lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN 1
Thực tế lịch sử hình thành và phát triển cho thấy có sự liên hệ chặt chẽ ngay từ
đầu giữa Kinh tê Chính trị Mác – Lênin với hệ thống các lí thuyết Kinh tế tiền đề.
Bằng những lập luận dựa trên bằng chứng lịch sử, hãy phân tích về sự liên hệ đó.
Bài làm
I. Một số khái niệm, thuật ngữ chuyên ngành.
- Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) (XV -XVII) giai đoạn này phương thức bản
Chủ nghĩa (TBCN) thay thế phương thức Phong kiến (PK) tạo tiền đề để cho sự phát triển
tính hệ thống của Kinh tế - Chính trị (KTCT). CNTT hệ thống lí luận của KKTCT đầu
tiên nghiên cứu về nền sản xuất TBCN, CNTT coi trọng vai trò hoạt động thương mại đặc
biệt là ngoại thương → Ngoại thương đem lại sự giàu có của quốc gia Tư bản Bước tiến
so với thời kì trung cổ.
- Chủ nghĩa trọng nông (CNTN) (giữa XVII - nửa đầu XVIII) nhấn mạnh vai trò
sản xuất nông nghiệp, coi trọng sở hữu tư nhân và tự do kinh tế.
- Kinh tế Chính trị Tư sản Cổ điển Anh (cuối XVII cuối XVIII) trình bày hệ thống
các giá trị văn hoá (ví dụ hàng hoá, tiền tệ...) rút ra quy luật vận động của nền kinh tế thị
trường.
II. Hệ thống lí thuyết kinh tế - chính trị tiền đề.
1. Antoine de Montchrestien.
a. Đôi nét về Antoine de Montchrestien (khoảng 1575 - 1621):
- Là một người lính Pháp, nhà viết kịch, nhà thám hiểm và nhà kinh tế học.
- một nhà kinh tế, tư tưởng ông thuộc trào lưu tư tưởng trọng thương, nhưng cũng
đã báo trước một số chủ đề của tưởng cổ điển. Ông tác giả của một cuốn sách duy nhất,
Chuyên luận về kinh tế học chính trị, được viết một cách thanh lịch không kém các vở bi kịch
của ông. Ông là nhà văn đầu tiên sử dụng thuật ngữ "kinh tế học chính trị" trong tựa sách của
mình, được áp dụng cho đến cuối thế kỷ XX để chỉ một ngành học mà sau này người ta gọi là
"kinh tế học", tiếng Anh là “economics”, và tiếng Pháp là “science économique”.
b. Thuật ngữ “Khoa học Kinh tế Chính trị” xuất hiện lần đầu tiên; Tư tưởng
Kinh tế ti của Antoine de Montchrestien:
- Đối với nhà triết học Hy Lạp, kinh tế, một hoạt động mà mục đích cuối cùng nhắm
chủ yếu đến những vấn đề gia đình, phụ thuộc vào chính trị. Montchrestien trái lại tin rằng
hai chiều kích trên của hoạt động con người gắn với nhau về thực chất một cách nh
đẳng. Kinh tế là chính trị, do đó có tựa ông đặt cho cuốn sách của ông: "khoa học nhằm có
được của cải [...] một khoa học chung cho các chính thể cộng hòa cũng như gia đình". Ông
trách Aristote và các triết gia Hy Lạp đã ưu tiên cho sự ngẫm nghĩ, đối lập với hành động.
Ngược lại ông cho rằng các thần dân của triều đình phải năng động, rằng không thành
phần nào trong chính quyền được nhàn rỗi: "Con người được sinh ra để lao động liên tục".
Sự nhàn rỗi là một mối đe dọa cho sự ổn định của xã hội: "Nhàn vi cư bất thiện (con người
không có việc gì làm, quá rỗi rãi thì dễ sinh ra làm điều sai trái, bậy bạ)".
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
- Lao động là cội nguồn của sự giàu có, và sự giàu có cội nguồn của hạnh phúc con
người. Montchrestien nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự phân công lao động, nguyên
gốc của sự tăng trưởng năng suất. Để minh họa cho sự phân công lao động này, ông đặt
song song cái ông gọi quan nhà nước thể con người. Với gan máu nuôi
dưỡng thể, ông so sánh người nông dân người lao động làm ruộng. Tương ứng với
tim, nguồn gốc của thân nhiệt tự nhiên, các nghệ nhân thợ thủ công. Tương ứng với
não, điều khiển thao tác của toàn bộ cơ thể, thương nhân. Thương gia nhân vật chính
trong nền kinh tế theo cái nhìn của Montchrestien. Ông đã thừa nhận rằng thương gia cũng
cần thiết như những người lao động, binh lính và thẩm phán.
- Hàng hóa được sản xuất để được tiêu dùng. Tuy nhiên, muốn tiêu dùng được phải
thông qua bán hàng. Đây là do tại sao thương mại, theo Montchrestien, là hoạt động kinh
tế chính. Không thương mại, thì không kinh tế: "Thương mại theo một cách nào đó
mục đích chính của nhiều ngành nghề, hầu hết con người phục vụ người khác chỉ
theo cách này". Và động cơ của thương mại là lợi nhuận. Không có triển vọng về thu nhập,
thì không nền kinh tế nào khả thi: "Người ta cũng phải thừa nhận tình yêu lợi nhuận
và cuộc săn tìm lợi nhuận [...] bởi vì, nếu không ham muốn và khát khao kiếm lời, đầu
cơ khiến con người lao vào mọi may rủi, thì con người sẽ mất đi ý chí tự phơi mình trước
khối điều phiền toái từ đất đai và khối vụ đắm tàu trên biển". Sự thịnh vượng của các thành
phố thương mại ở Italia và Hà Lan xuất phát từ việc thương nhân chiếm vị trí hàng đầu về
danh giá uyn trong các thành phố này. Ngoài ra thu nhập còn gắn với cạnh tranh, mà
khi gắn với tư lợi, là một động lực cần thiết để kích thích hoạt động kinh tế.
- Tất nhiên, cũng khả năng xảy ra những việc quá đáng, các thương nhân,
quáng và lầm lạc bởi ánh lấp lánh của vàng, bị chi phối bởi lòng ham muốn cá nhân hơn là
vì lợi ích chung. Montchrestien lên án hàng xa xỉ quá mức, nhưng nói thêm rằng sự giàu
không nhất thiết điều phi đạo đức. Người ta nói rằng những người trọng thương nhầm
lẫn sự giàu có với kim loại quý. Đây không phải trường hợp của Montchrestien, theo ông
sự giàu của một đất nước nằm các sản phẩm nông nghiệp công nghiệp, những
thứ này được là do lao động: "Không phải có nhiều vàng bạc, có nhiều ngọc trai
kim cương, làm cho các quốc gia giàu và sang trọng: chính sự sắp xếp lại những
thứ cần thiết cho cuộc sống và quần áo sạch sẽ".
