Vấn đề dân tộc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (nhóm Aphrodite) | Tiểu luận môn nghĩa xã hội khoa học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh

Hiện nay, vấn đề dân tộc đang trở nên phức tạp với nhiều điểm nóng, các cuộc chiến tranh vừa và nhỏ đều bắt đầu từ việc thất bại trong tạo ra tiếng nói chung với các dân tộc... Do đó, vấn đề dân tộc có tính đặc thù quan trọng, liên quan đến quốc gia -quốc tế, có tính thời sự cấp bách. Đây cũng là vấn đề vừa chiến lược cơ bản, lâu dài và nhạy cảm của cách mạng nước ta. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------o0o----------
TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ DÂN TỘC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
GIÁO VIÊN: Trần Ngọc Chung
NHÓM: Aphrodite
TÊN: MSSV:
Trần Thị Phương Anh 20109084
Vũ Đình Mạnh 21149263
Hoàng Duy Đăng 20124174
Vũ Thế Hùng 20142211
Nguyễn Thị Tuyết Mai 20110381
Nguyễn Gia Thịnh 20151004
Đặng Nguyễn Thanh Phong 22151133
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay, vấn đề dân tộc đang trở nên phức tạp với nhiều điểm nóng, các
cuộc chiến tranh vừa nhỏ đều bắt đầu từ việc thất bại trong tạo ra tiếng nói
chung với các dân tộc... Do đó, vấn đề dân tộc tính đặc thù quan trọng, liên
quan đến quốc gia -quốc tế, tính thời sự cấp bách. Đây cũng vấn đề vừa
chiến lược cơ bản, lâu dài và nhạy cảm của cách mạng nước ta.
Việt Nam, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách đã đang mang lại
hiệu quả tích cực trong vấn đề dân tộc, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
luôn đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Các phương diện về kinh tế,
chính trị, văn hóa - hội, giáo dục y tế vùng dân tộc thiểu số cũng
những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, một số dân tộc hiện nay vẫn còn tồn tại những
vấn đề bất cập gây cản trở sự hòa nhập và phát triển của đồng bào, do đó đặt ra
cho chúng ta một yêu cầu cấp bách là phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu, kịp
thời để thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc, nhất là đời sống và văn hóa nhằm
gia tăng sự đoàn kết giữa các đồng bào, giảm nguy xung đột hội, gây
bùng nổ dân tộc, mất ổn định chính trị - xã hội.
Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề liên quan tới các dân
tộc. Từ đó, nhóm chúng em chọn đề tài “Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ
lên hội chủ nghĩa. Thực trạng và giải pháp giải quyết vấn đề dân tộc Việt
Nam hiện nay.” để phân tích hơn về những hạn chế cũng như nguyên nhân
dẫn đến hạn chế đó và đề ra những biện pháp bền vững nhằm hoàn thiện chính
sách giúp giảm sự chênh lệch giữa các dân tộc giải quyết những vấn đề dân
tộc lâu dài trong Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Làm rõ khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc.
- Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc.
- Đánh giá phân tích khách quan thực trạng giải quyết về về đề dân tộc Việt
Nam.
2
- Đề xuất một số giải pháp.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc.
1.1 Khái niệm
1.2 HAi xu hướng kh
a. Khái niệm dân tộc
Theo nghĩa rộng, dân tộc (Nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng
người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, có nền kinh tế
thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với
nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu
tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa
này, những cộng đồng người được gọi là “dân tộc” là kết quả của sự phát triển hết
sức lâu dài của các cộng đồng người trong lịch sử nhân loại: từ cộng đồng thị tộc,
bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và phát triển lên hình thức tổ chức cộng đồng được
gọi là dân tộc. Đồng thời, sự hình thành dân tộc theo nghĩa này thường gắn với
hình thức tổ chức nhà nước vì thế cũng còn thường được gọi là “quốc gia – dân
tộc”. Ví dụ nói: “các quốc gia dân tộc châu Âu”…). Trong các tác phẩm kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm dân tộc thường được sử dụng theo nghĩa
này. Ví dụ, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam,...
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (Ethnie) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc
người được hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
chung ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau
bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng
đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của một quốc gia.
Chẳng hạn, Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng tộc người. Sự
3
khác nhau giữa các cộng đồng tộc người ấy biểu hiện chủ yếu ở đặc trưng văn hóa,
lối sống, tâm lý, ý thức tộc người.
b. Đặc trưng cơ bản của dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là quá trình phát triển lâu dài của
xã hội loài người, hay nói chung là họ nghĩ sự thay đổi của sản xuất phương thức là
một nguyên nhân đến sự thay đổi của cộng đồng dân tộc theo một cách lớn. Do đó,
đồng thời cộng thức thay đổi từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, lạc bộ và dân tộc,
về cơ bản cho thấy sự thay đổi của sản xuất phương thức là nguyên nhân dẫn đến
sự thay đổi của dân tộc cộng đồng.
Nếu như ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được xác lập thì ở phương đông, dân tộc được hình thành trên cơ sở một nền
văn hóa, một tâm lý dân tộc đã phát triển tương đối chín muồi và một cộng đồng
kinh tế tuy đã đạt tới mức độ nhất định nhưng vẫn còn phân tán và còn kém phát
triển.
Có thể hiểu theo hai cách như sau:
Thứ nhất: Dân tộc (hay quốc gia dân tộc) là cộng đồng chính trị - xã hội, gồm
những đặc trưng cơ bản sau đây:
Có cách thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, tạo nên nền
tảng vững chắc của dân tộc.
Có lãnh thổ ổn định không bị chia cắt,là địa bàn sinh tồn và phát triển của cộng
đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải đảo,
vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc và thường được thể chế hoá
thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc một phần rất
quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
Có một nhà nước quản lý.
Có ngôn ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và trong
cộng đồng (bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết)
Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của
nền văn hóa dân tộc.Đối với các quốc gia có nhiều tộc người thì tính thống nhất
trong đa dạng văn hóa là đặc trưng của nền văn hoá dân tộc
4
Thứ hai: Dân tộc – tộc người. Theo nghĩa này, dân tộc là cộng đồng người
được hình thành lâu dài trong lịch sử. Ba đặc trưng dưới đây được dùng làm tiêu
chí để xem xét và phân định các tộc người Việt Nam hiện nay:
Cộng đồng về ngôn ngữ ((bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngôn ngữ nói):Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp được sử dụng trong một cộng
đồng. Các dân tộc trong một quốc gia có thể giao tiếp với nhiều ngôn ngữ khác
nhau, có những ngôn ngữ được sử dụng chung với nhiều dân tộc. Mỗi dân tộc
sẽ có một ngôn ngữ, từ vựng và cấu trúc ngữ pháp thống nhất để thể hiện đặc
trưng của dân tộc đó.
Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn để luôn được
các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tộc người vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà
sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
Cộng đồng về văn hóa (Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi
tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo của tộc người đó. ): Văn hóa là bản sắc riêng biệt của mỗi dân tộc, là yếu
tố quan trọng để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác. Văn
hóa dân tộc mang đầy tính đa dạng theo dòng lịch sử, được thể hiện thông qua
các phong tục tập quán, tín ngưỡng, thói quen và cách sống.
Tự giác nhận thức của dân tộc, tiêu chí quan trọng nhất để phân định một dân
tộc, quyết định sự tồn tại và phát triển của từng tộc người.
Đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân
tộc mình; đó còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người
dù cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh
hưởng của giao lưu kinh tế, văn hóa... Sự hình thành và phát triển của ý thức tự
giác tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc
người.
