Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn | Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học
Trong đời sống tinh thần của con người tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất định. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử loài người, tôn giáo ra đời và trở thành một hiện tượng xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung mọi tôn giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận tuyệt đối tôn giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI- KHOA HỌC
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
GVHD: PSG.TS. Đoàn Đức Hiếu
Mã môn học:LLCT120405
Thực hiện: Nhóm 7
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II, NĂM HỌC 2021-2022
Tên đề tài: Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn. HỌ VÀ TÊN SINH MÃ SỐ TỶ LỆ & STT VIÊN SINH VIÊN HOÀN THÀNH 1 Đặng Thanh Vy 21132333 100% 2 Lê Thị Khánh Anh 21132282 100% 3 Nguyễn Minh Huy 21132294 100% 4 Lê Thành Nhân 21128199 100% 5 Trần Tâm Trí 21132247 100% Ghi chú: - Tỷ lệ %: 100%
- Trưởng nhóm: Đặng Thanh Vy Nhận xét của giáo viên
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
................................................................................................................. Ngày tháng 4 năm 2022 Giáo viên chấm điểm MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
PHẦN 1: LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO ........................................................................... 7
1.1. Tổng quan về tôn giáo ............................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tôn giáo: ..................................................................... 7
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo ....................................................................................... 7
1.1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: .............................................................. 7
1.1.2.2. Nguồn gốc nhận thức: ...................................................................................... 8
1.1.2.3. Nguồn gốc tâm lý: ............................................................................................. 8
1.1.3. Tính chất của tôn giáo: ........................................................................................ 8
1.1.3.1. Tính lịch sử của tôn giáo: ................................................................................. 9
1.1.3.2. Tính quần chúng của tôn giáo: ........................................................................ 9
1.1.3.3. Tính chính trị của tôn giáo: ........................................................................... 10
1.2. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: ................................................................ 10
1.3. Quan điểm của đảng và nhà nước ta về tôn giáo ............................................... 13
PHẦN 2. LIÊN HỆ THỰC TẾ ................................................................................... 16
2.1 Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay ......................................................................................................................... 16
2.1.1 Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ......................................... 16
2.2.2 Tác động tích cực ................................................................................................ 18
2.2.3 Tác động tiêu cực ................................................................................................ 20
2.2. Những chính sách của đảng, nhà nước trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa ....................................................................... 23
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tôn giáo và công tác tôn giáo.
....................................................................................................................................... 23
2.2.2. Tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội
vùng đồng bào các tôn giáo và mở rộng các hoạt động đối ng ạ
o i trong lĩnh vực tôn
giáo ................................................................................................................................ 24
2.2.3. Vấn đề đấu tranh phòng, chống âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực đế quốc, phản động ................................................ 26
2.3. Đề xuất của nhóm về việc nâng cao chất lượng giáo dục cho sinh viên trong vấn
đề tôn giáo ở đất nước hiện nay: ................................................................................ 28
2.4. Đề xuất của nhóm về hành động của sinh viên trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo ở đất nước hiện nay: ............................................................................................ 29
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 33 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài:
Trong đời sống tinh thần của con người tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất
định. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử loài người, tôn giáo ra đời và trở
thành một hiện tượng xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới nhưng
nhìn chung mọi tôn giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ
nghĩa cộng sản không phủ nhận tuyệt đối tôn giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời
sống, chính trị, xã hội để phát triển. Ở nước ta cũng vậy, tôn giáo đóng vai trò
nhất định trong đời sống tinh thần. Nhìn chung mọi giáo lý của các tôn giáo đều
chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những triết lý ấy giúp cho con người sống với
nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển
chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân.
Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và
nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của các tôn giáo. Mặt khác ở Việt Nam trong
lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị, và ngày nay
vẫn còn tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước xã hội chủ
nghĩa của ta. Chính vì thế mà mỗi người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín
ngưỡng phải đi đôi với chấp hành pháp luật của Đảng và nhà nước. Đó cũng là lý
do chúng em quyết định chọn đề tài “Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu, để trước hết mỗi
thành viên trong nhóm sẽ có những hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt
Nam. Đồng thời xác định rõ cách nhìn nhận, lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào
sự phát triển chung của xã hội.