Nhà nước và chủ nghĩa bảo hộ
- Chủ nghĩa trọng thương còn được đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc kinh tế chủ
nghĩa bảo hộ. Về điểm này, Montchrestien một trong những người đại diện hùng hồn
nhất của trường phái tưởng này. Ông phân biệt thương mại "trong nước" "ngoài nước".
Cả hai kiểu thương mại này đều cần thiết cả, nhưng cách thức chúng hoạt động mục đích
cuối cùng của chúng lại hoàn toàn khác nhau. Thương mại trong nước diễn ra giữa các
nhân không dẫn đến việc chuyển nhượng sự giàu có, đá quý cho công chúng. Kiểu
thương mại thứ hai diễn ra giữa các quốc gia với nhau, rủi ro nhiều hơn không phải
trò chơi tổng bằng không: “Người thua bao giờ cũng mất phần mà người thắng được". Theo
Montchrestien, chỉ nên mua nước ngoài, những không thể sản xuất được trong ớc.
Và phải bán nhiều hơn mua. Ngoài ra để kinh doanh với nước ngoài, thì cần phải sử dụng
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
tài sản trong nước, chẳng hạn như tàu thuyền. Ông dành một phần quan trọng trong cuốn
sách của ông để trình bày tất cả những biện pháp bảo hộ thể tưởng tượng được, và những
lập luận để biện minh cho những biện pháp đó.
- Vàng và bạc, có được nếu bán được nhiều hàng hơn là mua hàng từ nước ngoài, là
những thứ rất hữu ích, đặc biệt để đảm bảo quyền lực của đất nước. Chiến tranh, tức việc
theo đuổi cạnh tranh thương mại bằng khí, phải được tiến hành bởi những đội quân được
huấn luyện bài bản. Phải trả lương cho binh lính trả tiền để trang bị cho họ. Đó là lý do
tại sao - một lần nữa Montchrestien đề xuất đổi mới về mặt ngữ nghĩa - "Tiền động lực
của chiến tranh [...]. Vàng được biết qua rất nhiều lần cứng hơn sắt". Chiến tranh, bên
cạnh lao động, là một cách để giữ cho những người dân bận rộn và đảm bảo hòa bình trong
nước. Chiến tranh cũng là một cách để chiếm hữu thuộc địa mà nếu không làm như vậy sẽ
rơi vào tay các đối thủ của Pháp.
- Cuốn sách của Montchrestien được viết dưới hình thức một bức thư gửi cho nhà
vua để giải thích cách thức để nước Pháp làm giàu và ổn định trật tự hội. Là người ủng
hộ chế độ quân chủ tuyệt đối, Montchrestien xem quân vương là người cha trong gia đình,
chịu trách nhiệm đảm bảo sức khỏe của cơ thể xã hội, gắn với sự cân bằng và hài hòa giữa
nhiều thành phần hội khác nhau trong đó. Sức mạnh của nhà nước gắn với sự giàu có,
và sự giàu này lại phụ thuộc vào sự giàu của các đối tượng làm giàu, đặc biệt các
thương gia. Logic này Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống Eisenhower, Charles
Wilson, thẳng thừng thể hiện năm 1952: "Những tốt cho đất nước đều tốt cho General
Motors, và những tốt cho GM đều tốt cho Hoa Kỳ." Giống như hầu hết các tác giả theo
thuyết trọng thương, Montchrestien cũng tin rằng bản thân nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc tạo điều kiện cho các thần dân làm giàu. Chủ nghĩa trọng thương tính can
thiệp. Do đó, Nhà nước phải có trách nhiệm quy định hóa các ngành nghề, đảm bảo sao cho
mọi người đều có công ăn việc làm và xây dựng các chính sách bảo hộ.
2. Adam Smith
a. Đôi nét về Adam Smith (16/6/1723 – 17/7/1790):
- Là một nhà triết học xã hội xuất sắc và là nhà tiên phong của nền kinh tế thị trường
tự do.
- Ông có rất nhiều tác phẩm (190 tác phẩm). Nhưng Adam Smith nổi tiếng với 2 tác
phẩm khuôn mẫu (classic):
Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức (1759)
Điều tra về Bản chất Nguyên nhân của sự Giàu của các Quốc gia (1776).
Vềsau, tựa của cuốn sách này thường được viết tắt SGiàu của các Quốc gia (The
Wealth of Nations), được coi là kiệt tác của ông và là công trình đầu tiên của kinh tế học
tân thời.
- Adam Smith, được coi là cha đẻ của hệ thống kinh tế thị trường tự do. Quan điểm
của ông về bản chất của con người hội rất thiết thực. Ông tin rằng lợi hợp (the
rational self-interest) của cá nhân động cơ thúc đẩy xã hội giải quyết các vấn đề do tình
trạng khan hiếm tạo ra. Ông cũng cho rằng khi tư lợi cá nhân được tôn trọng, cả xã hội sẽ
đạt được những lợi ích tối hảo. Ông viết:
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
"Không phải vì lòng nhân từ của người bán thịt, người sản xuất la-ve (bia), hoặc người
làm bánh mà ta mong có cho bữa ăn của ta; nhưng chỉ vì cái tư lợi của chính họ."
- Về thế giới quan và phương pháp luận của Adam Smith cơ bản là thế giới quan duy
vật nhưng còn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp còn song song tồn tại cả
hai phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết
kinh tế tư sản sau này.
- Học thuyết của Adam Smith một trong những học thuyết tiếng vang lớn,
trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách
quan. Học thuyết kinh tế của ông cương nh ràng về chính sách kinh tế, lợi cho
giai cấp tư sản trong nhiều năm.
b. Tư tưởng Kinh tế của Adam Smith
- tưởng đầy quyền lực của các nhà trí thức phổ biến rộng rãi qua sách vở hệ
thống truyền thông ảnh hưởng to lớn, không chđối với các cộng đồng trí thức còn
đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Những tư tưởng này có ảnh hưởng sâu rộng đến vận
mệnh của xã hội và cả một nền văn minh.
