Vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Xác suất thống kê | Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức, ảnh hưởng chi phối đến cuộc sống của con người. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Xác suất thống kê (XSTK19)
Trường: Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|453 155 97 lOMoARcPSD|453 155 97
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Leenin về tôn giáo a. Khái niệm
Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và
hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức, ảnh
hưởng chi phối đến cuộc sống của con người. Trong đó, lối sống, niềm tin tôn
giáo gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hóa của mỗi dân tộc, cộng đồng, nhóm
xã hội và mỗi quốc gia.
b. Bản chất của tôn giáo
C.Mác và Lênin cho rằng các tín ngưỡng, tôn giáo chính là hình thái ý
thức xã hội phản ánh hư ảo các hiện thực khách quan. Qua đó, những lực lượng
tự nhiên và xã hội trở nên thần bí và siêu nhiên.
Tôn giáo và tín ngưỡng có sự khác nhau nhưng bên cạnh đó lại có một
mối quan hệ chặt chẽ nhất định. Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của
con người vào một hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một
điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vô hình tác động mạnh đến tâm linh con
người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu
là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin tôn giáo làm
cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo - nghĩa là, tôn giáo
thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội.
Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng
siêu nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi
nhân tính, phản văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng
mê tín dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo để hành nghề. Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì chúng ta phải loại bỏ dần mê tín dị đoan
nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiên ̣lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hôi ̣xác định. Do đó xét về măt ̣bản chất, tôn giáo là môt ̣
hiên ̣tượng xã hôi ̣phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh tự
nhiên và sức mạnh xã hôi ̣.
Theo C.Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiên ̣của sự nghèo
nàn hiên ̣thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiên ̣thực ấy. Tôn giáo
là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim … tôn giáo là thuốc phiên ̣của nhân dân”.
TẠI SAO LẠI NÓI TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN ?
TRẢ LỜI: C.Mác không chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại
của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách
một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực
vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào còn
đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại
sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho lOMoARcPSD|453 155 97
cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền
bù hư ảo”. (giải thích theo ý hiểu chứ đừng đọc y chang)
Ph.Ăngghen thì cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa,
lịch sử, một lực lượng xã hội trần thế mang hình thức của các lực lượng siêu
trần thế, là một sự phản ánh hư ảo vào bên trong bộ não của con người.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo được xem là một thực thể xã hội.
(VD: Phật giáo, Công giáo,…) khi có các tiêu chí như: đặt niềm tin vào những
thế lực siêu nhiên, các đấng tối cao, thần linh để tôn thờ, bên cạnh đó có các
giáo luật, lễ nghi của mỗi đạo, nói lên được thế giới quan, nhân sinh quan, lễ
nghi và đạo đức trong tôn giáo, có hệ thống thờ tụng, các tổ chức nhân sự và
quản lý điều hành việc đạo, hệ thống tín đồ đông.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tôn giáo là một hiện tượng xã hội -
văn hóa do con người sáng tạo ra. Mặc dù con người tạo ra tôn giáo để phục
vụ cho lợi ích của họ, phản ánh ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩa của họ nhưng
chính họ lại bị lệ thuộc và phục tùng cho tôn giáo vô điều kiện. Mác Lênin
cũng cho rằng các mối quan hệ kinh tế, các hoạt động sản xuất là những nhân
tố chủ yếu để hình thành các hình thái ý thức xã hội, bao gồm có tôn giáo.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn
toàn đối lập với hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách
mạng. Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn
giáo thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không
phải là hiện thực mà là ở thế giới bên kia. Còn những người cộng sản chủ
trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngay ở thế giới
hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy?
Trả lời: Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách
quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã
hội. Trong lịch sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình.
Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn
cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự
nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện
tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức giai cấp thì các
mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng
quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát,
ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự
sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta
tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
c. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và
biến đổi cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự
xuất hiện và biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo lOMoARcPSD|453 155 97
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí
ẩn, vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần
thánh hoá những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những
sức mạnh tự phát hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích được
nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của
những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường hướng niềm tin ảo tưởng
vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã
hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận
thức của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại quan
tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ
nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà còn
làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên,
xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng bước khám
phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn luôn
tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức
của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế
giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng
càng khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được
con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lệch
hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu hoá của chủ thể nhận thức
sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
* Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hôi ̣
mà dẫn đến viêc ̣ính ra tôn giáo. Các nhà duy vât ̣cổ đại thường đưa ra luân ̣ điểm
“sự sợ hãi sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng
của tư bản …. sự phá sản “đôt ̣ngôt”̣ “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị
diêt ̣vong …, dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiên ̣đại.
Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có
khi được thể hiên ̣qua tôn giáo.
d. Tính chất của tôn giáo
* Tính li ̣ch sử của tôn giáo
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Măc ̣dù nó còn tồn tại lâu dài, nhưng nó
chỉ là môt ̣phạm trù lịch sử. Tôn giáo chỉ xuất hiên ̣khi khả năng tư duy trừu
tượng của con người đạt tới mức đô ̣nhất định. lOMoARcPSD|453 155 97
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tôn giáo
có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hôi ̣của thời đại đó. Thời
đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
Đến môt ̣giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhân ̣thức được bản
chất các hiêṇtượng tự nhiên, xã hôi,̣ khi con người làm chủ được tự nhiên, xã
hôi,̣ làm chủ được bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con
người thì tôn giáo sẽ không còn.
* Tính quần chúng của tôn giáo
Tôn giáo là nơi sinh hoăt ̣văn hóa, tinh thần của môt ̣số bô ̣phân ̣quần
chúng nhân dân lao đông ̣. Hiên ̣nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ
lê ̣khá cao trong dân số thế giới.
Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng
của những con người bị áp bức về môt ̣xã hôi ̣tự do, bình đẳng, bát ái … Bởi vì,
tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo hướng thiên ̣. Vì vây,̣ còn nhiều
người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hôi ̣.
* Tính chính tri ̣của tôn giáo
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiên ̣khi xã hôi ̣đã phân chi giai cấp,
các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
Trong nôi ̣bô ̣tôn giáo, cuôc ̣đấu tranh giữa các dòng, hê,̣phái nhiều khi
cũng mang tính chính trị. Trong những cuôc ̣đấu tranh ý thức hê,̣thì tôn giáo
thường là môt ̣bô ̣phân ̣của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp
không chỉ ở quốc gia mà còn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiên ̣các tổ chức
quốc tế của tôn giáo với thế lực lớn đã tác đông ̣ đến nhiều măt,̣trong đó có
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôi ̣. Vì vây,̣ cần nhân ̣thức rõ: đa số quần chúng
đến với tôn giáo nhằm thõa mãn nhu cầu tinh thần; song trên thực tế đã và
đang bị các thế lực chính trị – xã hôi ̣lợi dụng để thực hiên ̣mục đích ngoài tôn giáo của họ.
2.1.2/ Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tín ngưỡng, tôn giáo là môt ̣vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì
vây,̣ viêc ̣giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải thân ̣trọng, tỉ mỉ,
vừa giữ vững nguyên tắc, đồng thời vừa mềm dẻo, linh hoạt cụ thể là:
- Khắc phụ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hôi ̣phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hôi ̣cũ xây dựng xã hôi ̣mới. Đây là
yêu cầu khách quan của sự nghiêp ̣xây dựng cnxh.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không
tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoăc ̣không theo tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luât.̣Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân.
- Thực hiên ̣ đoàn kết giữa những người theo với những người không
theo môt ̣tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân
tôc ̣để xây dựng đất nước và bảo vê ̣tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẻ vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Phân biêt ̣rõ hai măt ̣chính trị và tư tưởng trong viêc ̣giải quyết vấn đề
tôn giáo. Măt ̣tư tưởng thể hiên ̣sự tín ngưỡng tôn giáo này. Đây là mâu thuẫn lOMoARcPSD|453 155 97
không đối kháng. Khắc phục măt ̣này là nhiêṃ vụ thường xuyên, lâu dài. Măt ̣
chính trị thể hiên ̣ sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiêp ̣ đấu tranh cm,
chống cnxh của các phần tử phản đông ̣ đôi ̣lốt tôn giáo. Đây là mâu thuẩn đối
kháng. Đấu tranh loại bỏ măt ̣chính trị vừa phải khẩn trương, cương quyết, vừa
phải thân ̣trọng và có sách lược.
- Phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác đông ̣ của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hôi ̣không giống nhau. Vì vây,̣ cần có quan điểm lịch sử – cụ thể khi
xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.