












Preview text:
  lO M oARcPSD| 45467232
Vai trò phương pháp logic và phương pháp lịch sử trong nghiên cứu 
Đại cương văn hóa Việt Nam: 
1, Xác định được khái niệm, đặc điểm 2 phương pháp  2, Từ đó rút ra vai trò 
Trong lịch sử nhận thức khoa học, cả phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử từ lâu 
đã tồn tại như những công cụ nhận thức chuyên biệt truyền thống. Ở trình độ kinh nghiệ m, 
hai phương pháp này độc lập với nhau xét về vai trò cũng như về chức năng. Trong lịch sử nhận 
thức khoa học, phương pháp lịch sử luôn giữ vị trí hàng đầu trong các khoa học lịch sử, khảo cổ, 
phân loại học… Trong các ngành khoa học như toán, vật lý, lôgic học… phương pháp lôgic được 
áp dụng như là phương pháp chủ đạo.    
1. Phương pháp lịch sử 
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có quá trình lịch sử của nó, tức 
là có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Đó là một quá trình vận động và biến đổi 
liên tục, hết sức cụ thể, đầy quanh co, phức tạp, bao gồm cả những cái ngẫu nhiên lẫn cái 
tất yếu, muôn hình, muôn vẻ, trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau và theo một trật 
tự thời gian nhất định. 
Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của 
sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự thời gian và không gian như nó đã từng diễn ra 
(quá trình ra đời, phát triển, tiêu vong). 
Nhiệm vụ của phương pháp lịch sử là thông qua các nguồn tư liệu để nghiên cứu và 
phục dựng đầy đủ các điều kiện hình thành, quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ 
đơn giản đến phức tạp của các sự kiện, hiện tượng, đồng thời đặt quá trình phát triển đó 
trong mối quan hệ tác động qua lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt quá trình vận 
động của chúng, từ đó có thể dựng lại bức tranh chân thực của sự vật, hiện tượng như đã  xảy ra. 
Ví dụ như khi nghiên cứu về phong trào Cần Vương, bằng phương pháp pháp lịch sử, 
nhà nghiên cứu sẽ tìm kiếm nguồn tư liệu một cách chính xác và đầy đủ nhất có thể để mô 
tả quá trình hình thành mâu thuẫn, chuẩn bị lực lượng, bùng nổ và đến lúc thất bại hoàn 
toàn với đầy đủ các chi tiết cụ thể và phức tạp, gồm cả những sự kiện tất nhiên lẫn ngẫu 
nhiên, theo đúng thứ tự thời gian như nó đã từng diễn ra. 
Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp lịch sử:      lO M oARcPSD| 45467232
Thứ nhất, tính biên niên: nhà nghiên cứu phải trình bày quá trình hình thành và phát 
triển của sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự của nó như đã diễn ra trong thực tế để thấy 
được tính liên tục trong quá trình vận động, phát triển của nó. 
Thứ hai, tính toàn diện: khi phục dựng quá khứ, nhà nghiên cứu phải khôi phục đầy 
đủ tất cả các mặt, các yếu tố và các bước phát triển của sự vật, hiện tượng, tránh tình trạng 
qua loa, đơn giản thậm chí cắt xén thông tin. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần tránh tình trạng 
liệt kê, chất đống tư liệu, phải biết lựa chọn các tư liệu tiêu biểu, điển hình về các sự vật, 
hiện tượng cần nghiên cứu. 
Thứ ba, tính chi tiết: người nghiên cứu phải bám sát và phản ánh chi tiết quá trình 
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, kể cả các bước phát triển quanh co, thụt lùi 
tạm thời của nó để đảm bảo tính trung thực và phản ánh đúng tiến trình vận động của sự  vật, hiện tượng. 
Thứ tư, tính cụ thể: các sự vật, hiện tượng tồn tại luôn gắn liền với không gian, thời 
gian và con người cụ thể. Do đó, người nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời gian 
xảy ra của sự vật, hiện tượng. 
2. Phương pháp logic 
Trong nghiên cứu khoa học, việc sử dụng phương pháp lịch sử chỉ giúp người nghiên 
cứu dừng lại ở việc phục dựng quá khứ của các sự vật, hiện tượng. Để tìm ra bản chất, quy 
luật vận động và phát triển của chúng, người nghiên cứu cần kết hợp vận dụng phương 
pháp logic và một số phương pháp khác. 
Lịch sử phát sinh, phát triển và tiêu vong của sự vật, hiện tượng luôn quanh co, phức 
tạp, bao gồm cả những yếu tố tất nhiên lẫn ngẫu nhiên. Sự đa dạng, quanh co phức tạp đó 
đã làm cho bản chất, quy luật tất yếu của sự vật, hiện tượng bị “che khuất”. Việc loại bỏ đi 
những yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản để thấy được những cái tất yếu, cơ bản và những 
cái được lặp đi lặp lại,… từ đó làm bộc lộ bản chất, quy luật phát triển khách quan của sự 
vật, hiện tượng là mục tiêu quan trọng của công tác nghiên cứu. 
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu tổng quát các sự kiện, hiện tượng 
lịch sử, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản để làm bộc lộ bản chất, tính tất 
yếu và quy luật vận động và phát triển khách quan của sự kiện, hiện tượng lịch sử 
đang “ẩn mình” trong các yếu tố tất nhiên lẫn ngẫu nhiên phức tạp ấy. 
Nhiệm vụ của phương pháp logic là: “đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái 
lặp lại của các hiện tượng”; … “nắm lấy cái tất yếu, cái xương sống phát triển, tức nắm lấy 
quy luật của nó (sự vật, hiện tượng - TG)”; “nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai đoạn 
điển hình và nắm qua những phạm trù, quy luật nhất định”, từ đó giúp nhà nghiên cứu thấy 
được những bài học và xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. 
Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp logic: 
Thứ nhất, tránh máy móc và định kiến, áp đặt: sự vật hiện tượng vận động theo quy 
luật của nó, chính vì vậy, khi sử dụng phương pháp logic để phát hiện ra quy luật vận động      lO M oARcPSD| 45467232
và phát triển của sự vật hiện tượng, đòi hỏi nhà khoa học phải đi tìm quy luật từ chính quá 
trình vận động phát triển phức tạp của chúng. Có như vậy, người nghiên cứu mới phát hiện 
được cả những quy luật phổ biến lẫn đặc thù (riêng), sự phong phú, đa dạng và phát triển 
đi lên của các sự vật, hiện tượng. 
Cần tránh tình trạng áp đặt những định kiến, những quy luật chung có sẵn để làm 
khuôn mẫu cho việc nhận thức, đánh giá về những đặc điểm, quy luật của các sự kiện hiện  tượng khác nhau. 
Thứ hai, không tách rời khỏi lịch sử: việc nghiên cứu để tìm ra cái phổ biến, bản 
chất, quy luật… của sự vật, hiện tượng phải được tiến hành trên cơ sở khái quát hóa và rút 
ra từ hiện thực. Nghĩa là phải sử dụng phương pháp logic gắn liền với phương pháp lịch 
sử, nếu tách rời phương pháp lịch sử thì nhà khoa học sẽ rơi vào tình trạng suy luận trừu 
tượng thiếu cơ sở, nhận xét chung chung, thậm chí kết luận sai lầm. Đồng thời cũng tránh 
trường hợp chỉ dựa vào vài dữ kiện ít ỏi để khái quát hóa thành quy luật, bản chất của sự  vật, hiện tượng. 
3. Mối quan hệ giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic 
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp khác nhau, nhưng có 
quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình nghiên cứu khoa học. Giải thích tính thống nhất 
giữa hai phương pháp, Ăng-ghen viết: 
Về bản chất, phương pháp logic không phải là cái gì khác là phương pháp lịch sử, chỉ 
có điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn. 
Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó. Và sự vận động tiếp 
tục thêm nữa của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trìu 
tượng và nhất quán về mặt lý luận. Nó là phản ánh đã được uốn nắn lại, nhưng uốn nắn 
theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa có thể xem 
xét mỗi một nhân tố ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn thành 
thục và đạt đến hình thức điển hình. 
Hai phương pháp này giúp nhà khoa học mô tả lịch sử của các sự vật, hiện tượng, từ 
đó đi đến vạch ra bản chất, quy luật phát triển của chúng. Nếu phương pháp lịch sử có 
nhiệm vụ khôi phục bức tranh quá khứ sinh động và phong phú của hiện thực thì phương 
pháp logic sẽ có nhiệm vụ đi tìm cái logic, cái tất yếu bên trong “bức tranh quá khứ” đó để 
vạch ra bản chất, quy luật vận động, phát triển khách quan của hiện thực. 
Hãy nêu các kết quả văn hóa Việt Nam từ công cụ nghiên cứu giao 
lưu – tiếp biến văn hóa 
1, Khái niệm, đặc điểm  2, Liên hệ Việt Nam 
3, Rút ra một vài ưu nhược điểm của công cụ này      lO M oARcPSD| 45467232
Hiện nay, theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ học, nền văn hóa tiền sử cổ xưa nhất trên 
đất nước Việt Nam là văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, niên đại khoảng 21.0 năm 
trước, phân bố ở miền núi, từ Lào Cai ở phía bắc đến Hà Tĩnh, Quảng Trị, Lâm Đồng ở 
phía nam; từ Sơn La ở phía tây đến vùng sông Lục Nam ở phía đông. Kế tiếp là văn hóa 
Hòa Bình thuộc sơ kỳ đồ đá mới, niên đại khoảng 10.000 năm trước, được phát hiện ở 
Hòa Bình, Thanh Hóa, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An, Hà Giang, Ninh Bình, Quảng Bình, 
Quảng Trị, trong đó tập trung nhất tại Hòa Bình và Thanh Hóa. Các bộ lạc chủ nhân của 
văn hóa Hòa Bình chưa biết làm đồ gốm nhưng đã biết trồng rau củ, cây ăn trái và đặc 
biệt là đã biết trồng lúa. Tiếp theo là văn hóa Bắc Sơn thuộc sơ kỳ đồ đá mới, niên đại 
khoảng 8.000 năm trước, được phát hiện ở Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Lạng Sơn, 
Bắc Kạn, Ninh Bình, Quảng Bình... Cư dân văn hóa Bắc Sơn đã biết làm nông nghiệp, 
biết chế tác đồ gốm, và quần cư thành các công xã thị tộc mẫu hệ. Đến khoảng 6.000 năm 
trước, văn hóa Bắc Sơn đã phát triển xuống vùng ven biển. Các di chỉ Đa Bút (Vĩnh Lộc, 
Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An), thuộc giai đoạn văn hóa đá mới có 
gốm, niên đại khoảng 6.0 năm trước, cho thấy chủ nhân của chúng là những người săn 
bắt, đánh cá, biết nặn gốm bằng tay và chưa dùng bàn xoay, biết thuần dưỡng bò, chó, 
bước đầu biết làm nông nghiệp. Các nền văn hóa cổ sơ này đều phân bố khá tập trung ở 
miền núi Tây Bắc - Bắc Trung Bộ và Việt Bắc - Đông Bắc, chứng tỏ đây chính là cái nôi 
văn hóa, nơi khởi tạo các tiền đề cho sự ra đời sau đó của các nền văn hóa thuộc thời đại 
kim khí ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, các nền văn hóa 
khảo cổ này có niên đại quá xa, khó có thể kết nối được với các tộc người đương đại ở  Việt Nam. 