=> Ba tiêu chí này tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát
triển. Đồng thời căn cứ vào ba tiêu chí này để xem xét và phân định các tộc người
ở Việt Nam hiện nay.
Trong một quốc gia có nhiều tộc người, căn cứ vào số lượng của mỗi cộng đồng.
người ta phân thành tộc người đa số và tộc người thiểu số. Cách gọi này không căn
cứ vào trình độ phát triển của mỗi cộng đồng.
1.2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc.
5
Xu hướng thứ nhất là một cộng đồng muốn tách ra để hình thành cộng đồng
dân tộc độc lập. Nguyên nhân là các cộng đồng dân cư đó có sự trưởng thành về ý
thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình.Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở các
quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà
các tộc người đó có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của
mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Vì họ
hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập, họ mới có quyền quyết định vận mệnh của
mình mà quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh
chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi
lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa.
Vd: Và dân tộc Việt Nam là một trong những biểu hiện này, chúng ta bị bọn thực
dân Pháp, Đế quốc, phát xít đến đô hộ; chúng ta cần ý thức được về tinh thần đoàn
kết thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc VN, độc lập chính quyền của dân tộc
Việt Nam mà chúng ta đã đấu tranh giành lại
Xu hướng thứ hai, các dân tộc ở một hay thậm chí ở nhiều quốc gia muốn liên
hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học, công nghệ,
của giao lưu kinh tế và văn hóa đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ ngăn cách giữa
các dân tộc xích lại gần nhau.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I. Lênin phát hiện đang
phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa
dạng.
* Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:
+ Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ
phồn vinh của bản thân dân tộc mình
Ví dụ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng vĩ đại của lịch sử nước
nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã đoàn kết, anh dũng đứng lên
đấu tranh đánh đổ hoàn toàn chế độ đô hộ, áp bức, bóc lột hàng trăm năm của bọn
thực dân, phát xít, phong kiến đế lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mang
lại nền độc lập tự do nước nhà, xây dựng đất nước vững bước đi lên CNXH
+ Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng
quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống.
6
Ví dụ: Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu nông
thôn bền chặt sớm xuất hiện để tạo ra một nền nông nghiệp, từ đó cùng nhau thúc
đẩy và phát triển nền kinh tế và đến nay được xem là nền kinh tế chủ yếu của Việt
Nam
=> Ở các quốc gia XHCN, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất
cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trênsở tự nguyện, bình đẳng giữa
các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.
* Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất
nổi bật. Bởi vì:
+ Xu hướng thứ nhất : Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng
dậy, xoá bỏ ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc giành lấy sự tự quyết định vận
mệnh của dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trịcon đường
phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây một trong
những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh
chống CNĐQ chính sách của chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức. Xu
hướng này cũng biểu hiện trong cuộc đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn
nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính
sách đồng hoá cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
Ví dụ: ta có thể thấy rõ xu hướng này được thể hiện trong các cuộc đấu tranh của
các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kì thị, phân biệt chủng tộc đang bị coi
là đối tượng của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản
+ Xu hướng thứ hai : Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại
gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã
được hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các
liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất định.
Ví dụ: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập với mục tiêu
đảm bảo hòa bình, ổn định, an ninh khu vực và tăng cường hợp tác kinh tế đã được
nhiều thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của một tổ chức vững mạnh, liên kết sâu
rộng và là đối tác quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế
7
1.3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách
mạng Nga những năm đầu thế kỷ XX, Lênin đã khái quái Cương lĩnh dân tộc như
sau: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp
công nhân tất cả các dân tộc lại.”
. Một là: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền
lợi như nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong quan hệ xã hội
cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột
dân tộc khác.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được
pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá do
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền tự quyết và xây
dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc. Để thực hiện được điều này,
trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, rồi từ đó xóa bỏ tình trạng áp bức
dân tộc.
Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân
tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của
dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra
thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải
vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện
liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc
lập và quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Đối với
quyền này mà nói, việc thực hiện phải xuất phát từ thực tiễn và phải đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích của giai cấp công nhân.
8
Tự quyết dân tộc không có nghĩa là các tộc người thiểu số trong một quốc gia được
phép phân lập thành quốc gia độc lập.Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các âm
mưu, thủ đoạn củacác thế lực phản động.
Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính; là nền tảng vững chắc để
đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nội dung cũng được xem là giải pháp
quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền
bình đẳng dân tộc. Đồng thời, yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công
nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một
chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần
yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó
phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc
gia xích lại gần nhau.
Chương 2. LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN
2.1 Đặc điểm dân tộc Việt Nam.
- Theo thống hiện nay hơn 3.000 dân tộc anh em sinh sống khắp các
khuvực trên thế giới. Việt Nam một quốc gia thống nhất chủ quyền với 54
dân tộc anh em. Kinh là dân tộc đa số chiếm 87% dân số cả nước còn lại là các dân
tộc thiểusố khác như Tày, Nùng, Dao, Thái, Mông,… trải dài trên cả nước. Nhiều ý
kiến đã được đưa ra về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Theo đó, ý kiến cho
rằng nguồn gốc dân tộc của chúng ta từ Trung Quốc hoặc Tây Tạng, những
người khác cho rằng nguồn gốc chính từ các dân tộc bản địa Việt Nam.Tuy
nhiên, theo nghiên cứu gần đây, xét sự hình thành các tộc người Việt trong sự hình
9
thành các tộc người khác trong khu vực,thể nói các tộc người Việt Nam đều
chung một nguồn gốc, đó làngười Cổ Mã Lai.
Trước hết, có thể thấy Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc anh em. Đại
gia đình Việt Nam thống nhất hiện bao gồm 54 dân tộc anh em, dân số giữa các
dân tộc không đồng đều. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, còn lại các dân tộc
thiểu số sống rải rác. Cả nước có 10 dân tộc có dân số từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn
người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân
tộc có dân số dưới 100 nghìn người, 16 dân tộc dưới 10.000 người và 1.000 người;
6 dân tộc dưới 1.000 dân (Cống, Sila, Pupéo, Romm, Ơ Đu, Brâu).Cộng đồng
các dân tộc Việt Nam ngày nay là kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu
đời. Các dân tộc trên đất nước ta truyền thống đoàn kết. Không quan trọng già
trẻ, gái trai, dân tộc nào, miễn là người dânViệt Nam thì các dân tộc Việt Nam anh
em luôn đoàn kết một lòng một dạ. Trước chiến tranh, tất cả các quốc gia đã đoàn
kết chống lại dịch bệnhbảo vệ tổ quốc. Ngày nay, trong thời bình, các dân tộc
cùng chung sức xây dựng và bảo vệ hòa bình dân tộc. Đoàn kết dân tộc và hòa hợp
dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống của dân tộc ta.
- Việt Nam là một quốc gia đa tộc người có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh có 73.594.341 người chiếm
85,7% dân số cả nước; 53 dân tộc thiểu số có 12.252.656 người, chiếm 14,3 % dân
số. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc thiểu số cũng không đồng đều, có dân tộc với số
dân lớn hơn 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Khơ me, Mông...), nhưng có dân tộc
với số dân chỉ vài ba trăm (Si la, Pu Péo, Rơ măm, Brâu, Ơ đu). Thực tế cho thấy
nếu một dân tộc mà số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho việc tổ
chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì và phát triển giống
nòi. Do vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt đối với
những dân tộc thiểu số rất ít người đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam có
những chính sách quan tâm đặc biệt
Thứ hai: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính
chất chuyển cử như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán,
xen kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người riêng. Vì
vậy, không có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một
địa bàn. Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một
nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen
kẽ nên trong quá trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, tạo kẽ hở
10
để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự
thống nhất của đất nước.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bổ chủ yếu ở địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng
Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú
trên những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi
trường sinh thái - đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất nước.
Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu
vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Khơme, dân tộc Hoa... do vậy, các
thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt
Nam.
Thứ tư: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội. Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội
của các dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các
dân tộc thiểu số Việt Nam ở những trình độ phát triển rất khác nhau: Một số ít các
dân tộc còn duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại
bộ phận các dân tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình độ dân trí, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của nhiều dân tộc thiểu số còn thấp. Chính sách của Đảng và
Nhà nước ta là thực hiện bình đẳng dân tộc, từng bước giảm, tiến tới xoá bỏ
khoảng cách phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thứ năm: Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong
cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất
Đặc trưng này được hình thành do yêu cầu của quá trình cải biến tự nhiên và nhu
cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân tộc Việt
Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết dính cao giữa các dân tộc.
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc
trong các giai đoạn lịch sử, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập thống
nhất Tổ quốc. Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổi quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát
huy nội lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác,
kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.
Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản gốc văn hóa riêng góp phần tạo nên sự phong phú,
đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có những
sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi các dân tộc đều có chung một lịch sử
11
dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một quốc gia độc lập, thống
nhất. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị - xã hội
rộng lớn và toàn diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta
2.2 Đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể, nhằm thực hiện tốt chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng Nhà nước Việt Nam, cần thiết
phải áp dụng một loạt giải pháp cụ thể và toàn diện để đảm bảo rằng người dân tộc
thiểu số được hưởng mọi quyền và lợi ích bình đẳng trong xã hội. Dưới đây là một
phân tích chi tiết về các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển bảo vệ
quyền của dân tộc thiểu số:
Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc
thực hiện chính sách dân tộc cho cán bộ, đảng viên nhân dân về các nghị quyết
của Đảng về vấn đề dân tộc. xây dựng hệ thống chính trị vững mạnhđẩy mạnh
hiện quy chế dân chủ cơ sở, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng
cán bộ là người dân tộc thiểu số, ưu tiên phát triển giáo dục, xây dựng đội ngũ cán
bộ là con em đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Đồng thời phát huy vai trò của các
nhân vật được tôn vinh trong cộng đồng chung sức xây dựng hệ thống chính trị
sở, tham gia xóa đói, giảm nghèo, giám sát việc thực hiện các chính sách dân tộc.
Cải thiện hạ tầng giáo dục: Đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp cơ sở vật
chất giáo dục ở các khu vực dân tộc, bao gồm trường học, phòng học, và thư
viện. Điều này giúp đảm bảo rằng học sinh có điều kiện học tập tốt.
Đào tạo giáo viên: Đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tại các
vùng dân tộc được học về văn hóa dân tộc và dạy bằng ngôn ngữ của dân tộc
đó. Cung cấp học bổng cho học sinh dân tộc tiêu biểu.
Tham gia cộng đồng: Tạo cơ hội cho các cộng đồng dân tộc tham gia vào
quá trình ra quyết định về các chính sách và dự án tác động đến cuộc sống
của họ. Thúc đẩy tư duy dân tộc và phát triển các cơ cấu tự quản trong cộng
đồng.
Đào tạo lãnh đạo cộng đồng: Đảm bảo rằng các lãnh đạo cộng đồng và cán
bộ quản lý được đào tạo và phát triển để họ có kiến thức về văn hóa dân tộc
và kỹ năng quản lý.
12
Thứ hai, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng cùng phát triển giữa các
dân tộc giúp tăng tính tích cực chính trị của công dân bằng cách làm cho các dân
tộc thiểu số nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Dân tộc, đoàn kết các
dân tộc,đoàn kết vì mục tiêu chung của dân tộc là độc lập và chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh tiếp tục thúc đẩy cuộc chiến chống
đói nghèo bền vững trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Huy động mọi nguồn
lực để phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, từng nơi
để đảm bảo an sinh cho cộng đồng. Các dân tộc thiểu số thể tận dụng thế mạnh
của địa phương làm giàu cho gia đình và xã hội xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất
giao thông nông thôn, thủy lợi, nước sinh hoạt, điện chiếu sáng các công trình
phúc lợi công cộng khác để phát triển nông, lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nông thôn mới. Tận dụng tiềm năng về đất
đai, khí hậu, khoáng sản, danhlam thắng cảnh, thế mạnh của từng địa điểm để phát
triển kinh tế - xã hội.
Khuyến khích đầu tư: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư
vào các dự án kinh tế ở các vùng dân tộc. Các dự án này có thể tập trung vào
nông nghiệp, du lịch, và sản xuất các sản phẩm đặc sản.
Hỗ trợ nông nghiệp và thương mại: Cung cấp vốn vay ưu đãi và đào tạo kỹ
thuật để nâng cao năng suất trong nông nghiệp. Tạo các chợ truyền thống và
thương mại địa phương để giúp người dân dân tộc tiếp cận thị trường và
tăng thu nhập từ các sản phẩm của họ.
Thứ ba, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc nói
chung và từng dân tộc nói riêng, đẩy mạnh xây dựng đô thị văn, gia đình văn hóa.
Xây dựng đầu trang thiết bị trung tâm hoạt động cộng đồng. Tổ chức nhiều
hoạt động lễ hội văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào các dân
tộc. Thực hiện phương thức “Nhà nước nhân dân cùng làm” trong xây dựng
thiết chế văn hóa, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” ở cơ sở.
Bảo tồn di sản văn hóa: Đầu tư vào việc bảo tồn và bảo vệ di sản văn hóa
dân tộc, bao gồm ngôn ngữ, phong tục, trang phục truyền thống, và các nghệ
thuật biểu diễn. Xây dựng các trung tâm văn hóa và viện bảo tàng để trưng
bày và lưu trữ các hiện vật quý báu của dân tộc.
Thúc đẩy giáo dục về văn hóa dân tộc: Tổ chức các lớp học và sự kiện để tạo
cơ hội cho người dân hiểu và trân trọng văn hóa của họ.
13
Thứ tư, tăng cường phòng thủ ở những vùng xâu vùng xa nơi tiếp giáp với các
nước trên thế giới. Quốc phòng phối hợp với nhân dân cùng nhau đứng lên bảo vệ
đất nước vùng biên giới. Thực hiện tốt chính sách đảm bảo an ninh chính trị quốc
gia an ninh xã hội.
Những giải pháp này cần được triển khai một cách kỹ lưỡng toàn diện, với sự
hợp tác chặt chẽ giữa các cấp quản lý, cộng đồng dân tộc, các tổ chức hội.
Điều này đòi hỏi sự cam kết dài hạn và tương tác đặc biệt với những người chịu tác
động trực tiếp của chính sách dân tộc. Dưới đây là một số điểm mấu chốt để xem
xét:
Sự tham gia của cộng đồng: Đảm bảo rằng cộng đồng dân tộc được tham gia
một cách tích cực trong quyết định về việc triển khai các chính sách dân tộc.
Cần tạo cơ hội cho họ để đưa ra ý kiến, đóng góp ý kiến, và tham gia vào
quy trình ra quyết định.
