt Nam”.
Phong cách giao tiếp giản dị, chân tình, dễ cảm hóa, có tính thuyết phục cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người phi thường và xuất chúng, nhưng
lại cực kỳ gần gũi, giản dị. Những vị khách quốc tế gặp Người bao giờ cũng giữ
lại ấn tượng sâu sắc và luôn tìm cách lý giải về sức cảm hóa kỳ lạ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh bởi vốn hiểu biết uyên bác, tài trí thông minh tuyệt vời, ý chí nghị
lực; hoặc cũng bởi sự giản dị, lạc quan, thẳng thắn, kinh nghiệm và tự tin kết
hợp với phong cách lịch thiệp, nho nhã.
Ngày 12/10/1954, nhà văn Ba Lan M.Giulapxky gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại Sơn Tây. Người ra hiệu cho đồng chí phiên dịch không phải dịch. Khi nghe
phóng viên báo Sự thật hỏi, Người trả lời bằng tiếng Nga. Sau đó Người nói
chuyện bằng tiếng Ý với phóng viên Tạp chí UNITA, bằng tiếng Anh với phóng
viên báo Công nhân, rồi Người vui vẻ giải thích bằng tiếng Pháp tại sao mình
nói được nhiều ngôn ngữ như vậy khiến mọi người đều tỏ ra ngưỡng mộ và khâm phục.
Cứ mỗi lần chiêu đãi khách, khi tan tiệc Người thường nói theo phong tục
người Việt, ăn cỗ phải mang phần về cho người ở nhà nên ai cũng được nhận
quà của Người. Khi tiếp khách bạn Lào, thấy gió mùa đông bắc tràn về, Người
lấy khăn tặng hai đồng chí quàng khỏi lạnh. Ngày 1/1/1960, các đoàn ngoại giao
và khách quốc tế tại Hà Nội đến Phủ Chủ tịch chúc tết Bác Hồ. Cuối bữa tiệc,
Bác cầm một quả táo to và túi kẹo đi đến chỗ ông đại sứ Ấn Độ: "Ngài đại sứ có
đưa phu nhân sang đây không?", vị tướng ngoại giao cảm động, lúng túng trả lời
chỉ đưa theo cháu trai 9 tuổi, Bác nói: "Thế thì tôi gửi ông mang về cho cháu quả
táo này và gửi cháu những cái hôn", rồi Bác nói với quan khách: "Tết ở nhà các
vị chẳng thiếu thứ gì. Nhưng xin các vị hãy cầm lấy chút hoa quả trên bàn và
mang về gọi là quà của Bác Hồ tặng các cháu ở nhà". Mọi người ồ lên vui vẻ,
nhưng xúc động và cảm phục sự quan tâm của Hồ Chủ tịch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không câu nệ đối đẳng chức vụ trong giao tiếp với
các tầng lớp nhân dân trên thế giới ở những cương vị khác nhau, khiến cho mọi
người cảm thấy Người thật gần gũi, thân tình. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Người sẵn sàng hòa bình vào cuộc sống của những người dân lao động
nghèo khổ ở các dân tộc trên thế giới, kiếm sống bằng những nghề lao động rất 17
bình dị như đầu bếp, chép tranh, cào tuyết… Năm 1913, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho khách sạn Carlton (Anh), nơi đầu bếp
nổi tiếng người Pháp Escoffier làm bếp trưởng. Bất kỳ khi nào nhìn thấy một
khoanh bít tết lớn hay miếng thịt gà to còn chưa được đụng đến, anh lại chuyển
chúng sang một chiếc đĩa sạch và gửi trở lại nhà bếp. Một lần, Escoffier hỏi Ba
“Tại sao anh không vứt những thức đó vào thùng rác như những người khác?”
anh Ba trả lời “Những thứ này không nên vứt đi. Ông có thể mang chúng cho
người nghèo”. Khi trên cương vị Chủ tịch nước, tình yêu thương bao la đối với
người dân lao động càng được vun đắp, Bác luôn quan tâm, gần gũi không hề có
khoảng cách giữa lãnh tụ và quân chúng. Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 1958,
Bác đã nồng nhiệt bắt tay những người dân nghèo và trò chuyện với họ vô cùng
thân thiện, gọi họ là những người bạn, người đồng chí, đây là điều hiếm thấy
trong xã hội Ấn Độ khi còn tồn tại tàn dư của chế độ phân chia đẳng cấp.