2. Mục tiêu của đề tài:
Tìm hiểu thêm về nguồn gốc, tính chất, chức năng xã hội của tôn giáo trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thực trạng của vấn đề tôn giáo hiện nay ở
Việt Nam. Từ đó có những giải pháp thiết thực nhất để phát triển nét đẹp đặc sắc
trong tín ngưỡng tôn giáo cũng như ngăn chặn các tác động tiêu cực của tôn giáo đem lại.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận được thực hiện nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh và thống kê, khái quát hóa và
có cơ sở lý luận dựa trên Giáo trình Chủ Nghĩa Xã hội Khoa Học.
PHẦN 1: LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO
1.1. Tổng quan về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tôn giáo:
Tôn giáoa là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và
tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua.
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo, thực tại xã hội bằng những
lực lượng siêu tự nhiên. Về hình thức biểu hiện: tôn giáo bao gồm hệ thống các
quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và
những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch
sử cụ thể, xác định, về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bế
tắc, bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong ý thức tôn
giáo cũng chứa đựng nhiều giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người.
Chúng ta cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan:
Mê tín dị đoan là những hiện tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con
người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng,
gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội.
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào những điều mơ hồ, không phù
hợp với lẽ tự nhiên dẫn tới hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình, cộng đồng về sức
khoẻ, thời gian, tài sản, tính mạng.
=> Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành
mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
1.1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội:
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, con
người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực trước thiên nhiên hùng vĩ, họ đã gán
cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.
Khi xã hội xuất hiện giai cấp đối kháng: Nó đã nảy sinh ra nạn áp bức, bóc
lột, bất công của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, cùng với sự lo sợ
trước các lực lượng thống trị, con người trông chờ vào sự giải phóng của một lực
lượng siêu nhiên ngoài trần thế. V.I.Lênin đã viết: "Sự bất lực của giai cấp bị bóc
lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia". Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm
chủ tự nhiên và xã hội ; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai,
bệnh tật,... vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.
1.1.2.2. Nguồn gốc nhận thức:
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn hẹp,
mơ hồ về tự nhiên, xã hội của con người. Khi mà khoảng cách giữa “biết” và
“chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được thì con
người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn giáo.
Mặt khác, trong quá trình biện chứng của nhận thức, con người nảy sinh những
yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với hiện thực khách quan, hình thành nên các biểu tượng tôn giáo.
1.1.2.3. Nguồn gốc tâm lý:
Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội hay trong những lúc ốm
đau, bệnh tật, ngay cả những may rủi bất ngờ, hoặc tâm lý muốn được bình yên
khi làm một việc lớn, con người sẽ tìm đến tôn giáo.
Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi, buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con
người đến sự khuất phục, không làm chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình
thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết ơn, sự tôn kính đối với những người có công
khai phá tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lí con người
cũng là cơ sở để tôn giáo nảy sinh.
1.1.3. Tính chất của tôn giáo:
1.1.3.1. Tính lịch sử của tôn giáo:
Khi nghiên cứu lịch sử ra đời của tôn giáo, chúng ta đã thấy: “Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội có tính lịch sử”, nghĩa là nó có sự hình thành, tồn tại và phát
triển và có khả năng biến đổi trong những giai đoạn lịch sử nhất định để thích
nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội.Khi các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử
thay đổi, tôn giáo cũng thay đổi theo.
Trong quá trình vận động của các tôn giáo, chính các điều kiện kinh tế - xã
hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo ra đời ở điều kiện xã
hội, nhận thức và tâm lý của con người cho phép. Nhưng đến một giai đoạn lịch
sử nào đó, khi khoa học và giáo dục giúp đại đa số quần chúng nhân dân nhận
thức được bản chất các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ
dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
1.1.3.2. Tính quần chúng của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu
lục. Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ (gần ¾
dân số thế giới); mà còn thể hiện ở chỗ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.
