Tư tưởng Nho giáo | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Tư tưởng Nho giáo, được sáng lập bởi Khổng Tử vào thế kỷ VI TCN, đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các giá trị văn hóa và xã hội ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam. Nho giáo tập trung vào các mối quan hệ xã hội cơ bản, được gọi là "nhân luân", gồm năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bạn bè. Những mối quan hệ này đều dựa trên đạo đức và trách nhiệm lẫn nhau

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu............................................................................................3
Nội dung............................................................................................5
Chương I: Các tư tưởng triết học Nho giáo nổi tiếng..............................5
I.Khổng Tử........................................................................................5
1. Quan điểm về thế giới......................................................................5
2. Quan điểm về chính trị - xã hội........................................................7
2.1. Thuyết chính danh - lý luận ổn định trật tự xã hội 7
2.2. Đạo đức - công cụ để thực hiện thuyết chính danh...........................8
2.3. Quân tử - mẫu người lý tưởng của xã hội......................................10
II. Mạnh Tử.....................................................................................11
1. Về đạo đức, tư tưởng.....................................................................12
2. Về chính trị...................................................................................12
III. Đổng Trọng Thư.........................................................................13
1. Về tư tưởng triết học và chính trị....................................................14
2. Về lí luận đạo đức xã hội................................................................15
3. Về bản tính của con người..............................................................15
Chương II: Tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến
đời sống và con người Việt Nam.........................................................17
I. Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo ở nước ta.......................17
1. Về văn hóa....................................................................................17
2. Về tín ngưỡng...............................................................................18
3. Về phong tục.................................................................................18
4. Về giáo dục...................................................................................18
5. Về văn học nghệ thuật....................................................................18
6. Về ngôn ngữ và văn tự...................................................................19
II. Hạn chế của triết học Nho giáo đối với nước ta................................20
1. Về giáo dục...................................................................................20
2. Về chính trị...................................................................................20
3. Về kinh tế.....................................................................................20
4. Về xã hội.......................................................................................21
III. Ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến đơn vị công tác hiện nay......21
1. Ảnh hưởng đến đơn vị công tác.......................................................21
2. Ảnh hưởng đến cá nhân.................................................................22
Kết luận...........................................................................................25
2
MỞ ĐẦU
Triết học một trong những hình thái ý thức hội, một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng, xét đến cùng bị quy định bởi đời sống vật chất hội.
Do đó phát triển của tư tưởng triết học cũng bị quy định bởi sự phát triển của nền
sản xuất vật chất, cũng phụ thuộc vào sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội. Triết học cũng là thế giới quan của những giai cấp hoặc tập đoàn
hội nhất định. Lịch sử triết học phân chia theo sự phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội, mỗi giai đoạn lại có cái nhìn khác nhau về di sản triết học, thậm chí có
lúc giai đoạn này hoàn toàn ngược lại giai đoạn kia.
Nếu phương Đông chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và
Trung Quốc những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất
của nền văn minh ấy. Một trong những tưởng triết học phương Đông thời đó
ý nghĩa của vẫn còn giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân đạo
đức, chính trị-xã hội, đó là những tư tưởng triết học của Nho giáo. Sau đây chúng
ta cùng tìm hiểu về những tư tưởng về triết học của Nho giáo.
Nho giáo hay còn gọi Nho giáo trường phái tưởng quan trọng nhất
Trung Quốc, là học phái tư tưởng lấy luânchính trị làm cốt lõi, một bộ phận lịch sử
phát triển Nho giáo tương đương với một bộ phận lịch sử phát triển chính trị hội
Trung Quốc. Vì vậy chúng ta không thể không thừa nhận ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo đối với lịch sử hội Trung Quốc. Bên cạnh đó, nền văn minh này xuất hiện từ
rất sớm kéoi hàng nghìn năm trong lịch sử không chỉ ảnh hưởng tới sự phát
triển của văn hóa dân tộc Trung Hoa còn ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển
văn hóa của các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam.
Trong quá trình hình thành và phát triển, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
thể hiện qua nhiều nội dung đa dạng, phong phú, phản ánh sâu sắc sự vận động
biến thiên của lịch sử. Một trong những vấn đề được các nhà tưởng Việt
Nam trong lịch sử hết sức quan tâm đó là đạo Nho, vì đâycơ sở để hành động
chính trị, đối nhân, xử thế; các nguyên lý chính trị và đạo đức của nó đã đáp ứng
được các nhu cầu đương thời.
Sau khi được nghiên cứu về “Khái lược triết học lịch sử triết học” , tôi
chọn đề tài “Tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến đời sống con người
Việt Nam” để làm bài tiểu luận cuối khóa. Nho giáo thường nói về các chuẩn
mực đạo đức tính chất tiên thiênngười quân tử cần phải nhận thức đầy đủ
thực hành cẩn trọng như “tam cương, ngũ thường”, quản con người
hội thông qua các chuẩn mực đạo đức.
3
Ý nghĩa tích cực của tưởng Nho giáo m cho con người ý thức được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách ràng trong các mối quan hệ hội. Con
người tồn tại trong vàn các quan hệ hội đan xen, mỗi mối quan hệ đó con
người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội,
mọi thời đại. tưởng Nho giáo yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức
nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng hội trong khuôn khổ danh phận, góp
phần vào duy trì bình ổnhội. Tuy nhiên, tư tưởng này còn kìm hãm tự do của nhân
cách tới mức không chấp nhận bất kỳ sáng kiến nào của con người, làm cho con người
luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ
làm theo không sáng tác thêm). Tư tưởng Nho giáo đã quá đề cao danh phận,
làm cho con người luôn có tưởng m danh, chạy theo danh, theo chức đến mức
nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý. Mặc dù có những
quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của con người nhưng nói
chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải những phẩm chất đạo đức
bản “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO NỔI TIẾNG
Nho giáo hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến
Trung Quốc. Đối với thì ngũ luân, ngũ thường hay tam cương ngũ thường
những cái tuyệt đối. Tư tưởng đạo đức Nho giáo từ ngũ luân, ngũ thường rồi đem
gán những cái ấy cho trụ, cho thượng đế: nó đã luân hóa cả trụ, cả
thượng đế, trụ thượng đế của Nho giáo đều nhuốm màu luân lý. Đối với
Nho giáo thì luân cương thường hằng tồn, phổ biến. Nho giáo không
lịch sử quan, tiến hóa luận, đối với Nho giáo thì xã hội phong kiến không phải
một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân phong kiến không chỉmột hình
thái ý thức của giai đoạn ấy.
I . KHỔNG TỬ (551-479 TCN)
Khổng Tử tên thật Khâu, hiệu Trọng Ni, người nước Lỗ (ở tỉnh Sơn
Đông ngày nay), Ông một nhà tưởng lớn một nhà giáo dục lớn đầu
tiên của Trung Quốc cổ đại. Khổng Tử có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong
mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của ông đi đến nhiều nước
để trình bày chủ trương chính trị của mình và mở trường để dạy học. Tương
truyền, số học trò của ông có đến 3.000 người, trong đó nhiều người thành
đạt, sử sách thường gọi là thất thập nhị thiên.
Ngoài việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc,
Dịch, Xuân Thu, trong đó sách Nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại về sau trở
thành 5 tác phẩm kinh điển của Nho giáo được gọi chung là Ngũ kinh.
Những lời nói của Khổng Tử những câu hỏi của học trò của ông được
chép lại thành sách Luận ngữ. Đó tác phẩm chủ yếu đểm hiểu tưởng của
Khổng Tử.
Về mặt triết học của Khổng Tử được lý giải khác nhau qua nhiều triều đại.
Đến năm thứ II trước công nguyên, những quan điểm của Khổng Tđược danh
nho nhà Hán Đổng Trọng Thư thần hóa biến thành một hệ thống đạo
đức, tôn giáo, chính trị thống trị ở Trung Quốc.
Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các vấn đề về hội, song trong các tác phẩm
của mình và sách vở do học trò ghi lại, ông đề cập đến mọi lĩnh vực thể hiện các
quan điểm về thế giới, về chính trị xã hội và về cuộc sống con người.