Theo dõi và đánh giá liên tục: Cần thiết thiết lập cơ chế theo dõi và đánh giá
chặt chẽ để đảm bảo rằng các chính sách dân tộc đang mang lại hiệu quả
thực sự và không gây ra tác động phụ không mong muốn. Các cuộc đánh giá
định kỳ sẽ giúp chính phủ điều chỉnh và cải thiện các chính sách nếu cần.
Truyền thông và giáo dục: Thông tin và giáo dục về chính sách dân tộc cần
được lan truyền rộng rãi trong cộng đồng. Điều này giúp tạo sự hiểu biết, tôn
trọng và ủng hộ từ phía cộng đồng.
Đồng thuận và hòa giải: Đôi khi, sự đồng thuận và hòa giải có thể cần thiết
để giải quyết xung đột trong cộng đồng dân tộc. Chính phủ có thể đóng vai
trò trung gian và hỗ trợ quá trình này.
Tích hợp và phối hợp chính sách: Chính phủ cần đảm bảo rằng các chính
sách dân tộc được tích hợp và phối hợp với các chính sách khác, bao gồm
chính sách kinh tế, xã hội và môi trường. Điều này giúp đảm bảo rằng các
cộng đồng dân tộc không bị cô lập và có quyền tham gia đầy đủ vào cuộc
sống xã hội và kinh tế chung.
Tóm lại, để thực hiện tốt chính sách dân tộc, cần phải một cách tiếp cận đa
chiều, toàn diệnbám sát thực tế của từng cộng đồng dân tộc cụ thể. Sự hợp tác
giữa chính phủ, cộng đồng dân tộccác tổ chức hội sẽ đóng một vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo rằng chính sách dân tộc được triển khai một cách hiệu
quả bền vững, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống đảm bảo quyền của
những người dân tộc thiểu số trong xã hội.
14
Với những kết quả đạt được trong thời gian qua, tin tưởng rằng với trách
nhiệm,quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc
trên địa bàn tỉnh, cùng sự phối hợp của các phòng, ban, phòng, ban, các xã thì tình
hình kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc trong tỉnh sẽ có những chuyển biến
mới, phát triển ổn định bền vững, nhân dân sẽ thêm đoàn kết giữ vững được
tiềm lực đất nước giúp đất nước ngày càng phát triển vững bước trên con đường
chủ nghĩa xã hội.
2.3 Quan điểm cá nhân về vấn đề dân tộc hiện nay.
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên, sinh viên cũng lực lượng
xã hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của
đất nước.
một sinh viên đang học tập trên giảng đường đại học, tôi nhận thấy việc cố
gắng học tập trau dồi kiến thức và rèn luyện bản thân là điều rất quan trọng.
kiến thức, hiểu biết chúng ta mới nhận thức được những vấn đề trong
cuộc sống liên quan đến chúng ta đặc biệt về vấn đề dân tộc. Có hiểu biết giúp
chúng ta biết thế nào là quyền bình đẳng, quyền tự quyết, liên hiệp giữa các dân
tộc tránh để các thế lực thù địch lợi dụng.
Bên cạnh đó lên án những hành vi thể hiện sự phân biệt vùng miền, phân biệt
giữa các dân tộc gây mất đi sự đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân.
Tích cực tuyên truyền những quan điểm của Đảng nhà nước về vấn đề dân
tộc đặc biệt những vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn
thiếu sót khá nhiều về giáo dục để họ nhận thức trước những chính sách
quan điểm của Đảng,nhận thức trước những hành vi lợi dụng để kích động
nhân dân làm việc sai trái.
Nêu cao sự đoàn kết của toàn dân tộc, tôn trọng những phong tục tập quán của
các dân tộc, kế thừa phát huy những nét đẹp truyền thống của họ làm đa dạng
thêm văn hóa của nước nhà.
Vấn đề dân tộc một chủ đề phức tạp đa chiều, quan điểm nhân về
vấn đề này thể đa dạng tuỳ thuộc vào từng người. Tuy nhiên, dưới đây
một quan điểm cá nhân tổng quát về vấn đề dân tộc hiện nay:
15
Tôi tin rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền được sống tự do, công
bằng bình đẳng. Quyền này bao gồm quyền tự do diễn đạt, quyền tham gia
vào quyết định chính sách, quyền truy cập vào giáo dục hội phát triển.
Đồng thời, tôi cho rằng chúng ta cần tôn trọng đánh giá cao sự đa dạng
đặc trưng của mỗi dân tộc.
Ngoài ra, tôi cho rằng xây dựng đối thoại và hợp tác giữa các dân tộc là cực kỳ
quan trọng. Chỉ thông qua việc thảo luận, hiểu và hợp tác, chúng ta thể giải
quyết những khác biệt xây dựng một cộng đồng đa văn hóa cởi mở. Đối
thoại cũng cách để giảm thiểu bất đồng phân biệt, tạo điều kiện cho sự
phát triển và thúc đẩy quan hệ dân tộc.
Tôi cũng cho rằng cần sự nhất quán công bằng trong việc áp dụng pháp
luật đối với tất cả các dân tộc. Tất cả mọi người đều cần được đối xử công bằng
và không phải chịu bất kỳ hình phạt hoặc phân biệt đối xử dựa trên dân tộc của
mình.
Cuối cùng, tôi ủng hộ việc giáo dục và tăng cường nhận thức về vấn đề dân tộc
để xóa bỏ những thành kiến và định kiến không chính xác. Chỉ qua sự hiểu biết
và thông tin đầy đủ, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng
và đa văn hóa.
16
PHẦN KẾT LUẬN
Sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu phân tích cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác-Lênin chúng ta thấy được tầm quan trọng của vấn đề dân tộc. Nội dung
của cương lĩnh đề cập đến ba quyền mà dân tộc nào cũng có đó là quyền bình đẳng
hoàn toàn giữa các dân tộc, quyền tự quyết của các dân tộc. Từ việc nghiên cứu
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin cho thấy mối liên hệ mật thiết với các
vấn đề dân tộc ngày nay như vấn đề kỳ thị, phân biệt chủng tộc hay vấn đề xung
đột căng thẳng giữa các nước từ đó thấy được sự đúng đắn, tiến bộ của cương lĩnh.