Lúc đầu, tôn giáo ra đời đáp ứng nguyện vọng của quần chúng lao động, nó
đem lại cho họ niềm tin, hy vọng (mặc dù là hư ảo) vào con đường giải phóng
khỏi sự đe dọa của tự nhiên và ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Song nó
luôn luôn phản ánh khát vọng của con người về một xã hội tự do, bình đẳng, bác
ái. Mặt khác, nhiều tôn giáo có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện, nên được
mọi tầng lớp trong xã hội tin theo.
Tôn giáo đem đến cho con người niềm tin vào cuộc sống, trở thành trụ cột
tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống. Vì lẽ đó, tôn giáo phát triển nhanh
chóng, rộng khắp và ăn sâu vào tình cảm của quần chúng lao động. Nó trở thành
nguồn sống, nếp sống và lẽ sống của con người. Nó góp phần hình thành nhân
cách, thế giới quan duy tâm của con người. Nó trở thành chân lý của đạo đức xã
hội và tôn giáo từng bước là một bộ phận tác động đến việc hình thành nền văn
hóa của dân tộc. Qua đó, ta thấy tôn giáo có tính chất quần chúng sâu sắc và bám
chặt trong đời sống tinh thần của nhân dân lao động.
1.1.3.3. Tính chính trị của tôn giáo:
Buổi đầu, khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo ra đời chỉ phản ánh nhận thức
hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung quanh mình. Nó
chỉ có giá trị tích cực thực sự và đem đến cho con người niềm tin vào cuộc sống.
Vào lúc đó, tôn giáo chưa mang tính chính trị.
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai
cấp, tính chất chính trị của tôn giáo đã xuất hiện. Trước hết, do tôn giáo là sản
phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các
giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị.
Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, biến tôn giáo thành
công cụ áp bức tinh thần đối với quần chúng lao động. Giai cấp bóc lột kết hợp
chặt chẽ thần quyền với thế quyền để củng cố và duy trì địa vị thống trị của chúng.
Giai cấp bóc lột luôn dùng tôn giáo vào mục đích chính trị.
=> Vì vậy, cần nhận thức rõ ràng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo
nhằm thỏa mãn như cầu tin thần, song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế
lực chính trị - xã hội lợi dụng thực hiện các mục đích ngoài tôn giáo.
1.2. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về việc giải quyết vấn
đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa Mác- Lênin với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi sự áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ngược
lại, tôn giáo là công cụ áp bức tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản
đã kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền và thế quyền để nô dịch quần chúng.
Tôn giáo đưa ra con đường giải phóng con người bằng sự chịu đựng, nhẫn
nhục, cam chịu cuộc sống cực khổ ở trần gian để được hưởng hạnh phúc ở thế
giới bên kia sau khi chết đi. Tôn giáo làm cho con người mất dần ý thức dân tộc,
xa rời giác ngộ cách mạng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, đập tan
nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng cuộc sống
ấm no hạnh phúc thực sự trên thế gian. Trong tiến trình cách mạng, Đảng của giai
cấp công nhân muốn thực sự giải phóng nhân dân lao động, trước hết là giải phóng
nhân dân khỏi áp bức giai cấp, sau đó giải phóng họ khỏi áp bức tinh thần của tôn
giáo. Chỉ khi đó con người mới có được hạnh phúc thực sự. Lập trường của chủ
nghĩa Mác- Lênin đối với vấn đề tôn giáo là triệt để giải phóng nhân dân lao động
khỏi sự nô dịch của tôn giáo
Những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo:
Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân:
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng nhân dân vào đấng
tối cao, đấng thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng.
Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân.