1. Quan điểm về thế giới
Quan điểm về thế giới của Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về trụ của
người Trung Hoa thượng cổ - những quan niệm được lưu truyền trong dân gian và
5
được ghi trong Sách Dịch. Đấy là quan niệm cho rằng trụ lúc đầu cõi hồn
mang mênh mông, mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy cái gọi Thái cực vô
hình, huyền diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn đối lập nhau là Âm và Dương.
Thái cực bản thể động thể. hình nên không thể nhận biết
được bản thể của Thái cực, song động thể của nó biểu hiện ở Âm - Dương tương
tác, chuyển hóa lẫn nhau. Sự tương tác, chuyển hóa dẫn đến mọi biến đổi
cùng tận gọi là Đạo, Dịch hay Đạo Trời Đất.
Theo Đạo, Âm Dương tạo ra thanh khí. Thanh khí là Trời, trọng khí làm Đất
còn sự điều hòa giữa Âm Dương sẽ sinh ra vạn vật. Ngay t trong tiềm ẩn,
vạn vật đã bẩm thụ thanh khí và trong khí. Thanh khí làm Trời, trọng khí làm Đất
còn sự điều hòa Âm Dương sẽ sinh ra vạn vật. Ngay từ trong tiềm ẩn, vạn vật
đã sẵn thanh khí trọng khí. Vật nào nhiều thanh khí thì làm Thần; vật
nào bẩm thụ ít, tùy theo độ đậm nhạt của khí thanh, trọng khí làm Quỷ -
Thần, làm Người làm Vật hay làm những loại khác.
Quan niệm trên cho thấy người Trung Hoa cổ đại đã xếp ngôi thứ trong thứ
tự trong trụ là: Trời, Thần, Quỷ - Thần, người vạn vật. Trời đây không
chỉ là một giới siêu tự nhiên sáng tạo ra vũ trụ mà trời chỉ giữ ngôi cao nhất trong
trụ. Các thần cũng không hoàn toàn hư vô, huyền bí mà chỉ là sự bẩm thụ khí
của Âm, Dương.
Quan hệ giữa Quỷ - Thần và người thì: trong các bài văn tế, ta thấy Thiên tử
tự xưng với Trời “thần”(bề tôi), còn đối với Quỷ - Thần Thiên tử tự xưng
“trẫm”. Nghĩa là Thiên tử cho quỷ thần ngang hàng với mình hoặc dưới mình.
Với Khổng Tử, Trời như một quan tòa công minh cầm cân nảy mực phán xét
mọi việc, Trời quyết định sự thành bại trong hoạt động cũng như cuộc sống của
con người. Với ông sống chết mạng, giàu sang tại trời”. vậy, Khổng Tử
đặt hết niềm tin vào ý chí của Trời. Ông khuyên mọi người phục tùng ý chí đó
coi việc hiểu biết nó như một điều kiện tất yếu để trở thành người hoàn thiện.
Khổng Tử cũng không phủ nhận sự tồn tại của Quỷ - Thần nhưng theo ông,
việc của Quỷ - Thần việc cao xa, u uẩn nên đối với Quỷ - Thần, con người
phải kính trọng song chẳng nên gần gũi làm gì.
Về giới tự nhiên, về Trời - Đất, trong giai đoạn này vấn đề giữa TrờiNgười là
vấn đề trung tâm trong cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học. Quyền lực và sức
mạnh của Trời là sự thần thánh hóa quyền lực và sức mạnh của thế lực cầm quyền trên
mặt đất. Khổng Tử đã thể hiện thái độ của mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô khi
chế độ chiếm hữu nô lệ đã bước vào thời kì suy tàn và khởi nghĩa vũ
6
trang của nhân dân khắp nơi đang nổ ra quyết liệt. Tuy nhiên, cuộc sống thực
Khổng tử được chứng kiến làm ông hoang mang. Quan niệm về quyền lực của trời
cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông chứa đầy mâu thuẫn. Một mặt ông truyền
bá sức mạnh của Trời, một mặt ông nhấn mạnh hoạt động của con nười, coi hoạt động
của con người giữ địa vị quan trọng nhất trong cuộc đời của họ; một mặt ông công
nhận sự tồn tại của Quỷ - Thần, nhưng khác với lẽ thông thường, ông lại khuyên
con người không nên đề cập đến và nên xa lánh nó. Chính vì vậy ông cố
ý tránh né nói đến cái chết, khuyên con người hãy quay về với cuộc sống thực và
đề cao sự nỗ lực của mỗi cá nhân.
2. Quan điểm về chính trị xã hội
2.1. Thuyết chính danh - lý luận ổn định trật tự xã hội
Khổng Tử cho rằng sự thay đổi của hội làm cho thiên hạ rối ren không
phải nguyên nhân một sớm, một chiều một quá trình bắt nguồn từ sự sa
đọa của thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính”. Và cũng vì quan
niệm “danh” không được “chính” làm cho xã hội loạn kỷ cương nên để khôi phục
trật tự Khổng Tử chủ trương thực hành thuyết “chính danh”. Ông cho rằng:
Trong hội, mỗi vật, mỗi người dều một công dụng nhất định. Nằm trong
một quan hệ nhất định, mỗi vật, mỗi người đều một địa vị nhất định tương
ứng với một “danh” nhất định. Mỗi danh đều những tiêu chuẩn riêng.
Vật nào, người nào mang danh nào phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn
của danh đó, nếu không phải gọi bằng danh khác. Khổng Tử giải thích thuyết của
mình: chính làm cho mọi việc ngay thẳng: Vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề
tôi, cha phải ra cha, con phải ra con; “Nếu danh bất chính thì lời nói sẽ không
đúng đắn. Lời nói không đúng đắn thì sẽ dẫn đến việc thi hành sai. Khi đó người
với người trong hội sẽ không còn kính trọng nhau, không còn hòa khí, luật
pháp lỏng lẻo người dân sẽ mất nơi trông cậy, nhờ vả” ;Dân không còn chỗ
trông cậy, nhờ vả thì dân sẽ không còn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó muốn hay
không xã tắc cũng khó tránh bề suy sụp” ( Luận Ngữ).
Triết học Nho giáo xác định: quan hệ vua - tôi, cha - con , chồng - vợ, anh -
em, bạn bè5 quan hệ thông thường của người đời trong thiên hạ. Mối quan hệ
lại những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng; cha hiền - con thảo, anh tốt -
em ngoan, chồng biết điều - vợ lẽ phải, bề trên rộng rãi - bề dưới kính thuận, vua
nhân - tôi trung. Đăc biệt ông nhấn mạnh quan hệ vua tôi và quan hệ cha con.
7
* Đối với quan hệ vua tôi
Trước hết, ông quan điểm ngôi vua theo kiểu cha truyền con nối. Ông lên án
việc chức tước truyền theo huyết thống, dòng tộc mặc dù trong xã hội đương thời
có ba kiểu lên ngôi được chấp nhận:
1. Lên ngôi do cha truyền lại
2. Lên ngôi do vua trước truyền lại
3. Lên ngôi do đổi mệnh vua
Khổng Tử cho rằng người cầm quyền phải đức, tài không cần tính
đến đẳng cấp xuất thân của nó. Với ông người đứng đầu của một quốc gia phải
đạt được nhân đạo và phải đạt được thiên đạo để trở thành một minh quân, một
bề trên chính trực.
Đối với những yêu cầu cụ thể, Không Tử chủ trương:
- Vua phải đảm bảo cho dân được ấm no; phải xây dựng được lực lượng
quân sự hùng hậu và đặc biệt là phải chiếm được lòng tin của dân.
- Vua phải biết làm cho dân giàu và biết giáo hóa dân
- Vua phải biết tận dụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết
rộng lượng với những người cộng sự với mình.
* Đối với quan hệ cha con
Đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con, ông không nhấn mạnh
đến của cải con cái dành cho cha mẹ chủ yếu nói đến Tâm” để đánh giá
hiếu thảo. Con cái phải thành kính với cha mẹ, phải nuôi dưỡng cha mẹ lúc về
già, lúc ốm đau. hiếu” của ông không quan niệm một chiều con cái phải
nhất nhất nghe theo cha mẹ với ông cha phải ra cha con phải ra con.