Mỗi cử chỉ hành động của Người đều rất khéo léo, cẩn trọng, có thái độ và
cách ứng xử phù hợp để tránh những nghi thức ngoại giao khi cần mà vẫn giữ
được tình cảm chân thành đối với những người bạn, đồng chí, anh em đã từng kề
vai sát cánh, giúp đỡ Người trên con đường hoạt động cách mạng. Ngày
15/12/1961, Đoàn đại biểu Trung Quốc do Nguyên soái Diệp Kiếm Anh dẫn đầu
sang thăm hữu nghị nước ta. Khi biết Đoàn đại biểu sẽ đến chào mình ngay sau
khi tới Việt Nam, Người đã ôn tồn nói: “Hồi trước, khi Bác đi từ Diên An về
phương Nam, đồng chí Diệp Kiếm Anh đã từng là đội trưởng và Bác là bí thư
chi bộ. Do đó, Bác quyết định là Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ ra đón đoàn ở
sân bay, khi về tới Bắc Bộ phủ đã có Bác. Bác sẽ dự cơm thân mật với đoàn đại
biểu Trung Quốc, nhưng không công bố trên báo, vì như vậy sẽ không tiện về
mặt lễ tân. Bởi lúc đó Bác là Chủ tịch nước, còn đồng chí Diệp Kiếm Anh chỉ là
một trong mười nguyên soái của Trung Quốc. Nhưng là chỗ thân tình từ trước
đến nay nên Bác sẽ có mặt ở Bắc Bộ phủ. Bác không thể làm khác được”. Khi
được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đón tiếp đồng chí Diệp Kiếm Anh đã rất
cảm phục trước ứng xử thấu tình đạt lý của Người.
Ngay cả đối với kẻ thù khi đã buông súng đầu hàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối xử với họ rất khoan dung, độ lượng. Lòng bao dung, bác ái toát lên một cách
thật tự nhiên, giản dị từ những cử chỉ, hành động của Người. Khi thăm trại tù
binh trong chiến dịch Biên giới 1950, thấy một đại úy quân y Pháp đang rét run
vì lạnh. Người đã cởi chiếc áo khoác của mình trao cho anh ta. Viên sĩ quan
Pháp cảm động trào nước mắt. Sau đó Người gọi đồng chí Cao Pha - Trưởng ban
quân báo đến nhắc nhở: “Sao chú cho lột giày tù binh rồi treo lên cổ họ? Đối với
người phương Tây, không có giầy dép họ đi lại rất khó khăn, khổ sở. Nếu sợ tù
binh chạy trốn thì chí ít chú phải cho họ đi tất chứ!”. Trong chuyến trao trả tù
binh cuối cùng sau kháng chiến chống Pháp ngày 3/9/1954, một sĩ quan Pháp đã
xúc động nói: “Trong tấm lòng biết ơn nhân dân Việt Nam, tôi không thể nào
quên Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng khoan dung, đại lượng và chính sách
khoan hồng của Người đối với chúng tôi”. Nhà thơ Đức Vili Xanbao đã viết: 18
“Trong tầm nhìn của Bác, không những cho thấy Người là nhà Quốc tế đáng
kính phục mà còn là nhà văn hóa lớn, giàu tình thương yêu nhân loại”.