Quyền này nói lên rằng việc theo đạo hay không theo đạo là quyền tự do lựa
chọn của mỗi cá nhân, không ai có quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành
vị cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc phải
đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp
và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Các tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các phương
tiện phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân được nhà nước xã
hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới:
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
đối với quần chúng nhân dân mà không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần
phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội, muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư
tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước
hết là phải xác lập một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói
và thất học,... cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội.
=> Đó là một quá trình lâu dài, không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng; tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo:
Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần
túy về tư tưởng. Nhưng khi xã hội có giai cấp xuất hiện thì dấu ấn tôn giáo - chính
trị ít nhiều đều in rõ trong các tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh
mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa
những thế lực lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp cách mạng và lợi ích của nhân dân lao dộng.
Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin của những người
có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như những
người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực
chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản
thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo.
Sự phân biệt này không đơn giản, bởi lẽ trong đời sống xã hội, hiện tượng
nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn
giáo thường đan xen vào nhau.
Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, tôn giáo thường bị yếu tố chính
trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần túy trong tôn giáo.
Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng cực đoan
trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo:
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến. Nó luôn luôn vận động
và biến đổi không ngừng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể.
Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với
đời sống xã hội không giống nhau.
Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của
đời sống xã hội luôn có sự khác biệt.
=> Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng
xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
1.3. Quan điểm của đảng và nhà nước ta về tôn giáo
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan
điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta cũng khẳng định những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và
chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn
giáo với mục tiêu chung". Đây là luận điểm mới, có giá trị lý luận và thực tiễn
sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về việc khai thác, phát huy
những giá trị tốt đẹp trong văn hóa, đạo đức của các tôn giáo với mục tiêu xây
dựng xã hội mới ở nước ta. Quan điểm này ngăn chặn và làm thất bại những thủ
đoạn tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô
thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền, dân chủ, đồng thời phát huy mặt tích
cực của các tôn giáo, tạo cơ sở cho sự đồng thuận xã hội.
Hai là, tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về vấn đề tôn giáo. Nếu như trước đây, tôn giáo thường chỉ được tiếp cận
hạn chế từ góc độ tư tưởng triết học và chính trị, với định nghĩa mang tính kinh
điển "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"; tín ngưỡng thường được gắn liền với
hủ tục, mê tín dị đoan…, thì giờ đây, tôn giáo tín ngưỡng đã được nhìn nhận là
một phần của lịch sử dân tộc, văn hóa và đạo đức và hơn thế, là thực thể xã hội có
khả năng cố kết cộng đồng và ổn định trật tự, an toàn xã hội... Quan điểm mới này
đặt nền móng cho sự quản lý của các cấp chính quyền và đoàn thể chính trị xã hội,
thể hiện sự quan tâm và bảo đảm những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn
giáo trong việc thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của
họ, tương tự như việc bảo đảm các quyền khác của con người như ăn, mặc, cư trú, nhân quyền, dân chủ…
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Luận điểm
này là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng trong cách mạng dân tộc,
dân chủ, nhưng được bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời kỳ Đổi mới.
Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển luôn bộc lộ hai mặt tích cực và tiêu
cực. Trước đây, do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ đấu
tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo
chống phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh đến mặt tiêu cực, hạn chế
của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con người. Theo quan điểm đổi mới
của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, phải trân trọng và phát huy những
giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó có mặt tích cực về đạo đức, văn hóa tôn giáo.
Bên cạnh những hạn chế, tôn giáo tín ngưỡng chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý
bởi tính nhân văn, hướng thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của
tôn giáo, tín ngưỡng có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.