Tức là ông cũng đòi hỏi cha mẹ phải đối xử với con cái cho đúng đạo của mình.
Như vậy Khổng tử không chủ trương ngu trung; ngu hiếu; không bắt buộc con
người phải phục vụ bề trên điều kiện. Đối với ông, trong hội chính danh”
quan hệ hai chiều, cụ thể công cụ để thực hiện hai chiều này là đạo đức của xã hội.
2.2. Đạo đức - công cụ để thực hiện thuyết chính danh
Không Tử cho rằng không nên lạm dụng pháp luật để ép dân đi vào tôn ti trật tự;
chính sách khủng bố, dùng hình phạt chỉ tạo ra sự hận thù, sợ sệt. Ổn định xã hội hữu
hiệu nhất bằng đức hạnh, bằng lễ tiết chỉ như vậy mới cảm hóa được con
người và làm cho con người hổ thẹn khi có hành vi sai phạm. Điều đó cho thấy Khổng
Tử đã thể hiện tư tưởng dùng đạo đức làm công cụ để thực hiện
8
thuyết “chính danh” của mình. Nội dung của đạo đức ấy vẫn theo ông, thông
thường nhất và cũng là quan trọng nhất là: Nhân, Trí, và Dũng
Nhân: "Nhân" trong quan niệm của Khổng Tử "yêu người" (Luận ngữ,
Nhân Uyên, 21). Nếu nhìn toàn b tưởng của ông, phải xem nội dung trên
tiêu biểu cho điều "Nhân". "Nhân" "yêu người", nhưng người nhân cũng còn
phải biết "ghét người". Với Khổng Tử thì chỉ có người có đức nhân mới biết "yêu
người" và "ghét người".
Đi liền với "Nhân" (người) là các khái niệm "thiện nhân", "đại nhân", "thành
nhân", "nhân nhân", "thánh nhân", "tiểu nhân"... Các khái niệm này nhằm chỉ
những con người tính cách khác nhau, trình độ đạo đức khác nhau. "Thánh
nhân" là người có đạo đức cao siêu, "tiểu nhân"người có tính cách thấp hèn…
"Nhân" đây chỉ con người nói chung "ái nhân" yêu người, yêu bất cứ
người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ.
Như vậy, thể nói, trong quan niệm của Khổng Tử, "Nhân" không chỉ
"yêu người", "thương người", mà còn là đức hoàn thiện của con người và do vậy,
“nhân” chính đạo làm người - sống với mình sống với người, đức nhân
cái bền vững như núi sông. Với ông, nếu thịnh đức của trời - đất sinh thành,
bắt nguồn từ đạo trung hoà, trung dung thì cái gốc của đạo lý con người là "trung
thứ" đạo đức, luân con người là "Nhân", người đạo nhân bậc quân tử,
nước có đạo nhân thì bền vững như núi sông.
Để hiểu hơn về tưởng "Nhân" của Khổng Tử cần so sánh với
tưởng Kiêm ái của Mặc Tử, tưởng Từ bi của đạo Phật. Nếu tưởng Kiêm ái
của Mặc Tử coi ai cũng như mình, người thân của người cũng người thân của
mình, không phân biệt riêng tư thì "Nhân" phân biệt mình và người, lấy mình làm
khởi điểm để phân biệt từ thân đến sơ, từ gần tới xa, phân biệt người tốt, kxấu.
Người Nhân trong quan niệm của Khổng Tử coi trọng đạo đức, chú ý phần thiện
trong bản tính con người thì người Kiêm ái chỉ chú trọng đến sự cứu giúp vật
chất, chú ý đến"giao tương lợi". Tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cũng khác xa tư
tưởng Từ bi của đạo Phật. Phật thương người và thương cả vạn vật. Lòng thương
của Phật một nỗi buồn hạn, buồn cho sự muội của sinh linh, tìm cách
giải thoát mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Còn đạo Khổng tìm mọi
cách giúp cho con người sống một cuộc sống vui vẻ hơn, nghĩa hơn và tìm
kiếm hạnh phúc ngay trên cõi trần chứ không phải ở trên cõi niết bàn.
Trí: Khổng Tử nói “Trí là biết người”, “trí” là sự minh mẫn nói chung để
phân biệt, đánh giá con người và tình huống, qua đó tự xác định cho mình cách
9
ứng xử cho phải đường, phải đạo. Với ông, phải có trí con người mới vươn được
tới đức “nhân” nên không thể là người “nhân” thiếu “trí”.
Đề cập đến “trí”, một mặt tin vào Mệnh trời, Khổng Tử cho rằng tri thức
bẩm sinh tri thức thượng thặng, một mặt là ông thầy khoảng ba ngàn học
trò người xếp “trí” vào trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của con
người hoàn thiện. Ông cho rằng “trí” không phải ngẫu nhiên mà có, nó là kết quả
của quá trình học hỏi. “Học tức đến gần với trí”. Học để trở thành con người
đạo lý. Không học thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng
lầm lạc, phẩn loạn làm biến chất.
một nhà giáo dục, một mặt Khổng Tử dạy cho tất cả mọi người không
phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, chủng tộc; một mặt ông chủ trương đối với dân
việc gì cần thiết thì sai khiến chứ không nên giảng giải vì dân không có khả năng
hiểu ý nghĩa công việc mình làm. Chủ trương này xuất phát từ quan điểm: nhân
cách không phải bẩm sinh bởi bản chất đơn sơ của mọi người đề giống nhau song
do sự tác động của môi trường, của điều kiện sống nên thói quen đem lại cho
người tính lành, kẻ tính ác. vậy giáo dục để cải hóa tất cả, trừ những người
thông thái những kẻ q ngu đần. Theo Khổng T giáo dục cải tao nhân
tính. Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau, thì phải để công vào giáo dục
giáo dục có thể hóa ác thành thiện.tu sửa đạo làm người”, “làm sáng tỏ đức
sáng” mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính của Khổng
Tử. Ông không coi giáo dục chỉ mở mang tri thức, giải thích trụ ông chú
trọng đến việc giải thích hình thành nhân cách đâỳ đủ, lấy giáo dục để mở mang
cả trí, nhân, dũng, cốt dạy người ta con người đạo lý.
2.3. Quân tử - mẫu người lý tưởng của xã hội
Khổng T đã dùng hai khái niệm này để xây dựng tưởng của mình. Với
ông người quân tử trước tiên phải biết tu thân. Không tự tu được thân không thể
giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận của mình với thiên hạ. Ngược với
quân tử tiểu nhân - khi xét một người nào đó thuộc quân tử hay tiểu nhân,
Khổng Tử đòi hỏi phải quan sát hành động của họ xem hành động ấy có phù hợp
với lời nói của họ hay không và để đánh giá con người ông khuyên phải nhìn vào
công việc của họ, phải xét lý do làm việc của họ và phải xem thái độ của họ.
Mẫu hình con người tưởng, việc phân hội thành quân tử tiểu nhân
phản ánh đậm nét thái độ của ông đối với nhân dân lao động một số quan
điểm khác của ông về đạo đức.
10
trau dồi các thiên hướng tốt này sẽ phát triển thành các đức tính cốt tử của Nho
giáo.
Kể từ năm 52 tuổi, Mạnh Tử bắt đầu du hành sang nước Lương, cho đến cuối
cùng quay về nước Lỗ, đã trải hơn hai mươi năm chẳng lìm được vị minh chúa
nào có đồng chí hướng, để thực hiện lý tưởng Vương đạo. Chừng tuổi đã già thì trở về
xứ Châu, nơi chôn nhau cắt rốn, tu thân dạy học, y như Khổng Tử thuở trước vậy.
Đến năm 84 tuổi thì Mạnh Tử mất, thọ hơn Khổng Tử mười một tuổi đời.
