Tư tưởng Hồ Chí minh về nội dung độc lập dân tộc và ý nghĩa hiện thời của tư tưởng đó | Đại học Bà Rịa- Vũng Tàu
Tư tưởng Hồ Chí minh về nội dung độc lập dân tộc và ý nghĩa hiện thời của tư tưởng đó | Đại học Bà Rịa- Vũng Tàu Giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM21)
Trường: Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA-VŨNG TÀU
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ
Môn: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Kinh Nam
Sinh viên thực hiện: Quách Thị Thu Hiền Lớp: DH21LDS MSSV: 21031333
Vũng Tàu, ngày 27 tháng 04 năm 2023 1 MỤC LỤC
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC.................1
1. Vấn đề độc lập dân tộc.............................................................................................................1
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
............................................................................................................................................................... 1
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.........................3
c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để..........................5
d) Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.................................5
2. Về cách mạng giải phóng dân tộc........................................................................................6
a) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản......................................................................................................................................6
b) Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo..............................................................................................9
c) Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công - nông làm nền tảng......................................................................10
d) Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc................................................................12
đ) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
cách mạng........................................................................................................................................14
II. Ý NGHĨA HIỆN THỜI.........................................................................................................16 2
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1. Vấn đề độc lập dân tộc
Xuyên suốt những năm rộng tháng dài của bề dày lịch sử, qua những thăng
trầm của những triều đại từng xuất hiện rồi biến mất, nhường chỗ cho những
triều đại trẻ hơn, tân tiến hơn với những tư tưởng, những cải cách càng ngày
càng tiến bộ. Trong suốt hành trình đó, dù cho nước ta đi qua biết bao triều đại
thì vấn đề độc lập dân tộc luôn được đẩy lên hàng đầu, nó chính nguyên nhân
sâu xa của biết bao cuộc cách mạng. Dân tộc ta luôn có một khát khao to lớn là
một nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Giá trị tinh thần thiêng liêng
và to lớn ấy đã được khắc họa và thể hiện rõ ở con người, ở tư tưởng của Hồ Chí Minh.
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Với truyền thống vẻ vang từ ngàn xưa đến nay trên đất nước Việt Nam, từ
thời Văn Lang, Âu Lạc đến thời Bà Trưng, Bà Triệu và cho đến nay, truyền
thống yêu nước vẻ vang của dân tộc ta vẫn luôn gắn liền với những cuộc chiến
chống quân xâm lược cốt để giành lấy tự do, độc lập. Và tự do, độc lập ấy cũng
đã được kết tinh trong chính con người của Hồ Chí Minh “tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn được tự do...”
Cho dù chỉ là một tia hy vọng nhỏ, Hồ Chí Minh vẫn không từ bỏ cơ hội khi
họp Hội nghị Vécxây (Pháp) nhân dịp các nước Đồng minh thắng trận trong
Chiến tranh thế giời thứ nhất vào năm 1919, Hồ Chí Minh đã thay mặt những
người An Nam yêu nước gửi đến Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam.
Bản Yêu sách gồm 8 điểm với hai nội dung chính- cũng là khát khao, nguyện
vọng của nhân dân An Nam nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung chính
là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ của
người dân Đông Dương. Tuy không được chấp nhận trong Hội nghị nhưng bản
Yêu sách đã để lại tiếng vang rất lớn đối với các nước có mặt tại Hội nghị, đó
chính là lần đầu tiên tiếng nói của một đất nước thuộc địa nhỏ bé đã được các 3
nước cường quốc biết đến. Đó cũng là một sự kiện nổi bật đánh dấu một bước
tiến quan trọng- bước tiến về tư tưởng trong phong trào cách mạng kiểu mới, lần
đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng và tự do của các dân tộc
thuộc địa được hình thành. Dựa vào những bản tuyên ngôn độc lập nêu cao tính
dân tộc của các nước đế quốc, “những quyền mà không ai có thể xâm phạm
được” đã được ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ năm , 1776
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Một lần
nữa Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh lời khẳng định những giá trị thiêng liêng, bất
biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng;
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do... Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng **(1930), những mục tiêu chính trị của
Đảng được Hồ Chí Minh xác định là:
“a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Vào thời khắc thiêng liêng của lịch sử năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn là một lời khẳng định trịnh trọng với
quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy”.