Cũng theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ học, phối hợp với sinh học phân tử, vào 
khoảng 8.000 năm đến 6.000 năm trước, việc thuần dưỡng các giống lúa hoang dại thành 
các giống lúa nước gieo trồng đã diễn ra ở Đông Nam Á. Vùng thuần dưỡng là một khu 
vực hình ô van trải dài từ bang Assam ở Đông Bắc Ân Độ đến bang Shan ở Bắc 
Myanmar, các tỉnh ở Bắc Thái Lan, Bắc Lào, Bắc Bộ Việt Nam, Vân Nam, Quảng Tây 
và Quảng Đông ở Nam Trung Quốc. Từ khu vực ấy, nghề canh tác lúa nước đã lan sang 
Ân Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á... Trên phương diện nhân học, 
vòng cung ô van ấy chính là vùng cư trú nguyên thuỷ của các tộc người thuộc ngữ hệ 
Thái-Ka-đai. Và cho đến ngày nay, các tộc người tách ra từ tổ tiên Thái-Ka-đai ấy vẫn là 
những cư dân trồng lúa nước xuất sắc nhất, đặc biệt là trong môi trường các thung lũng, 
cao nguyên nhiệt đới và cận nhiệt đới. 
Trên lãnh thổ Việt Nam, tư liệu khảo cổ học cho biết trong giai đoạn văn hoá hậu kỳ đá 
mới, được phát hiện ở Lạng Sơn, Hà Tây, Phú Thọ, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, 
Tây Nguyên và Nam Bộ, niên đại khoảng hơn 4.000 năm trước, nhiều bộ lạc đã lấy nông 
nghiệp lúa nước làm hoạt động kinh tế chủ yếu, và họ đã bắt đầu định cư trong các xóm 
làng. Như vậy, ở thời điểm hơn 4.000 năm trước, nền văn hoá nông nghiệp lúa nước đầu 
tiên ở Việt Nam đã được khai sinh. Tuy nhiên, những nông dân trồng lúa trong thời kỳ      lO M oARcPSD| 45467232
đầu chưa thể chiếm lĩnh đồng bằng, vì theo tư liệu địa chất học, cách ngày nay từ 6.000 - 
4.000 năm đã diễn ra thời kỳ biển tiến Holocene giữa, nước biển dâng cao hơn hiện nay 
3m - 4m và lan sâu vào đất liền. Điều đó giải thích tại sao trên các đồng bằng châu thổ 
thấp ở Việt Nam không có dấu tích của một nền văn hóa nào được tạo thành trong thời kỳ 
biển tiến này, mặc dù trước đó cư dân của văn hóa Bắc Sơn đã từng hiện diện ở vùng ven  biển. 
Nhưng đến khoảng 4.000 năm trước, văn hóa Phùng Nguyên, thuộc hậu kỳ đồ đá mới và 
sơ kỳ đồng thau, đã nở rộ trên khắp vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, với các di chỉ 
được phát hiện ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải 
Phòng. Chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên là những bộ lạc trồng lúa nước đã đạt đến 
trình độ cao trong kỹ thuật chế tác đồ đá và biết luyện đồng. Các bộ lạc này theo chế độ 
công xã nguyên thủy, thường sống trên những khu đất cao, những đồi gò gần sông nước, 
trồng lúa nước, nuôi trâu, bò, heo, gà, làm đồ gốm bằng bàn xoay... Những phát hiện này 
chứng tỏ, nền nông nghiệp lúa nước ra đời trên các thung lũng của tỉnh Hòa Bình đã theo 
đà biển thoái và theo các dòng sông để nhanh chóng phát triển xuống đồng bằng châu thổ 
ngay khi quá trình biển thoái bắt đầu ở thời điểm 4.000 năm trước. 
Nhưng chủ nhân của văn hóa Bắc Sơn và văn hóa Phùng Nguyên là tộc người nào? 
Như lịch sử về sau cho thấy, chủ nhân của kỹ thuật canh tác lúa nước ở Hòa Bình và ở 
đồng bằng Bắc Bộ trong những thời đoạn ấy cũng như sau này. Không phải là cư dân 
Thái-Ka-đai, lại càng không phải là cư dân Môn - Khmer vốn chỉ biết săn câu lượm hái 
và nương rẫy núi cao. Vậy, những cư dân đó là ai? Đó là một câu hỏi lớn của lịch sử mà 
nếu hóa giải được thì mới hóa giải được cội nguồn của tộc Việt và văn hóa Việt. Vì vậy, 
một số giả thuyết đã được nêu ra, nhưng do thiếu chứng lý, chẳng có mấy giả thuyết thật 
sự thuyết phục được các nhà khoa học. 
Phải đến giữa thập niên 1970, sau khi thống nhất đất nước, các nhà khoa học có điều kiện 
thâm nhập vào địa bàn rừng núi Trung Lào và vùng núi Trường Sơn, nghiên cứu văn hóa 
và ngôn ngữ của các tộc người Môn - Khmer và Việt - Mường ở đó, giới Khoa học xã hội 
Việt Nam mới có được những câu trả lời thuyết phục hơn. Năm 1976, nhà khảo cổ học 
Hà Văn Tấn đã đưa ra giả thiết đầu tiên [11] theo đó cư dân văn hóa Phùng Nguyên có 
thể là kết quả hợp nhất một số bộ lạc tiền Việt - Mường với các bộ lạc Tày cổ: “Tiếng 
Chứt ở Tây Quảng Bình và tiếng Poọng ở Tây Nghệ Tĩnh là những đảo ngôn ngữ còn lại 
từ một khối tiền Việt - Mường ngày xưa phân bố rất rộng ở miền khu Bốn cũ và có thể cả 
một phần vùng Tây Trường Sơn. Cư dân tiền Việt - Mường này có khả năng là chủ nhân 
của những di tích hậu kỳ đá mới hay sơ kỳ kim khí có nét gần gũi với văn hóa Phùng 
Nguyên. Chính một số bộ lạc tiền Việt - Mường này đã thiên di ra phía bắc khi đồng 
bằng Bắc Bộ còn ngập nước. Tại vùng trung du ven đồng bằng, các bộ lạc này đã tiếp xúc 
với các bộ lạc Tày cổ bấy giờ phân bố rất rộng quanh vịnh Hà Nội.      lO M oARcPSD| 45467232
Ngôn ngữ tiền Việt - Mường dần dần chuyển hóa thành ngôn ngữ Việt Mường chung. Có 
lẽ ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày Thái là một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình  chuyển hóa đó”. 