Trong sách Mạnh Tử đến hai mươi chín chỗ trích dẫn lời của Khổng Tử,
chứng tỏ Mạnh Tử sùng bái Khổng Tử gần như tuyệt đối, coi Khổng Tử là Thánh
tổ, tự đặt mình vào cương vị của kẻ có sứ mạng truyền bá Khổng học.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện lòng tin vào mệnh
trời. Mọi việc đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu
dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hóa được mọi giới.
1.Về đạo đức, tư tưởng
Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người một yếu tố bẩm sinh gọi là"Tánh
bản thiện". Người bảo rằng? "Trắcn chi tâm, nhân giai hữu chi; tu ác chi tâm, nhân
giai hữu chi; cung kính chi tâm, nhân giai hữu chi; thị phi chi tâm, nhân giai hữu chi".
(Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, ai cũng có lòng thiện ác, ai cũng có lòng cung kính,
ai cũng có lòng thị phi), rồi giải thích thêm rằng: "Trắc ẩn chi tâm, nhân giã; tu ác chi
tâm, nghĩa giã; cung kính chi tâm, lễ giã; thị phi chi tâm, trí giã. Nhân, nghĩa, lễ, trí,
phi do ngoại thước ngã giã, ngã cố hữu chi giã". (Lòng trắc ẩn đó nhân, lòng thiện
ác đó nghĩa, lòng cung kính đó lễ, lòng thị phi đó trí. Nhân, nghĩa, lễ, trí,
không do bên ngoài hun đúc ta, vốn đã sẵn trong lòng ta. Sau Mạnh Tử, các
nhà Nho thêm chữ "Tín" của Khổng Tử vào, gộp thành "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín",
năm đức tính căn bản của đạo Nho.
Khổng Tử nhấn mạnh chữ NHÂN, Mạnh Tử coi trọng chữ NGHĨA. Thời
Xuân Thu Chiến Quốc, người đời khinh nghèo chê hèn, Mạnh Tử cực lực chống
lại bằng cách đề cao đức tính "Cùng bất thất nghĩa, đạt bất ly đạo". (Dù có nghèo
cũng không mất nghĩa, khi đã khá cũng giữ đúng đạo). Mạnh T đã nghèo suốt
đời, cũng "Bất thất nghĩa, bất ly đạo", nhưng Mạnh Tử cũng nhờ kiên trì tâm
niệm "Bất thất nghĩa, bất ly đạo" đó, mới trở thành nhân vật bất hủ. Qua những
trang lịch sử, chúng ta thấy kẻ tranh nhất thời, kẻ giành thiên thu, khác
nhau chỉ một chữ NGHĨA mà thôi.
12
Đổng Trọng Thư còn dùng ngày, tháng, bốn a trong năm âm dương
ngũ hành để giải thích số lượng các đốt xương và các bộ phận của con người.
Như vậy chúng ta thấy tưởng triết học của Đổng Trọng Thư trong quan
niệm về tự nhiên và chính trị xã hội là duy tâm tôn giáo, mang màu sắc mục đích
luận nét, ông mưu toan kết hợp thần quyền vương quyền vào một nhân
vua, người đứng đầu xã hội, được mệnh danh là “Thiên tử”.
2. Về lý luận đạo đức xã hội
Đổng Trọng Thư xây dựng một hệ thống các phạm trù “tam cương”, “ngũ luân”,
“ngũ thường” làm khuôn mẫu cho mọi hành vi cư xử, giao tiếp, giáo dục, tự trau dồi
nhân của mọi giai tầng trong hội. Thuyết “Tam cương” của ông cho rằng, trong
quan hệ giữa người với người trong hội ba mối quan hệ là: vua - bề tôi; cha -
con; vợ - chồng. Sau mở rộng ra hai mối quan hệ nữa là: anh - em; bạn bè thành “ngũ
luân”. Thực ra đây mối quan hệ đã được Khổng Tử, Mạnh Tử đề cập đến rồi, như
Đổng Trọng Thư đã tước đi một số yếu tố tính nhân đạo, tiến bộ đưa vào quan
niệm một chiều khắt khe. Đặc biệt là với “Tam cương” ông đưa ra thứ quy tắc đạo đức
phi lí, phi nhân bản: vua xử tội chết thần phải chết nếu không mắc tội bất trung, cha
bảo con chết, con phải chết, nếu không mắc tội bất hiếu, chồng bảo vợ phải tuyệt
đối tuân theo. Ông đã dùng thuyết “âm dương” nhưng bỏ mặt duy vật, nên ông cho
rằng quy luật của tự nhiên viện đến ý “trời”để biện minh cho học thuyết đạo đức
của mình: Vua là tượng của “trời”, nên có đức che chở, hướng dẫn; bề tôi là tượng của
“đất”, nên đức tính chuyên chở, tuân theo; chồng khí “dương” nên đức sinh,
dẫn đầu, vợ là thuộc khí “âm” nên có đức phụ trợ, tuân theo; cha là thuộc “mùa xuân”
nên đức sinh, con thuộc “mùa hạ” nên đức dưỡng, tuân theo tất cả do
trời định đoạt.
Thuyết “Ngũ thường” (năm cái thường lý, thường tình của con người) là
“nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Về mặt tên gọi và nội dung của chép lại của
Không Tử. Nhưng Đổng Trọng Thư đã giải thích vận dụng theo mục đích
của mình. Ông cho rằng con người phải có đủ “Ngũ luân” để thực hiện đạo “Tam
cương”, con người mới đạo “Cương-Thường”. Thực ra học thuyết về luân
đạo đức của Đổng Trọng Thư nhằm mục đích cao nhất “trung quân”, trung
thành tuyệt đối với nhà vua. Bởi vì mối quan hệ vua-tôi là đứng đầu trong ba mối
quan hệ được coi bản của con người, hội. Điều này cho thấy hoàn toàn
trái ngược với Khổng Tử, Mạnh Tử.
3. Về bản tính của con người
Đổng Trọng Thư chia con người thành ba loại: loại thứ nhất tình dục rất ít,
không cần dạy dỗ cũng thành người tốt đó là “tính thánh nhân”; loại thứ hai tình
15
dục quá nhiều dạy dỗ cũng khó mà được người tốt gọi “tính nhỏ mọn”; loại
thứ ba là loại tuy có tình dục nhưng thể là tốt hoặc xấu gọi đó là “bậc trung”. Ông
lập luận về bản tính của con người là sở luận để củng cố đẳng cấp bất bình
đẳng trong xã hội phong kiến.
Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tưởng
triết học, đạo đức, chính trị của Nho giáo đã được hoàn chỉnh. Đến thời này
Nho giáo rất được đề cao thường được gọi Nho giáo. Đồng thời Khổng Tử
tôn làm giáo chủ của đạo Học.
16
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM
I. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO Ở NƯỚC
TA
Nho giáo được du nhập vào nước ta đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.
Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư
tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo.... Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò
chính yếu, nhưng nhìn chung càng v sau Nho giáo càng chiếm ưu thế trở
thành công cụ tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do thời gian
tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích,
cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực.
Đức, Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người sự đối xử nhân
ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Xét theo phương diện pháp luật thì Nho giáo
tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của hội, ngày nay
chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật
pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải gia pháp thì mới trên
dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. tưởng
chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ trách nhiệm của mình
để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đ tu dưỡng đạo đức
nhân, đặc biệt chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người chức,
quyền). Để xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước, giai cấp phong kiến đã tìm
thấy Nho giáo những lợi khí Phật giáo Đạo giáo đương thời không có:
sự thần bí hóa vương quyền, sự thiêng liêng hóa quan hệ quân thần, những chuẩn
mực nội dung đào tạo quan lại thích hợp để nối dài cánh tay quyền lực của
nhà vua. Qua đó, có thể thấy rằng giai cấp phong kiến Việt Nam thượng tôn Nho
giáo không chỉ do nhu cầu xây dựng quốc gia, còn chủ yếu Nho
giáo có ích đối với việc cai trị nhân dân.