- tưởng kinh tế của Adam Smith được phổ biến trong hậu bán thế kỷ 18 đã trở
thành nền tảng của hệ thống kinh tế thị trường tự do, đưa đến sự thịnh vượng cho nhiều
quốc gia phát triển hiện nay.
i. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về "bàn tay vô hình"
tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của A.Smith, nội dung bản
đề cao vai trò của nhân, ca ngợi chế tự điều tiết của kinh tế thị trường, thực hiện do
cạnh tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và nhà nước không can thiệp vào kinh tế.
- Điểm quan trọng của lý thuyết này là Adam Smith đưa ra phạm trù con người kinh
tế. Ông quan niệm khi chạy theo lợi thì "con người kinh tế" còn chịu sự tác động của
"bàn tay vô hình".
- "Bàn tay hình" sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan, ông cho rằng
chính các quy luật kinh tế khách quan là một "trật tự tự nhiên". Để có sự hoạt động của trật
tự tự nhiên thì cần phải những điều kiện nhất định. Đó sự tồn tại, phát triển của sản
xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá.
- Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Ông cho rằng cần phải tôn
trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế,
hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó.
Tóm lại hội muốn giàu thì phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do. Chủ nghĩa
"Laisse-fảie" tức là "Mặc kệ nó".
ii. Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư
sản
- Ông phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến, theo ông "các đại biểu
được kính trọng nhất trong hội" như: nhà vua, quan lại, quan, thầy tu... cũng giống
như những người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả.
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
- Ông phê phán chế độ thuế khoá độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ
thuế thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích luỹ của nông dân.
- Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó "thể
chế dã man" ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp.
- Ông bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mỳ gây khó khăn cho sản xuất nông
nghiệp.
- Ông vạch rõ tính chất vô lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính
chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ "không bình thường": là sản phẩm của
sự độc đoán, ngẫu nhiên dốt nát của con người, đó một chế độ trái với trật tự ngẫu
nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nền kinh tế bình
thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch.
iii. Phê phán chủ nghĩa trọng thương
- Adam Smith người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ
nghĩa trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là niệm quan trọng bậc
nhất để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ. Theo
ông, sự giàu không phải chỗ tiền chỗ người ta thể mua được cái với
tiền. Ông cho rằng lưu thông hàng hoá chỉ thu hút được một số tiền nhất định không bao
giờ dung nạp quá số đó.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thương
cách làm giàu bằng cách trao đổi không ngang giá. Ông cho rằng việc nâng cao tỷ suất lợi
nhuận trong thương nghiệp bằng độc quyền thương nghiệp sẽ làm chậm việc cải tiến sản
xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông
cho rằng chức năng của nnước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù...nhà nước thể
thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp riêng
lẻ như xây dựng đường sá, sông ngòi các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát triển
kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước.
iv. Phê phán chủ nghĩa trọng nông
- Mục tiêu phê phán của ông đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nông về tính
chất đặc biệt của nông nghiệp, và phá vỡ những luận điểm kỳ lạ của họ về tính chất không
sản xuất của công nghiệp.
- Ông phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường
là giai cấp không sản xuất.
- Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp một ngành sản
xuất vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ tư bản...
v. Lý luận về thuế khoá
- Adam Smith là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khoá của giai cấp tư sản,
chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của
nhà nước thể từ hai nguồn: một từ quỹ đặc biệt của nhà nước, bản đem lại lợi
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt nguồn từ địa tô. lợi
nhuận, tiền công.
- Ông đưa ra bốn nguyên tắc để thu thuế:
Các thần dân phải nghĩa vụ nuôi chính phủ, "tuỳ theo khả năng sức lực của
mình".
Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác.
Chỉ thu vào thời gian thuận tiện, và với phương thức thích hợp.
Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế.
- Ông đưa ra hai loại thuế phải thu: đó là thuế trực thu và thuế gián thu:
Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền công, và tài
sản kế thừa.
Thuế gián thu, ông cho rằng không nên đánh thuế vào các vật phẩm tiêu dùng thiết
yếu, nên đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người "sống trung
bình hoặc cao hơn trung bình".
vi. Lý luận về kinh tế hàng hoá -
Lý luận về phân công lao
động:
- Lý luận về tiền tệ:
- Lý luận về giá trị - lao động Xét hàng hoá trao đổi với lao
động.
Xét trao đổi hàng hoá với hàng hoá.
Xét trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ.
- Lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn có hạn chế, đó là:
- Lý luận về tư bản:
- Lý luận về thu nhập:
- Lý luận về tiền lương:
- Lý luận về lợi nhuận, lợi tức:
- Lý luận về địa tô:
- Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội vii. Lý thuyết về "lợi thế so sánh"
- Adam Smith là người đưa lý thuyết về "lợi thế tuyệt đối". Ông cho rằng, việc buôn
bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này có
lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược lại quốc gia khác
lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai nước
đều lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chuyên môn hoá sản xuất loại
hàng hoá mà họ có lợi thế hơn.
- Nhưng trong thực tế hiện tượng này không nhiều, bởi vậy lý thuyết này của Adam
Smith có những điểm hạn chế, về sau chính Ricardo là người phát triển lý thuyết về lợi
thế tuyệt đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh.
- Những tưởng của A.Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả phương pháp khoa
học và phương pháp tầm thường song ông đã xác định được nhiệm vụ của kinh tế chính
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
trị học, đã đưa các tưởng kinh tế từ trước đó trở thành hệ thống, là một trong những
đỉnh cao của tư tưởng xã hội thế kỷ XVIII.
III. Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
1. Sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Khái niệm kinh tế chính trị: một môn KHKT mục đích nghiên cứu là tìm ra
các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh tế của
người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của xã hội
- Cơ sở hình thành của Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Bối cảnh lịch sử
Cơ sở lý luận
- Khái quát các giai đoạn hình thành và phát triển của Kinh tế chính trị Mác- Lênin
Giai đoạn C.Mác, Ph.Ăngghen: những nội dung cơ bản và thành tựu chủ yếu
Giai đoạn V.I.Lênin: những nội dung cơ bản và thành tựu chủ yếu
Giai đoạn từ sau V.I.Lênin đến nay: những nội dung cơ bản và thành tựu chủ yếu
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin là cuộc cách mạng trong lịch sử nhận thức về kinh tế
Cuộc cách mạng trong nhận thức về kinh tế chính trị của Mác – Ăngghen
Sự bổ sung phát triển KTCT mang tính cách mạng của Lênin
2. Vị trí, vai trò của kinh tế chính trị Mác – Lênin trong nền tảng tư tưởng của
Đảng cộng sản Việt Nam
- Nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam và các yếu tố cấu thành
Nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
Các bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Vị trí của kinh tế chính trị Mác – Lênin trong nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản
Việt Nam
Tạo nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
Tạo nền tảng sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng
cộng sản Việt Nam
- Vai trò của kinh tế chính trị Mác Lênin trong nền tảng tưởng của Đảng cộng
sản Việt Nam
Góp phần làm sáng tỏ bản chất các vấn đề kinh tế chính trị
Góp phần làm mới duy trong cuộc đấu tranh giành chính quyền đổi mới
duy phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập
3. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Các quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị trước
C.Mác
- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đối tượng nghiên cứu của kinh tế
chính trị
- Quan điểm của V.I.Lênin về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
- Quan điểm của các nhà kinh tế Liên trước đây về đối tượng nghiên cứu
của kinh tế chính trị Mác – Lênin
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
- Quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam về đối tượng nghiên cứu của kinh
tế chính trị Mác – Lênin
- Tổng hợp các quan điểm và xác định đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính
trị Mác – Lênin: mặt xã hội của quá trình tái sản xuất xã hội:
Theo nghĩa hẹp: KTCT nghiên cứu QHSX của một phương thức sản xuất nhất định
nhằm vạch rõ bản chất và xu hướng vận động của phương thức sản xuất đó.
Theo nghĩa rộng: KTCT nghiên cứu QHSX của các phương thức sản xuất nhằm
vạch rõ các quy luật chi phối sự sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng của cải xã hội
trong xã hội loài người.
(i). KTCT không nghiên cứu QHSX một ch biệt lập tách rời, trong mối quan hệ biện chứng
với LLSX và kiến trúc thượng tầng.
(ii). KTCT nghiên cứu cả 3 mặt của QHSX (quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ
phân phối) thể hiện trong cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất hội (sản xuất phân phối trao
đổi – tiêu dùng).
(iii). KTCT nghiên cứu QHSX không dừng lại việc tả vẻ bề ngoài, đi sâu nghiên cứu
các mối quan hệ bản chất, bền vững xu hướng vận động của QHSX, tứcnghiên cứu các qui
luật kinh tế và cơ chế vận hành của nền kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Phương pháp luận của kinh tế chính trị c Lênin: phép biện chứng duy vật và
cách tiếp cận hệ thống
- Các phương pháp nghiên cứu chung: kết hợp tổng hợp phân tích; quy nạp diễn
dịch, so sánh, thống kê, mô hình hóa…
- Phương pháp nghiên cứu đặc thù: Trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp với lịch
sử
5. Nội dung cơ bản của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
- Kinh tế chính trị về phương thức sản xuất bản chủ nghĩa Kinh tế chính trị về
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh Kinh tế chính trị về chủ nghĩa bản độc quyền.
- Kinh tế chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, chủ nghĩa hội chủ
nghĩa cộng sản
- Quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế, quan hệ lợi ích
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
6. Kinh tế chính trị Mác – Lênin trong quản lý nhà nước
Góp phần củng cố lập trường tư tưởng chính trị, mở rộng tư duy chiến lược của cán bộ lãnh
đạo quản trong việc giải quyết các quan hệ kinh tế liên tục phát sinh trong thực tiễn lãnh đạo
quản lý đất nước
- Củng cố lập trường tư tưởng chính trị của đội ngũ lãnh đạo quản lý
- Hình thành và phát triển tư duy chiến lược cho đội ngũ lãnh đạo quản lý
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
Cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng tầm nhìn, đường lối phát triển kinh tế - hội
của đất nước cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung cao cấp trong TKQĐ lên CNXH ở
Việt Nam
- Cung cấp sở khoa học trong việc xây dựng tầm nhìn, đường lối phát triển kinh
tế cho cán bộ lãnh đạo quản lý trung cao cấp
- Cung cấp sở khoa học về các quy luật kinh tế trong điều tiết các mối quan hệ
kinh tế
Cung cấp phương pháp luận khoa học cho việc thực hiện xây dựng các chính sách kinh tế
đối nội cũng như hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh thế giới luôn thay đổi
- Cung cấp phương pháp luận cho việc đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích
- Vận dụng sáng tạo phương pháp luận về giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản trong
quá trình giành giữ chính quyền
- Vận dụng phương pháp luận trong quá trình đổi mới phát triển kinh tế trong bối
cảnh hội nhập
IV. Mối liên hệ giữa Kinh tế Chính trị Mác- Lênin với hệ thống Kinh tế tiền đề
Trong các c phẩm của nh, cũng giống như A.Smith hay Antoine, Mác Lênin chưa
nêu ra định nghĩa hoàn chỉnh về kinh tế chính trị, song căn cứ vào những tưởng của các
ông, có thể hiểu kinh tế là tổng thể các hoạt động sản xuất của một cộng đồng người, một nước,
liên quan đến các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. Còn
chính trị bao gồm hệ tưởng chính trị, các thiết chế chính trị cũng như những mối quan h
giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của A.Smith
Antoine, Mác và Lênin đã cụ thể hóa hơn khái niệm chính trị bằng các luận điểm: “Chính
trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự
giải phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”; hay “Chính trị là sự tham gia vào những
công việc của nhà nước, việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”. Như vậy, theo quan điểm của. Lênin, chính trị
nội dung phương hướng hoạt động của nhà nước; sự phản ánh những quan hệ giữa các
giai cấp, các quốc gia, dân tộc
Khi bàn về mối quan hệ giữa kinh tế chính trị, Mác Lênin khẳng định vai trò quyết
định của kinh tế đối với chính trị (khác xa với Smith hay Antoine chỉ chú trọng 1 trong 2
yếu tố trên).
Kế thừa và chọn lọc đã xây dựng nên lý tưởng của Mác Lênin nhằm phục vụ thời kỳ bấy giờ
và có thể áp dụng một số lý thuyết cho nền kinh tế chính trị của thế hệ sau này.
Ví dụ: giá trị thặng dư, sức lao động là hàng hoá đặc biệt...
