“Vấn đề bản chất con người theo quan điểm triết học Mac-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” | Trường Đại học Đồng Tháp

“Vấn đề bản chất con người theo quan điểm triết học Mac-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” | Trường Đại học Đồng Tháp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 19 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC
LỚP: QLGD-A1K12
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN : “Vấn đề bản chất con người theo quan điểm triết
học Mac-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”
ĐẶNG THỊ KIM THÙY
NGUYỄN VĂN TUẤN
PHAN THANH TÙNG
HỒ NHƯ Ý
ĐỒNG THÁP, NĂM 2023
HỌ TÊN HỌC VIÊN NHÓM 4:
MỞ ĐẦU:
Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, bản
những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc triết học duy vật trước
Mác coi con người một thực thể tự nhiên thực thể hội. Song họ cũng không
vượt qua tính chất siêu hình thậm chí còn duy tâm. Bởi họ đã quy đặc trưng
bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc
thuộc tính hội, không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn hội.Trong
hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên, là sự kết
hợp tinh thần thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một cách vĩnh cửu
mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được những
thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao tính, xác lập các giá trị
nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính những tiền đề ý
nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mácxít.
NỘI DUNG
nhiều quan điểm khác nhau về con người bản chất của con người, song
nhìn chung lại quan điểm của CM Mác Lênin về con người bản chất của con
người được biểu hiện một cách toàn diện, đầy đủ nhất. Điều này đã được chứng minh
trong thực tiễn được Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng trong quá trình xây
dựng con người mới XHCN và đạt được nhiều thành tựu nhất định.
I. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con người.
1. Con người và bản chất con người:
a) Khái niệm về con người:
là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất Con người
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại phát triển của con
người chính giới tự nhiên. vậy, bản tính tự nhiên một trong những phương
diện bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học
về cấu tạo tự nhiên nguồn gốc tự nhiên của con người sở khoa học quan
trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình
trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
b) Bản tính tự nhiên của con người:
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Thứ nhất, con người kết quả tiến hóaphát triển lâu dài của giới tự nhiên.
Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ
nghĩa duy vậtkhoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa
của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng là “ thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và
tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn
tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con
người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người
luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây
chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn
tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại
khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là
"người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng
đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất
định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính
đặc thù của con người.
c) Bản tính xã hội của con người:
- Bản tính hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây:
Một là, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không
phải chỉ nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên nguồn
gốc hội của nó, trước hết bản nhất nhân tố lao động. Chính nhờ lao
động con người khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa phát triển
thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó
thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người tất cả các học thuyết
trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại phát triển của con người, loài người thì sự tồn
tại của luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố hội các qui luật hội. hội
biến đổi thì mỗi con người cũng do đó cũng sự thay đổi tương ứng ngược
lại, sự phát triển của mỗi nhân tiền đề cho sự phát triển của hội. Ngoài mối
quan hệ hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với cách một thực thể sinh vật
thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống
nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên
khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính
nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản
tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất
định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người:
a. Con người là thực thể sinh vật – xã hội:
Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả
các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một
thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái
sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không
bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa
rằng con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải
“đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng không
được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh
tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một
thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những
phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận
của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người,… đời sống thể
xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên” . Về phương diện thực thể
sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật
sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể
biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây
chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh
học khác. Về mặt thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới
hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v… . Bằng hoạt động thực tiễn con
người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống
nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con
người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên
mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp
luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu
phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã
hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất
có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” . Nếu con vật phải
sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người
lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm
để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh
học có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có
lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của
con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là
điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của
con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất,
mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển
phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét
đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính
xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi
xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con
người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho
xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học
trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư
duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với
nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển.
Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con
người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể
xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong
xã hội loài người.
b) Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con
người:
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của
Phoiơbắc đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực
tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có
hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống
động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy,
ông đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn thế nữa, đó cũng không phải
là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ông lý tưởng hóa.
Phê phán quan niệm sai lầm của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng khác về con
người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào
những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm
của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài
người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các
ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch
sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu
ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con
người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người
còn là chủ thể của lịch sử.
c) Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch
sử:
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng
thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao
của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con
người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của
chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng.
Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà chúng có
tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu
theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử
của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” . Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người
tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao
động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách
khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở
thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản
chất của con người, nhưng con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy
tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại
trong những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các
tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt
động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người
như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con
người tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng
luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác
định. Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần,
có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội. Đó là
những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của
con người. Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát
triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử
dụng các nguồn lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của
chính mình. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo
các quy luật của tự nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa
học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh
thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống
mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh chóng so
với các động vật khác trước những biến đổi của môi trường. Nó vừa tiếp nhận, thích
nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để
thích ứng và biến đổi chính mình. Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội.
Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang
bản chất xã hội. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của môi trường trong đó có
môi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có
thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Trong
thực chất thì môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những đặc thù
của nó. So với môi trường tự nhiên môi trường xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và
quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên đến từng cá nhân con
người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các
nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá nhân con người thường xuyên
phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn tại trong mối quan hệ tác động qua
lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học - công nghệ, nhiều
loại môi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi trường, như môi
trường thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường điện, môi trường hấp dẫn,
môi trường sinh học, v.v.. Nhưng cần lưu ý rằng, có những môi trường trong số đó
mới được phát hiện và đang được nghiên cứu, nên còn có nhiều ý kiến, quan niệm
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi
trường tương tác yếu, đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi
trường như vậy. Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay
còn có những ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là thuộc về môi
trường tự nhiên, hoặc là thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và
tác động của chúng đến con người là khác nhau, không giống hoàn toàn như môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể
của tự nhiên hoặc xã hội, có tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và xác
định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.
d) Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội:
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con
người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” . Bản chất của con người luôn
được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không
phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa
chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không
tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại,
quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu
nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v.. Tất cả các
quan hệ đó đều góp phần hình thành lên bản chất của con người.
Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con
người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người
mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã
hội đó thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi
đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống
con người khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động
vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể
sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
3. Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên:
Một là, trong nhận thức, đánh giá con người thì cần phải xem xét cả phương
diện bản tính tự nhiên lẫn phương diện bản tính xã hội, song trong đó, phải coi trọng
hơn việc xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội. Mặt khác, trong việc xây
dựng thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần coi trọng rèn
luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm
thường.
Hai là, trong cuộc sống vừa phải biết phát huy vai trò chủ thể tích cực sáng tạo
của con người lại vừa phải có ý thức tự giác vượt ra khỏi tác động tiêu cực từ hoàn
cảnh lịch sử. Vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự
tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, cần chú trọng việc xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan
hệ xã hội tốt đẹp để có thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp. Cùng
với mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc
khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Mặt khác, phải luôn chú ý giải quyết đúng
đắn mối quan hệ xã hội – cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc
xã hội. Thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản:
“mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Mặc Hồ Chí Minh không tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng
trong hệ thống tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người một vị trí đặc biệt, được
coi trọng như mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng, thấm đượm
thường trực trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người, tỏa sáng trong từng việc
làm, cử chỉ, hành vi, ân cần, tôn trọng, quan tâm đến từng người và mọi người.
Mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội Hồ Chí Minh xác định cho cách
mạng Việt Nam nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng hội để đi đến giải phóng
con người. Con người vừa chủ thể của cách mạng, vừa mục tiêu cao nhất của
cách mạng.
Trong vấn đề con người, điều Hồ Chí Minh quan tâm nhất đócon người
Việt Nam, những quan hệ hội trong hội Việt Nam, Người đã nêu rõ ý kiến
riêng, quan điểm của mình khi tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
những ý kiến, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con người. Quan điểm của
Người về con người và bản chất của con người đều xuất phát từ thực tiễn, Người đưa
ra những quan điểm chủ yếu về con người rất độc đáo rất thiết thực. Người định
nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng đồng bào cả nước. Rộng nữa cả loài người". Như vậy, con người
không phải những thể biệt lập. Chỉ trong quan hệ hội, trong hoạt động
thực tiễn hội con người mới lao động, ngôn ngữ, duy, chế tạo công cụ lao
động, mới thật sự trở thành con người đúng nghĩa.
Thứ nữa, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải ăn, mặc, ở, đi
lại... Nhưng đời sống con người không chỉ dừng lại ở vật chất, mà còn những nhu cầu
tinh thần, văn hóa những đặc trưng của con người. Tất cả nhu cầu về vật chất
tinh thần đó được đáp ứng hay không, lại hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào
hình thái kinh tế - hội con người đang sống. Người nói: "đồng bào ai cũng
ăn, mặc,..." đây những điều thiết yếu để tồn tại. Người vẫn nhớ thường
nhắc lại "Dân thực vi thiên" (Dân lấy ăn làm trời, nếu không ăn không
trời). Lại câu "Có thực mới vực được đạo" (Không ăn thì chẳng làm được việc
cả). Từ đó ta thấy việc quan tâm đến cái ăn, cái mặc, cái của nhân dân luôn đặt
lên hàng đầu trong mối quan tâm của Hồ Chí Minh.