1. Về văn hóa
Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt động văn hóa tinh thần. Trong văn hóa
tổ chức cộng đồng, cấp độ gia đình, Nho giáo phối hợp với văn hóa n làm hình
thành chế độ gia đình phụ hệ đi đôi với nam quyền cực đoan. Trong gia đình, gia tộc,
quốc gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế, thừa
tự cho con trai trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự
cho con trai út của dân gian. Trên bình diện quốc gia, Nho giáo là
17
| 1/14

Preview text:

MỤC LỤC Trang
Mở đầu............................................................................................3
Nội dung............................................................................................5
Chương I: Các tư tưởng triết học Nho giáo nổi tiếng
..............................5
I.Khổng Tử
........................................................................................5
1. Quan điểm về thế giới
......................................................................5
2. Quan điểm về chính trị - xã hội
........................................................7
2.1. Thuyết chính danh - lý luận ổn định trật tự xã hội 7
2.2. Đạo đức - công cụ để thực hiện thuyết chính danh...........................8
2.3. Quân tử - mẫu người lý tưởng của xã hội
......................................10
II. Mạnh Tử
.....................................................................................11
1. Về đạo đức, tư tưởng
.....................................................................12
2. Về chính trị
...................................................................................12
III. Đổng Trọng Thư
.........................................................................13
1. Về tư tưởng triết học và chính trị....................................................14
2. Về lí luận đạo đức xã hội
................................................................15
3. Về bản tính của con người
..............................................................15
Chương II: Tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến
đời sống và con người Việt Nam
.........................................................17
I. Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo ở nước ta
.......................17
1. Về văn hóa
....................................................................................17
2. Về tín ngưỡng
...............................................................................18
3. Về phong tục
.................................................................................18
4. Về giáo dục
...................................................................................18
5. Về văn học nghệ thuật
....................................................................18
6. Về ngôn ngữ và văn tự
...................................................................19
II. Hạn chế của triết học Nho giáo đối với nước ta................................20
1. Về giáo dục...................................................................................20
2. Về chính trị
...................................................................................20
3. Về kinh tế
.....................................................................................20
4. Về xã hội
.......................................................................................21
III. Ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến đơn vị công tác hiện nay......21
1. Ảnh hưởng đến đơn vị công tác
.......................................................21
2. Ảnh hưởng đến cá nhân
.................................................................22
Kết luận
...........................................................................................25 2 MỞ ĐẦU
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng, xét đến cùng nó bị quy định bởi đời sống vật chất xã hội.
Do đó phát triển của tư tưởng triết học cũng bị quy định bởi sự phát triển của nền
sản xuất vật chất, cũng phụ thuộc vào sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội. Triết học cũng là thế giới quan của những giai cấp hoặc tập đoàn xã
hội nhất định. Lịch sử triết học phân chia theo sự phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội, mỗi giai đoạn lại có cái nhìn khác nhau về di sản triết học, thậm chí có
lúc giai đoạn này hoàn toàn ngược lại giai đoạn kia.
Nếu phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và
Trung Quốc là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất
của nền văn minh ấy. Một trong những tư tưởng triết học phương Đông thời đó
mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lí đạo
đức, chính trị-xã hội, đó là những tư tưởng triết học của Nho giáo. Sau đây chúng
ta cùng tìm hiểu về những tư tưởng về triết học của Nho giáo.
Nho giáo hay còn gọi là Nho giáo là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở
Trung Quốc, là học phái tư tưởng lấy luân lí chính trị làm cốt lõi, một bộ phận lịch sử
phát triển Nho giáo tương đương với một bộ phận lịch sử phát triển chính trị xã hội
Trung Quốc. Vì vậy chúng ta không thể không thừa nhận ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo đối với lịch sử xã hội Trung Quốc. Bên cạnh đó, nền văn minh này xuất hiện từ
rất sớm và kéo dài hàng nghìn năm trong lịch sử không chỉ có ảnh hưởng tới sự phát
triển của văn hóa dân tộc Trung Hoa mà còn ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển
văn hóa của các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam.
Trong quá trình hình thành và phát triển, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
thể hiện qua nhiều nội dung đa dạng, phong phú, phản ánh sâu sắc sự vận động
và biến thiên của lịch sử. Một trong những vấn đề được các nhà tư tưởng Việt
Nam trong lịch sử hết sức quan tâm đó là đạo Nho, vì đây là cơ sở để hành động
chính trị, đối nhân, xử thế; các nguyên lý chính trị và đạo đức của nó đã đáp ứng
được các nhu cầu đương thời.
Sau khi được nghiên cứu về “Khái lược triết học và lịch sử triết học” , tôi
chọn đề tài “Tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến đời sống và con người
Việt Nam” để làm bài tiểu luận cuối khóa. Nho giáo thường nói về các chuẩn
mực đạo đức có tính chất tiên thiên mà người quân tử cần phải nhận thức đầy đủ
và thực hành cẩn trọng như “tam cương, ngũ thường”, quản lý con người và xã
hội thông qua các chuẩn mực đạo đức. 3
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng Nho giáo là làm cho con người ý thức được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Con
người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con
người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội,
ở mọi thời đại. Tư tưởng Nho giáo yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức
nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và xã hội trong khuôn khổ danh phận, góp
phần vào duy trì bình ổn xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng này còn kìm hãm tự do của nhân
cách tới mức không chấp nhận bất kỳ sáng kiến nào của con người, làm cho con người
luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ
làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng Nho giáo đã quá đề cao danh phận,
làm cho con người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức
nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý. Mặc dù có những
quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của con người nhưng nói
chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải có những phẩm chất đạo đức cơ
bản “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. 4 NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO NỔI TIẾNG
Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở
Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ luân, ngũ thường hay tam cương ngũ thường là
những cái tuyệt đối. Tư tưởng đạo đức Nho giáo từ ngũ luân, ngũ thường rồi đem
gán những cái ấy cho vũ trụ, cho thượng đế: nó đã luân lý hóa cả vũ trụ, cả
thượng đế, vũ trụ và thượng đế của Nho giáo đều nhuốm màu luân lý. Đối với
Nho giáo thì luân lý cương thường là hằng tồn, là phổ biến. Nho giáo không có
lịch sử quan, tiến hóa luận, đối với Nho giáo thì xã hội phong kiến không phải là
một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân lý phong kiến không chỉ là một hình
thái ý thức của giai đoạn ấy.
I . KHỔNG TỬ (551-479 TCN)
Khổng Tử tên thật là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (ở tỉnh Sơn
Đông ngày nay), Ông là một nhà tư tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu
tiên của Trung Quốc cổ đại. Khổng Tử có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong
mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của ông là đi đến nhiều nước
để trình bày chủ trương chính trị của mình và mở trường để dạy học. Tương
truyền, số học trò của ông có đến 3.000 người, trong đó có nhiều người thành
đạt, sử sách thường gọi là thất thập nhị thiên.
Ngoài việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc,
Dịch, Xuân Thu, trong đó sách Nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại về sau trở
thành 5 tác phẩm kinh điển của Nho giáo được gọi chung là Ngũ kinh.
Những lời nói của Khổng Tử và những câu hỏi của học trò của ông được
chép lại thành sách Luận ngữ. Đó là tác phẩm chủ yếu để tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử.
Về mặt triết học của Khổng Tử được lý giải khác nhau qua nhiều triều đại.
Đến năm thứ II trước công nguyên, những quan điểm của Khổng Tử được danh
nho nhà Hán Đổng Trọng Thư thần bí hóa và biến nó thành một hệ thống đạo
đức, tôn giáo, chính trị thống trị ở Trung Quốc.
Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các vấn đề về xã hội, song trong các tác phẩm
của mình và sách vở do học trò ghi lại, ông đề cập đến mọi lĩnh vực thể hiện các
quan điểm về thế giới, về chính trị xã hội và về cuộc sống con người.
1. Quan điểm về thế giới
Quan điểm về thế giới của Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ trụ của
người Trung Hoa thượng cổ - những quan niệm được lưu truyền trong dân gian và 5
được ghi trong Sách Dịch. Đấy là quan niệm cho rằng vũ trụ lúc đầu là cõi hồn
mang mênh mông, mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái Lý gọi là Thái cực vô
hình, huyền diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn đối lập nhau là Âm và Dương.