Đến năm 1978, Hà Văn Tấn đã phối hợp với nhà dân tộc - ngôn ngữ học Phạm Đức 
Dương để đưa ra một giả thuyết chung, dựa trên chứng lý của ngôn ngữ học, khảo cổ học 
và thư tịch cổ [12]. Theo giả thuyết của Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương, tổ tiên ban đầu 
của tộc Việt là cư dân tiền Việt - Mường, một nhóm cư dân theo văn hóa Môn - Khmer 
miền núi, chuyên về săn câu lượm hái và nương rẫy. Ngôn ngữ của họ là tiếng tiền Việt - 
Mường, thuộc ngữ hệ Nam Á. Cho đến ngày nay, nhóm Katuic tách ra từ Proto ViệtKatu, 
cư trú ở vùng núi Trung Lào và vùng núi Trường Sơn của Việt Nam, gồm Brũ, 
Ta’ioh, Katu, vẫn còn giữ truyền thống văn hóa đó. Khi di thực từ vùng núi trung tâm 
Đông Dương đến vùng Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ Việt Nam, cư dân tiền Việt - 
Mường đã tiếp xúc với nhóm cư dân Tày cổ, cư trú ở vùng núi và trung du quanh vịnh Hà 
Nội (đồng bằng Bắc Bộ ngày nay). Quá trình này bắt đầu từ 2.000 năm trước Công 
nguyên, tương ứng với giai đoạn mở đầu của thời đại Hùng Vương trong truyền thuyết 
của tộc Việt. Từ xuất phát điểm là văn hóa mưu sinh dựa vào săn câu lượm hái và nương  rẫy, cư dân tiền Việt 
Mường đã tiếp biến văn hóa của người Tày cổ để phát triển nền nông nghiệp lúa nước 
trong thung lũng và đồng bằng châu thổ. Quá trình tiếp biến đó dẫn đến kết quả là hình 
thành cư dân Việt - Mường. Ngôn ngữ của họ là tiếng Việt - Mường chung. 
Trung tâm của khu vực tiếp xúc giữa người tiền Việt - Mường với người Tày cổ có thể là 
địa bàn tỉnh Hòa Bình, nơi hiện có 501.956 người Mường cư trú trên tổng dân số toàn 
tỉnh 785.217 người, bên cạnh 207.557 người Việt, 23.089 người Tày. Đó cũng có thể là 
địa bàn tỉnh Phú Thọ, đất tổ của người Việt, nơi hiện có 1.108.991 người Việt cư trú trên 
tổng dân số toàn tỉnh 1.316.389 người, bên cạnh 184.141 người Mường, 3.526 người Tày 
(2009). Trong ngôn ngữ và văn hóa của người Mường, người Việt hôm nay, vẫn còn 
những dấu ấn đậm đà của cả ngôn ngữ, văn hóa Môn - Khmer và Tày - Thái. Trong đó 
yếu tố Môn Khmer là nền tảng ban đầu, mà Phạm Đức Dương gọi là “cơ tầng”; còn yếu 
tố Tày - Thái là sự bổ sung nội dung và sự định dạng lại hình thức về sau, mà Phạm Đức 
Dương gọi là “cơ chế”. 
Nhờ tích hợp được cả hai truyền thống nông nghiệp núi cao và nông nghiệp thung lũng 
của hai cộng đồng tổ tiên, cư dân Việt - Mường rất thuận lợi trong việc đổi mới văn hóa 
mưu sinh của mình để đến thời điểm hơn 4.000 năm trước, khi quá trình bồi tụ đồng bằng 
bắt đầu thì họ đã nhanh chóng đem cây lúa đến gieo trồng trên những dải phù sa, xác lập 
nền văn minh sông Hồng, văn minh nông nghiệp lúa nước. Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc 
Trung Bộ thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, là vùng đất màu mỡ, được hình thành do sự bồi 
đắp phù sa của các hệ thống sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Trong đó, lớn nhất là lượng 
phù sa của sông Hồng, vừa bồi đắp cho châu thổ, vừa giúp cho cư dân Việt ở vùng duyên      lO M oARcPSD| 45467232
hải có thể liên tục quai đê lấn biển để mở rộng đất đai. Điều kiện tự nhiên như vậy rất 
thích hợp để phát triển nông nghiệp lúa nước, nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn 
cho những người khai phá, đó là giông bão và lũ lụt trên diện rộng. Cho nên, cư dân Việt 
- Mường không thể đơn giản dùng mãi những thành tựu tiếp biến từ văn hóa Tày cổ mà 
dứt khoát phải sáng tạo thêm những kỹ thuật, phương tiện mới để chinh phục đồng bằng, 
như truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh của người Việt đã thể hiện. 
Trên cơ sở vừa tiếp biến vừa sáng tạo, cư dân Việt - Mường đã lần lượt phát triển các nền 
văn hóa nối tiếp nhau liên tục trên địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc Trung 
Bộ: văn hóa Phùng Nguyên được nối tiếp bởi văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ thời đại 
đồng thau, niên đại khoảng 3.070 năm trước; văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ thời đại đồng 
thau, niên đại khoảng 3.045 năm trước; và văn hóa Đông Sơn thuộc thời đại đồ sắt, niên 
đại khoảng 2.820 năm trước cho đến đầu Công nguyên. Trong văn hóa Đông Sơn, kỹ 
thuật và nghệ thuật chế tác đồ đồng đã đạt đến mức hoàn hảo, và đã có nghề luyện sắt với 
những hiện vật bằng sắt như cuốc, mai, thuổng, mũi tên. 