Đối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo đất nước..., Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm
đối với đời sống của nhân dân. Ðónhững việc cần phải làm ngay: "1.Làm cho dân
ăn. 2. Làm cho dân mặc. 3. Làm cho dân chỗ ở. 4. Làm cho dân học
hành. Cái mục đích chúng ta đi đếnbốn điều đó. Ði đến để dân nước ta xứng đáng
với tự do độc lập giúp sức được cho tự do độc lập". Người căn dặn: "chính sách
của Ðảng Chính phủ phải hết sức chăm nom, đến đời sống của nhân dân". Nếu
dân đói, dân rét, dân dốt là Ðảng có lỗi.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong các giai cấp bóc lột Việt Nam chỉ
một số ít cam tâm làm tay sai cho thực dân đế quốc, chỉ một số ít phản lại
dân tộc đất nước, còn đại bộ phận vẫn thấy cái nhục mất nước của con người Việt
Nam. Truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc đã hun đúc nên tinh thần văn hóa tiềm
ẩn bên trong mọi người dân Việt Nam, bất kể giai cấp nào. Cho nên nếu làm thức tỉnh
tinh thần dân tộc họ, thì họ vẫn đứng về phía dân tộc đối mặt với bọn đế quốc thực
dân. Từ đó, Người đã sớm đưa ra chủ trương phân hóa giai cấp địa chủ thành thị,
trung, tiểu địa chủ; phân hóa giai cấp sản thành sản dân tộc, sản mại bản,
không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo...
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đây một trong những thắng lợi của
tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi ấy đã chứng minh Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp một cách sáng tạo, không chỉ trong đường lối cách
mạng, mà còn về mặt con người, và con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử
cụ thể của nó.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trò của con người, Hồ
Chí Minh đã sớm khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phónghội và giải
phóng con người sự nghiệp của giai cấp sản, của nhân dân lao động của cả
dân tộc, với tinh thần "phải đem sức ta mà giải phóng cho ta". Hồ Chí Minh nhìn thấy
sức mạnh của giai cấp sản, của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam không chỉ
với những đã được bộc lộ, còn những điều tiềm ẩn bên trong những lực
lượng to lớn ấy. Người tin tưởng sâu sắc rằng khi giai cấp sản, nhân dân lao động
các dân tộc thuộc địa trên thế giới thức tỉnh, tổ chức đấu tranh theo đường lối
đúng đắn thì sức mạnh sẽ trở thành địch nhất định sẽ giành được thắng lợi
trong cuộc cách mạng độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết, một dân tộc nhỏ sẽ không bị một dân
tộc lớn gấp hàng chục lần thôn tính đồng hóa nếu dân tộc ấy phát huy được sức
mạnh con người với những phẩm chất tinh thần, tư tưởng và văn hóa. Ðối với dân tộc
Việt Nam, con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ thể của lịch sử, là chân lý cụ thể,
sinh động đã được Hồ Chí Minh củng cố và nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý
nhân sinh này đã được phát huy đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện
đại của dân tộc. Phải đương đầu với hai đế quốc to, trong khi lực lượng ta yếu về
nhiều mặt, nhưng Hồ Chí Minh vững tin ở nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sẽ
biến ít thành nhiều, nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh, tạo được cả thế lực để giành
thắng lợi.
Lòng tin của Hồ Chí Minh vào nhân dân do thấm nhuần sâu sắc truyền thống lịch
sử dân tộc về phẩm chất của con người Việt Nam: "Dân tamột lòng nồng nàn yêu
nước. Ðó một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả bán nước
cướp nước".
Tháng 8-1961, nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp
toàn miền bắc nhằm quán triệt nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III, Người
đã đưa ra một luận điểm quan trọng khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa
hội, trước hết cần có những con ngườihội chủ nghĩa". Xây dựng chủ nghĩa xã hội
một cuộc cách mạng lâu dài, phức tạp, sâu sắc triệt để nhất trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa... nên đòi hỏi con người mớihội chủ nghĩa phải
những con người đủ phẩm chất, năng lực về trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, giác ngộ
tưởng cộng sản chủ nghĩa, quyết tâm cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới - hội
chủ nghĩa
III. Vấn đề phát huy nhân t con người trong sự nghiệp đổi mới Việt Nam
hiện nay”.
Thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực quý giá nhất của mỗi
quốc gia chính là con người. Mục đích phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, xét
đến cùng, phải con người, cho con người, tạo môi trường thuận lợi để con người
cuộc sống hạnh phúc, sức khoẻ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo.
Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người với tính cách là động lực của
sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
thể hiểu nhân tố con người hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định
vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống
nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con
người trong một quá trình biến đổi phát triển hội nhất định. Như vậy, phát huy
nhân tố con người có nghĩa tạo hội, điều kiện để sử dụng người lao động, sử
dụng nguồn nhân lực một cách phù hợp, hiệu quả; đào tạo, bồi dưỡng những phẩm
chất, kỹ năng cần thiết cho người lao động; tạo động lực để con người thể hiện tối đa
năng lực của mình trong lao đô }ng, trong hoạt đô }ng sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát
triển xã hô }i. Từ góc độ của các chủ thể lãnh đạo quản lý, phát huy nhân tố con người
thực chất đề xuất thực hiện các giải pháp để người dân cộng đồng thể hiện
tối đa năng lực của mình trong thực tiễn, trong lao động, sáng tạo nhằm thúc đẩy
hội phát triển vì hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng.
Thực tế những năm qua, bên cạnh việc khai thác các nguồn lực cùng với việc
phát huy nhân tố con người,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu: Trình độ dân trí
ngày càng được nâng cao, kinh tế cũng ngày càng khởi sắc trên đà phát triển ổn
định, đời sống của người dân được cải thiện nét, con người ngày càng nhiều
điều kiện phát triển toàn diện... Khái quát thực trạng này, Văn kiện Đại Hội XIII đã
tổng kết: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới”. vậy, từ góc nhìn phát
huy nhân tố con người, Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như: Việc sử dụng con
người, sử dụng nguồn nhân lực còn chưa hiệu quả, chưa sự gắn kết chặt chẽ giữa
sử dụng đào tạo... Thực tế thời gian vừa qua, nhiều người trong độ tuổi lao động
không tìm được việc làm, trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm
việc đúng chuyên môn; Có thể nói, việc sử dụng không hợp lý lao động nói chung đã
một sự lãng phí, song sử dụng không hợp lao động đã qua đào tạo thì mức độ
lãng phí còn lớn hơn nhiều. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập còn
sự lãng phí nguồn tài nguyên quý giá nhất trong mọi nguồn vốn chúng ta đang để
phát triển kinh tế.
Tiếp tục phát huy các thành tựu đã đạt được, tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học
kinh nghiệm, bổ sung lý luận, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy
tối đa nhân tố con người; con người trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu
mục tiêu của sự phát triển”. Phát huy nhân tố con người hiện nay luôn gắn liền với
xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ năng lực làm việc.
Đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệnăng lực làm việc là cơ sở, tiền đề, điều kiện
của phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người không phải chung
chung, tính hiện thực, bắt đầu từ những tiềm năng thực tế. Trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa họccông nghệ hiện đại, kinh tế tri thức phát triển, hội nhập
gia tăng, phát huy nhân tố con người không chỉ vấn đề trí tuệ, năng lực làm việc
mà quan trọng là có đạo đức, nhân cách, lối sống phải ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ nhất, phát huy toàn diện cả về phẩm chất và năng lực con người.
Đảng ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề con người phát huy nhân tố con
người, nhằm tạo động lực phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: Đến năm 2025, là
nước đang phát triển, công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập
trung bình thấp; đến năm 2030, nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao; đến năm 2045, nước phát triển, thu nhập cao. Theo đó, để
biến khát vọng thành hiện thực, Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người trung tâm, chủ thể,
nguồn lực chủ yếu mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt
Nam nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”.
Trong đó, coi trọng phát huy toàn diện cả về phẩm chất năng lực theo tiêu chí:
giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức tính cần cù,
chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại; gắn với quá trình “đổi mới sáng tạo”, khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; đề cao ý thức, trách
nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ hai, không chỉ phát huy những năng lực, phẩm chất cho con người
quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân cũng được đề cao.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ hội chủ
nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định
những vấn đề lớn hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công
dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức công dân, kiên quyết xử các hành vi vi phạm pháp
luật. Chú trọng thực hiện dân chủ sở, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối
thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc nguyện vọng chính đáng của
nhân dân
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc
(1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam
điều bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa
Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toànhội, thay
đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt
động cách mạnghội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn
diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức
khoa học thấm nhuần tinh thần bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế
tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày càng tưởng, trình độ chung,
chuyên môn cao ngày nay chúng ta đãmột đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công
nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt những thành
tựu vượt bậc, thì sự phát triển con người không chỉsản phẩm của hệ tư tưởng Mác
xít ngay khi chủ nghĩa Mác các trị của các tưởng các tôn giáo, các hệ
tưởng văn hoá bản địa đã sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm
nhập, như một hệ tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng
nó cũng chịu sự chi phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới
- cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát
triển con người.