Thái cực có bản thể và động thể. Vì nó là vô hình nên không thể nhận biết
được bản thể của Thái cực, song động thể của nó biểu hiện ở Âm - Dương tương
tác, chuyển hóa lẫn nhau. Sự tương tác, chuyển hóa dẫn đến mọi biến đổi vô
cùng tận gọi là Đạo, Dịch hay Đạo Trời Đất.
Theo Đạo, Âm Dương tạo ra thanh khí. Thanh khí là Trời, trọng khí làm Đất
còn sự điều hòa giữa Âm và Dương sẽ sinh ra vạn vật. Ngay từ trong tiềm ẩn,
vạn vật đã bẩm thụ thanh khí và trong khí. Thanh khí làm Trời, trọng khí làm Đất
còn sự điều hòa Âm và Dương sẽ sinh ra vạn vật. Ngay từ trong tiềm ẩn, vạn vật
đã có sẵn thanh khí và trọng khí. Vật nào có nhiều thanh khí thì làm Thần; vật
nào bẩm thụ ít, tùy theo độ đậm nhạt của khí thanh, trọng khí mà làm Quỷ -
Thần, làm Người làm Vật hay làm những loại khác.
Quan niệm trên cho thấy người Trung Hoa cổ đại đã xếp ngôi thứ trong thứ
tự trong vũ trụ là: Trời, Thần, Quỷ - Thần, người và vạn vật. Trời ở đây không
chỉ là một giới siêu tự nhiên sáng tạo ra vũ trụ mà trời chỉ giữ ngôi cao nhất trong
vũ trụ. Các thần cũng không hoàn toàn hư vô, huyền bí mà chỉ là sự bẩm thụ khí của Âm, Dương.
Quan hệ giữa Quỷ - Thần và người thì: trong các bài văn tế, ta thấy Thiên tử
tự xưng với Trời là “thần”(bề tôi), còn đối với Quỷ - Thần Thiên tử tự xưng là
“trẫm”. Nghĩa là Thiên tử cho quỷ thần ngang hàng với mình hoặc dưới mình.
Với Khổng Tử, Trời như một quan tòa công minh cầm cân nảy mực phán xét
mọi việc, Trời quyết định sự thành bại trong hoạt động cũng như cuộc sống của
con người. Với ông “ sống chết có mạng, giàu sang tại trời”. Vì vậy, Khổng Tử
đặt hết niềm tin vào ý chí của Trời. Ông khuyên mọi người phục tùng ý chí đó và
coi việc hiểu biết nó như một điều kiện tất yếu để trở thành người hoàn thiện.
Khổng Tử cũng không phủ nhận sự tồn tại của Quỷ - Thần nhưng theo ông,
việc của Quỷ - Thần là việc cao xa, u uẩn nên đối với Quỷ - Thần, con người
phải kính trọng song chẳng nên gần gũi làm gì.
Về giới tự nhiên, về Trời - Đất, trong giai đoạn này vấn đề giữa Trời và Người là
vấn đề trung tâm trong cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học. Quyền lực và sức
mạnh của Trời là sự thần thánh hóa quyền lực và sức mạnh của thế lực cầm quyền trên
mặt đất. Khổng Tử đã thể hiện thái độ của mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô khi
chế độ chiếm hữu nô lệ đã bước vào thời kì suy tàn và khởi nghĩa vũ 6
trang của nhân dân khắp nơi đang nổ ra quyết liệt. Tuy nhiên, cuộc sống thực mà
Khổng tử được chứng kiến làm ông hoang mang. Quan niệm về quyền lực của trời
cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông chứa đầy mâu thuẫn. Một mặt ông truyền
bá sức mạnh của Trời, một mặt ông nhấn mạnh hoạt động của con nười, coi hoạt động
của con người giữ địa vị quan trọng nhất trong cuộc đời của họ; một mặt ông công
nhận có sự tồn tại của Quỷ - Thần, nhưng khác với lẽ thông thường, ông lại khuyên
con người không nên đề cập đến và nên xa lánh nó. Chính vì vậy ông cố
ý tránh né nói đến cái chết, khuyên con người hãy quay về với cuộc sống thực và
đề cao sự nỗ lực của mỗi cá nhân.
2. Quan điểm về chính trị xã hội
2.1. Thuyết chính danh - lý luận ổn định trật tự xã hội

Khổng Tử cho rằng sự thay đổi của xã hội làm cho thiên hạ rối ren không
phải là nguyên nhân một sớm, một chiều mà là một quá trình bắt nguồn từ sự sa
đọa của thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính”. Và cũng vì quan
niệm “danh” không được “chính” làm cho xã hội loạn kỷ cương nên để khôi phục
trật tự Khổng Tử chủ trương thực hành thuyết “chính danh”. Ông cho rằng:
Trong xã hội, mỗi vật, mỗi người dều có một công dụng nhất định. Nằm trong
một quan hệ nhất định, mỗi vật, mỗi người đều có một địa vị nhất định và tương
ứng với nó là một “danh” nhất định. Mỗi danh đều có những tiêu chuẩn riêng.
Vật nào, người nào mang danh nào phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn
của danh đó, nếu không phải gọi bằng danh khác. Khổng Tử giải thích thuyết của
mình: chính là làm cho mọi việc ngay thẳng: Vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề
tôi, cha phải ra cha, con phải ra con; “Nếu danh bất chính thì lời nói sẽ không
đúng đắn. Lời nói không đúng đắn thì sẽ dẫn đến việc thi hành sai. Khi đó người
với người trong xã hội sẽ không còn kính trọng nhau, không còn hòa khí, luật
pháp lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi trông cậy, nhờ vả” ; “ Dân không còn chỗ
trông cậy, nhờ vả thì dân sẽ không còn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó dù muốn hay
không xã tắc cũng khó tránh bề suy sụp” ( Luận Ngữ).
Triết học Nho giáo xác định: quan hệ vua - tôi, cha - con , chồng - vợ, anh -
em, bạn bè là 5 quan hệ thông thường của người đời trong thiên hạ. Mối quan hệ
lại có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng; cha hiền - con thảo, anh tốt -
em ngoan, chồng biết điều - vợ lẽ phải, bề trên rộng rãi - bề dưới kính thuận, vua
nhân - tôi trung. Đăc biệt ông nhấn mạnh quan hệ vua tôi và quan hệ cha con. 7
* Đối với quan hệ vua tôi
Trước hết, ông quan điểm ngôi vua theo kiểu cha truyền con nối. Ông lên án
việc chức tước truyền theo huyết thống, dòng tộc mặc dù trong xã hội đương thời
có ba kiểu lên ngôi được chấp nhận:
1. Lên ngôi do cha truyền lại
2. Lên ngôi do vua trước truyền lại
3. Lên ngôi do đổi mệnh vua
Khổng Tử cho rằng người cầm quyền phải có đức, có tài mà không cần tính
đến đẳng cấp xuất thân của nó. Với ông người đứng đầu của một quốc gia phải
đạt được nhân đạo và phải đạt được thiên đạo để trở thành một minh quân, một bề trên chính trực.
Đối với những yêu cầu cụ thể, Không Tử chủ trương: -
Vua phải đảm bảo cho dân được ấm no; phải xây dựng được lực lượng
quân sự hùng hậu và đặc biệt là phải chiếm được lòng tin của dân. -
Vua phải biết làm cho dân giàu và biết giáo hóa dân -
Vua phải biết tận dụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết
rộng lượng với những người cộng sự với mình.
* Đối với quan hệ cha con
Đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con, ông không nhấn mạnh
đến của cải con cái dành cho cha mẹ mà chủ yếu nói đến “ Tâm” để đánh giá
hiếu thảo. Con cái phải thành kính với cha mẹ, phải nuôi dưỡng cha mẹ lúc về
già, lúc ốm đau. Và “ hiếu” của ông không quan niệm một chiều là con cái phải
nhất nhất nghe theo cha mẹ mà với ông là cha phải ra cha mà con phải ra con.