Nhờ vốn sống phong phú, sự am hiểu tình hình thế giới, đặc biệt nhanh
chóng nhận biết được ý định của người đối thoại mà Hồ Chí Minh có thể lựa
chọn cách ứng xử hợp lý nhất. Người dùng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn và dễ
hiểu song đầy sức thuyết phục để khơi dậy tình cảm nhân văn của người đối
thoại, thuyết phục họ chấp nhận lẽ phải. Không chỉ lời nói, có những hoàn cảnh,
chỉ cần một hành động nhỏ của Bác cũng thấy thuyết phục lòng người. Trong
chuyến thăm chính thức Pháp năm 1946, một phóng viên đã hỏi Người: “Thưa
Chủ tịch Ngài có phải là cộng sản không?”. Điềm tĩnh đi tới lẵng hoa trên bàn,
Hồ Chí Minh rút ra những bông hoa đẹp nhất, đem tặng những người có mặt và
nói: “Tôi là người cộng sản thế này!”.
Đôi lúc Người cũng diễn đạt một cách hài hước, ví von nhưng vẫn giữ được
sự tinh tế, sâu sắc để người nghe dễ cảm nhận. Ngày 26/7/1957, cuộc hội đàm
giữa đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta với các vị đại diện nước Cộng hòa Dân
chủ Đức diễn ra suốt cả ngày, ai cũng mệt mỏi và buồn ngủ. Khi phía bạn báo
cáo năng suất cao của việc nuôi một loại cá chép lai giống, Bác hỏi: “Các đồng
chí có loại cá không có xương không?”. “Thưa không. Ở Việt Nam có loại cá
không xương hay sao?”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Otto Grotewohl hỏi với
vẻ ngạc nhiên. Nghiêm nét mặt Người nói: “Vâng, có”. “Thưa Chủ tịch, có thể
xuất khẩu loại cá ấy cho chúng tôi được không?”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Otto đề nghị. Người trả lời: “Chúng tôi sẵn sàng”. Rồi Người kể về câu chuyện
"con cá gỗ" của đồng bào xứ Nghệ. Các đại biểu được một trận cười thoải mái.
Vào khoảng 22h ngày 17/7/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dạo với vợ chồng
Thủ tướng Đức Ôttô và Johana trên đường phố Berlin, khi người dân nhận ra và
xúm lại, vây quanh, Bác đã bắt tay từng người rồi hỏi chuyện một đôi nam nữ
trẻ tuổi bằng tiếng Đức: “Các cháu có biết không, sang đến đây Bác mới biết
mình là người giàu nhất nước Đức này?”, Người giơ tay chỉ và nói: “Các cửa
hàng lớn đều đề tên HO là của Bác! (HO tiếng Đức là viết tắt tên cửa hàng quốc
doanh)”. Thế là tất cả mọi người đều vỗ tay cười trước câu nói dí dỏm đó.
Charles Fourniau, nhà sử học Pháp hồi tưởng buổi phỏng vấn Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngày 15/7/1969: “Giọng nói của Người rất tự chủ, lúc nào cũng đi
thẳng vào vấn đề, không chút nghi thức. Giờ phát được gặp Chủ tịch Hồ Chí
Minh hôm ấy là một trong những giờ phút đáng ghi nhớ trong đời tôi. Người
không để lộ với tôi những bí mật nhà nước, không tìm cách dạy tôi một bài học
về đạo đức hay chính trị nhưng càng nghe tôi càng thấy Người vừa nói về một
vấn đề lớn của đất nước, vừa dạy cho tôi một bài học luân lý chính trị”.
Cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và mang giá trị thực tiễn cao.
Nhà sử học Italy Pino Perugia đánh giá bức thư Gửi đồng bào toàn quốc
của Hồ Chí Minh viết năm 1944: "Là một bản tổng hợp tiêu biểu sự tiến triển
chính trị và tư tưởng của cả một dân tộc". Bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Việt Nam do Người đọc ngày 2/9/1945 đã mở đầu bằng câu trích từ Tuyên ngôn 19