Thời kỳ văn hóa Đông Sơn là thời kỳ văn hóa Việt - Mường đạt tới những đỉnh cao rực rỡ 
về phát triển nông nghiệp lúa nước trên đồng bằng châu thổ, về luyện kim đồng - sắt, về 
tổ chức cộng đồng làng - nước, về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, về ý thức tộc người. Vào 
khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, trên cơ sở nền nông nghiệp lúa nước và kỹ 
thuật kim khí đồng - sắt phát triển, cư dân Việt - Mường đã xây dựng nên nhà nước Văn 
Lang, nhà nước đầu tiên ở Đông Nam Á, tọa lạc trên địa bàn trung du và đồng bằng 
Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ và vùng cao Đông Bắc lên đến một phần tỉnh Quảng Tây của 
Trung Quốc ngày nay. Năm 258 trước Công nguyên, nhà nước này được tiếp nối bằng 
nhà nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán thành lập. Nhờ các thành tựu kỹ thuật 
kim khí đồng - sắt, cư dân Việt - Mường đã có thể mưu sinh, xây dựng nhà nước và bảo 
vệ lãnh thổ tộc người hiệu quả hơn. Truyền thuyết thần Kim Quy của người Việt cho thấy 
mũi tên đồng và nỏ liên châu của nhà nước Âu Lạc đã gây trở ngại cho Triệu Đà như thế 
nào khi ông ta triển khai kế hoạch mở rộng địa bàn, thành lập quốc gia riêng ở phương 
Nam nhân cơ hội nhà Tần sụp đổ. Nhưng đến năm 208 trước Công nguyên, Âu Lạc đã bị 
sát nhập vào Nam Việt, và đến năm 111 trước Công nguyên thì Nam Việt bị sát nhập vào 
đế quốc Hán, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. 
Trong thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN - 938 SCN), vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ - 
Bắc Trung Bộ là nơi cư dân Việt - Mường tiếp xúc thường xuyên và tiếp biến mạnh mẽ 
văn hóa Hán. Tích Quang, Nhâm Diên truyền bá phong tục hôn nhân. Sĩ Nhiếp mở 
trường dạy học... Quá trình đồng hóa cưỡng bức này đi đôi với quá trình đồng hóa tự 
nhiên của di dân người Hán ở Giao Chỉ Bộ - Giao Châu. Từ đó, cư dân Việt - Mường bắt 
đầu tiếp thu tam giáo. Tuy xu hướng chống Hán hóa và Việt hóa các ảnh hưởng văn hóa 
Trung Hoa rất mạnh, nhưng theo thời gian, những biến đổi sâu sắc về văn hóa vẫn xảy ra, 
khiến cho văn hóa Việt - Mường ở vùng này dần dần cởi bỏ nốt các đặc trưng văn hóa      lO M oARcPSD| 45467232
Môn - Khmer, khoác lên những đặc trưng của văn hóa Hán. Do các lỵ sở hành chính, 
trung tâm giáo dục của Giao Chỉ Bộ - Giao Châu đều bố trí ở đồng bằng Bắc Bộ, nên 
những biến đổi này diễn ra ở Bắc Bộ nhanh hơn ở Bắc Trung Bộ, ở trung du và đồng 
bằng nhanh hơn ở miền núi. Do những biến đổi về văn hóa đó, từ khoảng thế kỷ VI đến 
thế kỷ XII, tiếng Việt cổ đã hình thành thanh điệu [3, tr.23 - 31], và từ khoảng thế kỷ VIII 
đến thế kỷ X, tiếng Việt - Mường chung đã tự phân ly thành tiếng Việt, tiếng Mường. 
Ngôn ngữ đã chia tách thì bộ phận Việt - Mường ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc 
Trung Bộ cũng tự chia tách thành người Việt. Trong khi đó, bộ phận Việt - Mường ở 
miền núi từ Hòa Bình đến Thanh Hóa chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán ít hơn, và từ thế 
kỷ thứ VII lại chịu ảnh hưởng của văn hóa Thái (từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIV, người 
Thái đã di dân vào Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ), nên chuyển biến thành người 
Mường. Khi người Việt giành lại độc lập và tái lập nhà nước, địa bàn của họ chỉ giới hạn 
ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ, và họ phải mất nhiều công sức để có 
thể thiết lập mối liên minh với Mường và Tày là những tộc người cận cư có cùng cội  nguồn văn hóa. 
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX, do nhu cầu xây dựng và củng cố chế độ phong kiến, 
Nho giáo và văn hóa Hán đã ngày càng thâm nhiễm vào văn hóa Việt, đặc biệt là trong 
các tầng lớp quan lại và nho sĩ. Trong thời kỳ này, ý thức đối kháng bất khuất và thường 
trực trước nguy cơ xâm lăng từ phong kiến Trung Hoa giảm đi tương đối, và do nhu cầu 
thiết lập ý thức hệ chính thống và củng cố thể chế quốc gia, xu hướng du nhập văn hóa 
Trung Hoa ngày càng mạnh dần lên. Trong các triều Lý - Trần (1009 - 1400), Phật giáo 
vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm, kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo thành tam giáo đồng quy. 
Trong thời Hậu Lê (1428 - 1527) và sơ Nguyễn (1802 - 1883), Nho giáo được độc tôn, 
trở thành ý thức hệ chính thống và tôn giáo chính thống của các tầng lớp trên trong xã  hội. 
Cũng trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVII, lãnh thổ Đại Việt dần dần mở 
rộng đến Bình Định (1471) và Bình Thuận (1693). Di dân người Việt đến định cư trên 
vùng đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ hầu hết đều có nguồn gốc từ Bắc Trung Bộ. Từ 
đó, vùng văn hóa Trung và Nam Trung Bộ đã hình thành trên cơ sở kế thừa các đặc điểm 
của văn hóa Bắc Trung Bộ và tiếp biến các đặc điểm của văn hóa Chăm. Ảnh hưởng của 
văn hóa Chăm đối với văn hóa Việt ở Trung và Nam Trung Bộ đặc biệt rõ rệt ở ba nhóm 
hoạt động văn hóa là văn hóa mưu sinh, văn hóa tín ngưỡng - phong tục - lễ hội và văn 
học, nghệ thuật. Một số ảnh hưởng của văn hóa Chăm cũng đã ngược đường ra Bắc, 
khiến cho văn hóa Việt trong thời tự chủ có thêm các yếu tố Chăm. Từ thế kỷ XVII đến 
thế kỷ XVIII, khi lãnh thổ Đại Việt tiếp tục mở rộng đến hết vùng đất Nam Bộ ngày nay, 
thì di dân người Việt đến định cư trên vùng đồng bằng Nam Bộ hầu hết đều có nguồn gốc 
từ vùng “Ngũ Quảng”, tức Quảng Bình - Quảng Trị - Quảng Đức - Quảng Nam - Quảng 
Ngãi, mà đông đảo nhất là bộ phận người Việt cư ngụ ở Nam Trung Bộ, liền kề với Nam 
Bộ. Từ đó, văn hóa Việt ở Trung và Nam Trung Bộ đã mở rộng địa bàn đến Nam Bộ, tiếp      lO M oARcPSD| 45467232
biến thêm một số đặc điểm của văn hóa Hoa, văn hóa Khmer để hình thành vùng văn hóa  Nam Bộ. 