Những ý chí và sự quyết tâm mãnh liệt trong bản Tuyên ngôn ấy đã thực sự
được thể hiện ở cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Năm 1946, lần nữa sự khẳng định đó lại được Hồ Chí Minh tuyên bố
trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn
hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo
vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho
đất nước”. Khi bị thực dân Pháp tiến hành quay lại xâm lược lần thứ hai, trong 4
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân
tộc- giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”. Lời kêu gọi này có ý nghĩa là bất kể già trẻ gái trai, hễ là nhân dân
Việt Nam thì đều phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của tổ quốc.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt
đưa quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Ngay chính trong hoàn
cảnh khốc liệt đó, một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc
khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới đã được Hồ Chí Minh nêu lên để tỏ rõ
sự mong muốn đó: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mang trong mình tư
tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên chiến đấu
hòng đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Chúng ta đã có một chiến thắng tưởng chừng
như không thể là đánh thắng được đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết Hiệp
định Pari, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam,
rút quân Mỹ về nước. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình chiến đấu
giành độc lập dân tộc.
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập là phải gắn liền với tự do
và hành phúc của nhân dân của nhân dân. Những học thuyết hướng đến tự do,
hạnh phúc của nhân dân đều được Hồ Chí Minh đánh giá rất cao như học thuyết
“Tam dân” của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh
hạnh phúc. Hồ Chí Minh luôn hướng đến cái gọi là tự do, hạnh phúc của nhân
dân, vì thế, với lời lẽ đầy thuyết phục, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viện dẫn lý lẽ
trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”. Hồ Chí Minh cho rằng các nước lớn đều đã nêu cao 5
lá cờ tuyên ngôn của sự tự do và bình đẳng cho nên đó là điều nghiễm nhiên có
được ở dân tộc Việt Nam “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cũng trong năm 1930, trong
của Đảng, Hồ Chí Minh
Chánh cương vắn tắt
đã xác định rõ ràng mục tiêu đấu tranh của cách mạng là “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập... Thủ tiêu hết các thứ quốc trái... Thâu hết ruộng đất của
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân
cày nghèo... Thi hành luật ngày làm 8 giờ”. Sau khi cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, một lần nữa chúng ta lại giành được độc lập và một lần nữa
Hồ Chí Minh lại khẳng định rằng độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do. Hồ Chí
Minh đã nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Tóm lại, theo lời của chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập phải gắn với hạnh phúc
của nhân dân. Minh chứng cho câu nói ấy chính là ngay trong hoàn cảnh đói rét,
mù chữ,... sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã
yêu cầu: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
Chúng ta không khó để có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan niệm rằng độc lập gắn liền với tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã từng nói về quan niệm ấy rằng: “Tôi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”.
c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Để hợp thức hóa việc đi xâm lược của mình, các nước đế quốc, thực dân
thường sử dụng các chiêu bài mị dân, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” cho
những nước thuộc địa nhưng thực chất lại là vỏ bọc để che đậy những cái trò “ăn 6
cướp” và “giết người” của chúng. Ngoài ra, chúng còn lập nên chính phủ bù
nhìn bằng chính người dân của đất nước ta, để dùng dân ta trị dân ta. Đây là
hành vi hết sức man rợ và ác độc của bọn thực dân, đế quốc.
Thực chất về vấn đề độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, việc định nghĩa từ
độc lập ấy phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực.
Nếu độc lập mà không triệt để thì nó không còn tính độc lập nữa, và cũng như
độc lập phải trên mọi mặt trận. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: độc lập mà người dân
không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền
tài chính riêng..., thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Dựa trên tinh thần đó và
trong hoàn cảnh sau chiến thắng Cách mạng Tháng Tám, sau chiến tranh chúng
ta đã thiệt hại rất lớn, vì vậy các biện pháp được đưa ra để bảo vệ nền độc lập
khó khăn lắm mới giành được rất quan trọng, nhất là tình trạng thù trong giặc
ngoài. Vì vậy, Người đã cùng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra rất
nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp ngoại giao - để bảo vệ nền
độc lập thật sự của đất nước.
d) Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trên rất nhiều trang giấy viết về lịch sử nước ta, không khó để thấy rằng
hình ảnh chúng ta luôn luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn đến từ âm
mưu xâm lược và chia cắt đất nước ta của kẻ thù. Ví như thực dân Pháp khi đó
đã chia nước ta thành ba kỳ hòng để dễ bề cai trị, chúng cho ba kỳ nước ta thành
ba chế độ cai trị khác nhau. Sau Cách mạng Tháng Tám, hai miền Nam Bắc
nước ta đã lại bị chia cắt. Miền Bắc bị quân Tưởng chiếm đóng và miền Nam bị
quân Pháp xâm lược. Một lần nữa sau khi đã hoàn toàn độc chiếm Việt Nam,
chiêu bài “Nam Kỳ tự trị” lại được quân Pháp trưng dụng để chia cắt hoàn toàn
miền Nam với Việt Nam để dễ bề cai trị. Tuy khó khăn là thế, nhưng chúng ta
vẫn luôn chung sức một lòng, quyết không bao giờ từ bỏ miền Nam. Bằng
chứng là trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (năm 1946), chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dõng dạc khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Sau khi Hiệp định 7
Giơnevơ năm 1945 được kí kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai
miền tại vĩ tuyến 17, khi ấy, Hồ Chí Minh cùng toàn thể dân ta vẫn luôn kiên
quyết một lòng đấu tranh để thống nhất Tổ quốc. Vào tháng 2 năm 1958, một
lần nữa người tiếp tục khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”. Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng
lợi của cách mạng, vào sự thống nhất của nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến
mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải
cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà”. Qua đó ta có thể thấy được, tư tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ luôn là khát khao, mong mỏi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuyên suốt những năm hoạt động cách mạng của Người.
2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
a) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Có một vấn đề cấp thiết luôn được hiện hữu trong các cuộc đấu tranh chống
xâm lược, đó là vấn đề sống còn của dân tộc. Vấn đề sống còn của dân tộc ta đã
nổ ra ngay khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị, vì chúng
ta cần phải đấu tranh để giải phóng dân tộc ra khỏi ách thực dân và đế quốc. Nếu
như một dân tộc không còn tồn tại thì cũng không còn ý nghĩa để cách mạng tồn
tại và phát triển. Chúng ta dần có những bước chuyển mình sau hàng loạt những
phong trào yêu nước đã nổ ra. Tuy nhiên do còn những hạn chế về tư tưởng, về
giai cấp lãnh đạo và đường lối cách mạng cho nên hầu hết những phong trào đó
đều thất bại. Là người có tầm nhìn vượt trội so với các bậc tiền bối đi trước nên
Hồ Chí Minh cũng đã có định hướng con đường cách mạng khác hẳn với các vị
tiền bối. Nếu như những phong trào yêu nước trước kia được định hướng, đi
theo học hỏi các nước phương Đông, thì Hồ Chí Minh lại chọn khởi đầu của
mình ở các nước phương Tây. Người nói: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem 8
nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về
giúp đồng bào chúng ta”. Nhưng rất nhanh sau đó, thông qua việc nghiên cứu và
tìm hiểu về quá trình độc lập và những phong trào cách mạng của các nước
phương Tây, Hồ Chí Minh chọn từ bỏ con đường cách mạnh tư sản. Bởi Người
vốn đã biết rõ bản chất của cái gọi là cách mạng ấy, nó vốn không thành công
như những gì nó đã được phô diễn bởi những nhà cầm quyền. Người cho rằng:
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công
nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
Ngày mà Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (năm 1917) cũng là ngày
mà đánh dấu việc tư tưởng của Hồ Chí Minh bị hoàn toàn ảnh hưởng một cách
sâu sắc nhất trên con đường giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức, nô lệ. Lúc
này trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đã có sự chuyển hóa, Người cho rằng:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam... Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Năm 1920, Hồ Chí Minh đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin và đã tìm thấy được ở bản Sơ
thảo đó định hướng con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, đó là con đường
“Cách mạng vô sản”. Người khẳng định về con đường cách mạng vô sản đó là:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Đây cũng là một hướng đi mà lúc bấy giờ và cả sau
này đều được nhận định là con đường duy nhất, tốt nhất và triệt để nhất phù hợp
với những yêu cần xuất hiện trong quá trình giải phóng dân tộc, yêu cầu của
cách mạng Việt Nam, đặc biệt hơn cả là nó vừa lúc rất phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Lênin cũng như luận cương của 9
ông ấy đã giúp Người sáng tỏ trên con đường tìm đến hướng đi cứu nước đúng
đắn, Hồ Chí Minh đã kể lại trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin
như sau: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta!” Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Người
đã vận dụng một cách hoàn toàn triệt để và xen lẫn cùng với sự sáng tạo sâu sắc
trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc đã gắn liền với một
định hướng tư tưởng Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó
giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết. Khác với việc C. Mác và Ph. Ăngghen
định hướng con đường cách mạng vô sản của họ là giải phóng giai cấp – giải
phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải phóng con người, vì họ là nước có tiền