Trong thời điểm hiện tại, nhiều thế lực thù địch lối tưởng sai trái
gây kích động trong giữa các dân tộc với nhau, luôn tìm cách chống phá Đảng làm
kìm hãm sự phát triển đất nước, Đảng Nhà nước ta luôn chính sách giải
pháp kịp thời để ngăn chặn tình trạng trên, ổn định an ninh trật tự quốc gia, hòa
bình thựchiện chính sách khối đại đoàn kết dân tộc. Điều này cho thấy sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng nhà nước luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu
bên cạnh đó nhà nướcvẫn luôn cố gắng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. một
công dân của nước Việt Nam tôi mong muốn Đảng nhà nước tiếp tục phát huy
những điểm mạnh, hạn chếnhững tiêu cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước, tiếp tục giữ vững phát huy khối đại đoàn kết, mềm dẻo khôn khéo trong
sách lược để tiêu diệt các thế lực thù địch gây hại cho cho đất nước.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa khoa học xã hội (dành cho hệ Đại học không chuyên),
NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và nguyên tắc giải
quyết vấn đề dân tộc: https://luatminhkhue.vn/quan-diem-cua-chu-nghia-mac-
%E2%80%93-lenin-ve-van-de-dan-toc-va-nguyen-tac-giai-quyet-van-de-dan-
toc.aspx
3. Dân tộc là gì? Phân tích nội dung cơ bản “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa
Mac-Lênin: https://www.tailieuontap.com/2011/04/cau-22-dan-toc-la-gi-phan-tich-
noi-dung.html
4. Dân tộc và hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc :
https://voer.edu.vn/m/van-de-dan-toc-trong-qua-trinh-
xay-dung-chunghia-xa-hoi/22584e49
5. https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-dai-hoc-da-
nang/chu-nghia-xa-hoi-khoa-hoc/chuong-6/42806971
18
| 1/20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------o0o---------- TIỂU LUẬN VẤN ĐỀ DÂN TỘC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
GIÁO VIÊN: Trần Ngọc Chung NHÓM: Aphrodite TÊN: MSSV: Trần Thị Phương Anh 20109084 Vũ Đình Mạnh 21149263 Hoàng Duy Đăng 20124174 Vũ Thế Hùng 20142211 Nguyễn Thị Tuyết Mai 20110381 Nguyễn Gia Thịnh 20151004 Đặng Nguyễn Thanh Phong 22151133 1 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay, vấn đề dân tộc đang trở nên phức tạp với nhiều điểm nóng, các
cuộc chiến tranh vừa và nhỏ đều bắt đầu từ việc thất bại trong tạo ra tiếng nói
chung với các dân tộc... Do đó, vấn đề dân tộc có tính đặc thù quan trọng, liên
quan đến quốc gia -quốc tế, có tính thời sự cấp bách. Đây cũng là vấn đề vừa
chiến lược cơ bản, lâu dài và nhạy cảm của cách mạng nước ta.
Ở Việt Nam, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách đã và đang mang lại
hiệu quả tích cực trong vấn đề dân tộc, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
luôn đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Các phương diện về kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội, giáo dục và y tế ở vùng dân tộc thiểu số cũng có
những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, một số dân tộc hiện nay vẫn còn tồn tại những
vấn đề bất cập gây cản trở sự hòa nhập và phát triển của đồng bào, do đó đặt ra
cho chúng ta một yêu cầu cấp bách là phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu, kịp
thời để thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc, nhất là đời sống và văn hóa nhằm
gia tăng sự đoàn kết giữa các đồng bào, giảm nguy cơ xung đột xã hội, gây
bùng nổ dân tộc, mất ổn định chính trị - xã hội.
Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề liên quan tới các dân
tộc. Từ đó, nhóm chúng em chọn đề tài “Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ
lên xã hội chủ nghĩa. Thực trạng và giải pháp giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt
Nam hiện nay.” để phân tích rõ hơn về những hạn chế cũng như nguyên nhân
dẫn đến hạn chế đó và đề ra những biện pháp bền vững nhằm hoàn thiện chính
sách giúp giảm sự chênh lệch giữa các dân tộc và giải quyết những vấn đề dân
tộc lâu dài trong Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Làm rõ khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc.
- Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc.
- Đánh giá phân tích khách quan thực trạng giải quyết về về đề dân tộc ở Việt Nam. 2
- Đề xuất một số giải pháp. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc. 1.1 Khái niệm 1.2 HAi xu hướng kh
a. Khái niệm dân tộc
Theo nghĩa rộng, dân tộc (Nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng
người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, có nền kinh tế
thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với
nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu
tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa
này, những cộng đồng người được gọi là “dân tộc” là kết quả của sự phát triển hết
sức lâu dài của các cộng đồng người trong lịch sử nhân loại: từ cộng đồng thị tộc,
bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và phát triển lên hình thức tổ chức cộng đồng được
gọi là dân tộc. Đồng thời, sự hình thành dân tộc theo nghĩa này thường gắn với
hình thức tổ chức nhà nước vì thế cũng còn thường được gọi là “quốc gia – dân
tộc”. Ví dụ nói: “các quốc gia dân tộc châu Âu”…). Trong các tác phẩm kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm dân tộc thường được sử dụng theo nghĩa
này. Ví dụ, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam,...
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (Ethnie) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc
người được hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
chung ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau
bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng
đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của một quốc gia.
Chẳng hạn, Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng tộc người. Sự 3
khác nhau giữa các cộng đồng tộc người ấy biểu hiện chủ yếu ở đặc trưng văn hóa,
lối sống, tâm lý, ý thức tộc người.
b. Đặc trưng cơ bản của dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là quá trình phát triển lâu dài của
xã hội loài người, hay nói chung là họ nghĩ sự thay đổi của sản xuất phương thức là
một nguyên nhân đến sự thay đổi của cộng đồng dân tộc theo một cách lớn. Do đó,
đồng thời cộng thức thay đổi từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, lạc bộ và dân tộc,
về cơ bản cho thấy sự thay đổi của sản xuất phương thức là nguyên nhân dẫn đến
sự thay đổi của dân tộc cộng đồng.
Nếu như ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được xác lập thì ở phương đông, dân tộc được hình thành trên cơ sở một nền
văn hóa, một tâm lý dân tộc đã phát triển tương đối chín muồi và một cộng đồng
kinh tế tuy đã đạt tới mức độ nhất định nhưng vẫn còn phân tán và còn kém phát triển.
Có thể hiểu theo hai cách như sau:
Thứ nhất: Dân tộc (hay quốc gia dân tộc) là cộng đồng chính trị - xã hội, gồm
những đặc trưng cơ bản sau đây:
 Có cách thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, tạo nên nền
tảng vững chắc của dân tộc.
 Có lãnh thổ ổn định không bị chia cắt,là địa bàn sinh tồn và phát triển của cộng
đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải đảo,
vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc và thường được thể chế hoá
thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc một phần rất
quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
 Có một nhà nước quản lý.
 Có ngôn ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và trong
cộng đồng (bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết)
 Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của
nền văn hóa dân tộc.Đối với các quốc gia có nhiều tộc người thì tính thống nhất
trong đa dạng văn hóa là đặc trưng của nền văn hoá dân tộc 4
Thứ hai: Dân tộc – tộc người. Theo nghĩa này, dân tộc là cộng đồng người
được hình thành lâu dài trong lịch sử. Ba đặc trưng dưới đây được dùng làm tiêu
chí để xem xét và phân định các tộc người Việt Nam hiện nay:
 Cộng đồng về ngôn ngữ ((bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngôn ngữ nói):Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp được sử dụng trong một cộng
đồng. Các dân tộc trong một quốc gia có thể giao tiếp với nhiều ngôn ngữ khác
nhau, có những ngôn ngữ được sử dụng chung với nhiều dân tộc. Mỗi dân tộc
sẽ có một ngôn ngữ, từ vựng và cấu trúc ngữ pháp thống nhất để thể hiện đặc trưng của dân tộc đó.
Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn để luôn được
các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tộc người vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà
sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
 Cộng đồng về văn hóa (Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi
tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo của tộc người đó. ): Văn hóa là bản sắc riêng biệt của mỗi dân tộc, là yếu
tố quan trọng để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác. Văn
hóa dân tộc mang đầy tính đa dạng theo dòng lịch sử, được thể hiện thông qua
các phong tục tập quán, tín ngưỡng, thói quen và cách sống.
 Tự giác nhận thức của dân tộc, tiêu chí quan trọng nhất để phân định một dân
tộc, quyết định sự tồn tại và phát triển của từng tộc người.
Đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân
tộc mình; đó còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người
dù cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh
hưởng của giao lưu kinh tế, văn hóa... Sự hình thành và phát triển của ý thức tự
giác tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người.
=> Ba tiêu chí này tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát
triển. Đồng thời căn cứ vào ba tiêu chí này để xem xét và phân định các tộc người ở Việt Nam hiện nay.
Trong một quốc gia có nhiều tộc người, căn cứ vào số lượng của mỗi cộng đồng.
người ta phân thành tộc người đa số và tộc người thiểu số. Cách gọi này không căn
cứ vào trình độ phát triển của mỗi cộng đồng.
1.2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc. 5
Xu hướng thứ nhất là một cộng đồng muốn tách ra để hình thành cộng đồng
dân tộc độc lập
. Nguyên nhân là các cộng đồng dân cư đó có sự trưởng thành về ý
thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình.Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở các
quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà
các tộc người đó có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của
mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Vì họ
hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập, họ mới có quyền quyết định vận mệnh của
mình mà quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh
chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi
lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Vd: Và dân tộc Việt Nam là một trong những biểu hiện này, chúng ta bị bọn thực
dân Pháp, Đế quốc, phát xít đến đô hộ; chúng ta cần ý thức được về tinh thần đoàn
kết thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc VN, độc lập chính quyền của dân tộc
Việt Nam mà chúng ta đã đấu tranh giành lại
Xu hướng thứ hai, các dân tộc ở một hay thậm chí ở nhiều quốc gia muốn liên
hiệp lại với nhau
. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học, công nghệ,
của giao lưu kinh tế và văn hóa đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ ngăn cách giữa
các dân tộc xích lại gần nhau.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I. Lênin phát hiện đang
phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.
* Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:
+ Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và
phồn vinh của bản thân dân tộc mình
Ví dụ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng vĩ đại của lịch sử nước
nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã đoàn kết, anh dũng đứng lên
đấu tranh đánh đổ hoàn toàn chế độ đô hộ, áp bức, bóc lột hàng trăm năm của bọn
thực dân, phát xít, phong kiến đế lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mang
lại nền độc lập tự do nước nhà, xây dựng đất nước vững bước đi lên CNXH
+ Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng
quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. 6
Ví dụ: Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu nông
thôn bền chặt sớm xuất hiện để tạo ra một nền nông nghiệp, từ đó cùng nhau thúc
đẩy và phát triển nền kinh tế và đến nay được xem là nền kinh tế chủ yếu của Việt Nam
=> Ở các quốc gia XHCN, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất
cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa
các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.
* Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Bởi vì:
+ Xu hướng thứ nhất : Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng
dậy, xoá bỏ ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận
mệnh của dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong
những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh
chống CNĐQ và chính sách của chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức. Xu
hướng này cũng biểu hiện trong cuộc đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn
nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính
sách đồng hoá cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
Ví dụ: ta có thể thấy rõ xu hướng này được thể hiện trong các cuộc đấu tranh của
các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kì thị, phân biệt chủng tộc đang bị coi
là đối tượng của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản
+ Xu hướng thứ hai : Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại
gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã
được hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các
liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất định.
Ví dụ: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập với mục tiêu
đảm bảo hòa bình, ổn định, an ninh khu vực và tăng cường hợp tác kinh tế đã được
nhiều thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của một tổ chức vững mạnh, liên kết sâu
rộng và là đối tác quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế 7
1.3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách
mạng Nga những năm đầu thế kỷ XX, Lênin đã khái quái Cương lĩnh dân tộc như
sau: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp
công nhân tất cả các dân tộc lại.”
Một là: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền
lợi như nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong quan hệ xã hội
cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được
pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá do
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền tự quyết và xây
dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc. Để thực hiện được điều này,
trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, rồi từ đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc.
Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân
tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của
dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra
thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải
vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện
liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc
lập và quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Đối với
quyền này mà nói, việc thực hiện phải xuất phát từ thực tiễn và phải đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích của giai cấp công nhân. 8
Tự quyết dân tộc không có nghĩa là các tộc người thiểu số trong một quốc gia được
phép phân lập thành quốc gia độc lập.Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các âm
mưu, thủ đoạn củacác thế lực phản động.
Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính; là nền tảng vững chắc để
đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nội dung cũng được xem là giải pháp
quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền
bình đẳng dân tộc. Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công
nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một
chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần
yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó
phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
Chương 2. LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN
2.1 Đặc điểm dân tộc Việt Nam.
- Theo thống kê hiện nay có hơn 3.000 dân tộc anh em sinh sống ở khắp các
khuvực trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia thống nhất có chủ quyền với 54
dân tộc anh em. Kinh là dân tộc đa số chiếm 87% dân số cả nước còn lại là các dân
tộc thiểusố khác như Tày, Nùng, Dao, Thái, Mông,… trải dài trên cả nước. Nhiều ý
kiến đã được đưa ra về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Theo đó, có ý kiến cho
rằng nguồn gốc dân tộc của chúng ta là từ Trung Quốc hoặc Tây Tạng, những
người khác cho rằng nguồn gốc chính là từ các dân tộc bản địa Việt Nam.Tuy
nhiên, theo nghiên cứu gần đây, xét sự hình thành các tộc người Việt trong sự hình 9
thành các tộc người khác trong khu vực, có thể nói các tộc người Việt Nam đều có
chung một nguồn gốc, đó làngười Cổ Mã Lai.
Trước hết, có thể thấy Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc anh em. Đại
gia đình Việt Nam thống nhất hiện bao gồm 54 dân tộc anh em, dân số giữa các
dân tộc không đồng đều. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, còn lại là các dân tộc
thiểu số sống rải rác. Cả nước có 10 dân tộc có dân số từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn
người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân
tộc có dân số dưới 100 nghìn người, 16 dân tộc dưới 10.000 người và 1.000 người;
6 dân tộc có dưới 1.000 dân (Cống, Sila, Pupéo, Romm, Ơ Đu, Brâu).Cộng đồng
các dân tộc Việt Nam ngày nay là kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu
đời. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết. Không quan trọng già
trẻ, gái trai, dân tộc nào, miễn là người dânViệt Nam thì các dân tộc Việt Nam anh
em luôn đoàn kết một lòng một dạ. Trước chiến tranh, tất cả các quốc gia đã đoàn
kết chống lại dịch bệnh và bảo vệ tổ quốc. Ngày nay, trong thời bình, các dân tộc
cùng chung sức xây dựng và bảo vệ hòa bình dân tộc. Đoàn kết dân tộc và hòa hợp
dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống của dân tộc ta.
- Việt Nam là một quốc gia đa tộc người có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh có 73.594.341 người chiếm
85,7% dân số cả nước; 53 dân tộc thiểu số có 12.252.656 người, chiếm 14,3 % dân
số. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc thiểu số cũng không đồng đều, có dân tộc với số
dân lớn hơn 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Khơ me, Mông...), nhưng có dân tộc
với số dân chỉ vài ba trăm (Si la, Pu Péo, Rơ măm, Brâu, Ơ đu). Thực tế cho thấy
nếu một dân tộc mà số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho việc tổ
chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì và phát triển giống
nòi. Do vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt đối với
những dân tộc thiểu số rất ít người đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam có
những chính sách quan tâm đặc biệt
Thứ hai: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính
chất chuyển cử như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán,
xen kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người riêng. Vì
vậy, không có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một
địa bàn. Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một
nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen
kẽ nên trong quá trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, tạo kẽ hở 10
để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự
thống nhất của đất nước.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bổ chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú
trên những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi
trường sinh thái - đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất nước.
Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu
vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Khơme, dân tộc Hoa... do vậy, các
thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thứ tư: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội. Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội
của các dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các
dân tộc thiểu số Việt Nam ở những trình độ phát triển rất khác nhau: Một số ít các
dân tộc còn duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại
bộ phận các dân tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình độ dân trí, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của nhiều dân tộc thiểu số còn thấp. Chính sách của Đảng và
Nhà nước ta là thực hiện bình đẳng dân tộc, từng bước giảm, tiến tới xoá bỏ
khoảng cách phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thứ năm: Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong
cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất
Đặc trưng này được hình thành do yêu cầu của quá trình cải biến tự nhiên và nhu
cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân tộc Việt
Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết dính cao giữa các dân tộc.
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc
trong các giai đoạn lịch sử, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập thống
nhất Tổ quốc. Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổi quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát
huy nội lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác,
kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản gốc văn hóa riêng góp phần tạo nên sự phong phú,
đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có những
sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi các dân tộc đều có chung một lịch sử 11
dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một quốc gia độc lập, thống
nhất. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị - xã hội
rộng lớn và toàn diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
2.2 Đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể, nhằm thực hiện tốt chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cần thiết
phải áp dụng một loạt giải pháp cụ thể và toàn diện để đảm bảo rằng người dân tộc
thiểu số được hưởng mọi quyền và lợi ích bình đẳng trong xã hội. Dưới đây là một
phân tích chi tiết về các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển và bảo vệ
quyền của dân tộc thiểu số:
Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc
thực hiện chính sách dân tộc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về các nghị quyết
của Đảng về vấn đề dân tộc. xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và đẩy mạnh
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng
cán bộ là người dân tộc thiểu số, ưu tiên phát triển giáo dục, xây dựng đội ngũ cán
bộ là con em đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Đồng thời phát huy vai trò của các
nhân vật được tôn vinh trong cộng đồng chung sức xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở, tham gia xóa đói, giảm nghèo, giám sát việc thực hiện các chính sách dân tộc.
 Cải thiện hạ tầng giáo dục: Đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp cơ sở vật
chất giáo dục ở các khu vực dân tộc, bao gồm trường học, phòng học, và thư
viện. Điều này giúp đảm bảo rằng học sinh có điều kiện học tập tốt.
 Đào tạo giáo viên: Đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tại các
vùng dân tộc được học về văn hóa dân tộc và dạy bằng ngôn ngữ của dân tộc
đó. Cung cấp học bổng cho học sinh dân tộc tiêu biểu.
 Tham gia cộng đồng: Tạo cơ hội cho các cộng đồng dân tộc tham gia vào
quá trình ra quyết định về các chính sách và dự án tác động đến cuộc sống
của họ. Thúc đẩy tư duy dân tộc và phát triển các cơ cấu tự quản trong cộng đồng.
 Đào tạo lãnh đạo cộng đồng: Đảm bảo rằng các lãnh đạo cộng đồng và cán
bộ quản lý được đào tạo và phát triển để họ có kiến thức về văn hóa dân tộc và kỹ năng quản lý. 12
Thứ hai, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và cùng phát triển giữa các
dân tộc giúp tăng tính tích cực chính trị của công dân bằng cách làm cho các dân
tộc thiểu số nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Dân tộc, đoàn kết các
dân tộc,đoàn kết vì mục tiêu chung của dân tộc là độc lập và chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh tiếp tục thúc đẩy cuộc chiến chống
đói nghèo bền vững trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Huy động mọi nguồn
lực để phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, từng nơi
để đảm bảo an sinh cho cộng đồng. Các dân tộc thiểu số có thể tận dụng thế mạnh
của địa phương làm giàu cho gia đình và xã hội xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là
giao thông nông thôn, thủy lợi, nước sinh hoạt, điện chiếu sáng và các công trình
phúc lợi công cộng khác để phát triển nông, lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nông thôn mới. Tận dụng tiềm năng về đất
đai, khí hậu, khoáng sản, danhlam thắng cảnh, thế mạnh của từng địa điểm để phát triển kinh tế - xã hội.
 Khuyến khích đầu tư: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư
vào các dự án kinh tế ở các vùng dân tộc. Các dự án này có thể tập trung vào
nông nghiệp, du lịch, và sản xuất các sản phẩm đặc sản.
 Hỗ trợ nông nghiệp và thương mại: Cung cấp vốn vay ưu đãi và đào tạo kỹ
thuật để nâng cao năng suất trong nông nghiệp. Tạo các chợ truyền thống và
thương mại địa phương để giúp người dân dân tộc tiếp cận thị trường và
tăng thu nhập từ các sản phẩm của họ.
Thứ ba, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc nói
chung và từng dân tộc nói riêng, đẩy mạnh xây dựng đô thị văn, gia đình văn hóa.
Xây dựng và đầu tư trang thiết bị trung tâm hoạt động cộng đồng. Tổ chức nhiều
hoạt động lễ hội văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào các dân
tộc. Thực hiện phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong xây dựng
thiết chế văn hóa, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” ở cơ sở.
 Bảo tồn di sản văn hóa: Đầu tư vào việc bảo tồn và bảo vệ di sản văn hóa
dân tộc, bao gồm ngôn ngữ, phong tục, trang phục truyền thống, và các nghệ
thuật biểu diễn. Xây dựng các trung tâm văn hóa và viện bảo tàng để trưng
bày và lưu trữ các hiện vật quý báu của dân tộc.
 Thúc đẩy giáo dục về văn hóa dân tộc: Tổ chức các lớp học và sự kiện để tạo
cơ hội cho người dân hiểu và trân trọng văn hóa của họ. 13
Thứ tư, tăng cường phòng thủ ở những vùng xâu vùng xa nơi tiếp giáp với các
nước trên thế giới. Quốc phòng phối hợp với nhân dân cùng nhau đứng lên bảo vệ
đất nước vùng biên giới. Thực hiện tốt chính sách đảm bảo an ninh chính trị quốc gia an ninh xã hội.
Những giải pháp này cần được triển khai một cách kỹ lưỡng và toàn diện, với sự
hợp tác chặt chẽ giữa các cấp quản lý, cộng đồng dân tộc, và các tổ chức xã hội.
Điều này đòi hỏi sự cam kết dài hạn và tương tác đặc biệt với những người chịu tác
động trực tiếp của chính sách dân tộc. Dưới đây là một số điểm mấu chốt để xem xét:
 Sự tham gia của cộng đồng: Đảm bảo rằng cộng đồng dân tộc được tham gia
một cách tích cực trong quyết định về việc triển khai các chính sách dân tộc.
Cần tạo cơ hội cho họ để đưa ra ý kiến, đóng góp ý kiến, và tham gia vào quy trình ra quyết định.
 Theo dõi và đánh giá liên tục: Cần thiết thiết lập cơ chế theo dõi và đánh giá
chặt chẽ để đảm bảo rằng các chính sách dân tộc đang mang lại hiệu quả
thực sự và không gây ra tác động phụ không mong muốn. Các cuộc đánh giá
định kỳ sẽ giúp chính phủ điều chỉnh và cải thiện các chính sách nếu cần.