Do đó, Đảng ta cũng đã những đổi mới rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng hội, việc
mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa
phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá chính trị, trên thế giớ. Sự
biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ
nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của
xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới
KẾT LUẬN
Nhìn lại 35 năm đổi mới, với những chiến lược về xây dựng và phát huy nhân tố
con người của Đảng ta đã phát huy hiệu quả đến nay đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn: Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế ngày càng khởi sắc trên đà phát
triển ổn định, đời sống của người dân được cải biến nét, con người được tạo điều
kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
như lời của Tổng thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” Sau hơn 90 năm lãnh.
đạo sự nghiệp cách mạngphát triển đất nước của Đảng, với định hướng xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện; phát huy toàn diện cả về phẩm chất và năng
lực con người, đồng thời đề cao quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân; bên
cạnh đó chỉ ra các động lực lớn nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con người tại Đại
hội XIII của Đảng đã trở nên toàn diện hơn. Thực hiện thành công quan điểm về xây
dựng phát huy nhân tố con người Việt Nam theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là bước đi nền tảng vững chắc
nhất trên con đường xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, niềm tin sự ủng hộ của nhân dân, sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam
tiến bộ hiện đại chắc chắn sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp trong thời gian tới. Đây
không chỉ quyết tâm chính trị của toàn Đảng mà đó cũng chính mong muốn,
nguyện vọng của nhân dân để vươn lên khẳng định vai trò của con người Việt Nam,
tầm vóc của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
| 1/19

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC LỚP: QLGD-A1K12
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN : “Vấn đề bản chất con người theo quan điểm triết
học Mac-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”
HỌ TÊN HỌC VIÊN NHÓM 4: ĐẶNG THỊ KIM THÙY NGUYỄN VĂN TUẤN PHAN THANH TÙNG HỒ NHƯ Ý
ĐỒNG THÁP, NĂM 2023 MỞ ĐẦU:
Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là
những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù triết học duy vật trước
Mác coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không
vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì họ đã quy đặc trưng
bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc
thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn xã hội.Trong
hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên, là sự kết
hợp tinh thần và thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một cách vĩnh cửu
và mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được những
thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị
nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là những tiền đề có ý
nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mácxít. NỘI DUNG
Có nhiều quan điểm khác nhau về con người và bản chất của con người, song
nhìn chung lại quan điểm của CM Mác – Lênin về con người và bản chất của con
người được biểu hiện một cách toàn diện, đầy đủ nhất. Điều này đã được chứng minh
trong thực tiễn và được Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng trong quá trình xây
dựng con người mới XHCN và đạt được nhiều thành tựu nhất định.
I. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con người.
1. Con người và bản chất con người:
a) Khái niệm về con người:
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con
người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương
diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học
về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan
trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình
trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
b) Bản tính tự nhiên của con người:
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên.
Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng là “ thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và
tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn
tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con
người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người
luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây
chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn
tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại
khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là
"người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng
đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất
định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính
đặc thù của con người.
c) Bản tính xã hội của con người:
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây:
Một là, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không
phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà có nguồn
gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao
động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển
thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó
mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết
trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn
tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã hội. Xã hội
biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược
lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối
quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật
thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó. 
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống
nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên
khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính
nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản
tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất
định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người:
a. Con người là thực thể sinh vật – xã hội:
Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả
các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một
thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái
sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không
bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa
rằng con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải
“đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng không
được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh
tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một
thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những
phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận
của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người,… đời sống thể
xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên” . Về phương diện thực thể
sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật
sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể
biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây
chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh
học khác. Về mặt thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới
hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v… . Bằng hoạt động thực tiễn con
người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống
nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con
người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên
mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp
luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu
phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã
hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất
có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” . Nếu con vật phải
sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người
lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm
để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh
học có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có
lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của
con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là
điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của
con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất,
mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển
phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét
đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính
xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi
xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con
người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho
xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học
trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư
duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với
nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển.
Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con
người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể
xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
b) Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người:
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của
Phoiơbắc đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực
tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có
hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống
động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy,
ông đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn thế nữa, đó cũng không phải
là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ông lý tưởng hóa.
Phê phán quan niệm sai lầm của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng khác về con
người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào
những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm
của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài
người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các
ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch
sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu
ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con
người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người
còn là chủ thể của lịch sử.
c) Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử:
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng
thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao
của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con
người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của
chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng.
Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà chúng có
tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu
theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử
của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” . Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người
tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao
động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách
khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở
thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản
chất của con người, nhưng con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy
tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại
trong những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các
tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt
động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người
như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con
người tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng
luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác
định. Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần,
có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội. Đó là
những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của
con người. Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát
triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử
dụng các nguồn lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của
chính mình. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo
các quy luật của tự nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa
học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh
thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống
mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh chóng so
với các động vật khác trước những biến đổi của môi trường. Nó vừa tiếp nhận, thích
nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để
thích ứng và biến đổi chính mình. Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội.
Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang
bản chất xã hội. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của môi trường trong đó có
môi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có
thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Trong
thực chất thì môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những đặc thù
của nó. So với môi trường tự nhiên môi trường xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và
quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên đến từng cá nhân con
người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các
nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá nhân con người thường xuyên
phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn tại trong mối quan hệ tác động qua
lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học - công nghệ, nhiều
loại môi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi trường, như môi
trường thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường điện, môi trường hấp dẫn,
môi trường sinh học, v.v.. Nhưng cần lưu ý rằng, có những môi trường trong số đó
mới được phát hiện và đang được nghiên cứu, nên còn có nhiều ý kiến, quan niệm
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi
trường tương tác yếu, đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi
trường như vậy. Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay
còn có những ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là thuộc về môi
trường tự nhiên, hoặc là thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và
tác động của chúng đến con người là khác nhau, không giống hoàn toàn như môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể
của tự nhiên hoặc xã hội, có tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và xác
định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.
d) Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội:
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con
người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” . Bản chất của con người luôn
được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không
phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa
chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không
tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại,
quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu
nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v.. Tất cả các
quan hệ đó đều góp phần hình thành lên bản chất của con người.
Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con
người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người
mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã
hội đó thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi
đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống
con người khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động
vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể
sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
3. Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên:
Một là, trong nhận thức, đánh giá con người thì cần phải xem xét cả phương
diện bản tính tự nhiên lẫn phương diện bản tính xã hội, song trong đó, phải coi trọng
hơn việc xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội. Mặt khác, trong việc xây
dựng thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần coi trọng rèn
luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường.
Hai là, trong cuộc sống vừa phải biết phát huy vai trò chủ thể tích cực sáng tạo
của con người lại vừa phải có ý thức tự giác vượt ra khỏi tác động tiêu cực từ hoàn
cảnh lịch sử. Vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự
tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, cần chú trọng việc xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan
hệ xã hội tốt đẹp để có thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp. Cùng
với mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc
khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Mặt khác, phải luôn chú ý giải quyết đúng
đắn mối quan hệ xã hội – cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc
xã hội. Thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản:
“mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Mặc dù Hồ Chí Minh không có tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người có một vị trí đặc biệt, được
coi trọng như mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng, thấm đượm và
thường trực trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người, tỏa sáng trong từng việc
làm, cử chỉ, hành vi, ân cần, tôn trọng, quan tâm đến từng người và mọi người.
Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh xác định cho cách
mạng Việt Nam là nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để đi đến giải phóng
con người. Con người vừa là chủ thể của cách mạng, vừa là mục tiêu cao nhất của cách mạng.
Trong vấn đề con người, điều mà Hồ Chí Minh quan tâm nhất đó là con người
Việt Nam, những quan hệ xã hội trong xã hội Việt Nam, Người đã nêu rõ ý kiến
riêng, quan điểm của mình khi tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
những ý kiến, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con người. Quan điểm của
Người về con người và bản chất của con người đều xuất phát từ thực tiễn, Người đưa
ra những quan điểm chủ yếu về con người rất độc đáo mà rất thiết thực. Người định
nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Như vậy, con người
không phải là những cá thể biệt lập. Chỉ có trong quan hệ xã hội, trong hoạt động
thực tiễn xã hội con người mới có lao động, ngôn ngữ, tư duy, chế tạo công cụ lao
động, mới thật sự trở thành con người đúng nghĩa.
Thứ nữa, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi
lại... Nhưng đời sống con người không chỉ dừng lại ở vật chất, mà còn những nhu cầu
tinh thần, văn hóa là những đặc trưng của con người. Tất cả nhu cầu về vật chất và
tinh thần đó được đáp ứng hay không, lại hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào
hình thái kinh tế - xã hội mà con người đang sống. Người nói: "đồng bào ai cũng có
ăn, có mặc,..." vì đây là những điều thiết yếu để tồn tại. Người vẫn nhớ và thường
nhắc lại "Dân dĩ thực vi thiên" (Dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có
trời). Lại có câu "Có thực mới vực được đạo" (Không có ăn thì chẳng làm được việc
gì cả). Từ đó ta thấy việc quan tâm đến cái ăn, cái mặc, cái ở của nhân dân luôn đặt
lên hàng đầu trong mối quan tâm của Hồ Chí Minh.