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, văn hóa Việt đã tiếp xúc với văn hóa Pháp và 
biến đổi mạnh mẽ theo chiều hướng Âu hóa cả về vật chất, tinh thần. Trong thời kỳ này, 
Nho giáo được nhà Nguyễn đưa lên địa vị độc tôn nhưng ngày một suy tàn, trở thành lực 
cản phát triển và là một nguyên nhân khiến cho đất nước mất độc lập về tay Pháp. Giai 
đoạn đầu thời Pháp thuộc, dân ta chống Âu hóa và cố gắng Việt Nam hóa ảnh hưởng của 
phương Tây. Chúng ta đều biết, thứ văn tự gọi là chữ Quốc ngữ mà ngày nay chúng ta vô 
cùng quý trọng, vào cuối thế kỷ XIX đã từng được giới giáo sĩ và thực dân sử dụng làm 
công cụ phục vụ mục tiêu truyền giáo và mưu đồ nô dịch. Chính vì thế nên nó không thể 
nào phổ biến được trong nhân dân và giới sĩ phu yêu nước, mặc dù thực dân Pháp rất tích 
cực thực hiện chủ trương bãi bỏ chữ Hán và nền Hán học ở ba miền, thiết lập các trường 
Pháp - Việt. Tình hình đó kéo dài suốt 40 năm kể từ khi tờ báo có sử dụng chữ Quốc ngữ 
đầu tiên là tờ Gia Định Báo ra đời năm 1865. Nhưng từ đầu thế kỷ XX, với phong trào 
Duy Tân - Đông Du (1905 - 1908) và các trào lưu văn học, nghệ thuật sau đó, văn hóa 
Việt Nam đã chủ động hội nhập với văn hóa phương Tây để hiện đại hóa, tự cường, thoát 
ly khỏi vòng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Trong quá trình giao lưu văn hóa với 
phương Tây, cư dân Việt đã tiếp thu những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh 
thần để bổ sung vào hành trang văn hóa, và những yếu tố ấy đều được Việt hóa ở những 
mức độ khác nhau trong quá trình du nhập. Tiêu biểu là những sản phẩm văn hóa gốc 
phương Tây hoặc có ảnh hưởng của phương Tây như chữ Quốc ngữ, trường học kiểu 
phương Tây, nhà in, báo chí, tiểu thuyết, thơ mới, Âu phục, áo dài... Có thể nói, “xác” 
của chúng từ phương Tây lại, nhưng chúng đã được cải biến để dung hợp với văn hóa 
truyền thống của Việt Nam và được sử dụng vì lợi ích phát triển của Việt Nam, cho nên 
“hồn” của chúng là của Việt Nam, và chúng được người Việt Nam vui lòng đón nhận. Kể 
từ chặng đường này, văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam đã chuyển sang quỹ đạo hiện đại 
hóa, hội nhập với văn hóa phương Tây và thế giới. 
3. Dấu ấn của tiếp biến văn hóa trong tiếng Việt, tiếng Mường 
Tất cả những chặng đường giao lưu tiếp biến văn hóa đó đều đã để lại dấu ấn sâu sắc 
trong ngôn ngữ. Quá trình tiếp xúc ngôn ngữ đi đôi với quá trình giao lưu tiếp biến văn 
hóa với các nền văn hóa bản địa và ngoại lai, đã làm cho tiếng Việt, tiếng Mường và các 
ngôn ngữ tộc người khác ở Việt Nam biến đổi rất sâu xa. 
Ngày nay, về mặt ngữ âm, tiếng Việt, tiếng Mường đã biến đổi các phụ âm cuối, hình 
thành thanh điệu và rơi rụng các âm tiết phụ của thời Môn - Khmer. Riêng tiếng Việt hiện 
đại còn rơi rụng các tổ hợp phụ âm đầu (bl, tl), và tiếp nhận nhiều phụ âm đầu đơn và 
kép: p, br, bl, cl, st,.. (đèn pin, brôm, blu-dông, clor, Sta-lin...); nhiều phụ âm cuối: -r, -l 
(clor, pa-ra-bol...); nhiều vần: oong, ooc, ec (cái xoong, quần soọc, séc... ) gốc Pháp.      lO M oARcPSD| 45467232
Về từ vựng, tiếng Việt, tiếng Mường đã tiếp nhận vô số từ ngữ gốc Tày, gốc Hán. Riêng 
tiếng Việt hiện đại (đặc biệt là phương ngữ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ), còn tiếp nhận 
rất nhiều từ ngữ gốc Chăm, gốc Hoa, gốc Khmer, gốc Pháp, với những biến thể khác 
nhau ở những phương ngữ khác nhau. Đến mức lớp từ ngữ gốc Môn - Khmer trong tiếng 
Việt trở thành thiểu số và cũng đã bị biến đổi rất xa cả về thanh, âm và nghĩa. Đổi lại, 
tiếng Việt cũng trở nên phong phú và có khả năng dung hợp rất cao giống như văn hóa 
Việt. Đối với các từ ngữ ngoại lai, người Việt có thói quen Việt hóa chúng, và những từ 
ngữ vay mượn được sử dụng lâu đời cũng được người Việt cảm nhận như là “từ thuần  Việt”. 