 Truyền thông và giáo dục: Thông tin và giáo dục về chính sách dân tộc cần
được lan truyền rộng rãi trong cộng đồng. Điều này giúp tạo sự hiểu biết, tôn
trọng và ủng hộ từ phía cộng đồng.
 Đồng thuận và hòa giải: Đôi khi, sự đồng thuận và hòa giải có thể cần thiết
để giải quyết xung đột trong cộng đồng dân tộc. Chính phủ có thể đóng vai
trò trung gian và hỗ trợ quá trình này.
 Tích hợp và phối hợp chính sách: Chính phủ cần đảm bảo rằng các chính
sách dân tộc được tích hợp và phối hợp với các chính sách khác, bao gồm
chính sách kinh tế, xã hội và môi trường. Điều này giúp đảm bảo rằng các
cộng đồng dân tộc không bị cô lập và có quyền tham gia đầy đủ vào cuộc
sống xã hội và kinh tế chung.
Tóm lại, để thực hiện tốt chính sách dân tộc, cần phải có một cách tiếp cận đa
chiều, toàn diện và bám sát thực tế của từng cộng đồng dân tộc cụ thể. Sự hợp tác
giữa chính phủ, cộng đồng dân tộc và các tổ chức xã hội sẽ đóng một vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo rằng chính sách dân tộc được triển khai một cách hiệu
quả và bền vững, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo quyền của
những người dân tộc thiểu số trong xã hội. 14
Với những kết quả đạt được trong thời gian qua, tin tưởng rằng với trách
nhiệm,quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc
trên địa bàn tỉnh, cùng sự phối hợp của các phòng, ban, phòng, ban, các xã thì tình
hình kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc trong tỉnh sẽ có những chuyển biến
mới, phát triển ổn định và bền vững, nhân dân sẽ thêm đoàn kết giữ vững được
tiềm lực đất nước giúp đất nước ngày càng phát triển vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội.
2.3 Quan điểm cá nhân về vấn đề dân tộc hiện nay.
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên, sinh viên cũng là lực lượng
xã hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước.
Là một sinh viên đang học tập trên giảng đường đại học, tôi nhận thấy việc cố
gắng học tập trau dồi kiến thức và rèn luyện bản thân là điều rất quan trọng.
Có kiến thức, có hiểu biết chúng ta mới nhận thức được những vấn đề trong
cuộc sống liên quan đến chúng ta đặc biệt về vấn đề dân tộc. Có hiểu biết giúp
chúng ta biết thế nào là quyền bình đẳng, quyền tự quyết, liên hiệp giữa các dân
tộc tránh để các thế lực thù địch lợi dụng.
Bên cạnh đó lên án những hành vi thể hiện sự phân biệt vùng miền, phân biệt
giữa các dân tộc gây mất đi sự đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân.
Tích cực tuyên truyền những quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề dân
tộc đặc biệt ở những vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn
thiếu sót khá nhiều về giáo dục để họ có nhận thức trước những chính sách
quan điểm của Đảng, có nhận thức trước những hành vi lợi dụng để kích động
nhân dân làm việc sai trái.
Nêu cao sự đoàn kết của toàn dân tộc, tôn trọng những phong tục tập quán của
các dân tộc, kế thừa phát huy những nét đẹp truyền thống của họ làm đa dạng
thêm văn hóa của nước nhà.
Vấn đề dân tộc là một chủ đề phức tạp và đa chiều, và quan điểm cá nhân về
vấn đề này có thể đa dạng tuỳ thuộc vào từng người. Tuy nhiên, dưới đây là
một quan điểm cá nhân tổng quát về vấn đề dân tộc hiện nay: 15
Tôi tin rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền được sống tự do, công
bằng và bình đẳng. Quyền này bao gồm quyền tự do diễn đạt, quyền tham gia
vào quyết định chính sách, quyền truy cập vào giáo dục và cơ hội phát triển.
Đồng thời, tôi cho rằng chúng ta cần tôn trọng và đánh giá cao sự đa dạng và
đặc trưng của mỗi dân tộc.
Ngoài ra, tôi cho rằng xây dựng đối thoại và hợp tác giữa các dân tộc là cực kỳ
quan trọng. Chỉ thông qua việc thảo luận, hiểu và hợp tác, chúng ta có thể giải
quyết những khác biệt và xây dựng một cộng đồng đa văn hóa và cởi mở. Đối
thoại cũng là cách để giảm thiểu bất đồng và phân biệt, tạo điều kiện cho sự
phát triển và thúc đẩy quan hệ dân tộc.
Tôi cũng cho rằng cần có sự nhất quán và công bằng trong việc áp dụng pháp
luật đối với tất cả các dân tộc. Tất cả mọi người đều cần được đối xử công bằng
và không phải chịu bất kỳ hình phạt hoặc phân biệt đối xử dựa trên dân tộc của mình.
Cuối cùng, tôi ủng hộ việc giáo dục và tăng cường nhận thức về vấn đề dân tộc
để xóa bỏ những thành kiến và định kiến không chính xác. Chỉ qua sự hiểu biết
và thông tin đầy đủ, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng và đa văn hóa. 16 PHẦN KẾT LUẬN
Sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác-Lênin chúng ta thấy được tầm quan trọng của vấn đề dân tộc. Nội dung
của cương lĩnh đề cập đến ba quyền mà dân tộc nào cũng có đó là quyền bình đẳng
hoàn toàn giữa các dân tộc, quyền tự quyết của các dân tộc. Từ việc nghiên cứu
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin cho thấy mối liên hệ mật thiết với các
vấn đề dân tộc ngày nay như vấn đề kỳ thị, phân biệt chủng tộc hay vấn đề xung
đột căng thẳng giữa các nước từ đó thấy được sự đúng đắn, tiến bộ của cương lĩnh.
Trong thời điểm hiện tại, dù có nhiều thế lực thù địch có lối tư tưởng sai trái
gây kích động trong giữa các dân tộc với nhau, luôn tìm cách chống phá Đảng làm
kìm hãm sự phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn có chính sách và giải
pháp kịp thời để ngăn chặn tình trạng trên, ổn định an ninh trật tự quốc gia, hòa
bình và thựchiện chính sách khối đại đoàn kết dân tộc. Điều này cho thấy sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng và nhà nước luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu
bên cạnh đó nhà nướcvẫn luôn cố gắng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Là một
công dân của nước Việt Nam tôi mong muốn Đảng và nhà nước tiếp tục phát huy
những điểm mạnh, hạn chếnhững tiêu cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước, tiếp tục giữ vững và phát huy khối đại đoàn kết, mềm dẻo khôn khéo trong
sách lược để tiêu diệt các thế lực thù địch gây hại cho cho đất nước. 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa khoa học xã hội (dành cho hệ Đại học không chuyên),
NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và nguyên tắc giải
quyết vấn đề dân tộc: https://luatminhkhue.vn/quan-diem-cua-chu-nghia-mac-
%E2%80%93-lenin-ve-van-de-dan-toc-va-nguyen-tac-giai-quyet-van-de-dan- toc.aspx
3. Dân tộc là gì? Phân tích nội dung cơ bản “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa
Mac-Lênin: https://www.tailieuontap.com/2011/04/cau-22-dan-toc-la-gi-phan-tich- noi-dung.html
4. Dân tộc và hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc :
https://voer.edu.vn/m/van-de-dan-toc-trong-qua-trinh-
xay-dung-chunghia-xa-hoi/22584e49
5. https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-dai-hoc-da-
nang/chu-nghia-xa-hoi-khoa-hoc/chuong-6/42806971 18