Đối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo đất nước..., Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm
đối với đời sống của nhân dân. Ðó là những việc cần phải làm ngay: "1.Làm cho dân
có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học
hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Ði đến để dân nước ta xứng đáng
với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập". Người căn dặn: "chính sách
của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom, đến đời sống của nhân dân". Nếu
dân đói, dân rét, dân dốt là Ðảng có lỗi.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong các giai cấp bóc lột ở Việt Nam chỉ
có một số ít cam tâm làm tay sai cho thực dân đế quốc, chỉ có một số ít là phản lại
dân tộc và đất nước, còn đại bộ phận vẫn thấy cái nhục mất nước của con người Việt
Nam. Truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc đã hun đúc nên tinh thần văn hóa tiềm
ẩn bên trong mọi người dân Việt Nam, bất kể giai cấp nào. Cho nên nếu làm thức tỉnh
tinh thần dân tộc ở họ, thì họ vẫn đứng về phía dân tộc đối mặt với bọn đế quốc thực
dân. Từ đó, Người đã sớm đưa ra chủ trương phân hóa giai cấp địa chủ thành thị,
trung, tiểu địa chủ; phân hóa giai cấp tư sản thành tư sản dân tộc, tư sản mại bản,
không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo...
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi ấy đã chứng minh Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp một cách sáng tạo, không chỉ trong đường lối cách
mạng, mà còn về mặt con người, và con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể của nó.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trò của con người, Hồ
Chí Minh đã sớm khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người là sự nghiệp của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc, với tinh thần "phải đem sức ta mà giải phóng cho ta". Hồ Chí Minh nhìn thấy
sức mạnh của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam không chỉ
với những gì đã được bộc lộ, mà còn ở những điều tiềm ẩn bên trong những lực
lượng to lớn ấy. Người tin tưởng sâu sắc rằng khi giai cấp vô sản, nhân dân lao động
các dân tộc thuộc địa trên thế giới thức tỉnh, tổ chức và đấu tranh theo đường lối
đúng đắn thì sức mạnh sẽ trở thành vô địch và nhất định sẽ giành được thắng lợi
trong cuộc cách mạng độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết, một dân tộc dù nhỏ bé sẽ không bị một dân
tộc lớn gấp hàng chục lần thôn tính và đồng hóa nếu dân tộc ấy phát huy được sức
mạnh con người với những phẩm chất tinh thần, tư tưởng và văn hóa. Ðối với dân tộc
Việt Nam, con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ thể của lịch sử, là chân lý cụ thể,
sinh động đã được Hồ Chí Minh củng cố và nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý
nhân sinh này đã được phát huy và đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện
đại của dân tộc. Phải đương đầu với hai đế quốc to, trong khi lực lượng ta yếu về
nhiều mặt, nhưng Hồ Chí Minh vững tin ở nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sẽ
biến ít thành nhiều, nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh, tạo được cả thế và lực để giành thắng lợi.
Lòng tin của Hồ Chí Minh vào nhân dân là do thấm nhuần sâu sắc truyền thống lịch
sử dân tộc về phẩm chất của con người Việt Nam: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Ðó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Tháng 8-1961, nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp
toàn miền bắc nhằm quán triệt nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III, Người
đã đưa ra một luận điểm quan trọng và khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Xây dựng chủ nghĩa xã hội
là một cuộc cách mạng lâu dài, phức tạp, sâu sắc và triệt để nhất trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa... nên nó đòi hỏi con người mới xã hội chủ nghĩa phải
là những con người đủ phẩm chất, năng lực về trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, giác ngộ lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, quyết tâm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa
III. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”.
Thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất của mỗi
quốc gia chính là con người. Mục đích phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, xét
đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường thuận lợi để con người
có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo.
Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người với tính cách là động lực của
sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có thể hiểu nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định
vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống
nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con
người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định. Như vậy, phát huy
nhân tố con người có nghĩa là tạo cơ hội, điều kiện để sử dụng người lao động, sử
dụng nguồn nhân lực một cách phù hợp, hiệu quả; đào tạo, bồi dưỡng những phẩm
chất, kỹ năng cần thiết cho người lao động; tạo động lực để con người thể hiện tối đa
năng lực của mình trong lao đô }ng, trong hoạt đô }ng sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát
triển xã hô }i. Từ góc độ của các chủ thể lãnh đạo quản lý, phát huy nhân tố con người
thực chất là đề xuất và thực hiện các giải pháp để người dân và cộng đồng thể hiện
tối đa năng lực của mình trong thực tiễn, trong lao động, sáng tạo nhằm thúc đẩy xã
hội phát triển vì hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng.