Quan điểm nêu trên của Đảng khơi dậy, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo
phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ
nghĩa xã hội, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng
tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. ⇒ Quan điểm này
hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
PHẦN 2. LIÊN HỆ THỰC TẾ
2.1 Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
2.1.1 Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo. Với vị trí địa lý
nằm ở khu vực Đông Nam Á, ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối
giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ dàng cho việc thâm nhập
các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi
dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng
ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc,
thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng
bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thủy (còn gọi là tín
ngưỡng sơ khai) như Tôtem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo,
Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo,
Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo;
có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội),
có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động
ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, năm 2020 ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt
động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết
ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, Trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc
Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên- Huế, Đà Nẵng, Quảng
Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ…
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó
có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kom Tum, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đồng Nai, TP
Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang, Cần Thơ…
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như
Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ,
Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang…
- Phật giáo Hòa Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền
Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
- Đạo Tin lành: Khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng
Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk
Nông, Bình Phước… và một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí
Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận…
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm
tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc
mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví
Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng
các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam
phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng là những khó khăn đặt ra trong
việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng
tôn giáo cụ thể nói riêng.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Đó
cũng chính là cơ sở thực tiễn của Đảng và Nhà nước hoạch định chủ, chính sách
đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.
2.2.2 Tác động tích cực
Trong bối cảnh các sinh hoạt tôn giáo được khởi sắc, nhiều phong tục, tập
quán chứa đựng giá trị nhân văn của dân tộc cũng được phục hồi trở lại và được
thực hành sống động trong đời sống xã hội. Các phong tục như đi lễ chùa đầu
năm, ăn chay, phóng sinh gắn với những biến đổi của Phật giáo là những ví dụ điển hình.
Đi lễ chùa đầu năm là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân
Việt Nam từ ngàn xưa. Sau lễ giao thừa, người dân lên chùa cầu cho gia đình một
năm mới bình an, hạnh phúc, đất nước được thái hòa,... Những năm gần đây, cùng
với đà phát triển của đất nước, nhiều ngôi chùa được trùng tu và xây mới khang
trang ở khắp các tỉnh, thành. Người đi lễ chùa vào các ngày rằm, mùng một hằng
tháng, vào dịp lễ tết ngày càng đông hơn. Sau nghi lễ giao thừa chào đón năm
mới, đền, chùa và các cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian luôn nườm nượp khách
dâng hương. Không khí nhộn nhịp này diễn ra từ ngày đầu năm mới đến hết tháng Giêng.
Ăn chay (Chữ chay nguyên âm là Trai, dịch từ nguyên nghĩa chữ Phạn -
Upavasatha, có nghĩa là Thanh tịnh), theo quan niệm của đại đa số tín đồ Phật
giáo (Bắc tông) Việt Nam, ăn chay mang đến cho con người thân tâm thanh tịnh
và lòng từ bi với chúng sinh. Ngày nay, số người theo Phật giáo và thực hành ăn
chay ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu của Phật tử, nhiều chùa thường tổ chức
nấu cơm chay phục vụ tín đồ đi lễ vào các ngày rằm, mùng một. Bên cạnh đó, có
khá nhiều quán ăn, nhà hàng chuyên phục vụ đồ chay cho nhu cầu ăn chay ngày
càng đông của người dân. Tuy nhiên, không phải 100% số người ăn chay ở Việt
Nam hiện nay đều là tín đồ Phật giáo, nhưng đa phần trong đó đều có ảnh hưởng từ niềm tin Phật giáo.
Tục phóng sinh (bắt nguồn từ Phật giáo Trung Quốc) cũng mang ý nghĩa sâu
xa nhằm chuyển tải thông điệp từ bi và tôn trọng sự sống muôn loài của Đức Phật.
Phong tục này đã có ảnh hưởng từ lâu trong dân gian Việt Nam và những năm
gần đây cũng được một số nhà tu hành Phật giáo quan tâm phục hồi trở lại.
Có thể nói, đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh là những phong tục đẹp
được duy trì trong sinh hoạt Phật giáo ở Việt Nam, đã góp phần giáo dục tinh thần
hướng thiện cho con người Việt Nam từ xưa đến nay.