Về ngữ pháp, mặc dù đây là bộ phận bền vững nhất của một ngôn ngữ, ít thay đổi so với 
ngữ âm và từ vựng, tiếng Việt và tiếng Mường vẫn bị rơi rụng các phụ tố tạo từ của thời 
Môn - Khmer. Riêng tiếng Việt còn vay mượn nhiều cách diễn đạt của tiếng Hán, nhiều 
kết từ gốc Hán (càng, do, tại, tuy, tuy nhiên, và, vì...) hình thành các phụ tố tạo từ gốc 
Hán Việt (vôi hóa, amper kế, siêu phẳng, vi sóng...) và đến thời cận đại thì vay mượn 
nhiều cách diễn đạt của tiếng Pháp, hình thành các thể loại thơ, văn hiện đại với cấu trúc 
cú pháp và phong cách chức năng phức tạp.  4. Kết luận 
Như vậy, từ cội nguồn đầu tiên là văn hóa Môn - Khmer chuyên về nương rẫy và săn câu 
lượm hái, cư dân tiền Việt - Mường đã tiếp biến văn hóa của người Tày cổ để phát triển 
nền nông nghiệp lúa nước trong thung lũng và đồng bằng châu thổ. Tiếp đó, họ tiếp biến 
văn hóa của người Hán, người Thái và chuyển biến thành hai tộc người cư trú liền kề, 
chia nhau chiếm lĩnh phần lớn địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Khi người 
Việt tái lập nhà nước, mở rộng địa bàn vào Nam, văn hóa Việt đã tiếp biến với văn hóa 
Chăm, Hoa, Khmer. Khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, văn hóa Việt lại biến đổi mạnh mẽ 
theo chiều hướng Âu hóa và hội nhập với phương Tây. Và văn hóa Việt biến đổi thì văn 
hóa Việt Nam biến đổi, vì người Việt là tộc người đa số, là chủ thể chính của văn hóa 
Việt Nam. Bốn chặng đường biến đổi lớn trong lịch sử đã làm cho văn hóa Việt và văn 
hóa Việt Nam tách khỏi cội nguồn của nó rất xa. Tuy nhiên, chính nhờ đó mà sức mạnh 
tinh thần và vật chất của văn hóa Việt Nam đã được đổi mới và được vun bồi những yếu 
tố cần thiết để cho nó có thể thích ứng với những bối cảnh và thách thức mới. Có thể nói, 
sở dĩ tộc người Việt có được một sức sống bền bỉ và mãnh liệt trong cuộc đấu tranh sinh 
tồn với tự nhiên và xã hội suốt ngần ấy thời gian, là nhờ có nội lực tự thân và nhờ có sự 
tiếp sức của các nền văn hóa cùng nguồn cội hoặc tương đồng về cấu trúc, nội dung của  các tộc người anh em. 
Nhờ có nội lực văn hóa mạnh, tích hợp từ các tộc người cộng cư, tộc người Việt đã chủ 
động tiếp thu, cải biến các yếu tố văn hóa ngoại sinh để làm giàu hành trang, vốn liếng 
văn hóa của mình, để phát triển và bảo vệ quốc gia dân tộc. Đó cũng là một quy luật cụ 
thể của tiếp biến văn hóa ở Việt Nam như Vũ Khiêu khẳng định: “Dù được thâm nhập      lO M oARcPSD| 45467232
vào Việt Nam do thuyết phục hay cưỡng bức, thì văn hóa của kẻ xâm lược cũng chỉ có 
thể tồn tại, khi nó tuân theo quy luật phát triển bên trong của nền văn hóa Việt Nam, được 
Việt Nam hóa và mang sắc thái riêng của dân tộc Việt Nam. Đó là vì Việt Nam đã vốn có 
một nền văn hóa lâu đời tạo nên được những giá trị tinh thần và một hệ tư tưởng vững 
chắc. Tình hình này đã khiến cho những giá trị văn hóa được du nhập từ ngoài vào đều 
phải thông qua sự lựa chọn của người Việt Nam. Những gì không thích hợp thì sẽ bị đẩy 
ra. Những gì thích hợp thì được chấp thuận và cải tạo lại. Thái độ đó là yếu tố cơ bản tạo 
thành sức mạnh lớn lao thể hiện sức sống bất diệt của bản sắc dân tộc Việt Nam qua mọi  thử thách”  Tham khảo: 
Toàn cầu hóa hiện nay không chỉ là xu thế, mà đã trở thành một dòng thác lôi cuốn 
mọi quốc gia - dân tộc, tác động rất lớn đến cấu trúc truyền thống văn hóa Việt Nam là nhà 
- làng - nước. Trong xu thế đó, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức luôn đan xen 
nhau, văn hóa Việt Nam có điều kiện giao lưu, trao đổi, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn 
hóa thế giới, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, trong xu thế đó, giá 
trị bản sắc văn hóa Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức, nhất là bản sắc văn hóa dân tộc 
dễ bị hòa tan trong quá trinh giao lưu và tiếp biến văn hóa. Vậy, bằng cách nào văn hóa 
Việt Nam vừa kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân 
loại đê làm phong phú hơn bân sắc văn hóa, vừa không đánh mất giá trị bản sắc văn hóa 
trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế? 
Trước hết chúng ta cần phải làm rõ công cụ giao lưu – tiếp biến văn hóa là như thế  nào? (Nêu khái niệm) 
 Giao lưu và hội nhập về văn hóa với nước ngoài là một nhân tố quan trọng góp phần 
làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc, thông qua đó nền văn hóa Việt Nam có cơ hội tiếp 
thu, chắt lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, trong quá trình đó đã nảy 
sinh nhiều yếu tố tiêu cực, thách thức sự tồn tại và phát triển của bản sắc văn hóa dân tộc. 