Tức là ông cũng đòi hỏi cha mẹ phải đối xử với con cái cho đúng đạo của mình.
Như vậy Khổng tử không chủ trương ngu trung; ngu hiếu; không bắt buộc con
người phải phục vụ bề trên vô điều kiện. Đối với ông, trong xã hội “ chính danh” là
quan hệ hai chiều, cụ thể công cụ để thực hiện hai chiều này là đạo đức của xã hội.
2.2. Đạo đức - công cụ để thực hiện thuyết chính danh
Không Tử cho rằng không nên lạm dụng pháp luật để ép dân đi vào tôn ti trật tự;
chính sách khủng bố, dùng hình phạt chỉ tạo ra sự hận thù, sợ sệt. Ổn định xã hội hữu
hiệu nhất là bằng đức hạnh, bằng lễ tiết vì chỉ có như vậy mới cảm hóa được con
người và làm cho con người hổ thẹn khi có hành vi sai phạm. Điều đó cho thấy Khổng
Tử đã thể hiện tư tưởng dùng đạo đức làm công cụ để thực hiện 8
thuyết “chính danh” của mình. Nội dung của đạo đức ấy vẫn theo ông, thông
thường nhất và cũng là quan trọng nhất là: Nhân, Trí, và Dũng
Nhân: "Nhân" trong quan niệm của Khổng Tử là "yêu người" (Luận ngữ,
Nhân Uyên, 21). Nếu nhìn toàn bộ tư tưởng của ông, phải xem nội dung trên là
tiêu biểu cho điều "Nhân". "Nhân" là "yêu người", nhưng người nhân cũng còn
phải biết "ghét người". Với Khổng Tử thì chỉ có người có đức nhân mới biết "yêu
người" và "ghét người".
Đi liền với "Nhân" (người) là các khái niệm "thiện nhân", "đại nhân", "thành
nhân", "nhân nhân", "thánh nhân", "tiểu nhân"... Các khái niệm này nhằm chỉ
những con người có tính cách khác nhau, trình độ đạo đức khác nhau. "Thánh
nhân" là người có đạo đức cao siêu, "tiểu nhân" là người có tính cách thấp hèn…
"Nhân" ở đây là chỉ con người nói chung và "ái nhân" là yêu người, yêu bất cứ
người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Khổng Tử, "Nhân" không chỉ là
"yêu người", "thương người", mà còn là đức hoàn thiện của con người và do vậy,
“nhân” chính là đạo làm người - sống với mình và sống với người, đức nhân là
cái bền vững như núi sông. Với ông, nếu thịnh đức của trời - đất là sinh thành,
bắt nguồn từ đạo trung hoà, trung dung thì cái gốc của đạo lý con người là "trung
thứ" và đạo đức, luân lý con người là "Nhân", người có đạo nhân là bậc quân tử,
nước có đạo nhân thì bền vững như núi sông.
Để hiểu rõ hơn về tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cần so sánh nó với tư
tưởng Kiêm ái của Mặc Tử, tư tưởng Từ bi của đạo Phật. Nếu tư tưởng Kiêm ái
của Mặc Tử coi ai cũng như mình, người thân của người cũng là người thân của
mình, không phân biệt riêng tư thì "Nhân" phân biệt mình và người, lấy mình làm
khởi điểm để phân biệt từ thân đến sơ, từ gần tới xa, phân biệt người tốt, kẻ xấu.
Người Nhân trong quan niệm của Khổng Tử coi trọng đạo đức, chú ý phần thiện
trong bản tính con người thì người Kiêm ái chỉ chú trọng đến sự cứu giúp vật
chất, chú ý đến"giao tương lợi". Tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cũng khác xa tư
tưởng Từ bi của đạo Phật. Phật thương người và thương cả vạn vật. Lòng thương
của Phật có một nỗi buồn vô hạn, buồn cho sự mê muội của sinh linh, tìm cách
giải thoát mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Còn đạo Khổng tìm mọi
cách giúp cho con người sống một cuộc sống vui vẻ hơn, có nghĩa lý hơn và tìm
kiếm hạnh phúc ngay trên cõi trần chứ không phải ở trên cõi niết bàn.
Trí: Khổng Tử nói “Trí là biết người”, “trí” là sự minh mẫn nói chung để
phân biệt, đánh giá con người và tình huống, qua đó tự xác định cho mình cách 9
ứng xử cho phải đường, phải đạo. Với ông, phải có trí con người mới vươn được
tới đức “nhân” nên không thể là người “nhân” thiếu “trí”.
Đề cập đến “trí”, một mặt tin vào Mệnh trời, Khổng Tử cho rằng tri thức
bẩm sinh là tri thức thượng thặng, một mặt là ông thầy có khoảng ba ngàn học
trò và là người xếp “trí” vào trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của con
người hoàn thiện. Ông cho rằng “trí” không phải ngẫu nhiên mà có, nó là kết quả
của quá trình học hỏi. “Học tức là đến gần với trí”. Học để trở thành con người
đạo lý. Không học thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng
lầm lạc, phẩn loạn làm biến chất.
Là một nhà giáo dục, một mặt Khổng Tử dạy cho tất cả mọi người không
phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, chủng tộc; một mặt ông chủ trương đối với dân
việc gì cần thiết thì sai khiến chứ không nên giảng giải vì dân không có khả năng
hiểu ý nghĩa công việc mình làm. Chủ trương này xuất phát từ quan điểm: nhân
cách không phải bẩm sinh bởi bản chất đơn sơ của mọi người đề giống nhau song
do sự tác động của môi trường, của điều kiện sống nên thói quen đem lại cho
người tính lành, kẻ tính ác. Vì vậy giáo dục để cải hóa tất cả, trừ những người
thông thái và những kẻ quá ngu đần. Theo Khổng Tử giáo dục là cải tao nhân
tính. Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau, thì phải để công vào giáo dục vì
giáo dục có thể hóa ác thành thiện. “ tu sửa đạo làm người”, và “làm sáng tỏ đức
sáng” là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính của Khổng
Tử. Ông không coi giáo dục chỉ mở mang tri thức, giải thích vũ trụ mà ông chú
trọng đến việc giải thích hình thành nhân cách đâỳ đủ, lấy giáo dục để mở mang
cả trí, nhân, dũng, cốt dạy người ta con người đạo lý.
2.3. Quân tử - mẫu người lý tưởng của xã hội
Khổng Tử đã dùng hai khái niệm này để xây dựng lý tưởng của mình. Với
ông người quân tử trước tiên phải biết tu thân. Không tự tu được thân không thể
giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận của mình với thiên hạ. Ngược với
quân tử là tiểu nhân - khi xét một người nào đó thuộc quân tử hay tiểu nhân,
Khổng Tử đòi hỏi phải quan sát hành động của họ xem hành động ấy có phù hợp
với lời nói của họ hay không và để đánh giá con người ông khuyên phải nhìn vào
công việc của họ, phải xét lý do làm việc của họ và phải xem thái độ của họ.
Mẫu hình con người lý tưởng, việc phân xã hội thành quân tử và tiểu nhân
phản ánh đậm nét thái độ của ông đối với nhân dân lao động và một số quan
điểm khác của ông về đạo đức. 10
trau dồi các thiên hướng tốt này sẽ phát triển thành các đức tính cốt tử của Nho giáo.
Kể từ năm 52 tuổi, Mạnh Tử bắt đầu du hành sang nước Lương, cho đến cuối
cùng quay về nước Lỗ, đã trải hơn hai mươi năm mà chẳng lìm được vị minh chúa
nào có đồng chí hướng, để thực hiện lý tưởng Vương đạo. Chừng tuổi đã già thì trở về
xứ Châu, nơi chôn nhau cắt rốn, tu thân và dạy học, y như Khổng Tử thuở trước vậy.
Đến năm 84 tuổi thì Mạnh Tử mất, thọ hơn Khổng Tử mười một tuổi đời.