Với đạo Tin lành, sự hiện diện của tôn giáo này cùng với những giáo lý, luật
lệ, lễ nghi của nó đã làm thay đổi hẳn lề lối sinh hoạt, cách sống và hành vi ứng
xử trong cuộc sống hàng ngày của đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo. Từ niềm
tin vào thế giới đa thần, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số chuyển sang niềm
tin vào thế giới độc thần với sự sáng tạo của Chúa. Sự thay đổi thế giới quan này
đã kéo theo nhiều thay đổi về lối sống, nếp sống của đồng bào. Khi theo đạo, đồng
bào dân tộc thiểu số được giải phóng khỏi những ràng buộc của các lễ nghi phiền
toái, tốn kém và những kiêng cữ lạc hậu, dần dần hình thành trong cộng đồng một
nếp sống mới. Thực tế tại khu vực miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên cho
thấy, ở làng bản nào có đông người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành thì ở đó lối
sống của đồng bào có nhiều mặt tiến bộ hơn như: ăn ở hợp vệ sinh hơn, khu vực
nhà ở và nguồn nước sinh hoạt được quan tâm hơn; đường vào các làng bản được
dọn dẹp sạch sẽ; các hủ tục lạc hậu giảm bớt, trai làng không uống rượu, không
hút thuốc; khi ốm đau đã không còn tin vào việc cúng ma, trừ tà mà đã biết đến
cơ sở y tế để khám, chữa bệnh; đã không còn để người chết ở lâu trong nhà gây ô
nhiễm như trước; cưới xin, tang ma không tổ chức dài ngày mà tiết kiệm hơn, tang
ma không phải mổ trâu, mổ bò cúng tế linh đình; việc học hành của con cái cũng được quan tâm hơn,...
Trước đây, đời sống sinh hoạt, giao lưu của đồng bào các dân tộc thiểu số
thường chỉ khép kín trong nội bộ dòng họ, làng bản, tộc người thì từ khi theo đạo
Tin lành, quan hệ giao lưu được mở rộng ra với đồng đạo bên ngoài phạm vi dòng
họ, làng bản và với cộng đồng các tộc người khác. Ngoài ra, sinh hoạt tôn giáo
cũng là môi trường để các tín đồ học hỏi, tăng cường hiểu biết những kiến thức
mới giúp đồng bào có thêm tri thức về chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh, buôn bán
và trở nên năng động hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, đạo
Tin lành đã đem đến cho một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số lối sống mới
có nhiều yếu tố tích cực.
2.2.3 Tác động tiêu cực
Bên cạnh tác động tích cực, biến đổi tôn giáo ở Việt Nam cũng có tác động
tiêu cực không nhỏ tới phong tục, tập quán của người Việt Nam, để lại những hệ
lụy cho văn hóa dân tộc. Cùng với sự sôi động của đời sống tôn giáo, nhiều hủ
tục, tập quán lạc hậu cũng có cơ hội hồi sinh mạnh mẽ.
* Tín ngưỡng tôn giáo bị biến tướng, lệch lạc:
Với Phật giáo, sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng xu thế thế tục hóa
đã làm cho nhiều phong tục, tập quán truyền thống được dung chứa trong sinh
hoạt Phật giáo dần trở nên biến dạng, sai lệch.
Phong tục đi lễ chùa đầu năm, tục phóng sinh có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những phong tục này đang bị thực hành
một cách sai lệch, biến tướng. Rất nhiều người không còn quan tâm đến ý nghĩa
thực sự của việc đi lễ chùa đầu năm, của việc phóng sinh, ăn chay,.. mà thực hành
các phong tục đó theo phong trào và mang tính hình thức. Mùa lễ hội đầu năm,
người người, nhà nhà đi lễ chùa để cầu đủ thứ theo nhu cầu trần tục, chen chúc,
xô bồ. Nghi lễ phóng sinh hiện nay cũng được thực hiện theo phong trào, cho có
lệ mà quên mất ý nghĩa thực sự của nó. Vào mỗi mùa Vu lan, nhiều người đến
chùa phóng sinh chim, cá; khi phóng sinh song, chim, cá lại bị bắt trở lại và đem
bán tiếp. Chính vì vậy, sau một số nghi lễ phóng sinh của nhà chùa, chim, cá
không những không được cứu mạng mà còn chết hàng loạt.