NGUỒN THAM KHẢO
http://www.phantichkinhte123.com/2015/03/antoine-de-montchrestien-nha-phat-minh.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Antoine_de_Montchrestien
lOMoARcPSD| 47207367
Hồng Đào – YHDP20
https://tailieu.vn/doc/tieu-luan-lich-su-cac-hoc-thuyet-kinh-te-hoc-thuyet-kinh-te-cua-adam-
smith-2075556.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adam_Smith
https://www.mindmeister.com/mind-map-examples?utf8=%E2%9C
%93&category=&language=&query=kinh+t%E1%BA%BF+ch%C3%ADnh+tr%E1%BB
%8B+m%C3%A1c+l%C3%AAnin

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN 1
Thực tế lịch sử hình thành và phát triển cho thấy có sự liên hệ chặt chẽ ngay từ
đầu giữa Kinh tê Chính trị Mác – Lênin với hệ thống các lí thuyết Kinh tế tiền đề.
Bằng những lập luận dựa trên bằng chứng lịch sử, hãy phân tích về sự liên hệ đó. Bài làm I.
Một số khái niệm, thuật ngữ chuyên ngành. -
Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) (XV -XVII) giai đoạn này phương thức Tư bản
Chủ nghĩa (TBCN) thay thế phương thức Phong kiến (PK) tạo tiền đề để cho sự phát triển
có tính hệ thống của Kinh tế - Chính trị (KTCT). CNTT là hệ thống lí luận của KKTCT đầu
tiên nghiên cứu về nền sản xuất TBCN, CNTT coi trọng vai trò hoạt động thương mại đặc
biệt là ngoại thương → Ngoại thương đem lại sự giàu có của quốc gia Tư bản  Bước tiến
so với thời kì trung cổ. -
Chủ nghĩa trọng nông (CNTN) (giữa XVII - nửa đầu XVIII) nhấn mạnh vai trò
sản xuất nông nghiệp, coi trọng sở hữu tư nhân và tự do kinh tế. -
Kinh tế Chính trị Tư sản Cổ điển Anh (cuối XVII – cuối XVIII) trình bày hệ thống
các giá trị văn hoá (ví dụ hàng hoá, tiền tệ...) → rút ra quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. II.
Hệ thống lí thuyết kinh tế - chính trị tiền đề.
1. Antoine de Montchrestien.
a. Đôi nét về Antoine de Montchrestien (khoảng 1575 - 1621): -
Là một người lính Pháp, nhà viết kịch, nhà thám hiểm và nhà kinh tế học. -
Là một nhà kinh tế, tư tưởng ông thuộc trào lưu tư tưởng trọng thương, nhưng cũng
đã báo trước một số chủ đề của tư tưởng cổ điển. Ông là tác giả của một cuốn sách duy nhất,
Chuyên luận về kinh tế học chính trị, được viết một cách thanh lịch không kém các vở bi kịch
của ông. Ông là nhà văn đầu tiên sử dụng thuật ngữ "kinh tế học chính trị" trong tựa sách của
mình, được áp dụng cho đến cuối thế kỷ XX để chỉ một ngành học mà sau này người ta gọi là
"kinh tế học", tiếng Anh là “economics”, và tiếng Pháp là “science économique”.
b. Thuật ngữ “Khoa học Kinh tế Chính trị” xuất hiện lần đầu tiên; Tư tưởng
Kinh tế ti của Antoine de Montchrestien: -
Đối với nhà triết học Hy Lạp, kinh tế, một hoạt động mà mục đích cuối cùng nhắm
chủ yếu đến những vấn đề gia đình, phụ thuộc vào chính trị. Montchrestien trái lại tin rằng
hai chiều kích trên của hoạt động con người gắn với nhau về thực chất và một cách bình
đẳng. Kinh tế là chính trị, do đó có tựa ông đặt cho cuốn sách của ông: "khoa học nhằm có
được của cải [...] một khoa học chung cho các chính thể cộng hòa cũng như gia đình". Ông
trách Aristote và các triết gia Hy Lạp đã ưu tiên cho sự ngẫm nghĩ, đối lập với hành động.
Ngược lại ông cho rằng các thần dân của triều đình phải năng động, rằng không có thành
phần nào trong chính quyền được nhàn rỗi: "Con người được sinh ra để lao động liên tục".
Sự nhàn rỗi là một mối đe dọa cho sự ổn định của xã hội: "Nhàn vi cư bất thiện (con người
không có việc gì làm, quá rỗi rãi thì dễ sinh ra làm điều sai trái, bậy bạ)". lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20 -
Lao động là cội nguồn của sự giàu có, và sự giàu có là cội nguồn của hạnh phúc con
người. Montchrestien nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự phân công lao động, nguyên
gốc của sự tăng trưởng năng suất. Để minh họa cho sự phân công lao động này, ông đặt
song song cái mà ông gọi là cơ quan nhà nước và cơ thể con người. Với gan và máu nuôi
dưỡng cơ thể, ông so sánh người nông dân và người lao động làm ruộng. Tương ứng với
tim, nguồn gốc của thân nhiệt tự nhiên, là các nghệ nhân và thợ thủ công. Tương ứng với
não, điều khiển thao tác của toàn bộ cơ thể, là thương nhân. Thương gia là nhân vật chính
trong nền kinh tế theo cái nhìn của Montchrestien. Ông đã thừa nhận rằng thương gia cũng
cần thiết như những người lao động, binh lính và thẩm phán. -
Hàng hóa được sản xuất để được tiêu dùng. Tuy nhiên, muốn tiêu dùng được phải
thông qua bán hàng. Đây là lý do tại sao thương mại, theo Montchrestien, là hoạt động kinh
tế chính. Không có thương mại, thì không có kinh tế: "Thương mại theo một cách nào đó
là mục đích chính của nhiều ngành nghề, mà hầu hết con người phục vụ người khác chỉ
theo cách này". Và động cơ của thương mại là lợi nhuận. Không có triển vọng về thu nhập,
thì không có nền kinh tế nào là khả thi: "Người ta cũng phải thừa nhận tình yêu lợi nhuận
và cuộc săn tìm lợi nhuận [...] bởi vì, nếu không có ham muốn và khát khao kiếm lời, đầu
cơ khiến con người lao vào mọi may rủi, thì con người sẽ mất đi ý chí tự phơi mình trước
khối điều phiền toái từ đất đai và khối vụ đắm tàu trên biển". Sự thịnh vượng của các thành
phố thương mại ở Italia và Hà Lan xuất phát từ việc thương nhân chiếm vị trí hàng đầu về
danh giá và uy tín trong các thành phố này. Ngoài ra thu nhập còn gắn với cạnh tranh, mà
khi gắn với tư lợi, là một động lực cần thiết để kích thích hoạt động kinh tế. -
Tất nhiên, cũng có khả năng xảy ra những việc quá đáng, các thương nhân, mù
quáng và lầm lạc bởi ánh lấp lánh của vàng, bị chi phối bởi lòng ham muốn cá nhân hơn là
vì lợi ích chung. Montchrestien lên án hàng xa xỉ quá mức, nhưng nói thêm rằng sự giàu có
không nhất thiết là điều phi đạo đức. Người ta nói rằng những người trọng thương nhầm
lẫn sự giàu có với kim loại quý. Đây không phải là trường hợp của Montchrestien, theo ông
sự giàu có của một đất nước nằm ở các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, và những
thứ này mà có được là do lao động: "Không phải có nhiều vàng và bạc, có nhiều ngọc trai
và kim cương, làm cho các quốc gia giàu có và sang trọng: mà chính là sự sắp xếp lại những
thứ cần thiết cho cuộc sống và quần áo sạch sẽ".