đề trước cách mạng là tư sản, chúng ta không thể cứ sao chép y nguyên rồi mang
về làm ở nước mình được bởi Việt Nam chúng ta và các nước thuộc địa có hoàn
cảnh hết sức đặc biệt khó khăn- bị thống trị bởi các nước thực dân đế quốc. Vì
vậy, Hồ Chí Minh đã sửa chữa, thay đổi vị trí của các định hướng thành giải
phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải phóng giai cấp – giải phóng con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là câu nói đã xuất hiện
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930. Trong bản Chánh cương đó, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Đây là một phương hướng mà ta có thể nói là trong tình huống lúc bấy
giờ, không còn phương hướng nào phù hợp hơn cả bởi đây là phương hướng mà
vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vừa hướng tới việc giải quyết một
cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà cách mạng Việt Nam đặt ra
vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. 10
Khái niệm “Cách mạng tư sản dân quyền” xuất hiện trong Văn kiện Đại hội
VI Quốc tế Cộng sản không bao hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc và giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Trái ngược với khái niệm “Cách mạng tư
sản dân quyền” của Quốc tế Cộng sản, ở đây, trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà cụ thể là trong
của Đảng thì nó mang ý nghĩa hoàn
Chánh cương vắn tắt toàn
ngược lại, chính là :Cách mạng tư sản dân quyền trước hết là phải đánh đổ đế
quốc và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập... Cũng
theo Quốc tế Cộng sản, việc thực hiện hai nhiệm vụ là chống đế quốc và chống
phong kiến phải được tiến hành song song với nhau, khăng khít và luôn nương
tựa vào nhau. Nhưng dưới con mắt tinh tường của nhà lãnh đạo cách mạng, chủ
tịch Hồ Chí Minh nhận thấy rằng nếu như thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ đó
thì không thể nào thành công được, vì bọn thực dân đế quốc cùng với vua quan
phong kiến thế lực rất lớn mạnh, không thể đồng thời cùng chống lại hai thế lực
lớn mạnh như thế được. Cho nên Hồ Chí Minh đã sắp xếp phương hướng chiến
lược là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, sau đó mới chống phong kiến, giành
lại ruộng đất cho nhân dân. Trong của Đảng Hồ Chí Minh
Chánh cương vắn tắt
cũng có ghi rõ: “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia
cho dân cày nghèo”, nhưng vẫn còn một điểm độc đáo ở đây đó là “chia cho dân
cày nghèo” chứ không phải là “ người cày có ruộng” bởi nếu là “người cày có
ruộng” thì đặc điểm chống phong kiến lại quá rõ ràng, nên mới đưa “chia cho
dân cày nghèo” lên để tạm thời mượn sức của phong kiến.
b) Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng
lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Không có cách mạng nào đều có thể thành công mà không có người lãnh
đạo, người lãnh đạo là đầu não, là ngọn cờ dẫn người dân đi trên con đường
giành lấy hòa bình, độc lập của nhân dân. Và về vấn đề lãnh đạo ấy, chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng có chỉ rõ: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ
chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo 11
quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. Tiếp thu
tinh hoa của lý luận đó, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn rất chú trọng đến việc thành
lập Đảng Cộng sản, Người khẳng định rằng Đảng có vai trò rất lớn trong việc
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm Đường
cách mệnh (năm 1927) của mình, Người đã nêu ra vấn đề: Cách mệnh trước hết
phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công...
Trong hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa – nửa phong kiến, chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công
nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái
nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc. Đó là những yếu tố tiên
quyết cần có của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng của cả dân tộc Việt Nam.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (năm 1951) , chủ tịch Hồ Chí
Minh có viết: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Luận điểm này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó có ý nghĩa là bổ sung,
phát triển lý luận mácxít về Đảng Cộng sản.
c) Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công - nông làm nền tảng
Dựa trên lý luận Mác – Lênin, đã có không ít nhà lý luận kinh điển đã khẳng
định rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân
dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. V. I. Lênin cũng có viết: “Không có sự đồng
tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của mình,
tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”.
Là người đến sau, đồng thời may mắn được kế thừa các tư tưởng nói trên,
Hồ Chí Minh đã chắt lọc và đưa ra quan niệm: có dân là có tất cả, trên đời này
không gì quý bằng dân, được lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất
cả. Qua đó, ta có thể thấy đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là một yếu tố, 12
một sức mạnh không thể thiếu đối với cách mạng. Đồng thời Người cũng đã
khẳng định thêm: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người”. Lý giải cho câu nói đó, người đã nói rằng “ dân tộc cách mệnh
thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại
cường quyền”. Vì lẽ đó cho nên mới cần phải tập hợp đầy đủ sức mạnh trong
dân chúng thì cách mạng mới thành công.