Thực tế những năm qua, bên cạnh việc khai thác các nguồn lực cùng với việc
phát huy nhân tố con người,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu: Trình độ dân trí
ngày càng được nâng cao, kinh tế cũng ngày càng khởi sắc và trên đà phát triển ổn
định, đời sống của người dân được cải thiện rõ nét, con người ngày càng có nhiều
điều kiện phát triển toàn diện... Khái quát thực trạng này, Văn kiện Đại Hội XIII đã
tổng kết: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới”. Dù vậy, từ góc nhìn phát
huy nhân tố con người, Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như: Việc sử dụng con
người, sử dụng nguồn nhân lực còn chưa hiệu quả, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa
sử dụng và đào tạo... Thực tế thời gian vừa qua, nhiều người trong độ tuổi lao động
không tìm được việc làm, trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm
việc đúng chuyên môn; Có thể nói, việc sử dụng không hợp lý lao động nói chung đã
là một sự lãng phí, song sử dụng không hợp lý lao động đã qua đào tạo thì mức độ
lãng phí còn lớn hơn nhiều. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập mà còn là
sự lãng phí nguồn tài nguyên quý giá nhất trong mọi nguồn vốn chúng ta đang có để phát triển kinh tế.
Tiếp tục phát huy các thành tựu đã đạt được, tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học
kinh nghiệm, bổ sung lý luận, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy
tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và
mục tiêu của sự phát triển”. Phát huy nhân tố con người hiện nay luôn gắn liền với
xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc.
Đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc là cơ sở, tiền đề, điều kiện
của phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người không phải chung
chung, mà có tính hiện thực, bắt đầu từ những tiềm năng thực tế. Trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức phát triển, hội nhập
gia tăng, phát huy nhân tố con người không chỉ là vấn đề trí tuệ, năng lực làm việc
mà quan trọng là có đạo đức, nhân cách, lối sống phải ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ nhất, phát huy toàn diện cả về phẩm chất và năng lực con người.
Đảng ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề con người và phát huy nhân tố con
người, nhằm tạo động lực phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: Đến năm 2025, là
nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập
trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao; đến năm 2045, là nước phát triển, thu nhập cao. Theo đó, để
biến khát vọng thành hiện thực, Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt
Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”.
Trong đó, coi trọng phát huy toàn diện cả về phẩm chất và năng lực theo tiêu chí:
giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức tính cần cù,
chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại; gắn với quá trình “đổi mới sáng tạo”, khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; đề cao ý thức, trách
nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ hai, không chỉ phát huy những năng lực, phẩm chất cho con người mà
quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân cũng được đề cao.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định
những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công
dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật. Chú trọng thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối
thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc
(1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam
điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa
Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toàn xã hội, thay
đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt
động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn
diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức
khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế
tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung,
chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công
nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt những thành
tựu vượt bậc, thì sự phát triển con người không chỉ là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác
xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác mà các trị của các tư tưởng các tôn giáo, các hệ tư
tưởng và văn hoá bản địa đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm
nhập, nó như một hệ tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng
nó cũng chịu sự chi phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới
- cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Do đó, Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc
mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và
phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, trên thế giớ. Sự
biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ
nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của
xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới KẾT LUẬN
Nhìn lại 35 năm đổi mới, với những chiến lược về xây dựng và phát huy nhân tố
con người của Đảng ta đã phát huy hiệu quả và đến nay đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn: Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế ngày càng khởi sắc và trên đà phát
triển ổn định, đời sống của người dân được cải biến rõ nét, con người được tạo điều
kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” Sau hơn 90 năm . lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng và phát triển đất nước của Đảng, với định hướng xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện; phát huy toàn diện cả về phẩm chất và năng
lực con người, đồng thời đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân; bên
cạnh đó chỉ ra các động lực lớn nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con người tại Đại
hội XIII của Đảng đã trở nên toàn diện hơn. Thực hiện thành công quan điểm về xây
dựng và phát huy nhân tố con người Việt Nam theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là bước đi nền tảng vững chắc
nhất trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân, sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam
tiến bộ hiện đại chắc chắn sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp trong thời gian tới. Đây
không chỉ là quyết tâm chính trị của toàn Đảng mà đó cũng chính là mong muốn,
nguyện vọng của nhân dân để vươn lên khẳng định vai trò của con người Việt Nam,
tầm vóc của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.