Nhà nước và chủ nghĩa bảo hộ -
Chủ nghĩa trọng thương còn được đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc kinh tế và chủ
nghĩa bảo hộ. Về điểm này, Montchrestien là một trong những người đại diện hùng hồn
nhất của trường phái tư tưởng này. Ông phân biệt thương mại "trong nước" và "ngoài nước".
Cả hai kiểu thương mại này đều cần thiết cả, nhưng cách thức chúng hoạt động và mục đích
cuối cùng của chúng lại hoàn toàn khác nhau. Thương mại trong nước diễn ra giữa các cá
nhân và không dẫn đến việc chuyển nhượng sự giàu có, đá quý cho công chúng. Kiểu
thương mại thứ hai diễn ra giữa các quốc gia với nhau, rủi ro nhiều hơn và không phải là
trò chơi tổng bằng không: “Người thua bao giờ cũng mất phần mà người thắng được". Theo
Montchrestien, chỉ nên mua ở nước ngoài, những gì không thể sản xuất được trong nước.
Và phải bán nhiều hơn mua. Ngoài ra để kinh doanh với nước ngoài, thì cần phải sử dụng lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
tài sản trong nước, chẳng hạn như tàu thuyền. Ông dành một phần quan trọng trong cuốn
sách của ông để trình bày tất cả những biện pháp bảo hộ có thể tưởng tượng được, và những
lập luận để biện minh cho những biện pháp đó. -
Vàng và bạc, có được nếu bán được nhiều hàng hơn là mua hàng từ nước ngoài, là
những thứ rất hữu ích, đặc biệt để đảm bảo quyền lực của đất nước. Chiến tranh, tức là việc
theo đuổi cạnh tranh thương mại bằng vũ khí, phải được tiến hành bởi những đội quân được
huấn luyện bài bản. Phải trả lương cho binh lính và trả tiền để trang bị cho họ. Đó là lý do
tại sao - một lần nữa Montchrestien đề xuất đổi mới về mặt ngữ nghĩa - "Tiền là động lực
của chiến tranh [...]. Vàng được biết qua rất nhiều lần là cứng hơn sắt". Chiến tranh, bên
cạnh lao động, là một cách để giữ cho những người dân bận rộn và đảm bảo hòa bình trong
nước. Chiến tranh cũng là một cách để chiếm hữu thuộc địa mà nếu không làm như vậy sẽ
rơi vào tay các đối thủ của Pháp. -
Cuốn sách của Montchrestien được viết dưới hình thức một bức thư gửi cho nhà
vua để giải thích cách thức để nước Pháp làm giàu và ổn định trật tự xã hội. Là người ủng
hộ chế độ quân chủ tuyệt đối, Montchrestien xem quân vương là người cha trong gia đình,
chịu trách nhiệm đảm bảo sức khỏe của cơ thể xã hội, gắn với sự cân bằng và hài hòa giữa
nhiều thành phần xã hội khác nhau trong đó. Sức mạnh của nhà nước gắn với sự giàu có,
và sự giàu có này lại phụ thuộc vào sự giàu có của các đối tượng làm giàu, đặc biệt là các
thương gia. Logic này Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống Eisenhower, Charles
Wilson, thẳng thừng thể hiện năm 1952: "Những gì tốt cho đất nước đều tốt cho General
Motors, và những gì tốt cho GM đều tốt cho Hoa Kỳ." Giống như hầu hết các tác giả theo
thuyết trọng thương, Montchrestien cũng tin rằng bản thân nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc tạo điều kiện cho các thần dân làm giàu. Chủ nghĩa trọng thương có tính can
thiệp. Do đó, Nhà nước phải có trách nhiệm quy định hóa các ngành nghề, đảm bảo sao cho
mọi người đều có công ăn việc làm và xây dựng các chính sách bảo hộ. 2. Adam Smith
a. Đôi nét về Adam Smith (16/6/1723 – 17/7/1790): -
Là một nhà triết học xã hội xuất sắc và là nhà tiên phong của nền kinh tế thị trường tự do. -
Ông có rất nhiều tác phẩm (190 tác phẩm). Nhưng Adam Smith nổi tiếng với 2 tác
phẩm khuôn mẫu (classic):
 Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức (1759)
 Điều tra về Bản chất và Nguyên nhân của sự Giàu có của các Quốc gia (1776).
Vềsau, tựa của cuốn sách này thường được viết tắt là Sự Giàu có của các Quốc gia (The
Wealth of Nations), được coi là kiệt tác của ông và là công trình đầu tiên của kinh tế học tân thời. -
Adam Smith, được coi là cha đẻ của hệ thống kinh tế thị trường tự do. Quan điểm
của ông về bản chất của con người và xã hội rất thiết thực. Ông tin rằng tư lợi hợp lý (the
rational self-interest) của cá nhân là động cơ thúc đẩy xã hội giải quyết các vấn đề do tình
trạng khan hiếm tạo ra. Ông cũng cho rằng khi tư lợi cá nhân được tôn trọng, cả xã hội sẽ
đạt được những lợi ích tối hảo. Ông viết: lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
"Không phải vì lòng nhân từ của người bán thịt, người sản xuất la-ve (bia), hoặc người
làm bánh mà ta mong có cho bữa ăn của ta; nhưng chỉ vì cái tư lợi của chính họ." -
Về thế giới quan và phương pháp luận của Adam Smith cơ bản là thế giới quan duy
vật nhưng còn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp còn song song tồn tại cả
hai phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết kinh tế tư sản sau này. -
Học thuyết của Adam Smith là một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, nó
trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách
quan. Học thuyết kinh tế của ông có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho
giai cấp tư sản trong nhiều năm.