Trong sách Mạnh Tử có đến hai mươi chín chỗ trích dẫn lời của Khổng Tử,
chứng tỏ Mạnh Tử sùng bái Khổng Tử gần như tuyệt đối, coi Khổng Tử là Thánh
tổ, tự đặt mình vào cương vị của kẻ có sứ mạng truyền bá Khổng học.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin vào mệnh
trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu
dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hóa được mọi giới.
1.Về đạo đức, tư tưởng
Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh gọi là"Tánh
bản thiện". Người bảo rằng? "Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi; tu ác chi tâm, nhân
giai hữu chi; cung kính chi tâm, nhân giai hữu chi; thị phi chi tâm, nhân giai hữu chi".
(Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, ai cũng có lòng thiện ác, ai cũng có lòng cung kính,
ai cũng có lòng thị phi), rồi giải thích thêm rằng: "Trắc ẩn chi tâm, nhân giã; tu ác chi
tâm, nghĩa giã; cung kính chi tâm, lễ giã; thị phi chi tâm, trí giã. Nhân, nghĩa, lễ, trí,
phi do ngoại thước ngã giã, ngã cố hữu chi giã". (Lòng trắc ẩn đó là nhân, lòng thiện
ác đó là nghĩa, lòng cung kính đó là lễ, lòng thị phi đó là trí. Nhân, nghĩa, lễ, trí,
không do bên ngoài hun đúc ta, mà là vốn đã có sẵn trong lòng ta. Sau Mạnh Tử, các
nhà Nho thêm chữ "Tín" của Khổng Tử vào, gộp thành "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín",
năm đức tính căn bản của đạo Nho.
Khổng Tử nhấn mạnh chữ NHÂN, Mạnh Tử coi trọng chữ NGHĨA. Thời
Xuân Thu Chiến Quốc, người đời khinh nghèo chê hèn, Mạnh Tử cực lực chống
lại bằng cách đề cao đức tính "Cùng bất thất nghĩa, đạt bất ly đạo". (Dù có nghèo
cũng không mất nghĩa, khi đã khá cũng giữ đúng đạo). Mạnh Tử đã nghèo suốt
đời, cũng vì "Bất thất nghĩa, bất ly đạo", nhưng Mạnh Tử cũng nhờ kiên trì tâm
niệm "Bất thất nghĩa, bất ly đạo" đó, mới trở thành nhân vật bất hủ. Qua những
trang lịch sử, chúng ta thấy có kẻ tranh nhất thời, có kẻ giành thiên thu, khác
nhau chỉ một chữ NGHĨA mà thôi. 12
Đổng Trọng Thư còn dùng ngày, tháng, bốn mùa trong năm và âm dương
ngũ hành để giải thích số lượng các đốt xương và các bộ phận của con người.
Như vậy chúng ta thấy tư tưởng triết học của Đổng Trọng Thư trong quan
niệm về tự nhiên và chính trị xã hội là duy tâm tôn giáo, mang màu sắc mục đích
luận rõ nét, ông mưu toan kết hợp thần quyền và vương quyền vào một cá nhân
vua, người đứng đầu xã hội, được mệnh danh là “Thiên tử”.
2. Về lý luận đạo đức xã hội
Đổng Trọng Thư xây dựng một hệ thống các phạm trù “tam cương”, “ngũ luân”,
“ngũ thường” làm khuôn mẫu cho mọi hành vi cư xử, giao tiếp, giáo dục, tự trau dồi
cá nhân của mọi giai tầng trong xã hội. Thuyết “Tam cương” của ông cho rằng, trong
quan hệ giữa người với người trong xã hội có ba mối quan hệ là: vua - bề tôi; cha -
con; vợ - chồng. Sau mở rộng ra hai mối quan hệ nữa là: anh - em; bạn bè thành “ngũ
luân”. Thực ra đây là mối quan hệ đã được Khổng Tử, Mạnh Tử đề cập đến rồi, như
Đổng Trọng Thư đã tước đi một số yếu tố có tính nhân đạo, tiến bộ mà đưa vào quan
niệm một chiều khắt khe. Đặc biệt là với “Tam cương” ông đưa ra thứ quy tắc đạo đức
phi lí, phi nhân bản: vua xử tội chết thần phải chết nếu không mắc tội bất trung, cha
bảo con chết, con phải chết, nếu không là mắc tội bất hiếu, chồng bảo vợ phải tuyệt
đối tuân theo. Ông đã dùng thuyết “âm dương” nhưng bỏ mặt duy vật, nên ông cho
rằng quy luật của tự nhiên và viện đến ý “trời”để biện minh cho học thuyết đạo đức
của mình: Vua là tượng của “trời”, nên có đức che chở, hướng dẫn; bề tôi là tượng của
“đất”, nên có đức tính chuyên chở, tuân theo; chồng là khí “dương” nên có đức sinh,
dẫn đầu, vợ là thuộc khí “âm” nên có đức phụ trợ, tuân theo; cha là thuộc “mùa xuân”
nên có đức sinh, con là thuộc “mùa hạ” nên có đức dưỡng, tuân theo và tất cả là do trời định đoạt.
Thuyết “Ngũ thường” (năm cái thường lý, thường tình của con người) là
“nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Về mặt tên gọi và nội dung của nó là chép lại của
Không Tử. Nhưng Đổng Trọng Thư đã giải thích và vận dụng nó theo mục đích
của mình. Ông cho rằng con người phải có đủ “Ngũ luân” để thực hiện đạo “Tam
cương”, và con người mới có đạo “Cương-Thường”. Thực ra học thuyết về luân
lý đạo đức của Đổng Trọng Thư nhằm mục đích cao nhất là “trung quân”, trung
thành tuyệt đối với nhà vua. Bởi vì mối quan hệ vua-tôi là đứng đầu trong ba mối
quan hệ được coi là cơ bản của con người, xã hội. Điều này cho thấy hoàn toàn
trái ngược với Khổng Tử, Mạnh Tử.
3. Về bản tính của con người
Đổng Trọng Thư chia con người thành ba loại: loại thứ nhất tình dục rất ít,
không cần dạy dỗ cũng thành người tốt đó là “tính thánh nhân”; loại thứ hai tình 15
dục quá nhiều có dạy dỗ cũng khó mà được người tốt gọi là “tính nhỏ mọn”; loại
thứ ba là loại tuy có tình dục nhưng thể là tốt hoặc xấu gọi đó là “bậc trung”. Ông
lập luận về bản tính của con người là cơ sở lý luận để củng cố đẳng cấp bất bình
đẳng trong xã hội phong kiến.
Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tư tưởng
triết học, đạo đức, chính trị của Nho giáo đã được hoàn chỉnh. Đến thời kì này
Nho giáo rất được đề cao và thường được gọi là Nho giáo. Đồng thời Khổng Tử
tôn làm giáo chủ của đạo Học. 16
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM
I. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO Ở NƯỚC TA
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.
Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư
tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo.... Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò
chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở
thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian
tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích,
cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực.
Đức, Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân
ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Xét theo phương diện pháp luật thì Nho giáo
có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay
chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật
pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có
dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng
chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình
để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá
nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức,
quyền). Để xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước, giai cấp phong kiến đã tìm
thấy ở Nho giáo những lợi khí mà Phật giáo và Đạo giáo đương thời không có:
sự thần bí hóa vương quyền, sự thiêng liêng hóa quan hệ quân thần, những chuẩn
mực và nội dung đào tạo quan lại thích hợp để nối dài cánh tay quyền lực của
nhà vua. Qua đó, có thể thấy rằng giai cấp phong kiến Việt Nam thượng tôn Nho
giáo không chỉ do nhu cầu xây dựng quốc gia, mà còn vì và chủ yếu là vì Nho
giáo có ích đối với việc cai trị nhân dân. 1. Về văn hóa
Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt động văn hóa tinh thần. Trong văn hóa
tổ chức cộng đồng, ở cấp độ gia đình, Nho giáo phối hợp với văn hóa Hán làm hình
thành chế độ gia đình phụ hệ đi đôi với nam quyền cực đoan. Trong gia đình, gia tộc,
quốc gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế, thừa
tự cho con trai trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự
cho con trai út của dân gian. Trên bình diện quốc gia, Nho giáo là 17