Lực lượng cách mạng từ sớm cũng đã được Hồ Chí Minh xác định, trong
Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao
gồm toàn dân cả nước, không phân biệt già trẻ gái trai, tầng lớp: Đảng phải thu
phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa
vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... để lôi kéo họ về phía vô sản giai cấp; còn đối với phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít
ra cũng làm cho họ trung lập. Ở đây ta có thể thấy, một định hướng chiến lược
cực kì rõ ràng mà không ở bất kì công cuộc cách mạng nào trước đây từng có.
Hồ Chí Minh đã cực kì thông minh khi tận dụng được hết tất cả nguồn nhân lực
vật lực để đẩy nhanh, mạnh cuộc kháng chiến trường kì.
Và chiến lược này cũng đã được thực thi vào tháng 12 năm 1946, khi thực
dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Hồ Chí Minh đã tha thiết
kêu gọi mọi người, không phân biệt giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái...
đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”.
Mặc dù đã từng nói lực lượng cách mạng là toàn thể người dân Việt Nam,
tuy nhiên Người vẫn không quên nhấn mạnh rằng “công nông là người chủ cách
mệnh... là gốc cách mệnh”. Điều này đã được Người giải thích trong tác phẩm
Đường cách mệnh: giai cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo và
cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lòng cách mệnh càng bền, chí 13
cách mệnh càng quyết... công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất
một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
d) Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Vì một vài lý do, trong đó còn có việc chưa đánh giá hết tiềm lực và khả
năng to lớn của cách mạng thuộc địa mà Quốc tế Cộng sản vẫn còn khá xem nhẹ
về vai trò của cách mạng thuộc địa, luôn cho rằng mọi cách mạng ở thuộc địa
đều phải bị phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc. Ở Đại hội VI Quốc tế Cộng
sản (năm 1928) đã thông qua Những luận cương về phong trào cách mạng trong
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa mà ở trong đó đã có một đoạn được viết:
chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai
cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Đây là quan điểm
vô cùng hạn hẹp về tư tưởng cũng như làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của
nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc.
Là một người am hiểu sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ chặt
chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở
thuộc địa, vấn đề này đã được Người chỉ ra từ rất sớm. Người chỉ ra rằng đây là
mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và
cách mạng vô sản ở chính quốc, đây đều là mối quan hệ bình đẳng, không lệ
thuộc, phụ thuộc vào nhau. Vào năm 1924, Người đã nói về vấn đề sự liên kết
giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa
tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và
đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn
chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”. Và ở trong tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp ( năm 1925) Người cũng đã viết: “Chủ nghĩa tư
bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một
cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái 14
vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục
sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Qua sự miêu ta trên, chúng ta càng hiểu
rõ hơn về việc phải nỗ lực cùng nhau chống lại chủ nghĩa tư bản, nếu không
thực hiện cùng nhau mà chỉ chăm chăm chờ cách mạng vô sản ở chính quốc thì
có khi chưa chờ được chúng ta đã bị chủ nghĩa tư bản hút cạn máu rồi.
Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Sở dĩ cho
rằng là như thế vì Người không chỉ là một người dân thuộc địa mà còn là một
người cộng sản và là người nghiên cứu rất kỹ về chủ nghĩa đế quốc. Người viết:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt
bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Tất
nhiên là phải có cơ sở thì chủ tịch Hồ Chí Minh mới nói như thế, và những cơ sở
để Người đưa ra những kết luận như thế chính là:
- Thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa
đế quốc, là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa
đế quốc. Ngay tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, trong Phiên họp thứ tám, ngày
23/6/1924, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời phát biểu nhằm kêu gọi để “thức
tỉnh... về vấn đề thuộc địa”. Về vấn đề này, Người cho rằng thực chất: “nọc độc
và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc”; nếu thờ ơ về vấn đề cách mạng ở thuộc địa thì như “đánh chết
rắn đằng đuôi”. Qua những miêu tả đó, không khó để nhận ra rằng vai trò to lớn
của việc liên kết với cách mạng vô sản ở chính quốc để tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa,
mà theo chủ tịch Hồ Chí Minh là nó sẽ bùng lên cực kỳ mạnh mẽ, từ đó hình 15