b. Tư tưởng Kinh tế của Adam Smith -
Tư tưởng đầy quyền lực của các nhà trí thức phổ biến rộng rãi qua sách vở và hệ
thống truyền thông có ảnh hưởng to lớn, không chỉ đối với các cộng đồng trí thức mà còn
đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Những tư tưởng này có ảnh hưởng sâu rộng đến vận
mệnh của xã hội và cả một nền văn minh. -
Tư tưởng kinh tế của Adam Smith được phổ biến trong hậu bán thế kỷ 18 đã trở
thành nền tảng của hệ thống kinh tế thị trường tự do, đưa đến sự thịnh vượng cho nhiều
quốc gia phát triển hiện nay.
i. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về "bàn tay vô hình"
Tư tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của A.Smith, nội dung cơ bản là
đề cao vai trò của cá nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của kinh tế thị trường, thực hiện tư do
cạnh tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và nhà nước không can thiệp vào kinh tế. -
Điểm quan trọng của lý thuyết này là Adam Smith đưa ra phạm trù con người kinh
tế. Ông quan niệm khi chạy theo tư lợi thì "con người kinh tế" còn chịu sự tác động của "bàn tay vô hình". -
"Bàn tay vô hình" là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan, ông cho rằng
chính các quy luật kinh tế khách quan là một "trật tự tự nhiên". Để có sự hoạt động của trật
tự tự nhiên thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại, phát triển của sản
xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá. -
Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Ông cho rằng cần phải tôn
trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế,
hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó.
 Tóm lại xã hội muốn giàu thì phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do. Chủ nghĩa
"Laisse-fảie" tức là "Mặc kệ nó".
ii. Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản -
Ông phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến, theo ông "các đại biểu
được kính trọng nhất trong xã hội" như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu... cũng giống
như những người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả. lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20 -
Ông phê phán chế độ thuế khoá độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ
thuế thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích luỹ của nông dân. -
Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là "thể
chế dã man" ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp. -
Ông bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mỳ vì nó gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. -
Ông vạch rõ tính chất vô lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính
chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
 Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ "không bình thường": là sản phẩm của
sự độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một chế độ trái với trật tự ngẫu
nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nền kinh tế bình
thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch.
iii. Phê phán chủ nghĩa trọng thương
- Adam Smith là người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ
nghĩa trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là niệm quan trọng bậc
nhất để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ. Theo
ông, sự giàu có không phải ở chỗ có tiền mà là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì với
tiền. Ông cho rằng lưu thông hàng hoá chỉ thu hút được một số tiền nhất định và không bao
giờ dung nạp quá số đó.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thương và
cách làm giàu bằng cách trao đổi không ngang giá. Ông cho rằng việc nâng cao tỷ suất lợi
nhuận trong thương nghiệp bằng độc quyền thương nghiệp sẽ làm chậm việc cải tiến sản
xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông
cho rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù...nhà nước có thể
thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp riêng
lẻ như xây dựng đường sá, sông ngòi và các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát triển
kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước.
iv. Phê phán chủ nghĩa trọng nông -
Mục tiêu phê phán của ông là đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nông về tính
chất đặc biệt của nông nghiệp, và phá vỡ những luận điểm kỳ lạ của họ về tính chất không
sản xuất của công nghiệp. -
Ông phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường
là giai cấp không sản xuất. -
Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản
xuất vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ tư bản...
v. Lý luận về thuế khoá
- Adam Smith là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khoá của giai cấp tư sản,
chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của
nhà nước có thể từ hai nguồn: một là từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản đem lại lợi lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt nguồn từ địa tô. lợi nhuận, tiền công.
- Ông đưa ra bốn nguyên tắc để thu thuế:
 Các thần dân phải có nghĩa vụ nuôi chính phủ, "tuỳ theo khả năng và sức lực của mình".
 Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác.
 Chỉ thu vào thời gian thuận tiện, và với phương thức thích hợp.
 Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế. -
Ông đưa ra hai loại thuế phải thu: đó là thuế trực thu và thuế gián thu: 
Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền công, và tài sản kế thừa. 
Thuế gián thu, ông cho rằng không nên đánh thuế vào các vật phẩm tiêu dùng thiết
yếu, nên đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người "sống trung
bình hoặc cao hơn trung bình".
vi. Lý luận về kinh tế hàng hoá -
Lý luận về phân công lao động: - Lý luận về tiền tệ: -
Lý luận về giá trị - lao động  Xét hàng hoá trao đổi với lao động. 
Xét trao đổi hàng hoá với hàng hoá. 
Xét trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ.
- Lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn có hạn chế, đó là: - Lý luận về tư bản: - Lý luận về thu nhập:
- Lý luận về tiền lương:
- Lý luận về lợi nhuận, lợi tức: - Lý luận về địa tô:
- Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội vii. Lý thuyết về "lợi thế so sánh"
- Adam Smith là người đưa lý thuyết về "lợi thế tuyệt đối". Ông cho rằng, việc buôn
bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này có
lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược lại quốc gia khác
lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai nước
đều có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chuyên môn hoá sản xuất loại
hàng hoá mà họ có lợi thế hơn.
- Nhưng trong thực tế hiện tượng này không nhiều, bởi vậy lý thuyết này của Adam
Smith có những điểm hạn chế, về sau chính Ricardo là người phát triển lý thuyết về lợi
thế tuyệt đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh.
- Những tư tưởng của A.Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả phương pháp khoa
học và phương pháp tầm thường song ông đã xác định được nhiệm vụ của kinh tế chính lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
trị học, đã đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước đó trở thành hệ thống, là một trong những
đỉnh cao của tư tưởng xã hội thế kỷ XVIII. III.
Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
1. Sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Khái niệm kinh tế chính trị: là một môn KHKT có mục đích nghiên cứu là tìm ra
các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh tế của
người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của xã hội
- Cơ sở hình thành của Kinh tế chính trị Mác-Lênin  Bối cảnh lịch sử  Cơ sở lý luận
- Khái quát các giai đoạn hình thành và phát triển của Kinh tế chính trị Mác- Lênin 
Giai đoạn C.Mác, Ph.Ăngghen: những nội dung cơ bản và thành tựu chủ yếu 
Giai đoạn V.I.Lênin: những nội dung cơ bản và thành tựu chủ yếu 
Giai đoạn từ sau V.I.Lênin đến nay: những nội dung cơ bản và thành tựu chủ yếu
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin là cuộc cách mạng trong lịch sử nhận thức về kinh tế 
Cuộc cách mạng trong nhận thức về kinh tế chính trị của Mác – Ăngghen 
Sự bổ sung phát triển KTCT mang tính cách mạng của Lênin 2.