Đó là, lệch pha về văn hóa giữa các thế hệ trong một gia đình, trong cộng đồng dân cư và 
toàn xã hội, mất cân bằng trong sáng tạo và hưởng thụ thành quả văn hóa, chênh lệch văn 
hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi trong một quốc gia và làm 
gia tăng áp lực giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc giữa các nước với nhau, giữa các nền văn 
hóa trong cùng một quốc gia. Tuy nhiên, khi nhắc đến khó khăn, thách thức không có nghĩa 
là chúng ta kín cổng cao tường và từ bỏ con đường hội nhập quốc tế, ngược lại phải tích 
cực và chủ động hội nhập quốc tế và xử lý tốt các mối quan hệ bong giao lưu và tiếp biến 
văn hóa, nhất là giừ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo 
tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, 
lỗi thời bong văn hóa tư tưởng, phong tục, tập quán, lề thói cũ. Truyền thống văn hóa dân 
tộc có những đặc điểm mang tính tích cực của thời điểm này, nhưng ở thời điểm khác lại 
không còn phù họp, có những nội dung được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, song      lO M oARcPSD| 45467232
cũng có những yếu tố mang tính lồi thời, không còn phù họp cần sớm được gạt bỏ. Một 
nền văn hóa một khi đánh mất bản sắc vốn có của mình, chăng khác nào một người không 
có thần sắc, vì bản sắc văn hóa là phần hồn của dân tộc. Vì vậy, chủ thể văn hóa phải biết 
ứng xử hài hòa để văn hóa Việt Nam không cự tuyệt các giá trị văn hóa bên ngoài theo lối 
cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất mình bong quá 
trình hội nhập, văn hóa phải thể hiện được khí phách của dân tộc và khắng định sức mạnh 
của mình trước những tác động của dòng chảy văn hóa. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của 
Đảng khẳng định: “Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học nghệ 
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thê giới. Mở rộng, nâng cao chât lượng, hiệu quả 
hoạt động thông tin đối ngoại, họp tác quốc tế bong lĩnh vực vãn hóa, báo chí, xuất bản. 
Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng 
bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa 
của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công 
chúng Việt Nam”5. Xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa ngày càng bở nên sâu rộng, 
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đang đối mặt trực tiếp với những 
thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của vận mệnh dân tộc. Biểu hiện của xu thế đó 
là: Thứ nhất, xuất hiện những mâu thuẫn đối với sự hội nhập văn hóa, đồng thời tạo ra 
nhiều mâu thuẫn về đạo đức, giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng,... Vì mỗi quốc gia - dân 
tộc thường có khuynh hướng muốn bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa mang tính truyền thống 
của dân tộc mình, chống lại sự xâm nhập, áp đặt, đồng hóa của các nền văn hóa khác. Thứ 
hai, tiến trinh toàn cầu hóa văn hóa là mối đe dọa hiện hữu về khả năng đánh mất bản sắc 
văn hóa dân tộc. Trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, sự lạc hậu yếu kém, phụ 
thuộc về kinh tế sẽ biến các nước đang phát triển dễ trở thành cái bóng của các nước phát 
triển. Do nắm ưu thế về kinh tế, khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sản xuất sản 
phẩm văn hóa nên các nước phát triển đang muốn áp đặt các giá trị văn hóa của mình đối 
với toàn thế giới, cơ hội toàn cầu hóa mang lại cho các nước không hoàn toàn như nhau, 
với các nước nghèo và kém phát triển thì toàn cầu hóa sẽ mang lại nhiều thách thức hơn so 
với cơ hội. ĩ/?b ba, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt nền văn hóa dân tộc trước 
những thách thức và nguy cơ bất ổn, đó là khuynh hướng mô tip văn hóa chung toàn cầu, 
khuynh hướng đó có thể dẫn đến sự đồng nhất các giá trị văn hóa, san bằng bản sắc văn 
hóa của các dân tộc. Quá trình toàn cầu hóa có thể dần đến nguy cơ đồng nhất các hệ thống 
giá trị, làm cạn kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa. Xu hướng toàn cầu hóa có thể 
gây phương hại tới tính sáng tạo và đa văn hóa của thế giới, tạo ra sự đồng nhất nghèo nàn 
về văn hóa. Thứ tư, chủ nghĩa đế quốc văn hóa hiện đại mang tính toàn cầu về quy mô và 
luôn vẻ trung tính, trong đó cái chung phô quát được dùng 63 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI 
làm vỏ bọc, che đậy nhùng biêu tượng, mục tiêu và lợi ích cua chủ nghĩa đế quốc; thứ năm, 
truyền thông đại chúng, đặc biêt là truyền hình đang len lỏi vào tận phòng ăn, giường ngủ 
của từng hộ gia đình, tác động cả từ trong ra, từ dưới lên, từ trên xuống, từ ngoài vào, từng 
bước tác làm thay đổi nhận thức về bản sắc văn hóa dàn tộc không chỉ ở tầng lớp tinh hoa 
của xã hội, mà còn tác động đến toàn bộ cộng đồng dân cư. Vì vậy. Dominique Wolton đã 
rất có lý khi nhìn nhận về vai trò trung tâm của bản săc văn hóa Uong tiến trình toàn cầu      lO M oARcPSD| 45467232
hóa văn hóa: “Toàn cầu hóa có những tác động khác nhau tùy theo lĩnh vực thực tế. Toàn 
cầu hóa, trong mối liên quan đến văn hóa theo nghĩa rộng, đã tạo nên sự mất cân bằng mọi 
bản sắc. Đồng thời làm cho bất binh đăng trở nên dễ nhận biết hon và nhấn mạnh vai trò 
của tính hiện đại. Tiếp theo sự lôi cuốn của việc mở cửa là sự xuất hiện của nhu cầu tìm lại 
những gì làm nên ý nghĩa: bản sắc văn hóa lúc này trở thành một hiện tượng trung tâm”6. 
Vì vậy, trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa đối với Việt Nam cần lưu ý một số 
vấn đề sau: thứ nhất, cần gắn kết giao lưu và tiếp biến văn hóa với chính sách đối ngoại 
song phương và đa phương; thứ hai, giao lưu và tiếp biến văn hóa cần được nhận thức đây 
đủ và toàn diện trong mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị và văn hóa. Văn kiện Đại hội lần 
thứ XIII của Đảng khắng định: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triên kinh tế với phát 
triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.