Vị trí, vai trò của kinh tế chính trị Mác – Lênin trong nền tảng tư tưởng của
Đảng cộng sản Việt Nam
- Nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam và các yếu tố cấu thành 
Nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam 
Các bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Vị trí của kinh tế chính trị Mác – Lênin trong nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
 Tạo nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
 Tạo nền tảng cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam
- Vai trò của kinh tế chính trị Mác – Lênin trong nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
 Góp phần làm sáng tỏ bản chất các vấn đề kinh tế chính trị
 Góp phần làm mới tư duy trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và đổi mới tư
duy phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập
3. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Các quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị trước C.Mác
- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
- Quan điểm của V.I.Lênin về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
- Quan điểm của các nhà kinh tế Liên xô trước đây về đối tượng nghiên cứu
của kinh tế chính trị Mác – Lênin lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
- Quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam về đối tượng nghiên cứu của kinh
tế chính trị Mác – Lênin
- Tổng hợp các quan điểm và xác định đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính
trị Mác – Lênin: mặt xã hội của quá trình tái sản xuất xã hội: 
Theo nghĩa hẹp: KTCT nghiên cứu QHSX của một phương thức sản xuất nhất định
nhằm vạch rõ bản chất và xu hướng vận động của phương thức sản xuất đó. 
Theo nghĩa rộng: KTCT nghiên cứu QHSX của các phương thức sản xuất nhằm
vạch rõ các quy luật chi phối sự sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng của cải xã hội
trong xã hội loài người.
(i). KTCT không nghiên cứu QHSX một cách biệt lập tách rời, mà trong mối quan hệ biện chứng
với LLSX và kiến trúc thượng tầng.
(ii). KTCT nghiên cứu cả 3 mặt của QHSX (quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ
phân phối) thể hiện trong cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng).
(iii). KTCT nghiên cứu QHSX không dừng lại ở việc mô tả vẻ bề ngoài, mà đi sâu nghiên cứu
các mối quan hệ bản chất, bền vững và xu hướng vận động của QHSX, tức là nghiên cứu các qui
luật kinh tế và cơ chế vận hành của nền kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin -
Phương pháp luận của kinh tế chính trị Mác – Lênin: phép biện chứng duy vật và
cách tiếp cận hệ thống -
Các phương pháp nghiên cứu chung: kết hợp tổng hợp và phân tích; quy nạp và diễn
dịch, so sánh, thống kê, mô hình hóa… -
Phương pháp nghiên cứu đặc thù: Trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp với lịch sử
5. Nội dung cơ bản của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
- Kinh tế chính trị về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa  Kinh tế chính trị về
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh  Kinh tế chính trị về chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- Kinh tế chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
- Quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế, quan hệ lợi ích
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
6. Kinh tế chính trị Mác – Lênin trong quản lý nhà nước
Góp phần củng cố lập trường tư tưởng chính trị, mở rộng tư duy chiến lược của cán bộ lãnh
đạo quản lý trong việc giải quyết các quan hệ kinh tế liên tục phát sinh trong thực tiễn lãnh đạo quản lý đất nước
- Củng cố lập trường tư tưởng chính trị của đội ngũ lãnh đạo quản lý
- Hình thành và phát triển tư duy chiến lược cho đội ngũ lãnh đạo quản lý lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
Cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng tầm nhìn, đường lối phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung cao cấp trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
- Cung cấp cơ sở khoa học trong việc xây dựng tầm nhìn, đường lối phát triển kinh
tế cho cán bộ lãnh đạo quản lý trung cao cấp
- Cung cấp cơ sở khoa học về các quy luật kinh tế trong điều tiết các mối quan hệ kinh tế
Cung cấp phương pháp luận khoa học cho việc thực hiện xây dựng các chính sách kinh tế
đối nội cũng như hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh thế giới luôn thay đổi
- Cung cấp phương pháp luận cho việc đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích
- Vận dụng sáng tạo phương pháp luận về giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản trong
quá trình giành giữ chính quyền
- Vận dụng phương pháp luận trong quá trình đổi mới phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập IV.
Mối liên hệ giữa Kinh tế Chính trị Mác- Lênin với hệ thống Kinh tế tiền đề
Trong các tác phẩm của mình, cũng giống như A.Smith hay Antoine, Mác và Lênin chưa
nêu ra định nghĩa hoàn chỉnh về kinh tế và chính trị, song căn cứ vào những tư tưởng của các
ông, có thể hiểu kinh tế là tổng thể các hoạt động sản xuất của một cộng đồng người, một nước,
liên quan đến các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. Còn
chính trị bao gồm hệ tư tưởng chính trị, các thiết chế chính trị cũng như những mối quan hệ
giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của A.Smith
và Antoine, Mác và Lênin đã cụ thể hóa hơn khái niệm chính trị bằng các luận điểm: “Chính
trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự
giải phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”; hay “Chính trị là sự tham gia vào những
công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”. Như vậy, theo quan điểm của. Lênin, chính trị là
nội dung và phương hướng hoạt động của nhà nước; là sự phản ánh những quan hệ giữa các
giai cấp, các quốc gia, dân tộc
Khi bàn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Mác và Lênin khẳng định vai trò quyết
định của kinh tế đối với chính trị (khác xa với Smith hay Antoine chỉ chú trọng vô 1 trong 2 yếu tố trên).
 Kế thừa và chọn lọc đã xây dựng nên lý tưởng của Mác Lênin nhằm phục vụ thời kỳ bấy giờ
và có thể áp dụng một số lý thuyết cho nền kinh tế chính trị của thế hệ sau này.
Ví dụ: giá trị thặng dư, sức lao động là hàng hoá đặc biệt... NGUỒN THAM KHẢO
http://www.phantichkinhte123.com/2015/03/antoine-de-montchrestien-nha-phat-minh.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Antoine_de_Montchrestien lOMoAR cPSD| 47207367 Hồng Đào – YHDP20
https://tailieu.vn/doc/tieu-luan-lich-su-cac-hoc-thuyet-kinh-te-hoc-thuyet-kinh-te-cua-adam- smith-2075556.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adam_Smith
https://www.mindmeister.com/mind-map-examples?utf8=%E2%9C
%93&category=&language=&query=kinh+t%E1%BA%BF+ch%C3%ADnh+tr%E1%BB %8B+m%C3%A1c+l%C3%AAnin